HÃY BIẾN HÌNH ĐỂ ĐƯỢC SỐNG TRONG VINH QUANG
CHÚA NHẬT II MÙA CHAY – NĂM C (St 15,5-12.17-18; Pl 3,17- 4,1; Lc 9,28-36)
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP
Chúa Nhật II Mùa Chay – Năm C
Lc 9, 28b-36
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄChúa Nhật II Mùa Chay – Năm C
Ca nhập lễ
Tâm hồn tôi thưa cùng Chúa, mắt tôi tìm kiếm Chúa. Lạy Chúa, tôi tìm kiếm dung nhan Chúa. Xin đừng ẩn mặt xa tôi.
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Trong Chúa Nhật thứ II mùa chay Hội Thánh mời gọi chúng ta xét lại xem đã sống đức tin như thế nào trong cuộc sống hằng ngày. Đức tin đã thực sự làm chúng ta nên công chính như tổ phụ Abraham chưa? Ngài đã hoàn toàn đặt tin tưởng vào Chúa, ngay chính lúc tuyệt vọng, không còn lý do để tin tưởng. Chính do lòng tin tưởng thuần phục đó, tổ phụ Abraham đã được toại nguyện, đúng như lời Chúa hứa.
Qua bài Tin Mừng các Tông Đồ biết Đức Giêsu có thần tính và là Đấng mà Môsê và các tiên tri loan báo mấy trăm năm về trước. Chính Ngài là Lời của Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa. Do đó, cùng với việc tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa duy nhất, phụng vụ mời gọi chúng ta cũng đặt trọn niềm tin của mình vào Đức Kitô qua việc lắng nghe lời Người.
Đức Kitô chính là Đấng đến thực hiện trọn vẹn những gì Cựu Ước đã chuẩn bị và loan báo. Và như thế, Ngài trở nên Đấng Cứu Độ duy nhất mà muôn dân hằng mong đợi. Trong tâm tình đó giờ đây chúng ta cùng thành tâm thống hối
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy, cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: St 15, 5-12. 17-18
“Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với Abraham”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: “Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao”. Rồi Chúa nói tiếp: “Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế”. Abram tin vào Thiên Chúa, và vì đó ông được công chính.
Và Chúa lại nói: “Ta là Chúa, Ðấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp”. Abram thưa rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?” Chúa đáp: “Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non”. Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa kia; nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông.
Khi mặt trời đã lặn rồi, bóng tối mịt mù phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: “Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Eu-phrát”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 7-8a. 8b-9abc. 13-14
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng Cứu Ðộ tôi. (c. 1a)
Xướng: Chúa là sự sáng, là Ðấng Cứu Ðộ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?
Xướng: Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: “Hãy tìm ra mắt Ta”.
Xướng: Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong cơn thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ, xin đừng hất hủi con.
Xướng: Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!
Bài Ðọc II: Pl 3, 17 – 4, 1
“Chúa Kitô sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đã thường nói với anh em, và giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này.
Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người.
Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn sau đây: Pl 3, 20 – 4, 1
Anh em thân mến, quê hương chúng ta ở trên trời nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người. Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5
Từ trong đám mây sáng chói có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Phúc Âm: Lc 9, 28b-36
“Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Anh chị em thân mến! Để cùng được biến đổi với Đức Kitô, chúng ta hãy luôn giữ vững niềm tin trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Muốn được thế chúng ta cùng tin tưởng cầu xin :
1. “Đang khi cầu nguyện diện mạo Người biến đổi khác thường”.- Xin cho các vị lãnh đạo dân Chúa trong Hội Thánh có đời sống thấm đượm tinh thần cầu nguyện, để sức sống Chúa Kitô biến đổi các ngài nên ánh sáng chiếu soi trần gian.
2. “Abraham tin vào Thiên Chúa và vì đó ông được công chính”.- Xin cho các tín hữu sau khi đã tuyên xưng đức tin qua Bí tích Thánh Tẩy, luôn giữ được đức tin vững vàng để Chúa Giêsu biến đổi, họ dần dần đạt tới sự hoàn thiện trong vinh quang của Người.
3. “Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác vinh hiển Người”.– Xin cho các tu sĩ ý thức hồng ân được tuyển chọn lên núi thánh, mà biết sống mọi biến cố dưới ánh sáng đức tin và sự hướng dẫn của Lời Chúa.
4. “Các ngươi hãy nghe Lời Người”.- Xin cho các tội nhân trong giáo xứ chúng ta, được ơn Chúa thức tỉnh, cảm nhận được vinh quang Chúa mà sống gắn bó với Người.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin vững mạnh, giúp chúng con biết tích cực thực hiện cuộc biến đổi mỗi ngày bằng loại trừ mọi dam mê dục vọng, phát huy đời sống bác ái yêu thương, để sau này chúng con đáng được phúc chiêm ngưỡng vinh quang Chúa muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, chớ gì của lễ này đem lại cho chúng con nguồn ơn tha tội và thánh hoá, hầu chuẩn bị hồn xác chúng con và toàn thể tín hữu được xứng đáng mừng lễ Vượt Qua. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con. Sau khi cho các môn đệ biết Người sẽ chịu chết, thì trên núi thánh Người đã tỏ bày vinh quang của Người cho các ông. Nhờ lề luật và các ngôn sứ làm chứng, Người đã cho các môn đệ hiểu rằng; phải trải qua đau khổ mới có thể đạt tới vinh quang phục sinh. Vì thế, cùng với triều thần thiên quốc, chúng con ở dưới trần gian luôn ca tụng Chúa uy linh cao cả, và không ngừng tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh…
Ca hiệp lễ
Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, các ngươi hãy nghe lời Người.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con được vinh dự rước Mình và Máu Thánh Ðức Ki-tô là bí tích nhiệm mầu cao cả. Chúng con xin chân thành cảm tạ vì Chúa đã cho chúng con được nếm thử phúc lộc trên trời ngay khi còn ở dưới thế. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
Chúa nhật tuần thứ hai mùa chay -C
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 9, 28b-36).
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
Suy niệm
Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng, và đầy vinh quang của Thầy Chí Thánh trên đỉnh núi Ta-bor, các Tông đồ như lạc vào chốn tiên cảnh, quên hết mọi lắng lo trong cuộc đời, đồng thời, các ông không muốn quay trở lại với đời thường, để thực hiện trọn vẹn trách vụ của mình. Một cảnh tượng đầy sáng láng như thế chắc ai trong chúng ta cũng có nhiều cảm xúc giống như các Tông đồ. Chính những cảnh tượng đó phần nào gợi mở về điểm đến của hành trình đức tin, của một chuyến xuất hành trở về quê hương đích thực của mình. Phụng vụ Lời Chúa tuần thứ hai mùa chay mời chúng ta đánh giá lại chuyến xuất hành của bản thân, để thấy được sự cố gắng từng ngày trong việc vượt qua những mệt mỏi của thể xác, vượt qua những yếu đuối của phận người, cũng như vượt qua những mong manh của niềm tin, khi hướng về mầu nhiệm cứu độ của Thầy Chí Thánh.
Bài đọc 1 là một câu chuyện hướng về cuộc xuất hành đầu tiên trong lịch sử nhân loại, khi Thiên Chúa chọn một con người, đặt làm tổ phụ một dân tộc, để từ đó, Ngài bước vào ngôi nhà của nhân loại. Ab-ram, một người chồng trong một gia đình son sẻ, thế nhưng, khi Thiên Chúa mời ông từ giã quê hương, ra đi theo sự hướng dẫn của Ngài, để từ gia đình ông, Thiên Chúa xây dựng một dân tộc. Trớ trêu thay, một gia đình son sẻ, Thiên Chúa lại chọn để xây dựng một dân tộc lớn, vậy mà ông vẫn từ bỏ tất cả, ra đi trong sự dẫn dắt của Thiên Chúa. Trong chuyến xuất hành đầu tiên này, Thiên Chúa chỉ cho vị tổ phụ thấy một bầu trời đầy sao, và đó là dấu chỉ hướng về một dân tộc đông đúc còn hơn thế nhiều: “Trong những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Ab-ram ra ngoài và nói với ông: “Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao”. Rồi Chúa nói tiếp: “Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế”. Ab-ram tin vào Thiên Chúa, và vì đó ông được công chính”. Để trở thành tổ phụ một dân tộc, Ab-ram đã chấp nhận một cuộc phiêu lưu đầy hiểm nguy, không biết ngày mai sẽ ra sao. Ông chỉ biết rằng người dẫn ông đi là một Đấng đầy quyền năng, là một vị thần không biết dối lừa. Ông đã chấp nhận từ bỏ sự tính toán cá nhân, để toàn tâm toàn ý thực hiện những gì Thiên Chúa mong muốn: “Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Ab-ram mà nói rằng: “Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Eu-phrát”.
Để có thể bước vào vinh quang của mầu nhiệm phục sinh, người tín hữu cần phải đi qua chặng đường đau khổ của mầu nhiệm thập giá. Đó là tâm tình xác tín của thánh Phaolô, và cũng là lời nhắc của ngài dành cho giáo đoàn Phi-lip-phê: “Bởi chưng như tôi đã thường nói với anh em, và giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này”. Cùng đích cuộc đời của con người không dừng lại những hạnh phúc chóng qua này, nhưng là Nước Trời. Để bước tới đích điểm đó, người tín hữu cần phân biệt đâu là hạnh phúc đích thực và đâu là hạnh phúc giả tạo. Của cải vật chất và quyền bính thế gian có đưa họ tới mầu nhiệm phục sinh của Con Thiên Chúa được không, bởi quê hương đích thực của người tín hữu đang kiếm tìm không thuộc về thế gian và cõi đời tạm này: “Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.
Được Thầy dẫn lên núi và cho chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa trong sự huy hoàng của Thiên quốc, các Tông đồ mong muốn được ở lại trong cõi vinh phúc đó, không cần thiết là có nhà cửa hay chỗ trú chân. Nhưng Thầy đã giải thích cho các ông biết, đó là phần thưởng cho những ai dám từ bỏ mình, vác thập giá mình đi theo Thầy. Đức Giêsu đang cùng các ông hướng về Giê-ru-sa-lem như là một chuyến xuất hành đi về quê hương đích thực, trong chuyến đi này, Đức Giêsu cho các ông thấy trước vinh quang của mầu nhiệm phục sinh, phần thưởng cho những ai biết đón nhận mầu nhiệm thập giá và chấp nhận vác thập giá theo Chúa: “Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem”. Niềm hạnh phúc của người tín hữu là được ở bên cạnh Thiên Chúa ngay hôm nay và mai sau, Ngài luôn mở rộng vòng tay đón con cái, luôn mong ước con cái hãy biết chọn lựa những giá trị đích thực, những giá trị thánh thiêng cùng với những niềm hạnh phúc Nước Trời, đừng chạy theo lối sống của xã hội thực dụng và bản thân không đủ niềm tin.
Chuyến xuất hành của tổ phụ Ab-ram cũng đầy những thách đố, đầy những thương đau, trở thành tổ phụ một dân tộc, trở thành người cha của những kẻ tin, tổ phụ con người đã từ bỏ tất cả, gia đình, quê hương, bản thân để lên đường. Ông tin rằng Thiên Chúa gọi mời ông lên đường không dẫn ông vào chỗ chết, nhưng sẽ thực hiện những gì Ngài đã hứa ban. Ông đã can đảm lên đường. Chuyến xuất hành của dân Do-thái từ Ai-cập về cũng vậy, vất vả trong sa mạc hơn 40 năm, họ phải chấp nhận để Thiên Chúa gọt dũa, mài nhẵn những góc cạnh xù xì của cái tôi ích kỷ, hẹp hòi, để rồi kết thúc với một bản giao ước tại núi Si-nai. Chuyến xuất hành đưa họ về đất hứa, mảnh đất chảy sữa và mật, nhưng đổi lại, họ phải đặt cược cuộc đời trong tay Thiên Chúa với một niềm tin tuyệt đối. Hai chuyến xuất hành này, dù có sự hiện diện của Thiên Chúa rất gần gũi, nhưng Ngài đòi hỏi con người phải có niềm tin vào một Thiên Chúa tình yêu. Niềm tin đó giúp họ vượt qua những khó khăn đau khổ của mầu nhiệm thập giá, và bước vào mầu nhiệm phục sinh trong niềm vui vỡ òa.
Chuyến xuất hành của các Tông đồ về đền thờ Giê-ru-sa-lem cũng vậy. Được chứng kiến vinh quang trên núi Ta-bor, nhưng Đức Giêsu còn đòi hỏi các Tông đồ phải có một niềm tin vẹn toàn, một sự từ bỏ nhất định, mới có thể bước vào niềm vui phục sinh với Thầy Chí Thánh. Và chúng ta mỗi ngày sống cũng là một chuyến xuất hành, cùng nhau đi về quê hương đích thực là Nước Trời, người tín hữu được chiêm ngưỡng niềm vui phục sinh của Thầy qua lời chứng của các Tông đồ, do đó, phần thưởng cho ai biết sống một niềm tin sắt son, một niềm tin chân thành và một niềm tin độc thần, là Nước Trời, là niềm hạnh phúc ở bên cạnh Thiên Chúa. Để có được niềm tin trọn vẹn như Thiên Chúa đợi chờ, người tín hữu có đủ can đảm để phân biệt đâu là những điều cần thiết cho hạnh phúc mai sau và đâu là những điều cần phải xa tránh trong cuộc sống hiện tại. Từ khởi điểm đó, họ ra đi trong niềm hy vọng, trong thái độ sống lạc quan và khiêm tốn, bởi Thiên Chúa không bao giờ thất tín, không bao giờ bỏ rơi con cái của Ngài.
Sống ơn gọi nào giữa cuộc đời cũng cần có một niềm tin đích thực. Dù sống bên cạnh nhau trong một gia đình, nhưng người vợ và người chồng cũng cần có một niềm tin thực sự, mới có thể xây dựng được tổ ấm thực sự, niềm tin đó còn là động lực giúp họ dám hy sinh cho nhau, dám từ bỏ cái tôi của bản thân, để sống cho, sống vì và sống với người bạn đời. Đánh mất niềm tin lẫn nhau, sẽ khó nắm tay nhau xây dựng một gia đình, một cộng đoàn yêu thương và tôn trọng lẫn nhau. Ơn gọi dâng hiến cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó, nếu người Tu sĩ hay các Giáo sĩ thiếu niềm tin, hoặc niềm tin mong manh, khó có thể biến cuộc đời mình thành nhịp cầu đem ơn Chúa và bình an cứu độ cho tha nhân. Niềm tin vẫn mãi là một yếu tố quyết định cho người tín hữu bắt đầu từ hôm nay, đủ can đảm vượt qua những khó khăn nhất định, để sống ơn gọi của mình ngày một trọn vẹn, đồng thời đưa người tín hữu tiến lại gần Thiên Chúa hơn. Thiên Chúa đang đợi chờ nơi con người một chút cố gắng như thế, mong sao con người dám tin, dám sống và dám chết cho niềm vui Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, vâng lời Chúa Cha, Ngài đã đi vào trần gian để cứu độ con người. Con đường Ngài chọn để cứu độ là hy sinh, là từ bỏ tất cả, xin cho chúng con biết noi gương Ngài, dám từ bỏ những lợi ích của thế gian, dám từ bỏ những lời mời hấp dẫn của thế gian, để trở nên người tín hữu đang làm chứng cho một tin mừng cứu độ giữa đời. Chúa đã mở cho các Tông đồ cánh cửa của niềm tin khi chứng kiến vinh quang trên núi Ta-bor, để các ông can đảm theo Chúa trên chặng đường khổ giá, xin giúp chúng con luôn biết hướng về niềm vui Nước Trời, để chu toàn mọi bổn phận của mình, hầu mai sau được ngụp lặn trong niềm vinh quang vô tận của Nước Trời. Amen.
VINH QUANG VÀ SỰ TỰ HIẾN
(Chúa Nhật II Mùa Chay C) - Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Sự thường khi nghe nói đến hai từ vinh quang, người ta dễ liên tưởng đến hai từ quyền lực. Bởi chưng, chuyện như nhãn tiền, đó là khi có quyền lực thì vinh quang ào tới, nhất là do bởi “thói đời” thích khúm núm, quỵ lụy, tâng bốc, tung hô người có lực, có quyền.
Vào Chúa Nhật II Mùa Chay cả ba năm A, B, C, các bài Tin Mừng, Giáo Hội dọn cho đoàn tín hữu đều tường thuật cuộc biến hình của Chúa Giêsu. Và chúng ta dễ nhận ra hữu ý của việc Chúa Giêsu tỏ bày vinh quang cho ba môn đệ thân tín, đó là để động viên tinh thần các vị trước khi Người lên Giêrusalem chịu tử nạn. Nội dung cuộc đàm đạo giữa Chúa Giêsu với Môsê và Êlia chính là “cuộc xuất hành Chúa Giêsu sắp hoàn thành tại Giêrusalem”. Chúa Giêsu trước đó cũng đã công khai tiên báo cuộc khổ nạn Người sẽ chịu do bởi các kỳ mục, thượng tế cùng các kinh sư gây ra và Người mời gọi những ai muốn theo Người thì phải từ bỏ chính mình, vác thập giá hằng ngày mà theo (x.Lc 9, 22-26).
Vinh quang được xem là tình trạng có giá trị tinh thần cao, đáng được tôn kính và ái mộ. Tuy nhiên cũng cần phân biệt vinh quang thật và vinh quang giả hiệu. Vinh quang thật thì lâu bền vì được dệt xây bằng những hành vi tốt đẹp, chính đáng và cao cả. Trái lại vinh quang giả hiệu lại chóng qua và nhất thời, vì nó thường được xây dựng trên bạo lực hoặc những mưu đồ bất chính… Như thế chúng ta có thể nói rằng chỉ mình Thiên Chúa mới có vinh quang đích thật. Nhân loại chúng ta có được vinh quang là nhờ thông dự phần nào đó vào vinh quang của Thiên Chúa.
Chúa Kitô tỏ vinh quang để rồi tự hiến dâng mạng sống vì người mình yêu. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Nhìn thấy vinh quang của Thầy chí thánh, một cách như bị thúc bách, Phêrô đã cất tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Lc 9, 33). Dường như Phêrô quên mất chính mình cũng như hai bạn đồng môn. Lịch sử minh chứng cho ta hay những tâm hồn nào càng kết hiệp thân tình với Thiên Chúa thì luôn quảng đại trao ban chính mình cho tha nhân. Chúng ta có thể kiểm chứng điều này nơi những con người được diễm phúc chiêm ngắm Chúa Giêsu, Mẹ Maria hiện ra đó đây theo dòng lịch sử. Có thể nói rằng tất thảy đều thay đổi cách diệu lạ, đều sống tự hiến cách phi thường. Và đây cũng là một trong những tiêu chí mà Giáo Hội dùng để kiểm tra các hiện tượng cho rằng Chúa, Mẹ hiện ra với người này, người kia. Hãy xem đời sống của những người ấy có đổi thay cách tích cực không, nghĩa là họ có quảng đại hiến thân vì tha nhân hơn không?
Mặt khác, chính khi tự hiến vì yêu thương thì vinh quang được hiển lộ. “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Tôi Hằng Hữu” (Ga 8, 28). Khi Giuđa ra đi để thực hiện âm mưu nộp Thầy thì đó “là lúc Con Người được tôn vinh và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người” (Ga 13, 31). Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định rằng khi Đức Kitô tự nguyện khước từ vinh quang danh dự của một vị Thiên Chúa, trở nên giống phàm nhân, mặc lấy thân nô lệ và hạ mình vâng lời chịu chết vì chúng ta thì được Thiên Chúa siêu tôn và tặng ban danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu (x.Pl 2, 6-11).
Nhân loại xưa lẫn nay đều vinh danh những con người biết xả thân tự hiến vì đồng loại. Đó là các bậc vĩ nhân, là các anh hùng dân tộc và đặc biệt là những thánh nhân. Cần thừa nhận rằng vẫn có đó nhiều vinh quang giả tạo, nhất thời. Đó là những vinh quang vắng bóng sự tự hiến. Tìm kiếm vinh quang mà không biết hiến thân thì chỉ là ảo vọng. Trái lại nếu chúng ta chủ ý tự hiến để kiếm tìm vinh quang thì nhiều khi cũng gặp thất bại, nếu sự tự hiến ấy thiếu trong sáng trong ý hướng kiếm tìm. Như thế có thể nói vinh quang không phải là một tình trạng đến sau nhưng chính là ánh sáng huy hoàng của sự tự hiến. Đến đây chúng ta mới hiểu được vì sao “vinh quang của ta chính là thập giá Chúa Kitô”. Chúa Kitô đã được viên đại đội trưởng thi hành án nhìn nhận: “Người này đích thực là người công chính” ngay phút giây Người tắt thở trên cây thập giá (Lc 23, 47). Và mầu nhiệm Phục Sinh không phải là sự vinh quang đến sau nhưng là một sự chứng thực cái vinh quang đã có nơi mầu nhiệm Tử Nạn.
Dưới cái nhìn đức tin, được vào vinh quang, dù lớn hay bé, tất thảy đều để hiến thân vì hạnh phúc tha nhân và qua đó làm rạng danh Thiên Chúa. Vinh quang ấy có thể là một thánh chức, có thể là một thừa tác vụ hay một bậc sống… Các Đức giáo hoàng khi được Hồng y đoàn bầu vào vai trò vị trí kế vị thánh Phêrô hẳn nhiên đều ý thức là để làm tôi tớ các tôi tớ như Đức Kitô đến thế gian không phải để được hầu hạ nhưng để hầu hạ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20, 28).
Điều cần lưu ý đó là đừng quá mong chờ vinh quang sẽ đến trong thời gian tại thế, sau khi chúng ta hiến thân vì tha nhân. Ước gì chúng ta không chỉ tin mà còn cảm nhận sự thật này đó là sự vinh quang đã có ngay trong chính hành vi tự hiến của chúng ta. Việc Chúa Giêsu biểu lộ vinh quang của Người trước khi chịu khổ hình không chỉ để động viên các môn đệ vững tin bước theo Người lên Giêrusalem mà còn khẳng định rằng chính khi người chịu khổ hình là Người được vinh quang. Thấy được hay cảm được sự vinh quang ngay trong sự tự hiến thì chắc chắn chúng ta sẽ can đảm bước theo Chúa Kitô để sống yêu thương cho đến cùng.
LÊN CAO – TỎA SÁNG
(Chúa Nhật II Mùa Chay C – Lc 9,28b-36) Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Cả ba Tin mừng Nhất lãm đều tường thuật rằng sau lần thứ nhất tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá, khoảng sáu hay tám ngày sau đó Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao (x.Mt 17,1-8; Mc 9,2-8; Lc 9,28-36). Tin Mừng Matthêu và Maccô không nói rõ mục đích của việc Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi cao mà chỉ tường thuật là ở trên núi Người đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông (x.Mt 17,2; Mc 9,2). Tin mừng Luca thì nói rõ mục đích của việc đưa ba môn đệ thân tín lên núi cao là để cầu nguyện (x.Lc 9,28).
Khởi đi từ thời các giáo phụ, chúng ta được nghe diễn giải mục đích Chúa Giêsu lên núi cao cùng với ba môn đệ là để bày tỏ vinh quang qua sự biến hình nên sáng láng hầu nâng đỡ, củng có đức tin cho các môn đệ trước viễn ảnh thập giá đau thương mà Người sắp chịu. Tuy nhiên, mục đích này xem ra không mấy thuyết phục vì tại sao chỉ có ba môn đệ được củng cố đức tin mà thôi, còn chín vị còn lại thì sao? Và khi xuống núi thì Chúa Giêsu lại căn dặn ba vị không được kể lại chuyện vừa chứng kiến cho các bạn đồng môn (x.Mt 17,9; Mc 9,9). Bên cạnh đó Tin Mừng Maccô ghi rõ là ngay ba vị chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình cũng không hiểu lời Thầy nói “từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì” (x.Mc 9,10).
Mục đích lên núi của Chúa Giêsu là để cầu nguyện như Tin Mừng Luca tường thuật xem ra khá hữu lý vì chúa Giêsu trong những lúc gặp nghịch cảnh lớn hoặc cần có quyết định hay sự chọn lựa quan trọng thì Người thường lánh riêng ra một nơi hay lên núi cao cầu nguyện với Cha trên trời (x.Lc 6,12). Đêm Tiệc Ly, trong vườn dầu, khi sắp đối diện với khổ hình thập giá cần kề thì Chúa Giêsu cũng dẫn ba môn đệ thân tín lánh riêng để cầu nguyện (x.Mt 26,37; Mc 14,32-33).
Cuộc đời con người chúng ta ai cũng có những lúc đối diện với những quyết định quan trọng phải chọn lựa. Một bậc sống, một nghề nghiệp, một nơi định cư lâu dài… là những điều không chỉ đòi hỏi sự cân nhắc, tính toán mà còn cần cả sự can đảm và dứt khoát cách nào đó. Các nghịch cảnh đến với chúng ta cũng là chuyện thường tình của kiếp người. Lắm khi ‘phúc bất trùng lai” mà “họa thì vô đơn chí”. Thỉnh thoảng có đó những nghịch cảnh xem ra khó vượt qua không chỉ do thiên tai hay dịch bệnh mà còn do cả lòng người độc hiểm, gian ác gây ra. Chính những lúc này chúng ta cần phải sáng suốt hơn, can đảm hơn để đương đầu hay đón nhận.
Trong các tình huống trên, dưới ánh sáng Lời mạc khải, Kitô hữu chúng ta chân nhận rằng mình cần đến ơn soi sáng và ơn trợ giúp của Thiên Chúa biết là chửng nào. Vì thế việc cầu nguyện như là điều tất yếu. Cầu nguyện cách riêng tư, cầu nguyện cùng với vài ba người thân tín sẽ giúp chúng ta nhận ra chương trình ý định của Thiên Chúa trên đời mình. Chính qua những giờ khắc cầu nguyện sâu lắng này Chúa Kitô càng thêm xác tín về căn tính và sứ mạng của Người để rồi tự nguyện và can đảm thực thi thánh ý Cha trên trời.
Nét vinh quang hiển lộ trên dung mạo Chúa Kitô có thể nói là hệ quả của việc Người đón nhận sứ mạng cứu độ nhân trần bằng án hình thập giá. Chân dung của một con người sẽ hiển sáng khi họ vuông tròn sứ mạng của mình ở trần gian. Một chị Têrêxa Hài Đồng đã rực sáng khi làm cánh hoa hồng nhỏ cho đời. Một Phanxicô Axidi cũng đã rực sáng khi biểu lộ chân dung người nghèo của Thiên Chúa. Một Mẹ Têrêxa thành Calcutta cũng đã hiển sáng khi làm tỏa rạng tình thương của Thiên Chúa trên những mảnh đời bất hạnh, nghèo hèn… Cuộc đời các thánh nhân được dệt xây trên nền tảng của việc gắn bó với Thiên Chúa bằng sự cầu nguyện chuyên chăm sâu lắng. Dù không có chút quyền lực gì đáng kể trước mặt người đời và có khi cả trong Giáo hội, thế nhưng các nữ tu con cái mẹ Têrêxa thành Calcutta nhờ khởi đầu một ngày sống bằng việc kết hiệp với Thiên Chúa cả giờ đồng hồ, rồi sau đó thi hành sứ mạng và họ rực sáng ngay trong tấm tu phục Sari đơn sơ, bình thường.
Với người đời thì vinh quang thường đi với quyền lực hay với sự thành công hiển hách. Vinh quang ở đây nhiều khi thực ra chỉ là vẻ hào nhoáng nhất thời, chóng qua. Vinh quang thật là ở nơi những con người biết sống có ý nghĩa. Họ không chỉ cảm nhận mà còn biết nỗ lực thực thi sứ mạng của mình khi được hiện hữu trong cõi dương trần này. Với Kitô hữu, để có thể xác tín về căn tính và sứ mạng của mình thì điều tất yếu là cần phải “lên núi cao”, nghĩa là phải biết kết hiệp với Đấng cho mình làm người bằng sự cầu nguyện sâu lắng, chuyên chăm.