Chúa Nhật III Phục Sinh -Năm A
Lc 24, 13-35
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật III Phục Sinh -Năm A
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Chúa Kitô sống lại, Ngài khải hoàn vinh hiển, mở lại cửa Thiên Đàng cho nhân loại. Qua cái chết khổ nhục rồi được sống lại Ngài dậy chúng ta tín thác vào Ngài. Khi thật sự tín thác vào Ngài, chúng ta sẽ vui sống, tin tưởng đặt trọn tương lai vào Ngài. Ngài đặt trong tâm hồn chúng ta lòng ao ước được chia sẻ sự sống vĩnh cửu với Ngài. Hai môn đệ trên đường Emmau hôm nay, đang buồn chán nhưng khi có Chúa đồng hành và được nghe Ngài giao huấn, tâm hồn các ông đã bừng nóng lên, dầu chưa nhận ra Ngài vì mắt các ông còn bị che phủ. Trong cuộc sống của chúng ta, tội lỗi cũng làm che phủ con mắt đức tin, nên nhiều khi chúng ta cũng chán nản khi gặp những thất bại, đau khổ … Giờ đây chúng ta cử hành mầu nhiệm Chúa chịu chết và Phục Sinh, vậy để niềm tin Phục Sinh ngự trong lòng chúng ta.
Ca nhập lễ
Toàn thể đất nước hãy reo mừng Thiên Chúa, hãy ca ngượi vinh quang danh Người, hãy kính dâng Người lời khen ngợi hiển vinh – Alleluia.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Chúa đã làm cho tâm hồn chúng con tươi trẻ lại, và chan chứa niềm vui vì được làm con Chúa. Xin cho chúng con hằng giữ mãi niềm vui Chúa ban, và nắm chắc hy vọng được phục sinh vinh hiển. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: Cv 2, 14. 22-28
“Không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong cõi chết”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Hỡi các người Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng nghe lời tôi! Hỡi những người Israel, hãy nghe những lời này: Ðức Giêsu Nadarét là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ diệu và những phép lạ mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh em, như chính anh em đã biết. Theo như Thiên Chúa đã định và biết trước, Người đã bị nộp, và anh em đã dùng tay những kẻ độc ác mà hành hạ rồi giết đi. Sau khi bẻ gãy xiềng xích tử thần, Thiên Chúa đã giải thoát Người khỏi những đau khổ của cõi chết mà cho Người phục sinh, vì không thể nào để cho Người bị cầm giữ trong đó. Vì chưng Ðavít đã nói về Người rằng: ‘Tôi hằng chiêm ngưỡng Chúa trước mặt tôi, vì Người ở bên hữu tôi, để tôi không nao núng. Vì thế, lòng tôi hân hoan, miệng lưỡi tôi hát mừng, và xác tôi yên nghỉ trong niềm cậy trông: vì Chúa không để linh hồn tôi trong cõi chết, và không để Ðấng Thánh của Chúa thấy sự hư nát. Chúa đã cho tôi biết con đường sự sống và cho tôi đầy hân hoan tận hưởng nhan thánh Chúa'”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: “Ngài là chúa tể con, Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con”.
Xướng: Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng.
Xướng: Bởi thế lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy sự hư nát.
Xướng: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa tới muôn muôn đời! – Ðáp.
Bài Ðọc II: 1 Pr 1, 17-21
“Anh em được cứu độ bằng Máu châu báu của Ðức Kitô, Con Chiên tinh tuyền”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, nếu anh em gọi Người là Cha, Ðấng không thiên vị ai khi xét đoán mỗi người theo việc họ làm, thì anh em hãy sống trong sự kính sợ suốt thời anh em còn lưu trên đất khách. Anh em biết rằng không phải bằng vàng bạc hay hư nát mà anh em đã được cứu chuộc khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền, nhưng bằng máu châu báu của Ðức Kitô, Con Chiên tinh tuyền, không tì ố. Người đã được tiền định trước khi tác thành vũ trụ và được tỏ bày trong thời sau hết vì anh em. Nhờ Người, anh em tin vào Thiên Chúa, Ðấng làm cho Người sống lại từ cõi chết, và ban vinh quang cho Người để anh em đặt cả lòng tin và niềm hy vọng nơi Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia
Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa Giêsu, xin giải thích cho chúng con những lời Thánh Kinh; xin làm cho tâm hồn chúng con sốt sắng khi nghe Chúa nói với chúng con. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Lc 24, 13-35
“Hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” Một người tên là Clêophas trả lời: “Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”. Chúa hỏi: “Việc gì thế?” Các ông thưa: “Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp”.
Bấy giờ Người bảo họ: “Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn”. Người liền vào với các ông.
Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: “Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon”. Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa Kitô Phục Sinh đang hiện diện giữa chúng ta khi chúng ta cử hành Lời Chúa và Thánh Thể. Kết hợp với Người chúng ta dâng lên Chúa Cha những lời cầu nguyện.
1. Nhờ được nuôi dưỡng bởi Lời Chúa và Thánh Thể, xin cho Tin Mừng Phục Sinh thúc bách mọi người trong Hội Thánh, biết nhiệt thành loan báo Đức Giêsu Phục Sinh.
2. Xin cho Tin Mừng Phục Sinh trở nên nguồn sức mạnh cho những ai đang xây dựng sự hòa bình và hòa giải.
3. Xin cho Tin Mừng Phục Sinh trở nên nguồn an ủi và can đảm cho những ai đang thất vọng, sầu khổ, cô đơn và bệnh tật, để họ có thể vượt qua thử thách.
4. Xin cho Tin Mừng Phục Sinh giúp mọi người trong cộng đoàn chúng ta biết đón tiếp những người xa lạ với tình người và bác ái.
Chủ tế: Lạy Chúa, khi chúng con thất vọng thì Chúa ủi an. Khi chúng con gặp thử thách thì Chúa nâng đỡ. Xin ở lại với chúng con trong chiều tối của cuộc lữ hành trần gian và dẫn đưa chúng con đến bình minh rực rỡ là vinh quang Phục Sinh của Con Chúa. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Chúa đã ban cho Giáo Hội được niềm vui khôn tả; giờ đây xin vui lòng chấp nhận của lễ Giáo Hội đang hoan hỷ dâng lên và ban cho chúng con được hưởng nhờ hiệu quả là hạnh phúc muôn đời. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng Phục Sinh
Ca hiệp lễ
Các môn đệ đã nhận ra Chúa Giêsu khi Người bẻ bánh – Alleluia.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, xin ghé mắt nhân từ nhìn đến chúng con là đoàn dân của Chúa. Nhờ mầu nhiệm Vượt Qua, Chúa đã cho tâm hồn chúng con được hoàn toàn đổi mới, xin cho cả thân xác yếu hèn của chúng con đây mai sau cũng được sống lại vinh hiển và hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
NHẬN RA CHÚA LÀ ĐIỀU QUAN TRỌNG
CHÚA NHẬT THỨ 3 PHỤC SINH, NĂM A
(Cv 2,14.22- 28; Pr 1,17- 21; Lc 24,13- 35)
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP
Ở đời, người ta thường có câu: “Lửa thử vàng, gian nan thử sức”. Trong đời sống đức tin cũng vậy, nếu chỉ tin khi thuận buồm xuôi gió, hoặc có lợi cho mình thì thật dễ. Tuy nhiên, tin cả khi mây mù dày đặc, tức là tin cả những lúc không thuận với ý ta thì đây mới là đức tin mang tính trưởng thành.
Hôm nay, bài Tin Mừng thuật lại sự kiện Đức Giêsu hiện ra với hai môn đệ trên đường Emmau khi các ông đang trở về quê vì sự thất vọng qua cái cái chết của Thầy. Họ chán trường, hoang mang vì đã tin vào một Đức Giêsu bị thất bại và kết cục cuộc đời lại bị treo trên thập giá như một tử tội. Tuy nhiên, Đức Giêsu phục sinh đã làm cho các ông bừng sáng lên niềm hy vọng và can đảm tuyên xưng cũng như loan truyền về Ngài cho anh chị em…
Vậy, đâu là điều mà các môn đệ nhận ra Ngài, tin theo và loan truyền?
1. Các ông đã nhận ra Đức Giêsu
Hai môn đệ đang trên đường trở về quê, các ông bước đi trên đôi chân rã rời vì mệt mỏi, cộng thêm tinh thần thất vọng vì đã đặt nhầm niềm tin vào Đức Giêsu! Thật vậy, các ông vừa đi vừa bàn chuyện, nhưng không phải là chuyện làm ăn, buôn bán, lao động, giao thương…, hay chuyện gia đình, mà bàn về chuyện một con người, con người đó là chính Đức Giêsu. Câu chuyện được khởi đi từ một tinh thần buồn bã của các ông.
Thấu hiểu tâm can các môn đệ, Đức Giêsu đã hiện đến và hỏi: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” (Lc 24, 17), họ trả lời: “Chuyện ông Giêsu Nadarét. Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24, 19-20).
Đức Giêsu đã đi bước trước để đến với hai môn đệ, nhưng họ vẫn không nhận ra Ngài. Vẫn trong vai trò là người chủ động, nên Ngài cùng bộ hành với các ông và bắt đầu giải thích cho các ông hiểu về Đấng Mêsia, Ngài nói: “Các anh chẳng hiểu gì cả! Lòng trí các anh thật là chậm tin vào lời các ngôn sứ! Nào Ðấng Kitô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? Rồi bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh” (Lc 24, 25-27).
Đức Giêsu đã trao đổi về vai trò của người Tôi Trung đau khổ, đến để hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa Cha trong vai trò Thiên Sai, đồng thời, Ngài cũng giúp cho họ hiểu rằng: con đường cứu độ là con đường đau khổ, phải qua đó thì mới bước vào vinh quang.
Đức Giêsu còn đang nói, thì trời đã về chiều, nhưng lòng các môn đệ đã ấm lên và vẫn muốn nghe lời Ngài giải thích. Tuy nhiên, dù muốn nghe nữa, các ông cũng không thể, vì ngày đã ngả bóng hoàng hôn và đêm đã về, nên hai ông đã mời Đức Giêsu ở lại với mình. Ngài đã đồng ý, và Người Bộ Hành này đã ngồi vào bàn ăn, vẫn các cử chỉ quen thuộc là cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các ông. Chính vì vậy mà họ đã nhận ra Ngài. Nhưng cũng chính ngay lúc này, họ không còn được thấy Ngài cách thể lý nữa, vì Ngài đã biến mất. Điều này cho thấy, từ nay, Đức Giêsu sẽ hiện diện trong hành động Bí tích.
2. Đức Giêsu là Đấng giải phóng con người cách toàn diện trên bình diện ân sủng
Khi đọc lại bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy niềm hy vọng của các môn đệ, cũng như các Tông đồ và nhiều người Dothái thời bấy giờ là mong muốn một vị Cứu Tinh quyền uy lẫy lừng, đánh đông dẹp bắc, giải phóng dân tộc bằng quyền lực của sức mạnh, binh đao… Họ không thể tin vào một vị Thiên Chúa mà lại bị thất bại ê chề trong tay người phàm qua cái chết tủi nhục đắng cay như vậy, nên các ông đã cảm thán khi được Đức Giêsu hỏi chuyện, trong tâm trạng vô vọng, họ đã thốt lên: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giêrusalem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay” (Lc 24, 18). Ngài hỏi tiếp: “Chuyện gì vậy?” và họ đã cảm phiền: “Người là một ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá” (Lc 24, 19-20). Thực ra lời nói này mang đầy tính thất vọng. Họ đã không hiểu nổi sứ vụ Thiên Sai của Ngài, nên trước đó, họ trách khéo Người Khách Lạ này xem ra có vẻ vô tâm, vô tình nên không hay biết chuyện mới xảy ra…, nhưng giờ đây, Đức Giêsu đã khiển trách họ khờ dại và không hiểu biết gì…
Như vậy, Đức Giêsu đã giúp cho họ một lần nữa đi xa hơn về lộ trình cứu độ của Thiên Chúa. Ngài không giải thoát con người theo thiển ý của họ, nhưng Ngài giải phóng con người trên bình diện ân sủng, đó là: giải thoát con người khỏi tội lỗi, biết sống công bằng, chia sẻ bác ái và yêu thương hết mọi người, kể cả kẻ thù… để thế giới này chỉ có một Thiên Chúa là Cha và mọi người có nhau là anh em… Đây mới là sự giải phóng toàn diện của Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Khi nhận ra cốt lõi của mầu nhiệm cứu chuộc nơi Đức Giêsu, ngay lập tức, các ông đã can đảm, hăng say trỗi dậy, trở lại Giêrusalem để loan tin vui mừng này cho các Tông đồ đang còn ở lại nơi đây.
Nguyên nhân để có một thái độ đặc biệt này là họ đã hiểu được Đức Giêsu qua việc Ngài giải thích Thánh Kinh và nhận ra Ngài lúc Ngài bẻ bánh.
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Bài Tin Mừng hôm nay được dàn trải cách tiệm tiến: bắt đầu là việc thông tri sự kiện; thứ đến là được Đức Giêsu giải thích; và, cuối cùng là họ nhận ra Ngài rồi lên đường loan truyền Tin Mừng Phục Sinh, Tin Mừng tình thương của Đức Giêsu cho mọi người…
Như vậy, sứ điệp Lời Chúa hôm nay nhắn gửi chúng ta rằng:
Trước tiên, muốn hiểu, tin và sống mầu nhiệm phục sinh của Đức Giêsu thì cần phải loại bỏ sự thất vọng. Hãy tin tưởng trong sự đơn sơ, không bám víu vào những triết lý cao siêu, nhưng sẵn sàng lắng nghe Lời Chúa và để cho Lời của Ngài hướng dẫn, từ đó ta sẽ được biến đổi hầu trở nên chứng nhân của Ngài.
Thứ đến, hãy tin tưởng vào Chúa ngay trong những thất bại của cuộc đời, vì Ngài luôn có mặt và đồng hành với chúng ta như Ngài đã đồng hành với hai môn đệ trên đường Emmau. Hãy gắn bó với Giáo Hội của Đức Giêsu, mặc cho phong ba bão táp; mặc cho những phần tử trong Giáo Hội có những chuyện chẳng hay, thì Giáo Hội Chúa vẫn còn và không ngừng hướng tới sự thánh thiện cũng như là trung gian để thông chuyển ơn cứu độ của Chúa đến với muôn dân.
Tiếp theo, hãy yêu mến Thánh Kinh, vì đây chính là sự hiện diện của Chúa cách đặc biệt. Nếu các môn đệ không được Đức Giêsu hiện ra để giải thích Thánh Kinh cho họ, chắc họ đã không có cơ hội để nhận ra Chúa. Vì thế, chúng ta muốn trở nên nghĩa thiết với Chúa thì phải yêu mến, đọc, học và siêng năng suy gẫm Lời Ngài, vì đây là kho tàng mặc khải trọn vẹn và phong phú mà Thiên Chúa dành cho con người. Có thế, chúng ta mới hy vọng nhận ra Ngài và can đảm, hăng say lên đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết đặt niềm hy vọng vào Ngài là Đấng đã Phục Sinh. Luôn yêu mến và gắn bó với Chúa. Sẵn sàng làm chứng cho Chúa khi đã nhận ra Chúa. Amen.
GIẢI ĐÁP CỦA ĐẤNG PHỤC SINH
Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, bẻ ra trao cho họ, mắt họ mở ra và họ nhận ra Người… Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24, 30-32)
Suy niệm: Đức Ki-tô Phục Sinh xuất hiện trên đường như một lữ khách. Người đã giải thích cuộc đời mình dưới ánh sáng Kinh Thánh. Việc duyệt lại đời Ngài giúp hai môn đệ Em-mau duyệt lại đời mình. “Lòng ta đã chẳng bừng cháy khi nghe Người giải thích Kinh thánh trên đường chiều đó sao?” Qua cuộc đàm thoại và chuyến hội ngộ bên quán trọ chiều hôm ấy, với những cử chỉ thân quen của Chúa “cầm lấy bánh bẻ ra”, họ đã nhận ra người đã chết nay là Đấng hằng sống. Tháng ngày quá khứ dường như đã chết của họ nay lại hồi sinh. Chỉ khi nhận ra Chúa Phục sinh, cuộc đời mới trở thành niềm vui.
Mời Bạn: Đức Ki-tô vẫn luôn hiện diện Người đồng hành với chúng ta trên khắp nẻo đường đời. Hãy đọc cho ra mặc khải Chúa trong Thánh Kinh, sẽ thấy lửa đức tin bừng sáng lên, dù có xuôi vạn lý, cũng không thấy đường đời đơn côi. Đức tin không phải là một mớ kiến thức học được trong sách vở, nhưng là cuộc gặp gỡ cá vị và trực tiếp với Đức Ki-tô. Lời Chúa làm đảo lộn tâm hồn, Thánh Thể giúp ta tiếp nhận sự sống đời đời của Đấng Phục Sinh.
Chia sẻ: Bạn đã giúp gia đình bạn cầu nguyện và sống lời Chúa thế nào?
Sống Lời Chúa: Kiên trì đọc Lời Chúa mỗi ngày và xin cho Lời Chúa biến đổi giúp bạn bỏ đi một tính xấu.
Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin cho con luôn biết lắng nghe Lời Chúa, vì Lời Chúa là sức sống đời con, là ánh sáng đời con, là đường để con hằng đi tới. Amen.
Chúa nhật thứ ba phục sinh -A
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 24, 13-35).
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” Một người tên là Clêophas trả lời: “Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”. Chúa hỏi: “Việc gì thế?” Các ông thưa: “Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật, đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp”.
Bấy giờ Người bảo họ: “Ôi kẻ khờ dại chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?” Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn”. Người liền vào với các ông.
Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: “Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta, khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?” Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Họ bảo hai ông: “Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon”. Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Suy niệm
Có niềm vui nào lớn lao và vỡ òa, cho bằng niềm vui của các học trò được gặp lại Thầy sau một biến cố kinh hoàng, Thầy đã bị kết án và bị treo trên thập giá, thế mà hôm nay, Thầy đứng bên cạnh mọi người, Thầy xuất hiện trên từng cây số với những anh em thất vọng, hoài nghi về những gì Thầy đã nói trước. Ngay cả những người chưa chấp nhận sự thật đó, Thầy đã cho đặt ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn. Quả thực là niềm vui ngập tràn mọi tâm hồn. Chúa nhật thứ ba phục sinh, mỗi người được mời nghe thánh Luca thuật lại cuộc trò chuyện giữa Đức Giêsu phục sinh với các học trò, trên đường họ trở về nhà, trở về với công việc, trong một tâm trạng buồn chán, thất vọng ê chề, đau khổ trong tâm hồn, mọi thứ được kỳ vọng, nay như chấm dứt tất cả.
Thầy mất, các anh em quây quần bên nhau, nương tựa lẫn nhau để động viên vượt qua nỗi sợ hãi trong tâm hồn cũng như bên ngoài, Thầy xuất hiện, ban bình an, chúc lành và cho anh em kiểm chứng về con người của Ngài. Thầy là Đấng đã sống với anh em, đã bị kết án và bị đóng đinh trên thập giá, và hôm nay, Thầy đứng đây, bên cạnh anh em là một người. Anh em đừng sợ, hãy can đảm loan truyền tin vui này cho thế giới. Thế là các Tông đồ như được tiếp lửa cho sứ vụ, như được đón nhận nguồn năng lượng cho niềm tin, can đảm đứng lên, mở cửa phòng, loan báo tin vui cho thế giới. Thánh Phêrô đã khởi đầu sứ vụ với bài giảng thật hùng hồn, khai sinh một Giáo hội đầy sức sống Thánh Thần: “Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Hỡi các người Do-thái và tất cả những ai ở Giêrusalem, xin hãy biết điều này và lắng nghe lời tôi! Hỡi những người Israel, hãy nghe những lời này: Ðức Giêsu Nadarét là người đã được Thiên Chúa chứng nhận giữa anh em bằng những việc vĩ đại, những điều kỳ diệu và những phép lạ mà Thiên Chúa đã dùng Người để thực hiện giữa anh em, như chính anh em đã biết”. Các Tông đồ đã được gặp Chúa phục sinh, đồng thời, các ông cho Ngài sống lại trong trái tim, khối óc và lòng mến của các ngài, do đó, một niềm tin mãnh liệt thôi thúc các ngài làm chứng cho mầu nhiệm phục sinh với lời chứng đến từ những gì mắt thấy tai nghe của các Tông đồ.
Mỗi ngày, các Tông đồ như tìm thấy con đường đi sâu vào mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa, Ngài cứu độ con người bởi con người có một giá trị đặc biệt trước mặt Thiên Chúa. Thánh Phêrô đã bộc bạch tâm tình đó, trong lá thư mục vụ gởi cho các cộng đoàn giáo hội sơ khai, qua lá thư, vị thủ lãnh Giáo hội nhắc nhở con cái, hãy ý thức tính siêu việt của một con người, có như thế nào, Thiên Chúa mới sai người Con đến cứu thoát, và cho được sống trong sự tự do của Thiên Chúa: “Anh em biết rằng không phải bằng vàng bạc hay hư nát mà anh em đã được cứu chuộc khỏi nếp sống phù phiếm tổ truyền, nhưng bằng máu châu báu của Ðức Kitô, Con Chiên tinh tuyền, không tì ố”. Máu chiên bò thời Cựu ước còn xóa bỏ tội lỗi của con người được, thế thì máu châu báu của Con Thiên Chúa không thể đưa con người tiến lên một tầm cao mới, một giá trị mới được sao? Chính máu châu báu đó, giúp con người nhận ra mình là một tạo vật mang trong tim và trong con người, hình ảnh Thiên Chúa, và Thiên Chúa muốn mời gọi con người hãy giới thiệu khuôn mặt và hình ảnh của Ngài cho thế giới hôm nay, giúp họ tìm thấy giá trị của một con người.
Hai môn đệ buồn rầu, rời bỏ cộng đoàn, rời bỏ anh em, trở về với những sinh hoạt cũ, những công việc cũ, tâm hồn bấn loạn, tinh thần bi quan, đôi mắt bị che phủ bởi bao lắng lo giữa dòng đời. Trong tâm thế nặng nề, Chúa phục sinh hiện ra, đồng hành với các ông trên một hành trình dài, giúp họ mở trí, mở mắt và mở trái tim: “Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: “Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?” Một người tên là Clêophas trả lời: “Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay”. Những lo lắng hiện tại, những trở ngại trong cuộc sống, làm cho đôi mắt họ tăm tối, trí khôn họ như khép lại, trái tim như đông đặc, tất cả như bế tắc, người bạn đồng hành đã khai trí, mở trái tim, đánh thức niềm tin, giúp họ nhận ra những giá trị thực của hiện tại, đặc biệt nhận ra sự hiện diện của Chúa phục sinh với những cử chỉ rất thân thương và đầy tình yêu mến.
Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Những bế tắc trong niềm hy vọng, những lo lắng cho tương lai bị vùi lấp, những định kiến về tôn giáo, về truyền thống, về thái độ sống đạo, đang che phủ đôi mắt của hai ông, và có thể cả chúng ta hôm nay. Khi đôi mắt tinh thần bị che phủ, làm sao nhận ra được những giá trị tinh thần đến từ tôn giáo, làm sao nhận ra được sự khác biệt giữa thế giới đầy ảo giác hôm nay, với thế giới của mầu nhiệm phục sinh. Quá kỳ vọng vào tương lai mà Thầy sẽ đem lại cho mỗi người, nên hai ông càng thất vọng nhiều khi Thầy đã chết. Cũng vậy, người tín hữu hôm nay quá kỳ vọng vào Thiên Chúa sẽ đáp ứng mọi nhu cầu của tôi trong từng ngày, Giáo hội qua Giáo xứ và các mục tử, sẽ đáp ứng tất cả những gì tôi cần cho phút giây hiện tại, mà quên rằng đi tìm Đức Giêsu phục sinh, là mong Ngài hiện diện để chia sẻ và hướng dẫn tôi đi trên con đường của Ngài hướng dẫn, cách tự tin mà mạnh mẽ. Khi mọi thứ không được toại nguyện, hai ông thất vọng bỏ tương lai, trở lại với quá khứ, đó cũng là trào lưu của những người thích truyền thống, thích được nâng niu và mang vác trên vai, không dám đi trên đôi chân của mình, không dám cộng tác với Chúa Thánh Thần, để xây dựng Giáo hội và hoàn thiện bản thân, chỉ biết dựa dẫm và yêu sách mọi thứ theo bản năng tự nhiên của con người, không biết sử dụng phút giây hiện tại Chúa ban cho.
Thế nhưng, còn một chút niềm vui khi hai ông biết chấp nhận cái hữu hạn của mình, mời vị khách bộ hành ghé lại nhà cùng chia sẻ chút tình người, vị khách đó đã đáp lời. Những lời chia sẻ từ vị khách bộ hành, khởi đi từ Kinh thánh, từ những gì đã được báo trước, giúp khai trí phần nào cho hai ông, khai tâm là lúc các ông biết Thầy dạy sự thật, để rồi ra đi theo Thầy, nhưng hôm nay, các ông mới được khai trí, để các ông mạnh dạn dành một chỗ nhất trong trái tim cho Thầy, Đấng đã chết và đã sống lại. Trước một xã hội đầy những cạm bẩy, người tín hữu có đủ can đảm để mời một vị khách, ghé thăm gia đình và ở lại với mỗi người không? Khi con người dám mở lòng, mở trí, họ sẽ được chia sẻ, được khám phá những chiều kích sâu thẳm của tình người, tình huynh đệ cộng đoàn, đặc biệt là tình yêu phục sinh của Đức Giêsu. Nơi đó, họ còn nhận ra những cử chỉ rất thân thương, đã một lần nào đó Thầy thực hiện qua việc trao cho tôi những miếng bánh ấm áp tình Thầy trò, và hôm nay Thầy đang thực hiện như thế.
Lạy Chúa, tâm trí và đôi mắt chúng con nhiều lúc còn bị che khuất, để rồi những giá trị tinh thần, đem lại niềm vui và ơn cứu độ cho con người, chúng con không nhận ra, xin Chúa phục sinh mở tâm hồn và đôi mắt mỗi người, để chúng con nhận ra những giá trị lớn lao của tình yêu phục sinh đến từ Thiên Chúa Cha. Chúa đã trao cho hai môn đệ miếng bánh tình người, để rồi từ cử chỉ thân thương đó, các ông nhận ra Thầy đã sống lại, xin Chúa dùng Lời của Chúa và bí tích Thánh Thể mỗi ngày, như là dấu chỉ cho chúng con nhận ra chiều sâu thánh thiêng của mầu nhiệm phục sinh, nơi đó, lòng thương xót của Thiên Chúa, luôn là mạch suối ân sủng tuôn đến mọi tâm hồn chúng con. Amen.
HÀNH TRÌNH EMMAU
(Chúa Nhật III Phục Sinh) Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa - Ban Mê Thuột
Câu chuyên hai môn đệ trên đường đi Emmau thường được biểu trưng hành trình đức tin của Kitô hữu. Nói đến hành trình đức tin của Kitô hữu thì chúng không thể không nói đến một hành vi thờ phượng đỉnh cao trong Phụng Vụ là các buổi cử hành Thánh Thể hay còn gọi là Thánh Lễ. Dõi theo chân hai môn đệ năm xưa, xin được chia sẻ đôi tâm tình.
1. Các cơn giông tố hay những thách đố của cuộc đời:
Hai môn đệ chán chường, mỏi mệt, rời Giêrusalem về quê cũ, Emmau. Thế là hết. Hết mọi hy vọng về một vương triều mới dưới sự lãnh đạo của Thầy Giêsu. Tất cả như vô vọng. Còn gì để mong khi xác Người đã nằm im bất động ngay trong huyệt lạnh. Một vài tin đồn khá giật gân từ miệng các phụ nữ. Ôi, phụ nữ! Ôi đàn bà! Thời nào chẳng vậy, từ không thành có cũng thường do các bà dựng nên. Chẳng còn lý do gì để lưu lại chốn kinh thành. Thôi đành về quê xưa, mang lại cảnh kiếp “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”.
Hành trình đức tin Kitô hữu hôm nay và mọi thời, hẳn không thiếu những thì, những lúc, thấy mình chơi vơi, lạc hướng. Niềm tin đã nhiều lần chao đảo trước bao thử thách, cam go và cảnh hẩm hiu của số phận. Hình như Chúa bỏ tôi hay là Chúa có hiện hữu chăng? Nếu thực có Người và Người đang sống thì tình người sẽ không như thế và cuộc đời sẽ không như vậy. Bao ngang trái vẫn dẫy đầy. Người ngay gặp cảnh dữ, kẻ ác lại gặp vận may. Đâu phải là chuyện họa hiếm, mà trái lại, nó đang nhan nhản thật khó chối cãi. Đôi lần và đã nhiều lần, bản thân tôi và cả bậc thánh nhân như muốn buông xuôi. Cứ mặc dòng đời trôi. Người ta sao, mình vậy. Anh hùng làm gì cho thiệt thân. Sao lại phải vất vả bơi ngược dòng cho khác người?
2. Tình yêu luôn cần đó một lời mời:
Một đôi khi đến Nhà Thờ nghe Lời Chúa, nghe giảng dạy, lòng cũng nóng lên như hai môn đệ đi Emmau ngày nào. Quyết tâm ăn năn: không thiếu. Quyết tâm thay đổi: có nhiều. Nhưng rồi, ra khỏi Nhà Thờ, về với cuộc sống đời thường thì đâu lại hoàn đấy. Ánh sáng của Lời Chúa vừa le lói: “có qua đau khổ mới đến vinh quang” chợt vụt tắt. Hết lưỡng lự lại phân vân và rồi không thắng nổi cái sức ì của kiếp nhân sinh.
Ta có ngờ đâu, như xưa với hai môn đệ đi Emmau, Chúa Kitô Phục Sinh mãi đang đồng hành bên ta. Không nhận ra Người cũng là điều dễ hiểu. Tại mắt đức tin ta mờ tối hay lòng ta đang nặng trĩu muôn sự đời? Dẫu gì đi nữa thì Người chẳng để ta đơn côi. “Thầy ở lại với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20). Người vẫn đang đồng hành với ta khi vui cũng như lúc buồn, lúc chán chường cũng như khi hân hoan vui sướng. Người đang đợi ta. Người đang chờ ta. Tình yêu luôn mở ngỏ với một lời mời.
3. Chuyện nghịch lý của tình yêu:
May thay, hai môn đệ đi Emmau đã mở lời nài ép người khách lạ vào quán trọ dùng bữa, qua đêm. Một nghĩa cử bình thường của tình nhân loại, thế thôi, nhưng cũng đủ thành duyên cớ để Chúa Kitô lưu lại cùng hai ngài và tái diễn các hành vi của Bữa Tiệc Thánh. Thiên Chúa chẳng hề bỏ qua một nghĩa cử nào của ta, dù là bé nhỏ, để bắt đầu một cuộc gặp gỡ. Này Ta đứng ngoài cửa mà gõ. Ai mở cửa thì Ta sẽ vào dùng bữa với họ (x. Kh 3, 20).
Chuyện nghịch lý đã xảy ra. Khi chủ mời khách dự tiệc đời thì khách lại trao ban cho chủ lương thực bởi trời. Vị khách lạ cầm lấy bánh bẻ ra, trao cho hai môn đệ. Khách chủ đổi ngôi. Tình yêu quả thật kỳ diệu. Chính khi trao ban là lúc lãnh nhận. Càng chia sẻ thì càng có thêm nhiều. Nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh là một hạnh phúc không gì so sánh.
4. Tình yêu là để thông chia chứ không phải để độc chiếm:
Vừa nhận ra Thầy Chí Thánh, Thầy vụt biến mất. Hạnh phúc là điều cần phải dệt xây chứ không phải để hưởng thụ. Ai càng cố nắm giữ thì sẽ mất. Hiểu được điều này, hai môn đệ vội vàng trở về Giêrusalem ngay giữa đêm khuya báo tin cho anh em. Tình yêu, hạnh phúc thúc bách ta cần chia sẻ, dù lúc trời nắng nhẹ hay giữa đêm khuya lạnh giá. Gặp gỡ, hiệp thông với đấng Phục Sinh để rồi chia sẻ cho tha nhân những gì mình đã lãnh nhận.
Loan báo Tin Mừng là một hệ luận tất yếu của người đã nhận hồng ân, được cảm nhận Chúa Phục Sinh. Gian truân, bắt bớ, tù đày chẳng hề ngăn được bước chân các tông đồ, các môn đệ. Vừa được giải thoát khỏi tù ngục, các tông đồ đã lại hiên ngang rao giảng tại Đền Thờ (x.Cvtđ 5, 17-26).
5. Thánh Lễ: một hành trình Emmau.
Người ta dễ dàng nhận ra bản trình thuật của Thánh Sử Luca về chuyện hai môn đệ đi làng Emmau được cấu trúc như tiến trình của Thánh Lễ gồm hai phần chính là Phụng Vụ Lời Chúa và Phụng Vụ Thánh Thể. Mỗi ngày đầu tuần tức là ngày Chúa Nhật, Kitô hữu tiên khởi quy tụ lại để họp mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh. Truyền thống của Hội Thánh từ xưa đến nay đều mừng Chúa Phục Sinh trong ngày Chúa Nhật, kể cả trong các mùa đặc biệt như mùa Vọng và mùa Chay.
Thật đẹp thay cứ mỗi tuần chúng ta họp nhau ít là một lần vào ngày Chúa Nhật để dâng lên Chúa mọi bao vui buồn sướng khổ của đời ta. Không một ai là khách lạ trong buổi cử hành Thánh Thể. Không một ai đến Nhà Thờ ngày Chúa chỉ vì luật buộc. Và ước gì không một ai đến họp mừng Chúa Phục Sinh với đôi bàn tay trắng trơn, khi họ không thực sự tham dự mà chỉ xem Lễ cách bàng quan, chiếu lệ.
Dâng lên Chúa trọn cuộc sống buồn vui và bao trăn trở của mình để rồi lắng nghe Chúa nói qua phần Phụng Vụ Lời Chúa. Xin đừng quên phần diễn giải Lời Chúa của giám mục, linh mục hay của thầy phó tế trong Thánh Lễ là một phần của Phụng vụ Lời Chúa. Ước gì tất cả mọi người không chỉ nói với Chúa và nghe Chúa nói mà còn được kết hiệp với Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí tích Thánh Thể. Và rồi cái gì đến sẽ phải đến. Những bước chân của chúng ta sau khi ra khỏi Nhà Thờ sẽ là những bước chân trong hân hoan, sẵn sàng chia sẻ niềm vui, chia sẻ hồng ân mình đã lãnh nhận. Mong sao cứ mỗi lần ra khỏi Thánh đường, lòng chúng ta lại rộng mở hơn xưa, cho kẻ lạ cũng như người thân, cho người đạo hạnh cũng như kẻ bất nhân bạc tình. Nếu được vậy thì đó là một trong những dấu chỉ nói lên rằng ta đã gặp gỡ Đấng Phục Sinh, Giêsu Kitô, Đấng cứu độ nhân trần.
CHÚA NHẬT 3 PHỤC SINH A
Cv 2, 14.22-33; 1 Pr 1, 17-21; Lc 24, 13-35
LM ĐAN VINH - HHTM
LẠY CHÚA, XIN Ở LẠI VỚI CHÚNG CON
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 24, 13-35
(13) Cùng ngày hôm ấy, có hai người trong nhóm môn đệ đi đến một làng kia tên là Em-mau, cách Giê-ru-sa-lem sáu mươi dặm. (14) Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra. (15) Đang lúc trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ. (16) Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người. (17) Người hỏi họ: “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?” Họ dừng lại, vẻ mặt buồn rầu. (8) Một trong hai người tên là Cơ-lê-ô-pát trả lời: “Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem mà không hay biết những chuyện đã xảy ra trong thành mấy bữa nay”. (19) Đức Giê-su hỏi: “Chuyện gì vậy?” Họ thưa: “Chuyện ông Giê-su Na-da-rét. Người là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. (20) Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình, và đã đóng đinh Người vào thập giá (21) Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Hơn nữa, những việc ấy xảy ra đến nay là ngày thứ ba rồi. (22) Thật ra, cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi đã làm chúng tôi kinh ngạc. Các bà ấy ra mộ hồi sáng sớm, (23) không thấy xác Người đâu cả, về còn nói là đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng Người vẫn sống. (24) Vài người trong nhóm chúng tôi đã ra mộ, và thấy sự việc y như các bà ấy nói: còn chính Người thì họ không thấy”. (25) Bấy giờ Đức Giê-su nói với hai ông rằng: “Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ! (26) Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao? (27) Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh. (28) Khi gần tới làng họ muốn đến, Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa. (29) Họ nài ép Người rằng: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn”. Bấy giờ Người vào ở lại với họ (30) Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. (31) Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất. (32) Họ mới bảo nhau: “Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (33) Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay trở về Giê-ru-sa-lem, gặp Nhóm Mười Một và các bạn hữu đang tụ họp lại đó (34) Những người này bảo hai ông: “Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon” (35) Còn hai ông thì thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường, và mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
2. Ý CHÍNH: CHÚA PHỤC SINH ĐỒNG HÀNH VỚI HAI MÔN ĐỆ:
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Phục Sinh đã hiện ra đồng hành với hai môn đệ đang chán nản bỏ về quê là làng Em-mau. Nhờ nghe Lời Chúa mà hai người này từ tâm trạng bị vấp ngã trước mầu nhiệm thập giá (18 và 21), đã lấy lại đức tin (25-27.32). Hơn nữa họ còn nhận ra Chúa Phục Sinh khi tham dự lễ nghi bẻ bánh (30-31). Rồi nhờ đức tin mà họ đã lập tức trở về Giê-ru-sa-lem để loan báo Tin Mừng cho anh em.
3. CHÚ THÍCH:
- C 13-16: + Cùng ngày hôm ấy: Tức là ngày Thứ Nhất trong tuần. + Có hai người trong nhóm môn đệ: Hai môn đệ này thuộc nhóm 72 (x. Lc 10, 1), không thuộc nhóm 12. Tin Mừng nhắc đến tên một trong hai ông là Cơ-lê-ô-pát (18). Còn ông thứ hai không được nêu tên và được suy đoán là chính Lu-ca, tác giả đã tường thuật câu chuyện này. + Làng Em-mau: Một nơi cách Giê-ru-sa-lem khoảng 11 km về phía Tây. Nhưng cho tới nay các nhà chú giải vẫn chưa xác định được vị trí của ngôi làng này. + Họ trò chuyện với nhau về tất cả những sự việc mới xảy ra: Biến cố tử nạn của Đức Giê-su là mối bận tâm sâu đậm của các môn đệ, đến nỗi dù đang buồn chán thất vọng, các ông vẫn bàn tán với nhau đang khi đi đường. + Chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ: Đức Giê-su Phục Sinh luôn yêu thương và quan tâm đến các môn đệ. Khi họ gặp hoàn cảnh khó khăn nan giải, thì Người liền hiện đến để ban ơn nâng đỡ. + Mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người: Bị ngăn cản có thể do tâm trạng buồn sầu thất vọng, nên không nghĩ người khách lạ kia lại có thể là Thầy Giê-su của họ. Cũng có thể do khuôn mặt Đức Giê-su Phục Sinh đã được biến dạng khác với khi còn sống. Trước đó vào sáng Ngày Thứ Nhất trong tuần, bà Ma-ri-a Mác-đa-la cũng đã không nhận ra Chúa khi Người hiện ra bên mộ đã an táng Người.
- C 17-18: + “Các anh vừa đi vừa trao đổi với nhau về chuyện gì vậy?”: Chúa Phục Sinh chủ động bắt chuyện để các ông dễ dàng tâm sự những lo buồn chất chứa trong lòng. + Chắc ông là người duy nhất trú ngụ tại Giê-ru-sa-lem…: Các ông nghĩ đây là một khách hành hương lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua, và không quan tâm đến một biến cố lớn mới xảy ra trong thành mấy ngày qua.
- C 19-21: + Chuyện ông Giê-su Na-da-rét…: Cho đến lúc này, các môn đệ mới công nhận Đức Giê-su là Ngôn sứ có quyền lực trong lời rao giảng và các phép lạ đã làm. Các ông đi theo Người với hy vọng có được một địa vị trong Vương quốc của Người. + Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để Người bị án tử hình: Sự kiện mới xảy ra đã làm các ông chán nản thất vọng: các nhà lãnh đạo dân Ít-ra-en đã nộp Người để quan Phi-la-tô kết án đóng đinh thập giá. Còn Thiên Chúa thì không làm gì để cứu vị Ngôn sứ của Người. Sự việc xảy ra tới nay đã sang ngày thứ ba rồi!
- C 22-24: + Cũng có mấy người đàn bà trong nhóm chúng tôi…: Tâm trạng của các ông vẫn hoang mang, dù mấy phụ nữ và các Tông đồ đã nhìn thấy mồ trống, và thiên thần hiện ra bảo rằng “Người vẫn còn sống”, nhưng riêng các ông này thì cho điều đó thật khó tin. Câu này cho thấy hai môn đệ này không phải thuộc loại người dễ tin. Do đó, một khi họ tin thì chắc đã phải có những bằng chứng xác đáng không thể phản bác được.
- C 25-27: + Ôi những kẻ tối dạ, những lòng chậm tin vào lời các ngôn sứ!: Lời Chúa quở trách đức tin yếu kém của hai ông có hơi nặng nề, nhưng thực ra vẫn hàm chứa một tình cảm âu yếm. + Nào Đức Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi mới vào trong vinh quang của Người sao?: Chúa Giê-su nhắc lại lời Người đã từng báo trước về số phận của Người trước đó: “Con Người phải chịu đau khổ, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy” (Lc 9,22; 17,25). + Rồi bắt đầu từ ông Mô-sê và tất cả các ngôn sứ…: Luật Mô-sê và sấm ngôn của các ngôn sứ ám chỉ tòan bộ Thánh Kinh Cựu Ước, đã làm chứng về con đường cứu thế mà Đức Giê-su đã chọn theo là: « Qua đau khổ vào trong vinh quang » (x. Lc 24, 44 tt).
- C 28-31: + Đức Giê-su làm như còn phải đi xa hơn nữa: Thái độ giả vờ ở đây không phải là giả dối, nhưng là cách thức thử xem phản ứng của các môn đệ, để biết các ông có thực lòng muốn nghe và muốn Người ở lại với mình hay không. Một đức tin chỉ có giá trị khi người tin tự nguyện mở lòng đón nhận, chứ không chấp nhận do bị ép buộc. + Họ nài ép Người: Đây là thái độ hiếu khách quen thuộc của Người Pa-lét-tin (x. Lc 14, 23). Chính Lời Chúa giải thích Kinh Thánh đã đánh tan những lo lắng bất an trong lòng hai môn đệ, nên các ông đã xin Người ở lại nhà các ông để có thể tiếp tục nói chuyện với các ông. + Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn: Đây là lời hai môn đệ mời vị khách lạ kia ở lại cách khép léo tế nhị. Đây cũng là lời cầu nguyện chân thành của các tín hữu trước khi được hiệp lễ.
- C 32-31: + Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ: Khó có thể nghĩ rằng Đức Giê-su đã truyền phép Thánh Thể như Người đã làm trong bữa Tiệc Ly. Nhưng ở đây, Lu-ca cố ý dùng kiểu nói quen thuộc trong phụng vụ Thánh Thể (x. Lc 22, 19), là cử chỉ Đức Giê-su đã làm khi nhân bánh ra nhiều (x. 9,16), ám chỉ nghi lễ Bẻ Bánh (x. Cv 2, 46; 20,7.11). Sau này mỗi khi tham dự thánh lễ, các tín hữu cũng được nghe lời Chúa giáo huấn và được tham dự bàn tiệc Thánh Thể như hai môn đệ hôm nay. + Mắt họ liền mở ra và họ nhận ra Người: Tiến trình đức tin của các tín hữu cũng bắt đầu từ việc lắng nghe Lời Chúa, rồi tin theo Chúa và được thánh hóa nhờ tham dự bàn tiệc Thánh Thể, như bà Ly-đi-a thời Giáo Hội sơ khai (x. Cv 24, 13-15). + Nhưng Người lại biến mất: Từ đây Chúa Giê-su sẽ hiện diện cách thiêng liêng vô hình khi các tín hữu đọc Thánh Kinh, nghe lời giảng của các mục tử, tham dự thánh lễ và phục vụ bác ái…
- C 32-35: + Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?: Nhờ được nghe giảng Thánh Kinh, các môn đệ đã thấy được ý nghĩa cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su như một chặng đường Người phải trải qua để vào trong vinh quang phục sinh. + Ngay lúc ấy, họ đứng dậy…: Việc nhận ra Chúa Phục Sinh và lòng tin yêu Chúa đã biến đổi hai môn đệ từ chỗ thất vọng muốn buông xuôi, trở thành con người mới đầy phấn khởi và hy vọng. Tâm trạng ấy làm các ông hăng hái đi lại quãng đường dài 11 cây số trở về Giê-ru-sa-lem để báo tin vui cho các tông đồ và môn đệ khác. + Chúa trỗi dậy thật rồi, và đã hiện ra với ông Si-mon: Sự kiện Si-mon Phê-rô được Chúa Phục Sinh hiện ra trước các tông đồ khác đã được chính Chúa Giê-su tiên báo trước cuộc khổ nạn (x Lc 22, 31-32) và sau này cũng được thánh Phao-lô nhắc đến trong thư Cô-rin-tô (x 1 Cr 15,5). + Thuật lại những việc đã xảy ra dọc đường: Cuối cùng hai ông đã chia sẻ niềm vui Phục Sinh cho Nhóm Mười Một tông đồ và các môn đệ ở Giê-ru-sa-lem.
4. CÂU HỎI: 1) Hai môn đệ quê làng Em-mau kể trên thuộc nhóm 12 tông đồ hay nhóm 72 môn đệ? Tên của các ông là gì? 2) Tại sao hai môn đệ làng Em-mau và bà Ma-ri-a Mác-đa-la lại không nhận ra ngay người đang nói chuyện với mình là Chúa Phục Sinh? 3) Việc Chúa Phục Sinh hiện ra với hai môn đệ làng Em-mau nói lên điều gì về tình yêu của Người đối với các tín hữu chúng ta? 4) Câu trả lời của hai môn đệ cho thấy đức tin của các ông về sứ mạng của Đức Giê-su thế nào? Các ông đi theo Đức Giê-su nhằm mục đích gì? Tại sao giờ đây các ông lại chán nản tuyệt vọng? 5) Hai môn đệ này có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm sống lại của Chúa Giê-su không? Tại sao? 6) Chúa Giê-su trong vai khách bộ hành đã làm gì để củng cố đức tin còn non yếu của hai môn đệ? 7) Chúa Giê-su giả vờ muốn đi xa hơn nhằm mục đích gì? 8) Câu nào của hai môn đệ là lời cầu nguyện mẫu về lòng tin yêu Chúa cho các tín hữu chúng ta hôm nay? 9) Hai môn đệ đã nhận ra người khách lạ chính là Thầy Giê-su Phục Sinh khi nào? 10) Hai ông cho biết lòng mình bừng cháy lên ngọn lửa tin yêu Chúa vào lúc nào? 11) Điều gì khiến hai môn đệ vội vã đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho anh em?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Họ mới bảo nhau: “Dọc đường khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?” (Lc 24, 32)
2. CÂU CHUYỆN:
1) TIN CẬY VÀO QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA:
Được thăng giáo hoàng là một việc rất trọng đại. Khi Đức Pi-ô XI đăng quang, sau khi thực hiện xong các lễ nghi rồi, ngài về phòng riêng, ngồi vào chiếc bàn viết của Đức tiên Giáo hoàng Bê-nê-dic-tô XV, thì tự nhiên ngài cảm thấy một mối lo âu ập xuống trên mình, vì tình hình Giáo hội khi ấy đang bị kẻ thù tấn công tư bề, Hội Thánh đang trải qua một giai đoạn thử thách mới: Tuy Thế Chiến Thứ Nhất đã chấm dứt, nhưng Thế chiến Thứ Hai lại đang âm ỉ và có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nghĩ đến những chuyện ấy, lòng Đức Pi-ô XI ngập tràn lo âu. Bấy giờ ngài qùi gối trước Thánh Giá và cầu nguyện sốt sắng. Đang lúc cầu nguyện, tự nhiên tay ngài chạm vào một tấm ảnh đặt trên bàn làm việc của Đức tiên giáo hoàng, ngài liền cầm tấm ảnh lên xem và nỗi lo sợ trong lòng trước đó tự nhiên biến mất. Ngài cảm thấy tâm hồn được bình an. Đó là bức hình vẽ Chúa Giê-su đang đứng trên mũi thuyền và ra lệnh cho sóng gió yên lặng. Từ ngày đó, Đức Pi-ô XI luôn để bức ảnh ấy trên bàn làm việc, và mỗi khi gặp hoàn cảnh khó khăn không biết phải làm gì, Đức Pi-ô XI lại ngồi nhìn vào bức ảnh rồi cầu xin Chúa Giê-su hãy phán một lời, thế là mọi khó khăn đang gặp đều tự nhiên tan biến (W.J. Diamond- Đồng cỏ non).
2) CHÚA BỒNG TA TRÊN ĐÔI TAY CỦA NGƯỜI?
Một người tân tòng sau khi theo đạo đã gặp phải nhiều tai ương hoạn nạn: bệnh tật, rủi ro mất xe, mất tiền bạc… Anh đã nhiều lần xin Chúa cho tai qua nạn khỏi mà xem ra Chúa vẫn ngỏanh mặt làm ngơ khiến anh đâm ra chán nản và thôi không cầu nguyện và cũng không đến nhà thờ dự lễ nữa. Thế rồi một đêm kia, anh nằm mơ thấy mình đang đi bách bộ với Chúa Giê-su trên bãi biển. Anh quay nhìn ra sau thì thấy trên nền cát ướt có 4 dấu chân: hai dấu chân lớn của Chúa, và hai dấu chân nhỏ của anh. Khi gặp chỗ lởm chởm nhiều sỏi đá thì anh không thấy Chúa đi bên cạnh nữa. Quay lại nhìn thì anh chỉ thấy hai dấu chân trên cát của anh. Anh chán nản ngồi nghỉ mệt trên một tảng đá thì Chúa Giê-su lại hiện đến ngồi bên. Anh thắc mắc hỏi Người: “Lạy Chúa, vừa qua Chúa biến đi đâu để con phải một mình đương đầu với những khó khăn như vậy?” Bấy giờ Chúa Giê-su mới âu yếm nhìn anh và nói: “Con hãy thử nhìn kỹ lại xem hai dấu chân trên cát kia là của ai?” Lúc đó, anh ta mới nhìn kỹ và nhận ra đó hai dấu chân to là của Chúa Giê-su. Anh lại hỏi: “Lạy Chúa, thế thì dấu chân của con đâu?” Chúa liền trả lời: “Con ơi, hãy nhớ rằng: Ta luôn ở bên con mọi giây phút trong cuộc đời con. Chính khi con gặp gian nan thử thách là lúc Ta đang bồng con trên cánh tay Ta đó!”
3) CHÚA ĐẾN VỚI CHÚNG TA QUA THA NHÂN CẦN ĐƯỢC TRỢ GIÚP:
Vào một buổi sáng cuối đông, bác thợ giầy thức dậy rất sớm dọn dẹp nhà cửa và cho thêm củi than vào lò sưởi để đón chờ khách quý là Chúa Giê-su. Người đã hiện ra với bác trong giấc mơ ban đêm và hứa sẽ đến nhà thăm bác vào ngày hôm sau. Khi ánh bình minh vừa ló rạng, thì bác thợ giầy đã nghe thấy có tiếng gõ ngoài cửa. Tưởng là Chúa đã đến, bác liền vội ra mở cửa. Thế nhưng kẻ đứng mặt bác không phải là Chúa Giê-su, mà là anh phát thư như mọi lần. Băng tuyết ngoài trời khiến mặt mũi và tay chân của anh ta đỏ lên như gấc. Bác thợ giầy cảm thông liền mời anh ta vào nhà ngồi bên lò sưởi và pha trà nóng mời khách. Sau khi đã được sưởi ấm, người phát thư đã nói lời cám ơn và từ giã đi lo công việc.
Ít phứt sau, nhìn qua khung cửa kính, bác thấy một bé gái khoảng 7-8 tuổi đang co ro đứng trước cửa nhà khóc, bác liền ra hỏi thăm thì được biết em bị lạc mẹ ngoài chợ và đang tìm đường về nhà nhưng không tìm thấy đường vì tuyết rơi trắng xóa. Bác thợ giầy liền lấy bút viết vài chữ trên tờ giấy và gắn ngoài cửa nhà để thông báo cho Chúa Giê-su biết mình cần đi ra ngòai một lát. Nhưng tìm đường dẫn cô bé về nhà không đơn giản. Mất mấy tiếng đồng hồ bác mới tìm được nhà của đứa bé, và khi ra về thì trời đã xế chiều.
Về đến nhà, bác lại thấy có người đang ngồi đợi nhưng không phải là Chúa, mà là một bà mẹ trẻ gần nhà với vẻ mặt buồn bã. Chị cho biết đứa con nhỏ của chị đang lên cơn sốt ở nhà và chị chạy sang tìm bác để nhờ giúp đưa bé đi nhà thương. Bác thợ giầy liền hối hả theo chị về nhà giúp đưa cháu bé đến bệnh viện chăm sóc. Nửa đêm bác mới trở về nhà mình và nằm lăn ra giường ngủ quên cả việc ăn uống. Trong giấc mơ, bác thợ giầy đã nghe thấy tiếng Chúa Giê-su: «Hôm nay Ta cám ơn con đã sẵn sàng tiếp đón và cho Ta vào nhà để sưởi ấm và còn dọn trà nóng cho Ta uống. Cám ơn con đã dẫn Ta bị lạc có thể trở về nhà mình. Cám ơn con đã giúp đưa Ta đến bệnh viện để kịp thời thuốc thang chữa trị». Thì ra hôm nay Chúa Giê-su đã giữ lời hứa đến thăm bác thợ giầy không phải một mà là ba lần. Người hiện thân qua những người cần được trợ giúp như Người đã nói: «Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy» (Mt 25,40).
4) TÍN THÁC VÀO TÌNH THƯƠNG QUAN PHÒNG CỦA CHÚA:
Một sĩ quan công giáo, người Anh được sai đến phục vụ tại một nơi xa xôi hẻo lánh. Ông cùng với gia đình xuống tầu đến nhiệm sở mới. Tầu rời bến được vài ngày thì biển động dữ dôi. Một cơn bão ập đến làm tầu có nguy cơ bị đắm. Mọi người trên tầu hết sức sợ hãi. Bà vợ của vị sĩ quan là người mất bình tĩnh hơn cả vì bà đã không tiếc lời trách móc chồng đã đưa cả gia đình vào mối nguy hiểm, nhất là khi thấy chồng vô tư chẳng mấy quan tâm. Chính thái độ bình thản của chồng khiến bà càng thêm tức giận.
Trước tình thế đó, sau khi nói mấy lời an ủi vợ, viên sĩ quan đã rời căn phòng và một lát sau quay lại với thanh kiếm tuốt trần trên tay. Bằng ánh mắt đau khổ ông tiến lại bên vợ và dí mũi kiếm vào ngực bà. Mới đầu bà ta tái xanh mặt mày, nhưng sau đó bà bỗng cười không chút nao núng sợ hãi. Viên sĩ quan hỏi:
- Làm sao mình có thể cười khi sắp bị mũi kiếm đâm vào ngực?
- Tại sao em lại phải sợ khi lưỡi kiếm ấy trong tay của người chồng rất mực yêu em.
Bấy giờ viên sĩ quan liền nghiêm giọng giải thích:
- Vậy tại sao em lại muốn anh phải sợ cơn bão tố này, khi biết nó nằm trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa là Đấng quyền năng và hằng yêu thương anh?
3. SUY NIỆM:
1) TÂM TRẠNG CỦA HAI MÔN ĐỆ LÀNG EM-MAU:
Đây là hai trong số 72 môn đệ của Đức Giê-su đã được Người sai từng hai người đi giảng đạo (x. Lc 10,1a). Hai ông đã đến Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Giờ đây đại lễ đã xong, hai ông quay trở về nhà riêng tại làng Em-mau. Một trong hai ông tên là Cờ-lê-ô-pát, còn người kia không được nêu tên, có thể là chính tác giả Lu-ca. Hai ông này vừa đi vừa trò chuyện với nhau với vẻ mặt buồn bã thất vọng. Sở dĩ họ mang tâm trạng như thế là vì mấy lý do như sau:
- Một là Đức Giê-su «là một Ngôn sứ đầy uy thế trong việc làm cũng như lời nói trước mặt Thiên Chúa và toàn dân. Thế mà các thượng tế và thủ lãnh của chúng ta đã nộp Người để bị án tử hình, và đóng đinh Người vào thập giá» (Lc 24, 19b-20).
- Hai là biến cố đau thương của Đức Giê-su đã xảy ra trái với ước vọng của các ông khi đi theo Thầy, khiến các ông hoàn toàn thất vọng và muốn buông xuôi: «Phần chúng tôi, trước đây vẫn hy vọng rằng chính Người là Đấng sẽ cứu chuộc Ít-ra-en. Nhưng các sự việc ấy đã xẩy ra đến nay là ngày thứ ba rồi» (Lc 24, 21).
2) VAI TRÒ CỦA KINH THÁNH VÀ BÍ TÍCH THÁNH THỂ CỦNG CỐ ĐỨC TIN:
- Biến cố tử nạn của Đức Giê-su là mối bận tâm sâu đậm của các môn đệ, đến nỗi dù đang buồn chán thất vọng, các ông vẫn bàn tán với nhau khi đi đường. Đức Giê-su Phục Sinh đã yêu thương và luôn quan tâm đến các môn đệ, nên Người đã chủ động hiện đến đồng hành bắt chuyện và giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong Sách Thánh. Nhờ cảm nghiệm được Lời Chúa nên các ông đã lấy lại niềm tin qua câu nói: “Lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên khi dọc đường, Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó sao?” (Lc 24, 32).
- Tuy nhiên hai môn đệ chỉ nhận ra Người khi tham dự bí tích Thánh Thể: Hai ông đã mời Người ở lại: “Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều, và ngày sắp tàn (Lc 24, 29). Rồi chính bầu khí yêu thương chia sẻ Bánh Thánh giữa cộng đoàn mà mắt họ đã mở ra, như Tin Mừng thuật lại: « Khi đồng bàn với họ, Người cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng và bẻ ra trao cho họ. Mắt họ liền mở ra và nhận ra Người, nhưng Người lại biến mất» (Lc 24, 30-31).
3) ĐỒNG HÀNH VỚI CHÚA TRONG CUỘC SỐNG:
Trong cuộc sống, mỗi lần gặp phải thử thách, nhiều người trong chúng ta thường nghĩ rằng: Chúa đã bỏ rơi mình rồi. Chúa không còn quan tâm giúp mình nữa… và từ đó sinh ra chán nản, bỏ bê đọc kinh cầu nguyện, lười biếng dự lễ Chúa Nhật và có khi còn mê tín dị đoan: đi coi bói tóan, cậy nhờ sự giúp đỡ của thầy bùa thầy ngải… Chúng ta cần xác tín rằng: Chúa Phục Sinh vẫn luôn đồng hành với chúng ta. Không những Người ở bên ta khi ta được bình an, mà ngay cả những lúc ta gặp gian nan khốn khó như bị bệnh tật, tai nạn, thất bại… Người vẫn ở bên và đồng hành với chúng ta. Người sẵn sàng trợ giúp và bồng ẵm ta trên tay nếu ta biết tín thác cậy trông vào Người. Hãy siêng năng tham dự thánh lễ để được nghe Lời Chúa giáo huấn và được kết hiệp mật thiết với Chúa Thánh Thể khi lên rước lễ.
4) SỐNG VÀ LOAN BÁO TIN MỪNG CHO THẾ GIỚI HÔM NAY:
- Hai môn đệ làng Em-mau sau khi gặp Chúa đã lập tức trở về Giê-ru-sa-lem để chia sẻ Tin Mừng Phục Sinh cho cộng đoàn.
- Loan báo Tin Mừng hôm nay không những là chia sẻ niềm tin yêu cho tha nhân bằng đời sống quên mình vị tha và khiêm nhường phục vụ, mà còn là sự thực thi bác ái cụ thể như kinh « Thương Người có mười bốn mối » đã dạy. Nhờ đó đến ngày phán xét chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào hưởng hạnh phúc đời đời trong Nước Trời như lời Chúa phán: “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát, các ngươi đã cho uống; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han.” (Mt 25, 34-36).
4. THẢO LUẬN: Khi gặp một người lỡ đường xin tá túc ban đêm, chúng ta nên làm gì để vừa bảo đảm an toàn cho gia đình, vừa thực hành bác ái “Cho khách đỗ nhà” như kinh Thương Người đã dạy?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ở lại với chúng con, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn rồi, vì lòng chúng con đang khao khát được nghe lời Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì đức tin chúng con mỏng dòn yếu đuối, rất cần được Chúa trợ giúp vượt qua khó khăn của cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì chúng con dễ sa chân lạc bước, chỉ biết tìm kiếm thỏa mãn những đam mê bất chính và dễ chán nản buông xuôi khi gặp thử thách gian nan. Xin ở với chúng con, để chúng con thấy Chúa đang hiện diện nơi những người đau khổ và chân thành phục vụ họ như phục vụ chính Chúa. Xin ở lại với chúng con, vì khi gặp được Chúa, chúng con sẽ được ơn biến đổi cuộc đời. Xin ở lại với chúng con, vì tâm hồn chúng con vẫn còn xao xuyến mãi, cho tới khi nào được nghỉ yên trong Chúa.- AMEN.