Chúa Nhật III Mùa Vọng – Năm A
Mt 11, 2-11
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật III Mùa Vọng – Năm A
Ca nhập lễ
Anh em hãy vui luôn trong Chúa! Tôi nhắc lại: Anh em hãy vui lên! Vì Chúa đã đến gần.
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Toàn bộ phụng vụ Lời Chúa hôm nay đều nói về Đấng sẽ đến. Bài đọc sách Tiên tri Isaia tiên báo về ngày của Đấng Thiên Sai “Bấy giờ người mù sẽ nhìn thấy, tai những người điếc sẽ được nghe và người què sẽ nhảy như nai” (Is.35,6). Thời của mùa xuân, mùa hoan lạc, mùa cứu độ “anh em hãy bền chí và vững tâm vì Chúa đã gần đến” (Jac.5,8), Thánh Giacôbê tông đồ đã khích lệ tín hữu như thế và Tin Mừng Thánh Mathêu lại trình bày thắc mắc của Gioan Tẩy Giả về căn tính của Đức Giêsu “Thầy có phải là Đấng phải đến chăng?’ (Mt. 11,3). Chúa Giêsu giải đáp cho ông và nhân đó Ngài nói lên quan niệm của Ngài về căn tính của Gioan tiền hô. Thánh Mathêu trình bày những điều trên nhằm giới thiệu Chúa Giêsu là Đấng phải đến, Ngài đã thực hiện điều mà Tiên tri Isaia đã nói.
Chúa Nhật thứ III Mùa Vọng này Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta làm chứng nhân cho Chúa giữa lòng thế giới. Vậy để có thể trở nên chứng nhân Tin Mừng, chúng ta hãy nghe lời mời gọi của thánh nhân mà thành tâm sám hối.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, này dân Chúa đem tất cả niềm tin đợi chờ ngày lễ Sinh Nhật Ðấng Cứu Thế. Xin hướng niềm vui chúng con về chính nguồn hoan lạc của mầu nhiệm Giáng Sinh cao cả để tâm hồn chúng con hoàn toàn đổi mới, mà họp mừng ngày cứu độ đã gần kề. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: Is 35, 1-6a. 10
“Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ chúng tôi”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng, và khen ngợi rằng: Ðã ban cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Carmel và Saron. Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa, và huy hoàng của Thiên Chúa chúng ta.
Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm cho tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi.
Bấy giờ mắt người mù sẽ nhìn thấy, và tai những người điếc sẽ được nghe. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, những người được Chúa cứu chuộc, sẽ trở về, và đến Sion với lời khen ngợi; và trên đầu họ mang hoan hỉ triền miên, họ sẽ được vui mừng khoái trá, họ sẽ không còn đau buồn; rên siết sẽ trốn xa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 145, 7. 8-9a. 9bc-10
Ðáp: Lạy Chúa, xin đến cứu độ chúng con (x. Is 35, 4).
Xướng: Thiên Chúa trả lại quyền lợi cho người bị áp bức, và ban cho những kẻ đói được cơm ăn. Thiên Chúa cứu gỡ những người tù tội. – Ðáp.
Xướng: Thiên Chúa mở mắt những kẻ đui mù; Thiên Chúa giải thoát những kẻ bị khòm lưng khuất phục. Thiên Chúa yêu quý các bậc hiền nhân; Thiên Chúa che chở những khách kiều cư.
Xướng: Thiên Chúa nâng đỡ những người mồ côi quả phụ, và làm rối loạn đường nẻo đứa ác nhân. Thiên Chúa sẽ làm vua tới muôn đời. Sion hỡi, Ðức Thiên Chúa của ngươi sẽ làm vua tự đời này sang đời khác.
Bài Ðọc II: Gc 5, 7-10
“Hãy vững lòng, vì Chúa gần đến”.
Trích thư Thánh Giacôbê Tông đồ.
Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu. Vậy anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến. Anh em đừng kêu trách lẫn nhau, để khỏi phải bị kết án. Này đây quan toà đã đứng trước cửa. Anh em hãy học gương kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ của các tiên tri, là những người đã nói nhân danh Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Is 61, 1 (x. Lc 4, 12)
Alleluia, alleluia! – Thánh Thần Chúa ngự trên tôi. Người đã sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 11, 2-11
“Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi một Ðấng nào khác?”
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: “Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?” Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Khi những người được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: “Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: “Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con”. Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông”.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Thánh Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa kêu gọi làm tiên tri, đồng thời làm vị Tiền Hô để dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Ông rất ý thức điều ấy, và đã hoàn thành nhiệm vụ một cách hoàn hảo. Chúng ta hãy noi gương Ngài và dâng lời nguyện xin:
1. “Chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi” – Xin cho các Mục tử khi giới thiệu Chúa Giêsu là chân lý cứu độ, thì chính các ngài phải là hiện thân của một Giêsu nhân từ.
2. “Anh em kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến” – Xin cho tín hữu biết kiên nhẫn và chịu đựng trong gian khổ, để có thể vượt qua mọi thử thách mà chờ đợi Chúa đến trong vinh quang.
3. “Phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi” – Xin cho giới trẻ biết rút kinh nghiệm của cha ông mà học hỏi, để ngay từ bây giờ họ sáng suốt nhận ra Chúa qua mọi biến cố của cuộc đời mà không bị vấp ngã vì Ngài.
4. “Người mù được sáng, người què đi được, người phong cùi được khỏi… Đó chính là Tin Mừng của việc Chúa đến. Xin cho giáo xứ chúng ta nhận ra Chúa hiện diện nơi anh em đau bệnh, tật nguyền để hân hoan phục vụ.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu là Đấng muôn dân mong đợi. Ngài đến để chia sẻ đến tận cùng thân phận kiếp người và đem niềm vui cho nhân loại. Xin cho chúng con trở nên giống Chúa, biết xắn tay áo để hàn gắn thế giới và quê hương chúng con còn quá nhiều thương đau. Và xin cho chúng con nên chứng nhân giữa lòng đời và làm chứng tá cho tình thương của Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng biết dâng lên Chúa lễ tế chứng tỏ lòng tôn kính mến yêu. Ước chi hy lễ này hoàn toàn thể hiện được ý muốn của Ðức Kitô khi lập bí tích Thánh Thể, là đem lại cho cả thế giới ơn cứu độ muôn đời. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng mùa vọng I
Ca hiệp lễ
Hãy nói vói những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Này Thiên Chúa chúng ta sẽ ngự đến cứu độ chúng ta.”
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa rất từ bi nhân hậu, chúng con nài xin Chúa cho bí tích Thánh Thể này thanh tẩy chúng con sạch vết nhơ tội lỗi, và chuẩn bị tâm hồn chúng con mừng những ngày đại lễ sắp tới. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
Vở kịch dang dở
Có một văn sĩ, khi chết đi, còn để lại trên bàn tập bản thảo của một vở kịch. Tất cả mới chỉ là khởi đầu, chuẩn bị cho nhân vật chính xuất hiện, còn nhân vật chính ấy như thế nào thì chưa một ai được biết.
Toàn bộ Cựu Ước cũng giống như một vở kịch còn dang dở kể trên, trong đó nhân vật chính chưa hề xuất hiện. Mọi người đều bàn tán, đều mong đợi Đấng Cứu Thế, nhưng tất cả mới chỉ là sự chuẩn bị mà thôi. Còn Đấng Cứu Thế như thế nào, thì chưa một ai được biết.
Từ bối cảnh này, chúng ta hãy nhìn ngắm khuôn mặt của Gioan Tiền Hô. Trên dòng sông Giođan có một khúc nước cạn, cách biển Chết không xa. Đây là chỗ dân chúng thường qua lại để buôn bán và trao đổi tin tức. Chính tại chỗ này, Gioan Tiền Hô đã rao giảng và rửa tội cho dân chúng. Dân chúng thắc mắc và tự hỏi: Ông là ai? Ông có phải là Đấng Cứu Thế muôn dân mong đợi hay không?
Và qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay Chúa Giêsu đã trả lời cho những câu hỏi này. Ngài nói với dân chúng: Gioan là người mà Kinh thánh đã đề cập đến: Ta sai sứ giả Ta đi trước Con để dọn đường cho Con. Ngài cũng trả lời một câu hỏi khác được các môn đệ cua Gioan đặt ra cho Ngài: Thầy có phải là Đấng sẽ đến hay chúng tôi còn pải đợi một Đấng nào khác?
Để trả lời cho vấn nạn này, Chúa Giêsu đã mượn lời tiên tri Isaia. Thực vậy, khi nói về Đấng Cứu Thế, Isaia đã đưa ra những dấu chỉ để mọi người nhận biết Ngài: Đó là người mù được thấy, kẻ què được đi, người điếc được nghe và kẻ câm sẽ reo vui. Chủ đích của Chúa Giêsu thực rõ ràng. Chính những phép lạ Ngài làm sẽ xác quyết Ngài là ai? Là Đấng Cứu Thế tiên tri Isaia đã loan báo. Ngài đến để thiết lập vương quốc của Ngài ở trần gian.
Tuy nhiên, như chúng ta đã biết: Vương quốc ấy đã được thiết lập rồi nhưng chưa hoàn tất. Ngài trao phó cho chúng ta tiếp nối công trình của Ngài, xây dựng và hoàn tất vương quốc của Ngài trên trần gian này. Vào ngày sau hết, Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét chúng ta về công việc này.
Hiện giờ chúng ta đang sống giữa hai biến cố: Việc Ngài giáng sinh và việc Ngài trở lại. Nhiệm vụ chúng ta không phải là ngồi chơi xơi nước mà phải xắn tay áo lên, dấn thân vào công việc Chúa đã trao phó, khi Ngài đến lần đầu trong lịch sử.
Nói một cách cụ thể hơn, đó là chúng ta phải xây dựng Nước Chúa trên trần gian, phải đem tình thương để xoá bỏ hận thù, phải đem chân lý thay cho sự giả dối, phải xây dựng cái thế giới hôm nay theo tinh thần của Chúa.
Đấng sẽ đến
Thầy có phải là Đấng sẽ đến hay không?
Như chúng ta đã biết, Gioan Tiền Hô vì lên tiếng chỉ trích Hêrôđê nên đã bị tống vào ngục. Từ thế giới tù đày, ông đã sai hai môn đệ thân tín đến gặp Chúa Giêsu và đưa ra câu hỏi: Thầy có phải là Đấng sẽ đến, hay là chúng tôi còn phải đợi một Đấng nào khác?
Câu hỏi này thoạt xem ra thì có vẻ vô lý và mâu thuẫn với sứ mạng tiền hô, với sứ mạng dọn đường của Gioan. Phải chăng ông đã chẳng long trọng giới thiệu Chúa Giêsu: Đây Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá tội trần gian đó sao? Phải chăng bên bờ sông Giođan ông đã chẳng xác quyết: Ngài phải rửa cho tôi chứ không phải là tôi rửa cho Ngài. Tôi không xứng đáng cúi xuống cởi dây giày cho Ngài? Rồi với những sự kiện lạ lùng sau khi Chúa Giêsu chịu phép rửa, với sự tỏ lộ đặc biệt của Chúa Thánh Thần, ông đã tin chắc Chúa Giêsu người Nadarét chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ những thế kỷ về trước. Vậy thì tại sao bây giờ ông lại nghi ngờ và phản lại những lời đã xác quyết? Theo tôi nghĩ vấn đề được đặt ra thật quan trọng. Quan trọng không phải cho bản thân của Gioan vì ông không hề nghi ngờ chi nữa, nhưng quan trọng cho các môn đệ của ông, bởi vì họ còn đang phân vân, lưỡng lự và chưa dứt khoát được lập lập trường đối với Chúa Giêsu. Ông tin chắc câu trả lời và những lý chứng của Chúa Giêsu sẽ là một thứ ánh sáng phán tan mọi thứ nghi ngờ còn đọng lại trong cõi lòng của họ. Thực vậy, những phép lạ Ngài làm là một lý chứng hùng hồn nhất về sứ mạng cứu thế của Ngài: Người mù được thấy, kẻ què được đi, người chết sống lại và những kẻ nghèo túng được loan báo Tin Mừng. Và sau đó Chúa Giêsu đã lên tiếng ca tụng Gioan Tiền hô.
Người Do Thái luôn trông chờ một Đấng Cứu thế. Còn chúng ta thì khác, chúng ta đã tin tưởng chắc chắn Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu thế được loan báo từ muôn ngàn thuở trước và chúng ta là những người đã Ngài được cứu chuộc. Ngài là Đấng chúng ta đặt trọn vẹn niềm cậy trông. Hãy kiên nhẫn trông đợi ngày Ngài trở lại. Không vội vàng, không hấp tấp. Hãy tin tưởng vào thời gian và sự quan phòng đầy yêu thương của Chúa trên những nẻo đường chúng ta đi.
Đức Thánh Cha Gioan XXIII thường nói: Chúng ta hãy tin tưởng vào thời gian bởi vì thời gian sẽ sắp đặt mọi sự. Nó sẽ giúp chúng ta nhìn rõ bàn tay yêu thương của Chúa, cũng như giúp chúng ta gặt hái được những thành quả tốt đẹp. Chân lý này đã được thực hiện trong chính cuộc đời của ngài. Với tính tình hiền hoà và đôn hậu người ta tưởng rằng ngài sẽ chẳng làm được những việc phi thường trên ngôi giáo hoàng. Thế nhưng Chúa đã dùng ngài để hướng dẫn Giáo Hội. Chính ngài đã quyết định triệu tập Công đồng Vatican II và đã thổi vào Giáo Hội một tinh thần, một luồng sinh khí mới.
Thánh Giacôbê tông đồ cũng đã khuyên nhủ chúng ta: Anh em hãy kiên nhẫn trông chờ ngày Chúa đến. Như người nông phu kiên nhẫn trông chờ những giọt nước mưa, và hoa màu của đồng ruộng. Anh em cũng hãy bền chí và vững tâm vì Chúa đã gần đến.
Thánh Vincentê luôn cảnh giác chúng ta: Đừng hấp tấp vội vã vì đó là mưu mô của ma quỷ, lừa dối những người thiện chí để rồi cuối cùng chẳng làm được gì cả. Để kết luận chúng ta hãy nhớ tới lời Chúa: Ai kiên tâm và bền chí đến cùng thì sẽ được cứu thoát.
Dung mạo Đức Kitô
ĐTGM. Jos Ngô Quang Kiệt
Thánh Gioan Tiền Hô là một vị tiên tri cương trực. Ngài không hề run sợ trước thế lực, cường quyền. Ngài chỉ quan tâm một điều: làm chứng cho chân lý. Khi Hêrôđê Antipas cướp vợ của người anh, thánh nhân đã không ngần ngại lên tiếng công kích hành động vô luân của nhà vua. Vì thế mà thánh nhân bị bắt giam trong ngục Machéronte. Khi bị giam trong ngục, thánh nhân vẫn theo dõi những hoạt động của Chúa Giêsu. Hôm nay thánh nhân sai môn đệ đến hỏi Chúa Giêsu một câu hỏi gây ngỡ ngàng cho ta: “Ngài có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải chờ đợi một Đấng khác?”.
Thật lạ lùng đến khó hiểu. Người đi mở đường, người giới thiệu Đấng Cứu Thế nay lại nghi ngờ Người mà mình giới thiệu. Đó là bi kịch của thánh Gioan Tiền Hô. Câu hỏi cho thấy thánh nhân ở trong một tâm trạng hoang mang. Đức tin của ngài chao đảo. Nửa tin nửa ngờ.
Sự hoang mang của thánh Gioan Tiền Hô đến do hai nguyên nhân sau:
1) Nguyên nhân thứ nhất: Chúa Giêsu có những việc làm khác với lời Gioan loan báo.
Thánh Gioan Tiền Hô đã loan báo một Đấng Cứu Thế uy nghiêm, đến để trừng phạt nhân loại. Trong Phúc Âm tuần trước, thánh nhân đã răn đe người Do Thái: Búa rìu đã để sẵn ở gốc cây, cây nào không sinh trái sẽ bị đốn cho vào lò lửa. Thiên Chúa đến cầm sàng mà rê thóc. Thóc sẽ được cho vào kho, còn rơm, trấu sẽ bị cho vào lò lửa đốt đi. Sứ điệp quả thật là dữ dội, bởi loan báo ấy đã gây xôn xao sợ hãi. Thế mà khi Chúa Giêsu đến, Người đã hành động khác hẳn. Không oai phong, quyền lực, Chúa Giêsu tỏ ra là Đấng Cứu Thế tràn đầy lòng nhân từ: “Người không bẻ gẫy cây lau bị dập, không dập tắt tim đèn còn khói”. Gioan Tiền Hô loan báo sự trừng phạt. Nhưng Chúa Giêsu lại đến để cứu chữa, tha thứ. Chúa Giêsu nói: “Con người đến không phải để lên án, nhưng để cứu chữa”. “Chỉ những người bệnh mới cần đến thầy thuốc”. Thật là trái ngược. Trách nào Gioan chẳng hoang mang.
2) Nguyên nhân thứ hai: Gioan bị giam trong tù.
Ông bị ngược đãi, tất nhiên. Hơn nữa ông cảm thấy mình thất bại. Đi rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công. Đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Hết rồi những sứ điệp rực lửa. Hết rồi thời hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Sao Đấng Cứu Thế không đến giải thoát mình? Sao Ngài để cho sứ giả của Ngài mòn mỏi trong tù? Sao Ngài để cho bạn hữu bị khinh miệt cười chê? Lời sấm của Isaia còn rành rành: “Đấng Cứu Thế sẽ mở cửa phóng thích tù nhân”. Thế mà sao chờ đợi hoài chẳng thấy. Và Gioan nghi ngờ: hay Ngài không phải là Đấng Cứu Thế. Bị giam cầm, bị ngược đãi, Gioan còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Ông e sợ mình đã lầm đường, lầm người. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Chúa Giêsu: “Ngài có phải là Đấng Cứu Thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Đấng khác?” Câu hỏi táo bạo nhưng quan trọng, vì quyết định cả ý nghĩa cuộc đời Gioan.
Trước câu hỏi ấy, Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp. Nhưng chỉ yêu cầu các sứ giả về thuật cho Gioan những việc Ngài làm: “Cho kẻ mù xem thấy, kẻ què đi được, người cùi lành lặn, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng”.
Với câu trả lời ấy, Chúa Giêsu nhắc Gioan nhớ lại lời sấm của Isaia về Đấng Cứu Thế. Đồng thời cũng thanh luyện cái nhìn của ông về dung mạo Đấng Cứu Thế.
Đấng Cứu Thế không phải là vị vua oai phong từ trời ngự xuống trên đám mây. Nhưng chỉ là một hài nhi bé nhỏ sơ sinh xuất hiện giữa loài người như một mầm cây bé bỏng.
Đấng Cứu Thế không phải là vị vua sang trọng ngự trong cung điện nguy nga. Nhưng chỉ là anh thợ mộc nghèo hèn sống trong một làng quê hẻo lánh.
Đấng Cứu Thế không phải là vị quan tòa oai nghiêm hét ra lửa, thở ra khói. Nhưng chỉ là một lương y hiền từ đến chữa lành những vết thương, an ủi những ưu sầu, nâng đỡ người yếu đuối, tha thứ kẻ tội lỗi.
Đấng Cứu Thế không đến trong vinh quang huy hoàng, trong chiến thắng rực rỡ. Nhưng chỉ âm thầm và tình nghĩa như một người bạn thân thiết.
Đấng Cứu Thế không đến trong hàng ngũ những người quý phái có địa vị cao trọng trong xã hội. Nhưng lui tới với những người bé nhỏ nghèo hèn, những thành phần bị gạt ra bên lề xã hội.
Câu trả lời của Chúa Giêsu khiến tôi tỉnh ngộ. Chúa Giêsu đã cho tôi một hình ảnh trung thực về dung mạo Đấng Cứu Thế. Qua câu trả lời đó, Chúa Giêsu cũng muốn nói với tôi rằng: Nếu con muốn Giáo Hội là hình ảnh đích thực nguyên tuyền của Thày, con hãy xây dựng một Giáo Hội không quyền lực, không tiền bạc, không phô trương. Hãy làm cho Giáo Hội mang dung mạo của Thày: một dung mạo khiêm tốn, nghèo hèn, bình dị, thân ái và nhân từ. Nếu con muốn tiếp tục sứ mạng của Thày, hãy chạy trốn quyền lực, hãy sợ hãi tiền bạc, hãy tránh thói phô trương. Hãy yêu thích những việc âm thầm bé nhỏ. Trước hết hãy đến với những người nghèo hèn. Hãy bắt đầu bằng tình thương. Vì chỉ có tình thương mới cứu được thế giới.
Ta đang chờ đón Chúa đến. Hãy cảnh giác. Chúa không đến trong một biến cố kinh thiên động địa. Chúa không có những pha biểu diễn ngoạn mục. Chúa không đến trong những thành công rực rỡ. Chúa không đến trong uy tín hay quyền lực. Chúa sẽ chỉ đến rất âm thầm, bé nhỏ nhưng đầm ấm tình người. Chúa sẽ đến trong một bàn tay kín đáo nâng đỡ. Chúa sẽ đến trong một nụ cười khích lệ. Chúa sẽ đến trong một cái bắt tay thân ái. Chúa đến chỉ thoáng qua. Nơi nào có dấu hiệu của tình thương, nơi đó đang vẽ nên dung mạo của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhận ra dung mạo đích thực của Chúa, để con biết đón tiếp Chúa trong Mùa Giáng Sinh năm nay. Amen.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1) Đức Thánh Cha đã khiêm nhường xin lỗi Trung Quốc. Bạn nghĩ sao về cử chỉ này? Cử chỉ của Đức Thánh Cha có làm tổn thương đến uy tín của Giáo Hội không?
2) Bạn muốn một Giáo Hội yêu thương phục vụ hay một Giáo Hội cai trị quyền uy?
3) Bạn nghĩ gì về những lầm lỗi trong Giáo Hội?
4) Bạn phải làm gì để làm chứng cho Chúa. Bằng những việc lớn lao hay bằng những việc nhỏ bé hằng ngày?
Chúa nhật thứ ba Mùa Vọng
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 11, 2-11).
Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: “Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?” Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”.
Khi những người được sai đến đã đi rồi, Chúa Giêsu liền nói với đám đông về Gioan rằng: “Các ngươi đi xem gì ở hoang địa? Một cây sậy phất phơ trước gió ư? Vậy các ngươi đi xem gì? Một người ăn mặc lả lướt ư? Nhưng những người ăn mặc lả lướt thì ở nơi cung điện nhà vua. Vậy các ngươi đi xem gì? Một tiên tri ư? Phải, Ta bảo các ngươi, và còn hơn một tiên tri nữa. Vì có lời chép về ông rằng: “Này Ta sai sứ thần Ta đi trước mặt con, để dọn đường sẵn cho con”. Ta bảo thật các ngươi, trong các con cái người nữ sinh ra, chưa từng xuất hiện một ai cao trọng hơn Gioan Tẩy Giả; nhưng người nhỏ nhất trong nước trời còn cao trọng hơn ông”.
Suy niệm
Màu hồng được coi là biểu tượng của tình yêu, của niềm hy vọng và niềm vui. Chúa nhật thứ ba Mùa vọng được gọi là chúa nhật màu hồng, Chúa nhật của niềm vui và hy vọng, niềm vui bởi Đấng Cứu Thế đang đến gần, Ngài đem đến cho dân Ngài một luồng gió mới, một sức sống mới và một tinh thần mới; hy vọng bởi sự hiện diện của Ngài là sự hiện diện của một Thiên Chúa đã giữ lời hứa cứu độ và lời hứa ấy đang dần hiện thực giữa một thế giới bị bao phủ bởi sự u ám của tội lỗi và sự chết. Phụng vụ Lời Chúa tuần lễ thứ ba này mời cộng đoàn hướng về một niềm vui đặc biệt, là hãy chuẩn bị đón Con Thiên Chúa làm người và sẽ ở lại với con người. Ngài ở đó để tái thiết lại dân riêng của Ngài, Ngài hiện diện ở đó để cùng với con người tiến về quê hương đích thực của mình là Nước Trời.
Sống giữa một thế giới dân ngoại, người Do-thái luôn bị tác động với những trào lưu vô thần và thực dụng, vì thế, đời sống tôn giáo của họ đã khoác lên một màu áo mới của thế tục và u ám, vì thế, Thiên Chúa đã sai tiên tri Isaia đi trước, loan báo về một triều đại của Thiên Chúa, một triều đại không còn lệ thuộc vào những yếu tố trần thế, đó là một triều đại đua nở hoa công chính và ngập tràn niềm vui: “Nơi hoang địa cằn cỗi sẽ vui mừng, cõi tịch liêu sẽ hân hoan, và nở bông dường như khóm huệ, sẽ nảy chồi non và hoan hỉ vui mừng, và khen ngợi rằng: Ðã ban cho Israel được vinh quang của xứ Liban, huy hoàng của Car-mel và Sa-ron. Chính chúng sẽ nhìn thấy vinh quang của Chúa, và huy hoàng của Thiên Chúa chúng ta. Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm cho tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi! Kìa Thiên Chúa các ngươi sẽ đem lại điều báo ứng; chính Thiên Chúa sẽ đến và cứu độ các ngươi”. Không chỉ cứu độ, nhưng Thiên Chúa còn đem đến cho dân Ngài một niềm vinh dự khi có sự hiện diện của Thiên Chúa giữa cộng đoàn. Thiên Chúa đã cúi xuống và đồng hành với con người, vậy con người có đủ can đảm, thu dọn một ngôi nhà ấm áp và đủ rộng cho Thiên Chúa ở lại và chia sẻ với con người mỗi ngày trong từng biến cố và ơn gọi của mỗi người không?
Với trọng trách là người chủ chăn, thánh Giacobe đã khuyên bảo con cái mình hãy kiên nhẫn đợi chờ Thiên Chúa đến, đừng vì một lý do nào mà xao nhãng, bởi hàng ngày, con người phải đối diện với muôn vàn lời mời gọi đường mật và hấp dẫn, tất cả làm cho con người quên đi bổn phận của mình: “Anh em hãy kiên nhẫn chờ ngày Chúa đến. Kìa xem người nông phu trông đợi hoa màu quý báu của đồng ruộng, kiên nhẫn đợi chờ mưa xuân và mưa thu. Vậy anh em hãy bền chí và vững tâm, vì Chúa đã gần đến”. Người nông dân dù chỉ đợi chờ công khó của mình từ hoa lợi ruộng vườn, nhưng họ luôn kiên nhẫn chờ cơn mưa đầu mùa cho tới cơn mưa cuối mùa. Họ đã được đón nhận hoa trái từ ruộng vườn, người tín hữu Kitô hãy bắt chước họ, kiên nhẫn đợi chờ Thiên Chúa đem ơn cứu độ, đem niềm vui và hy vọng tới, dẫu chưa thể biết rõ ngày nào giờ nào Ngài sẽ đến. Thiên Chúa sẽ đến trong vinh quang và quyền năng của Ngài.
Dù được sai đến trong vai trò ngôn sứ và là người dọn đường cho Đấng Cứu Thế, nhưng thánh Gioan Tẩy giả hơi nghi hoặc về sự xuất hiện của một con người được gọi là Đấng Cứu Thế. Hình ảnh của Đấng Cứu Thế trong suy nghĩ của thánh Gioan sẽ là một Đấng đầy quyền năng, hiện đến trong uy nghi sáng láng, Ngài sẽ thay đổi bộ mặt thế giới, đặc biệt là giải phóng dân Do-thái, cho họ một thời kỳ tự do, thế nhưng, thánh nhân lại bắt gặp một chàng thanh niên vô danh tiểu tốt, sống trong một gia đình tầm thường. Chẳng lẽ đó là Đấng Cứu Thế sao? Một thoáng hoài nghi về hình ảnh Đấng Cứu Độ con người: “Khi ấy, Gioan ở trong ngục nghe nói về các việc làm của Chúa Kitô. Ông sai môn đệ đến thưa Ngài rằng: “Thầy có phải là Ðấng phải đến chăng, hay chúng tôi còn phải đợi Ðấng nào khác?” Chúa Giêsu bảo họ: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó; và phúc cho ai không vấp ngã vì Ta”. Ông có phải là Đấng phải đến, hay chúng tôi còn phải đợi một Đấng khác? Dù trước khi vào tù, thánh Gioan đã loan báo về một Đấng Cứu Thế đầy quyền năng, thế nhưng, trong tù ông chờ đợi sự xuất hiện của Đấng sẽ giải thoát ông, nhưng không thấy. Sự hoài nghi về Đấng Cứu Thế đã làm cho niềm tin của ông bị lung lay.
Được sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế, thánh Gioan đã nói lên tiếng nói của sự thật, đã làm chứng cho chân lý và chấp nhận tù tội vì những giá trị tin mừng. Trong tù, ông đợi một người đến giải thoát đó là Đấng Cứu Thế, người mà ông biết rằng đã xuất hiện. Đợi mãi đợi hoài không thấy, ông nảy sinh sự nghi ngờ về Đấng Cứu Thế, Ngài là ai? Lúc bình thường, yên lành, con người cảm thấy được Thiên Chúa ôm ấp trong vòng tay, nhưng khi đau ốm, bệnh tật, nghèo đói, bị xã hội loại trừ, bị hiểu lầm vì lòng tốt, bị kết án vì tôn giáo, bị tù tội vì nói lên tiếng nói của sự thật, của chân lý, liệu rằng lúc đó niềm tin của con người có thực sự bình lặng hay sẽ bị lung lay dao động, bởi lúc đó, Thiên Chúa sao nín lặng trước những bất công, những đau khổ và những oan sai vì tin mừng, vì sự thật. Tại sao Ngài không xuất hiện để giải phóng con người, để đẩy xa những bất công trong cuộc sống. Là con người, ai cũng có những phút giây như thế, ai cũng giống như thánh Gioan Tẩy giả vậy, để có thể vượt qua được những khoảng lặng đó, cần có một thái độ sám hối tích cực, để đón nhận sự xuất hiện của Đấng Cứu Thế.
Sau khi nghe các môn đệ của mình trình bày những gì họ nghe Đấng Cứu Thế nói, thánh Gioan đã chấp nhận sự thật cho cuộc đời mình, chấp nhận cả cái chết vì những giá trị của tin mừng. Để có được phần phúc đó, thánh nhân đã làm một cuộc sám hối thực sự, đó là thay đổi nhận thức và hình ảnh Thiên Chúa, hình ảnh Đấng Cứu Thế trong suy nghĩ của mình. Chính thái độ tích cực trong tinh thần sám hối đó, thánh nhân đã trở nên sứ giả không chỉ cho mầu nhiệm nhập thể, nhưng còn là sứ giả của mầu nhiệm thập giá sau này của Đức Giêsu Kitô. Thái độ sám hối của thánh nhân sẽ là một bài học cho các tín hữu Kitô hôm nay. Trước một xã hội đầy những đổi thay, không thiếu những quan niệm đối nghịch với tôn giáo hay những giá trị thuần phong mỹ tục, người tín hữu rất cần thiết phải thay đổi hình ảnh Thiên Chúa trong nhận thức và trong thái độ sống của mình. Có mạnh dạn thay đổi như thế, người tín hữu mới có thể chấp nhận một Thiên Chúa đem đến cho con người sự bình an trong tâm hồn, sự bình an của tình thương, chứ không phải là một vị Thiên Chúa chỉ đến để giải phóng khỏi tù tội, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền trong cuộc đời.
Thánh Gioan Tẩy giả đã trải qua những đêm tối đức tin trong cuộc đời, chỉ đến khi nghe Đức Giêsu nói về sứ điệp của Ngài, thánh nhân mới chấp nhận một Thiên Chúa đến trần gian, không phải để giải thoát khỏi án oan tù tội, hay để chữa bệnh tật, nhưng Ngài đến để thiết lập một vương quốc của tình thương trong tâm hồn mỗi người. Thiên Chúa sẽ hiện diện trong vương quốc đó, kiến tạo một sự bình an dựa trên những giá trị tin mừng, để người tín hữu đó trở nên nhịp cầu cho Đấng Cứu Thế vào đời, đem mọi người trở về với Thiên Chúa Cha, Đấng yêu thương con người bằng một tình yêu muôn thuở. Mỗi ngày, Đấng Cứu Thế vẫn đợi chờ con người hoán đổi tâm hồn, để Ngài đi vào ngôi nhà tâm hồn và ở lại với con người.
Lạy Chúa Giêsu, sự hiện diện của Ngài không làm thay đổi thể chế chính trị hay kinh tế của thế giới, nhưng là thay đổi thái độ sống và khuôn mặt của Thiên Chúa trong cuộc đời mỗi người, xin giúp chúng con luôn cố gắng làm mới khuôn mặt của Đấng Cứu Thế, để mỗi người và mọi người luôn được gặp Ngài, luôn được ngụp lặn trong tình yêu thương của Thiên Chúa Cha qua mầu nhiệm nhập thể của người Con yêu dấu. Xin giúp chúng con cố gắng loại bỏ bớt những hoài nghi về Thiên Chúa trong hành trình đức tin, để chúng con can đảm tuyên xưng một Thiên Chúa tình yêu đang hiện diện với con cái của Ngài giữa cuộc đời. Amen.
ĐÊM TỐI CỦA ĐỨC TIN ẤY LÀ KIẾP NGƯỜI
(Chúa Nhật III Mùa Vọng A) Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Dữ kiện “đêm tối đức tin” có lẽ là chuyện thường tình trong cuộc đời của nhiều vị thánh như thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu, Têrêxa Avila hay thánh Gioan Thánh Giá và gần đây thông tin cho hay rằng nó hiện diện cả trong cuộc đời của mẹ Têrêxa Calcutta. Và dù rằng được chúc phúc vì đã tin nhưng ngay cả Mẹ Maria cũng không tránh được những thời điểm hay giai đoạn phải lần bước trong đêm tối.
Bài trích Tin Mừng theo thánh Matthêu của Chúa Nhật III mùa Vọng năm A mà Hội Thánh giới thiệu cho chúng ta một cách nào đó nói đến đêm tối đức tin của thánh Gioan Tẩy giả. Ý thức mình được kêu gọi làm tiếng hô trong sa mạc để dọn đường cho Đấng Cứu Thế, Gioan Tẩy Giả nhiệt thành, hăng say mời gọi mọi người, mọi thành phần dân Chúa xưa sám hối ăn năn. Dân chúng tuôn đến với Ngài trên bờ sông Giođan nhiều khôn xiết. Dân nghèo hay người thất học có đó. Kẻ giàu sang hay người quyền quý cũng không thiếu. Người thu thuế hay binh lính vẫn có mặt. Thậm chí đến các vị đang được xem là đạo đức như người biệt phái hay các vị tinh thông lời Chúa như các luật sĩ vẫn hiện diện. Tất cả dường như nghe theo lời khuyên bảo của Gioan, cho dù Ngài thỉnh thoảng nói với họ những lời chói tai, khó nghe.
Mình chỉ là người dọn đường, người tiền hô cho Đấng Cứu Thế. Và kìa, Đấng Cứu Thế, Con Chiên Thiên Chúa, Đấng gánh tội trần gian đã đến. Đã như xong phận vụ, giờ thì cần Người phải lớn lên còn mình thì phải nhỏ lại (x.Ga 3, 30). Người mà lớn lên thì triều đại nước Thiên Chúa sẽ hiển trị. Và chắc chắn nhiều sự sẽ có đổi thay, dĩ nhiên là theo hướng tốt đẹp, đặc biệt những gì Ngôn Sứ Isaia loan báo sẽ trở thành hiện thực. Mình đã thấy Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên Người. Chắc chắn Người sẽ “loan báo tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, giập nát, giải thoát những kẻ bị giam cầm…” (x.Is 61, 1-2). Thế mà cớ sao mình vẫn mãi chịu cảnh chôn chân trong bốn bức tường ngục tù? Không lẽ Đấng Cứu Thế lại thua một bạo vương Hêrôđê? Ngài có phải là Đấng phải đến chăng, hay mình còn phải đợi Đấng nào khác? Không được gặp trực tiếp với Người thì mình đành nhờ các môn đệ gửi lời nhắn hỏi.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà chú giải Thánh Kinh hiện nay, chính Gioan cũng đã phải trải qua sa mạc đức tin. Quả vậy, nhiều khi vì quá lo bảo vệ sự tinh tuyền của đức tin của Gioan Tẩy giả nên nhiều nhà tu đức đã từng cắt nghĩa rằng thánh nhân tận dụng dịp thuận tiện để củng cố đức tin cho các môn đồ. Không thể tiên thiên loại trừ giả thiết này. Tuy nhiên nhiều khi vì quá lo chuyện bao đồng mà ta vô tình hay hữu ý lãng quên một hiện thực của kiếp người. Đang còn lữ thứ trần gian thì chúng ta mãi vẫn còn thấy cách “lờ mờ” về các thực tại. Và đêm tối đức tin là một sự thật luôn tồn tại với kiếp người trần gian khó có thể chối cãi.
Vào trần gian, mang lấy kiếp người Đức Kitô cũng không là ngoại lệ cho dù Người là Con Chiên tinh tuyền, vẹn sạch. Cơn xao xuyến bồi hồi của Chúa Giêsu là rất thật. Máu của Người đã rỉ ra theo các tuyến mồ hôi không phải là kiểu nói phóng đại. “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15, 34). Những lời than thở của Người trên cây thập giá, phút giây hấp hối minh chứng cho ta sự thật này: Dù là Con Thiên Chúa, Đức Giêsu Kitô vẫn phải trải qua nhiều thử thách. Dù luôn tín thác vào Cha nhưng Người cũng đã trải qua những đau khổ, một cách nào đó giống như những cuộc thử thách đức tin mà chúng ta phải chịu.
Trong số các Tông đồ thì dường như thánh tông đồ dân ngoại là người chịu thử thách lớn lao hơn cả. Hăng say, nhiệt tình loan báo tin mừng thế mà số phận của Ngài thật lắm truân chuyên: “năm lần bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu; một đêm một ngày lênh đênh trên biển khơi.” (2Cor 11, 24-25). Ngục tù là nơi thường đón đợi thánh nhân. Những khó khăn bên ngoài do hoàn cảnh, do tha nhân mà Ngài phải chịu thì đã đành, thế mà ngay cả cái dằm trong thân xác của Ngài cũng chẳng để Ngài yên. Thánh Phaolô cảm nghiệm rằng Chúa không để ta chịu thử thách quá sức đâu. Ơn Người luôn đủ cho ta. Và ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu độ.
Hãy bền chí trong gian truân và kiên nhẫn trong đêm tối, rồi Chúa sẽ đến cứu thoát chúng ta. Đây là những lời động viên của thánh Giacôbê tông đồ, qua bài đọc thứ hai (x.Gc 5, 7-10), đã nói với đoàn tín hữu thời sơ khai cũng như với chúng ta mọi thời.
Tuy nhiên, Thiên Chúa lại muốn bày tỏ sự hiện diện của Người qua con người, qua chính chúng ta. “Hãy làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, và hãy làm tăng sức những đầu gối mỏi mòn. Phải nói cho những người nhát đảm rằng: Hãy can đảm lên, đừng sợ hãi” (Is 35, 3-4). Làm sao để nâng đỡ tinh thần những người đang chao đảo? Làm sao giúp họ thêm vững tin vào Chúa Kitô là Đấng Thiên sai mà Thánh Kinh đã loan báo? Tiên tri Isaia đã phác họa những việc làm cụ thể của đấng Thiên sai bằng những hình ảnh: “người mù sẽ thấy; người điếc sẽ được nghe và người què sẽ nhảy như nai” (Is 35, 5-6).
Trước sự chao đảo của Gioan Tiền Hô, Chúa Kitô cũng đã nhắn gửi các môn đệ ông rằng: “Hãy về thuật lại cho Gioan những gì các ông nghe và thấy: người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe, người chết sống lại, và tin mừng được loan báo cho kẻ nghèo khó” (Mt 11, 5).
Đức Kitô đã thắng thế gian, nhưng cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn, nghĩa là chưa chấm dứt nơi con cái loài người. Thần dữ và những kẻ đồng minh với nó vẫn đang ra sức hoạt động, hòng làm lung lay niềm tin chúng ta. Với sự công phá của thế lực đen tối, không ít Kitô hữu hôm nay như mất phương hướng. Thậm chí có người dám tuyên bố là đã đến thời kỳ hậu Kitô giáo. Thiết nghĩ không gì hơn là kiên trì thực thi những dấu chỉ của Nước Trời: Loan báo tin mừng cho người nghèo khó, băng bó những tâm hồn đau thương, làm cho người câm nói được, người què lại nhảy như nai… Chính khi ta góp phần với Chúa một tay dù là bé nhỏ để làm cho mạnh mẽ những bàn tay rời rã, làm tăng sức cho những đầu gối mỏi mòn thì chúng ta lại được vững vàng và mạnh mẽ trong đức tin. Trong tình yêu, có nhiều điều như nghịch lý mà rất hiện thực, như lời thánh Phanxicô Axidi trong lời “Kinh hòa bình”. Quả thật, chính khi trao ban là lúc lãnh nhận và chắc chắn sẽ lãnh nhận gấp muôn ngàn lần.
CHÚA NHẬT 3 MÙA VỌNG, NĂM A
THAY ĐỔI CÁCH NHÌN VỀ ĐẤNG CỨU THẾ
– Giuse hạt bụi tro
Kính thưa cộng đoàn, hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật thứ 3 Mùa Vọng – Chúa nhật Hồng. Cha chủ tế mặc áo màu hồng, chứ không phải màu tím như những ngày khác. Điều đó muốn nói rằng chúng ta đã đi quá nửa chẳng đường của Mùa Vọng, ngày Thiên Chúa đến cứu độ đã gần hơn trước kia. Vì thế, hãy vui lên, phấn khởi lên.
Hãy vui lên là sứ điệp mà Isaia, trong bài đọc 1, muốn loan báo với chúng ta: “Vui lên nào, hỡi sa mạc và đồng khô cỏ cháy, vùng đất hoang vu, hãy mừng rỡ trổ bông. Hãy tưng bừng nở hoa như khóm huệ, và hân hoan múa nhảy reo hò. Vì Thiên Chúa của anh em đây rồi. Sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công luận tội.”
Gioan tẩy giả, cũng loan báo một sứ điệp tương tự như thế. Trong bài Tin mừng Chúa nhật tuần trước, chúng ta nghe Gioan dõng dạt tuyên bố rằng: Đấng cứu thế sẽ đến là một vị thẩm phán công minh. Ngày Người đến là một ngày kinh hoàng đối với những kẻ gian ác. Cái rìu đã đặt dưới gốc cây, ai không tốt thì Người chặt đi. Người cầm nia trên tay, lúa nào không chắc thì người quăng vào lửa mà đốt đi.
Tuy nhiên, khi Chúa Giêsu đến, Gioan tẩy giả đã thất vọng. Thất vọng vì ông chẳng thấy có gì kinh hoàng như ông đã loan báo. Thật trớ trêu! Ông là vị tiền hô mở đường giới thiệu Đấng cứu thế cho người khác, mà giờ đây, chính ông lại thất vọng về người mình đã giới thiệu. Ông hoang mang. Đức tin bị chao đảo.
Ông hoang mang là phải thôi, vì Chúa Giêsu chẳng làm những việc như ông đã loan báo. Ngài hiền lành và khiêm nhường. Ngài không đến để luận phạt nhưng để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất. Ngài không đến để kêu gọi những người công chính, nhưng là kêu gọi những người tội lỗi. Ngài không đến để được hầu hạ, nhưng để phục vụ và thí mạng sống mình cho người khác. Ngài đến để cứu sống, chứ không giết chết và loại trừ.
Từ sự thất vọng, Gioan cảm thấy mình đã thất bại: Ði rao giảng sự công chính nhưng chỉ gặp bất công, đi rao giảng ơn giải thoát nhưng lại bị giam cầm. Còn đâu những sứ điệp rực lửa. Còn đâu những ngày hy vọng tràn đầy. Thê thảm hơn nữa, ông tự hỏi: Tại sao Ðấng Cứu Thế không đến giải thoát ông? Sao Người để cho sứ giả của Người mòn mỏi trong tù?
Từ sự thất vọng - thất bại, Gioan nghi ngờ: có lẽ ông Giêsu này không phải là Ðấng Cứu Thế. Chúa cứu thế gì lạ vậy! Chẳng như ông mong đợi gì hết. Bị giam cầm, bị ngược đãi, ông còn có thể chịu được. Nhưng mối nghi ngờ gặm nhấm, thiêu đốt tâm hồn ông. Không nén lòng được, ông đã sai môn đệ đến hỏi thẳng Ðức Giêsu: “Ngài có thật là Ðấng Cứu thế, hay chúng tôi phải chờ đợi một Ðấng nào khác?”
Chúa Giêsu không trả lời, ngay và luôn, cho các môn đệ của Gioan rằng Ngài là Đấng cứu thế. Nhưng Ngài đã trích dẫn Kinh thánh, và còn chứng minh bằng những việc làm cụ thể: người mù được thấy, kẻ què đi được, người cùi được lành lặn, kẻ điếc nghe được, người chết sống lại. Tất cả những việc làm đó đều là những dấu hiệu khi Đấng cứu thế xuất hiện. Bản văn Tin mừng không cho biết phản hồi của Gioan sau khi nghe câu trả lời của Chúa Giêsu. Có lẽ chúng ta không cần biết điều đó. Bởi vì, câu trả lời bây giờ nằm trong chính tâm tư và cách sống Đạo của chúng ta.
Cộng đoàn thân mến, bản văn Tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta thay đổi cách nhìn và cách nghĩ về Chúa Giêsu, Đấng cứu thế của chúng ta. Bao lâu chúng ta còn mong đợi một vị Chúa cứu thế quyền uy sáng láng, thích loại trừ như kiểu của Gioan tẩy giả và dân Do Thái, thì chúng ta sẽ chỉ thất vọng mà thôi. Họ mong đợi một đấng cứu thế tái lập vương quyền và vinh quang cho Israel, thì Chúa Giêsu chỉ mải mê tìm kiếm và yêu thương những người bé nhỏ, nghèo khó, bị bỏ rơi... Bạn của Chúa là những người đui mù, què quặt, câm điếc, phong hủi, thu thuế, tội lỗi... Những người bị xã hội loại trừ thì Chúa lại chẳng chê bỏ một ai.
Lắm khi trong cuộc sống, chúng ta hoang mang. Đức tin bị chao đảo như Gioan tẩy giả. Chúng ta thất vọng và nghi ngờ: có lẽ Chúa Giêsu không phải là Ðấng Cứu Thế của chúng ta. Chúa gì lạ vậy! Chúa gì chẳng như con mong muốn gì hết. Chẳng làm theo ý con cầu xin. Con đau khổ, bệnh tật, làm ăn thất bại, nợ nần chồng chất, con cái hư hỏng, học hành thi cử không như ý muốn, tình duyên lận đận... Con kêu cầu. Chúa ở đâu, sao không giải thoát con? Chúa ở đâu, sao không trả lời con?
Chúng ta có kêu gào cả ngàn năm thì cũng chỉ gặp sự thinh lặng mà thôi. Tuy nhiên, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng tìm kiếm câu trả lời trực tiếp ngay và luôn cho mọi vấn đề của chúng ta, nhưng hãy nhìn vào con người và cách sống của Ngài, thì chúng ta sẽ có câu trả lời.
Khi đến trần gian, Chúa Giêsu không hề tìm kiếm đau khổ, cũng không dẹp bỏ nó ra khỏi trần gian. Tuy nhiên, khi đối diện với đau khổ, Ngài không hề lẩn trốn, mà anh dũng đương đầu với tất cả niềm tin và tình yêu trong trái tim của Ngài. Ngài muốn chia sẻ mọi kinh nghiệm đau thương nhất của phận người như chúng ta. Ngài không yêu thương chúng ta cách nửa vời. Ngài không chỉ muốn nếm thử đau khổ một tí cho biết, rồi thôi, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang Thiên Chúa, để trở nên giống phàm nhân mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi.
Như thế, Con Thiên Chúa đã đảm nhận trọn vẹn cuộc sống con người như chúng ta, nếm trải đủ mọi kinh nghiệm đau khổ, thất bại, bệnh tật, bị phản bội, bị chối bỏ, bị sỉ nhục, và bị chết đau thương. Ngài không kêu la oán trách Thiên Chúa hay bất cứ ai lấy một lời. Thử hỏi, có ai trong chúng ta nếm đủ mọi kinh nghiệm đau khổ như Chúa Giêsu không? Chúa không kêu trách ai lấy một lời, thì chúng ta cũng không nên kêu trách Chúa và người khác. Đau khổ cũng như không khí bao quanh chúng ta. Còn sống thì còn đau khổ. Vậy thôi!
Chúa Giêsu đến trần gian không phải để tiêu diệt đau khổ, nhưng để đau khổ với chúng ta. Ngài đến trần gian không phải để loại bỏ thập giá, nhưng để nằm lên đó thay cho chúng ta. Ngài đã nếm trải đủ mọi đau khổ và mang tới cho nó một ý nghĩa, bằng thái độ chấp nhận nó vì tình yêu, vì người khác. Nhờ đó, những đau khổ của Ngài có giá trị cứu độ. Một cách tương tự, nếu chúng ta học theo Chúa Giêsu, thì những đau khổ của chúng ta cũng có giá trị cứu độ cho chúng ta.
Ước gì mỗi người trong chúng ta tìm được ý nghĩa của những đau khổ, hy sinh và vất vả trong đời sống mình đang gánh chịu là vì ai: vì mình, vợ chồng, con cái, người thân của mình; Hay cao cả hơn, con chấp nhận mọi thứ vì Chúa, vì con yêu Chúa và muốn nên giống Chúa. Phần thưởng của chúng ta sẽ là chính Chúa, chứ không phải bất cứ sự gì mau qua của thế gian này.
Xin Chúa cho chúng ta cảm nhận được Thiên Chúa yêu thương và gần gũi chúng ta, đặc biệt trong những lúc gặp khó khăn đau khổ. Cảm nhận được một chút thôi đã đủ rồi, vì tình Ngài một chút cũng đủ vui một đời. Tôi có đang cảm thấy Chúa yêu tôi không?