Chúa Nhật II Phục Sinh – Năm B
CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Ga 20,19-31
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật II Phục Sinh – Năm B
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Chúa Giêsu phục sinh đến, chúc bình an và tỏ các vết thương cho các tông đồ, chứng tỏ Người yêu thương và hằng lưu tâm tới các ông đang phải u buồn, lo sợ trước cái chết đau thương của Người. Người tỏ lòng thương xót nhân loại, bởi vì Người đã chấp nhận gánh lấy tội của con người, đến chết nhục nhã trên Thập Giá, nhưng đã sống lại hiển thắng vinh quang. Người mời gọi các ông hãy tin vào Người, tin vào Lời Chúa, chứ đừng muốn thực nghiệm theo kiểu Tôma, để đức tin được trọn vẹn và quang sáng. Chúng ta là những người hậu sinh sau 20 thế kỷ đối với những sự kiện xem ra vẫn còn nóng hổi của ngày phục sinh ấy, chúng ta hãy hân hoan tham dự vào buổi họp mặt này, cũng có Chúa và anh chị em cùng hiện diện. Xin cho niềm vui được đầy tràn vì chúng ta đang sống trong tình trạng ân sủng, và cương quyết sống xa con đường bất chính. Như thế bình an Chúa trao ban sẽ trọn vẹn, lòng thương xót Chúa đổ xuống sẽ tràn lan trong tâm hồn mỗi người chúng ta.
Ca nhập lễ
Như trẻ sơ sinh, anh em hãy ao ước sự thiêng liêng không phôi pha, để nhờ đó anh em lớn lên trong ơn cứu độ – Allêluia.
Hoặc đọc:
Anh em hãy nhận lãnh niềm vui vinh quang của anh em, hãy tạ ơn Chúa, Đấng đã kêu gọi anh em vào nước trời – Allêluia.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, hằng năm Chúa dùng ngọn lửa phục sinh để khơi lại niềm tin trong lòng dân thánh, cúi xin Chúa gia tăng ân sủng để chúng con hiểu rằng: chính Chúa Kitô đã thanh tẩy chúng con bằng phép rửa, đã tái sinh chúng con bằng Thánh Thần và cứu chuộc chúng con bằng Máu Thánh. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Cv 4, 32-35
“Họ đồng tâm nhất trí”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Lúc bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu. Vì những người có ruộng nương nhà cửa đều bán đi và bán được bao nhiêu tiền thì đem đặt dưới chân các tông đồ. Và người ta phân phát cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu của họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 117, 2-4. 16ab -18. 22-24
Ðáp: Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Hỡi nhà Israel, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi nhà Aaron, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”. Hỡi những người tôn sợ Chúa, hãy xướng lên: “Ðức từ bi của Người muôn thuở”.
Xướng: Tay hữu Chúa đã cất nhắc tôi lên, tay hữu Chúa đã hành động mãnh liệt. Tôi không chết, nhưng tôi sẽ sống, và tôi sẽ loan truyền công cuộc của Chúa. Chúa sửa trị, Chúa sửa trị tôi, nhưng Người đã không nạp tôi cho tử thần.
Xướng: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường. Việc đó đã do Chúa làm ra, việc đó kỳ diệu trước mắt chúng ta. Ðây là ngày Chúa đã thực hiện, chúng ta hãy mừng rỡ hân hoan về ngày đó.
Bài Ðọc II: 1 Ga 5, 1-6
“Mọi cái sinh ra bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Gioan Tông đồ.
Các con thân mến, ai tin rằng Ðức Giêsu là Ðấng Kitô, thì kẻ ấy sinh bởi Thiên Chúa, và ai yêu mến Ðấng sinh thành, thì cũng yêu mến kẻ sinh ra bởi Ðấng đó. Cứ dấu này chúng ta nhận biết rằng chúng ta yêu mến con cái Thiên Chúa, là khi chúng ta yêu mến Thiên Chúa và thực hành các giới răn Người. Vì chưng, lòng yêu mến Thiên Chúa là chúng ta tuân giữ giới răn Người, và giới răn của Người không nặng nề.
Vì những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian, nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa? Ðấng đã đến nhờ nước và máu, chính là Ðức Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa, có Thánh Thần làm chứng rằng Chúa Kitô là chân lý.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 20, 29
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 20, 19-31
“Tám ngày sau Chúa Giêsu hiện đến”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Niềm tin của Tôma vào Đấng Phục Sinh là một chặng đường, và niềm tin chỉ có thể đạt được kết quả khi có yếu tố quyết định. Với niềm tin vào Đức Ki-tô Phục Sinh chúng ta cùng dâng lời nguyện xin:
1. “Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta sống lại”.— Xin cho các vị Chủ chăn trong Hội Thánh dùng quyền uy, sự thánh thiện, gương sáng và lời giáo huấn, hướng dẫn mọi người tin nhận Chúa Kitô phục sinh, hầu được ơn cứu rỗi.
2. “Đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta”,- Xin cho các tín hữu đang gặp thử thách, biết lấy đức tin là thuẫn đỡ gươm che mà chiến đấu và chiến thắng, để bảo vệ gia sản muôn đời.
3. “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. – Xin cho các dòng tu làm việc tông đồ ý thức lệnh truyền của Chúa, mà hăng hái lên đường rao giảng Tin Mừng cho anh chị em dân tộc đang khát vọng chân lý.
4. “Lạy Chúa con! lạy Thiên Chúa của con!” Xin ánh sáng Phục Sinh của Chúa, mở mắt tâm hồn người Do Thái, để họ nhận ra Chúa Giêsu chính là Đấng họ trông đợi đã đến, để sau thời gian nghi ngờ, họ cùng với tông đồ Tôma lên tiếng tuyên xưng đức tin.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu giầu lòng thương xót, chúng con đang sống trong một thế giới ngờ vực về sự hiện hữu của Thiên Chúa, xin Chúa thức tỉnh tâm hồn chúng con, để chúng con không quá dựa theo những luận chứng của khoa học thực nghiệm, nhưng biết nhìn nhận sự an bài khôn ngoan của Chúa trong vũ trụ, Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin vui lòng chấp nhận lễ vật của chúng con (và đặc biệt là của những anh chị em tân tòng) Chúa đã cho mọi người chúng con được đổi mới nhờ đức tin và nhờ bí tích thánh tẩy, xin cũng dẫn đưa chúng con tới hạnh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng Phục Sinh I
Ca hiệp lễ
Con hãy xỏ ngón tay vào đây, hãy nhìn xem những vết đinh, và đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin – Allêluia.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng, chúng con vừa lãnh nhận Mình và Máu Thánh Ðức Kitô là Ðấng đã chết và sống lại để ban sự sống đời đời cho thế gian. Cúi xin Chúa làm cho ân huệ quý báu này được tồn tại mãi trong tâm hồn chúng con. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
ĐỨC TIN LÀ MỘT ÂN BAN CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA
CHÚA NHẬT II PHỤC SINH – NĂM B
(Cv 4, 32-35; 1 Ga 5, 1-6; Ga 20, 19-31)
Tu sĩ: Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Người Công Giáo Việt Nam chúng ta thường hay nhận xét một biến cố hay một nhân vật nào đó, ít có mấy người để ý đến điều đang tiềm ẩn đằng sau những mặt nổi hay chiều sâu bên trong nơi những con người mà ta nhận xét. Vì thế, nhiều khi chúng ta khá chủ quan để kết luận một vấn đề, nên dễ dẫn đến chuyện đóng khung sự kiện hay đối tượng mà ta đánh giá trong một khoảng tham chiếu rất phiến diện dựa trên chuẩn mực mà chính ta đưa ra….
Với thánh Tôma mà hôm nay Tin Mừng nhắc đến, ngài cũng chịu sự nhận xét khá tiêu cực của nhiều người trong chúng ta, qua cái nhìn và lối suy diễn rất hiện sinh: “Tôma, vị Tông đồ cứng lòng tin”.
Tuy nhiên, dưới ánh sáng Lời Chúa và ân sủng do lòng thương xót của Người, chúng ta nhận thấy một điều quan trọng nơi câu chuyện Tin Mừng ngang qua nhân vật và cách biểu cảm của thánh Tôma.
1. Tiến trình căn bản của đức tin
Đức Tin là một ân ban của lòng thương xót Chúa cho ai thì người đó được. Điều này đã được Đức Giêsu dâng lời tạ ơn Thiên Chúa Cha khi nói: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn. Vâng, lạy Cha, vì đó là điều đẹp ý Cha” (Lc 10,21). Quả thật, không phải ai muốn mà được, nhưng còn phải được chính Thiên Chúa là người dẫn lần ta đến với đức tin như chính thánh Phaolô đã viết: “Những ai Người đã biết từ trước, thì Người đã tiền định cho họ nên đồng hình đồng dạng với Con của Người” (Rm 8,29).
Tuy nhiên, đức tin ấy không thể trưởng thành mà không có môi trường, không có cộng đoàn. Vì thế, khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được lãnh nhận hồng ân đức tin ấy trong tương quan và ngang qua cộng đoàn.
Thế nhưng, nếu chỉ dừng lại ở một bầu khí đức tin cộng đoàn thì chưa đủ, mà nó lại phải trở về với mối tương quan cá vị giữa ta với Chúa, để đức tin của chúng ta mang tính cá biệt với Thiên Chúa, rồi sau đó trở về hòa nhập với cộng đoàn để được lớn mạnh.
Đây cũng là tiến trình đức tin của Tôma mà Tin Mừng hôm nay trình bày cho chúng ta.
Niềm tin của thánh nhân vào Đức Giêsu, Đấng Phục sinh được khai mào từ lời chứng của cộng đoàn: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” (Ga 20,25). Đây là lời klhẳng định của các Tông đồ khi Tôma vắng mặt trong biến cố Đức Giêsu hiện ra với các ông vào ngày thứ nhất trong tuần sau khi sống lại từ cõi chết.
Với Tôma, một người hiện sinh về việc tìm tòi cốt lõi của vấn đề, thì lời chứng của cộng đoàn chỉ đóng một vai trò dẫn đường để đưa ngài tới chỗ chính mình phải là người chủ động cảm nghiệm trực tiếp vấn đề mang tính cá vị: “Nếu tôi không thấy tôi không tin” (x. Ga 20, 25). Qua câu nói này của thánh Tôma, chúng ta nhận thấy ngài là một con người ngay thẳng, chân tình và rất thực tế.
Chính vì điều này mà Đức Giêsu, Đấng hiện thân của lòng thương xót đã mặc khải trực tiếp khi tỏ tình thương đối với vị Tông đồ này cách đặc biệt sau 8 ngày.
Quả thế, khi hiện ra với các Tông đồ lần này, Đức Giêsu đã nhắm thẳng vào Tôma, nên Ngài đã lên tiếng: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20, 27). Đứng trước lòng thương xót của Đấng mà thánh nhân đang đi tìm, ngài đã không dám thực hành điều đã nói với các Tông đồ là: xỏ tay vào vết đinh, thọc tay vào cạnh sườn…, mà ngay lập tức, ông đã quỳ mọp xuống và tuyên xưng niềm tin của mình các mạnh mẽ mang tính cá vị và tuyệt đối: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (Ga 20, 28) . Đây là đỉnh cao của lời tuyên tín Phục Sinh nơi Tôma.
Nhờ vào lòng thương xót của Đức Giêsu cách đặc biệt, nên cũng từ đây, Tôma nhận ra một chân lý rằng: tin rồi mới thấy cách trọn vẹn. Thấy Đấng Phục Sinh thì cũng thấy Đấng là Thầy của mình trước đó. Thấy Đấng Phục Sinh cũng là thấy Thiên Chúa của mình. Điều này đã đem lại một sự mãn nguyện mang tính tuyệt hảo và hạnh phúc viên mãn của Tôma.
2. Đức tin của mỗi chúng ta
Từ những trải nghiệm đức tin của thánh Tôma, Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta xem lại những xác tín và biểu hiện đức tin của mỗi người.
Thật vậy, chúng ta khám phá ra một chân lý rằng: Đức tin không chỉ một phía từ Thiên Chúa ban, cũng chẳng phải do sự cố gắng thuần túy cá vị, mà nó được kết hợp cả hai từ trên xuống dưới, tức là do lòng thương xót của Thiên Chúa ban nhưng không cũng như nghị lực rất cố gắng của mỗi người và được nuôi dưỡng bởi cộng đoàn.
Điều này lý giải cho chúng ta thấy rằng: nếu bất kể cái gì ta cũng thuần phục và gán cho ơn thánh thì sẽ rơi vào tình trạng: “Kính nhi viễn chi” hay không bao giờ dám bàn luận và cũng chẳng cần phải đào sâu hơn nữa, bởi lẽ “mọi chuyện đã rồi” nên chỉ tin mà thôi. Tin như thế, có thể rơi vào tình trạng cả tin rồi lại chẳng tin! Nó giống như số phận của những hạt giống bên bụi gai, vệ đường và đá sỏi.
Còn nếu dựa vào lý trí thuần túy, chúng ta có thể rơi vào trạng thái phỏng chiếu đức tin của mình trên những gì mắt thấy, tai nghe, hay cân đo đong đếm được và phải đáp ứng nhu cầu thỏa mãn sự hiếu tri. Nếu lấy điều này làm tiêu chuẩn, chúng ta rất có thể rơi vào sự kiêu ngạo, lạnh nhạt, vô cảm và bất tín giống như những Kinh sư và người Pharisêu.
Mặt khác, nếu chỉ dựa vào tập thể, tức là đức tin của tôi phụ thuộc vào cộng đoàn, thì đức tin mạnh mẽ hay là yếu ớt của cộng đoàn cũng là tâm thức của tôi. Tin như thế, không chừng chúng ta đang lấy cộng đoàn làm bình phong hay ngụy biện cho sự hời hợt, giả tạo và hình thức của mình. Điều này có nguy cơ rơi vào tình trạng: “Khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn thì lìa nhau ra”. Rất giống như đám đông dân chúng trong cuộc khổ nạn của Đức Giêsu.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta một kinh nghiệm được lấy từ mẫu thức của thánh Tôma.
Trước tiên, đừng cả tin mọi chuyện. Cần phải suy thấu dựa trên ánh sáng mạc khải của Thiên Chúa qua Kinh Thánh, Giáo Huấn của Giáo Hội. Lấy Lời Chúa làm nền tảng, Giáo Huấn của Giáo Hội làm điểm tựa cho niềm tin của mình.
Thứ hai, “đừng cứng lòng, nhưng hãy tin!” điều này soi sáng cho chúng ta: Không phải bất cứ cái gì cũng đo lường được bằng đơn vị định lượng của khoa học, nhưng nhiều khi nó còn được đo bằng từ ánh mắt đến trái tim, từ lòng với lòng. Bởi lẽ, nhận thức của con tim đôi khi khác hoàn toàn với nhận thức của lý trí.
Cần nắm vững điều căn cốt của đức tin chính là: vun đắp, cộng tác với ơn thánh của Thiên Chúa để đức tin do lòng thương xót của Người ban được lớn lên trong tâm hồn, đồng thời làm sao cho đức tin của mình được chung nhịp đập với đời sống đức tin của cộng đoàn.
Cuối cùng, đức tin của chúng ta phải được nuôi dưỡng trong mối tương quan cá vị từng người, để qua đó, ta mới có đủ cảm thức và nhạy bén thực sự với ơn Chúa và hòa nhập được với đời sống cộng đoàn. Có thế, chúng ta mới vươn tới một đức tin vừa mang tính khả giác, vừa mang chiều kích ân sủng và mầu nhiệm. Điều ta muốn thấy mà không thấy thì hãy bắt đầu bằng đức tin, để từ đó, đức tin sẽ dẫn ta đến điều ta không thấy và điều ta không thấy mà tin sẽ đem lại cho mình hạnh phúc trọn vẹn như lời Đức Giêsu đã nói: “Phúc cho ai không thấy mà tin”.
Lạy Chúa Giêsu, chúng con xin tạ ơn Chúa đã tỏ lòng thương xót đến thánh Tôma. Xin Chúa cũng thương xót đến chúng con như Chúa đã thương xót đến thánh Tôma khi xưa. Tất cả những ước nguyện đó, con xin tín thác nơi lòng thương xót Chúa. Amen.
CHÚA NHẬT THỨ HAI PHỤC SINH - B
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (Ga 20, 19-31).
Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con”. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại”. Bấy giờ trong Mười hai Tông đồ, có ông Tôma gọi là Ðiđymô, không cùng ở với các ông, khi Chúa Giêsu hiện đến. Các môn đệ khác đã nói với ông rằng: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”. Nhưng ông đã nói với các ông kia rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”.
Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”.
Chúa Giêsu còn làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đệ, và không có ghi chép trong sách này. Nhưng các điều này đã được ghi chép để anh em tin rằng Chúa Giêsu là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
Suy niệm
Biến cố phục sinh của Đức Giêsu Kitô vẫn mãi là một biến cố được thêu dệt dưới nhiều hình thức khác nhau theo xu hướng của sự phát triển từ xã hội. Dù đây là một tin vui, một tin mừng, nhưng biến cố này cũng đem lại nhiều hoài nghi cho các môn đệ của Ngài, cho những người tin theo Ngài. Lời chứng của những người được gặp Ngài đó đây đang giúp củng cố niềm tin của những người đã tin, bên cạnh đó là món quà phục sinh của Đức Giêsu đem đến cho các môn đệ và những ai tin Ngài, là một bằng chứng hiển nhiên cho nhân loại biết, Ngài đã chết và nay đã sống lại, đồng thời đang đồng hành với mọi người. Các bài trình thuật Chúa nhật thứ hai phục sinh sẽ cho chúng ta những lời giải đáp rất xác tín và rõ ràng.
Lời chứng được quan tâm nhất là lời chứng của những người đã được sống với Ngài trước lúc bước vào cuộc tử nạn. Thánh Phêrô, có thể nói là nhân chứng đáng tin cậy nhất, bởi thánh nhân là vị tông đồ trưởng, là người được trao quyền trông coi Giáo hội, do đó, được chứng kiến từ đầu đến cuối biến cố tử nạn của Thầy Chí Thánh, thánh nhân đã công bố tin mừng đó cho cộng đoàn dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Lời chứng đó mạnh mẽ hơn khi có nhiều thay đổi từ các cộng đoàn sơ khai do Chúa Thánh Thần quy tụ. Lời rao giảng, đời sống cộng đoàn huynh đệ là những bằng chứng hùng hồn cho một người đã chết cho người mình yêu và nay đã sống lại bởi quyền năng Thiên Chúa: “Lúc bấy giờ tất cả đoàn tín hữu đông đảo đều đồng tâm nhất trí. Chẳng ai kể của gì mình có là của riêng, song để mọi sự làm của chung. Các tông đồ dùng quyền năng cao cả mà làm chứng việc Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, sống lại. Hết thảy đều được mến chuộng. Vì thế, trong các tín hữu, không có ai phải túng thiếu”. Có thể thấy ẩn hiện giữa cộng đoàn huynh đệ này là sự bình an đến từ Đức Giêsu phục sinh, bởi họ đã đón nhận lời công bố của các tông đồ về một Đức Giêsu đã chết do con người đóng đinh, nay đã sống lại và đang ở bên cạnh họ. Sự bình an trong nội tâm của các môn đệ, sự bình an giữa các cộng đoàn huynh đệ của Chúa Thánh Thần là dấu chỉ cho thời đại hôm nay chấp nhận một Con Thiên Chúa đã sống lại và đang hiện diện với con người, khi họ tin và đi theo con đường của Ngài đã đi qua.
Một lời chứng khác đến từ người môn đệ được gọi là môn đệ Chúa yêu, thánh nhân đã bộc bạch niềm tin chân thành và xác tín của mình, khi được chứng kiến bao việc lạ lùng từ mầu nhiệm phục sinh của Thầy Chí Thánh. Niềm vui và sự bình an của mầu nhiệm phục sinh sẽ được trao cho mỗi người, khi họ can đảm mở rộng trái tim đón nhận. Chính thái độ đức tin đó đưa họ đến gần hơn với Đấng phục sinh: “Vì những gì sinh bởi Thiên Chúa đều chiến thắng thế gian, và đây là cuộc thắng trận thế gian, là chính đức tin của chúng ta. Ai là người chiến thắng thế gian, nếu không phải là người tin rằng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa? Ðấng đã đến nhờ nước và máu, chính là Ðức Giêsu Kitô, không phải trong nước mà thôi, nhưng trong nước và máu nữa, có Thánh Thần làm chứng rằng Chúa Kitô là chân lý”. Khởi đi từ niềm vui và bình an nội tâm của bản thân, thánh Gioan đã làm chứng rằng phần thưởng lớn lao Thiên Chúa dành cho ai biết chọn con đường của Đức Giêsu, dù có trải qua nhiều đau khổ, thử thách và hơn nữa là phải hy sinh, thì họ sẽ được ngụp lặn trong niềm hạnh phúc đích thực của Thiên Chúa. Niềm hạnh phúc đó phủ bóng của một tình yêu tự hiến và một tâm hồn phục vụ. Tất cả đều có sự hiện diện của Thánh Thần Thiên Chúa.
Vì không được may mắn gặp lại Thầy yêu dấu, nên thánh Tho-ma không thể chấp nhận Thầy mình đã sống lại. Do đó, Đức Giêsu đã cho ông đưa ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn của Ngài. Tất cả là dấu chỉ của một con người thực, một con người đang sống và con người đó đã bị đóng đinh, đã bị đâm thâu và đã chết: “Tám ngày sau, các môn đệ lại họp nhau trong nhà và có Tôma ở với các ông. Trong khi các cửa vẫn đóng kín, Chúa Giêsu hiện đến đứng giữa mà phán: “Bình an cho các con”. Ðoạn Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Tôma thưa rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!” Chúa Giêsu nói với ông: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin”. Đức Giêsu phục sinh đã cho thánh Tho-ma đại diện cho nhân loại biết, Ngài chính là một Đức Giêsu đã bị kết án, đã bị đóng đinh vào thập giá, đã chết và đã được mai táng trong mồ, Ngài là một con người thực sự chứ không phải là ma quỷ hay mọi chuyện do bịa đặt. Hơn nữa, Ngài còn cho các tông đồ, cho chúng ta biết Đức Giêsu lịch sử và Đức Kitô phục sinh là một con người, là một nhân vật, chứ không phải là hai, chứ không khác biệt. Từ đây, ánh sáng tin mừng phục sinh dẫn đưa chúng ta tới một niềm tin xác tín rằng: để đón nhận niềm vui và bình an của tin mừng sống lại, cần phải chấp nhận con đường khổ giá, con đường đau khổ và tự hiến như Đức Giêsu đã chấp nhận.
Khi đã chấp nhận con đường thập giá, người môn đệ sẽ đi vào mầu nhiệm vinh quang của phục sinh. Chính trong mầu nhiệm phục sinh này, người môn đệ sẽ đón nhận được món quà vô giá mà Đức Giêsu phục sinh trao tặng, đó là sự bình an đích thực. Ngày bước vào lịch sử nhân loại qua mầu nhiệm nhập thể, Đức Giêsu cũng đem đến cho người thiện tâm món quà từ trời cao là sự bình an, ngày Ngài sống lại trong vinh quang của Thiên Chúa, Ngài cũng đem món quà từ Thiên Chúa đến cho những ai đón nhận mầu nhiệm đó, là sự bình an. Có thể nói, sự bình an đích thực khác hẳn sự bình an của thế gian, ở thế gian, con người tìm sự bình an bằng quyền bính để được an thân, họ còn tìm sự bình an bằng của cải vật chất, để khỏi mất sĩ diện và được tung hô, được trân trọng, họ còn tìm sự bình an bằng cách luồn cúi trong xã hội, để được an toàn, để được bảo bọc. Còn sự bình an đích thực đến từ Thiên Chúa thì hoàn toàn ngược lại, đó là phải chấp nhận, phải đi qua con đường đau khổ của thập giá, phải chấp nhận từ bỏ chính mình, từ đây, họ sẽ được ngụp lặn trong sự bình an của Thiên Chúa qua mầu nhiệm phục sinh. Tất cả những giá trị của mầu nhiệm thập giá và mầu nhiệm phục sinh, đều đưa người tín hữu Kitô đến gần với Thiên Chúa và tha nhân, trong sự bình an đích thực của Thiên Chúa. Chính lúc đó, người tín hữu sẽ là một đốm sáng khởi đi từ cây nến phục sinh, đem hy vọng, đem bình an, đem hơi ấm tình người và đem sự sống vĩnh cửu đến cho tha nhân.
Mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu quả là một biến cố con người chưa thể lãnh hội hết được, dù đã xảy ra hơn 2000 năm. Cử hành Tam Nhật Thánh là những phút giây con người thực hiện lại những cử chỉ ngày xưa Đức Giêsu đã thực hiện, tuy đơn giản và dễ dàng, nhưng ý nghĩa của mỗi việc làm chất chứa đầy sự thánh thiêng tôn giáo. Người tín hữu hôm nay có nghĩ rằng, khi cùng nhau tham dự những ngày thánh thiêng này là lúc mình trở thành các môn đệ của Đức Giêsu, được tham dự tất cả các nghi thức, các cử chỉ và các biến cố của Thầy Chí Thánh không ? hay chỉ đơn thuần nghĩ rằng, tôi là người Công Giáo, tôi có bổn phận phải tham dự, nếu không, sẽ mang tội. Quả là một suy nghĩ thiếu niềm tin, thiếu đi một chút cố gắng trong việc học hỏi. Chắc rằng sự cố gắng học hỏi và tìm hiểu về ý nghĩa của các ngày lễ này, sẽ đưa mỗi người đến gần với chiều sâu tình yêu tự hiến của Thiên Chúa qua sự hiện diện của Người Con duy nhất là Đức Giêsu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã sống lại trong vinh quang của Chúa Cha, Ngài đã cho chúng con biết qua những dấu chỉ trên thân thể, qua sự hiện diện gần gũi của Ngài, xin cho niềm tin của chúng con được củng cố, được xác tín hơn và được lớn lên trong cuộc sống. Chúa đã trao tặng cho nhân loại món quà phục sinh là sự bình an đến từ Thiên Chúa, xin cho chúng con biết đón nhận món quà đó trong sự khiêm tốn của đức tin, và biết chia sẻ cho tha nhân, hầu giúp họ có thể tìm về với Chúa phục sinh đang hiện diện trong thế giới này. Amen.
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh