DẤU CHÂN
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Nhạc sĩ Thông Vi Vu viết ca khúc: “Dấu Chân”, giai điệu slow nhẹ nhàng thiết tha, ca từ thấm đẫm chất thơ, bài ca lấp lánh niềm tín thác.
1. Hôm nao dưới nắng reo vui, mình tôi rong chơi trên bãi biển.
Chiều về nhìn sau lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đôi.
Này là dấu chân to, và kìa là dấu chân nhỏ.
Cả hai cùng chiều đi tới, tựa hình với bóng bước song đôi.
ĐK.
Bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ.
Đôi khi có những bước phôi pha, mà hình bên bóng chẳng rời xa.
Hôm nao thấy dấu chân đôi: Đó là Chúa đi bên tôi.
Hôm nào còn một dấu chân thôi: Là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi.
2. Hôm nao giữa bước chân đi, chợt nghe dâng mênh mang nỗi buồn.
Chiều về nhìn sau lưng mình, hiển hiện hình một hàng dấu chân đơn.
Lạ lùng dấu chân to, và nặng nề vết in đậm.
Mà sao chỉ còn một dấu, lại chẳng thấy có dấu chân tôi?
Ca khúc được dệt nhạc từ truyện “Footprints”.
Có một người nọ ví cuộc đời của mình như một người lữ hành đang đi trên một bãi biển đầy cát. Khi nhìn lại cuộc hành trình, anh nhận ra hai điều kỳ lạ.
– Khi anh thành công, hạnh phúc, vui sướng… anh thấy có bốn dấu chân trên cát. Đó là hai dấu chân của anh và hai dấu chân của Chúa. Thiên Chúa đồng hành để chia sẻ niềm vui với anh.
– Khi anh thất bại, đau khổ, buồn sầu… anh chỉ thấy có hai dấu chân trên cát. Và anh nghĩ đó là hai dấu chân của mình. Thiên Chúa đã bỏ rơi khi anh thất bại. Thiên Chúa đã vắng bóng khi anh đau khổ.
Sau đó, anh thắc mắc với Chúa: “Khi con thành công, hạnh phúc…Chúa lại đồng hành với con, đi với con… Nhưng khi con thất bại, đau khổ… những lúc con cần Chúa nhất thì Chúa lại bỏ rơi con. Tại sao Chúa lại đối xử với con như thế?”.
Chúa Giêsu trả lời: “Khi con vui thì Ta đi bên cạnh con, đi với con, song hành cùng con. Còn khi con buồn, đau khổ, thất vọng thì Ta lại vác con trên vai của Ta. Cho nên dấu chân trên cát là của Ta chứ không phải của con”.
Câu chuyện gợi lên ý tưởng: Thiên Chúa luôn đồng hành với con người trên mọi nẻo đường trần thế. Ngài không bao giờ bỏ rơi con người. Khi con người gặp đau khổ và thất vọng, Ngài an ủi, đỡ nâng, ban thêm sức mạnh và tình yêu.
Câu chuyện “Trên đường Emmau” là một trong những câu chuyện Tin Mừng tuyệt tác và rất riêng của thánh sử Luca. Kể từ khi tảng đá to đã niêm phong cửa mộ thì đối với các môn đệ, tất cả đã hết, không còn gì ngoài những kỷ niệm xót xa chua chát. Một thực tế phủ phàng trĩu nặng nổi âu lo sợ hãi. Niềm hy vọng lớn lao xưa đã bị chôn vùi với Giêsu Nazareth. Bởi đó họ ở lại Giêrusalem để làm gì khi người ta đã đặt dấu chấm hết cho mọi hy vọng giải thoát dân tộc.Thập giá được giương cao và vị cứu tinh được chờ đợi với biết bao kỳ vọng đã kết thúc sự nghiệp bằng cái chết đớn đau ô nhục. Hai môn đệ quyết định trở về quê nhà. Bước chân mỏi mệt chán chường, tuyệt vọng và cô đơn trên cuộc lữ hành. Nổi buồn mất mát và nổi đau tuyệt vọng đã làm cho họ không còn nhạy cảm với những thực tại xung quanh. Các ông có biết đâu, trên hành trình thất vọng và cô đơn đó, có một người vẫn hằng dõi theo từng bước đi, chú ý từng tâm sự nhỏ to của các ông. Người ấy tiến về phía các ông, trò chuyện và đồng hành với các ông mà các ông nào hay biết. Các ông không nhận ra Người mặc dù Người vẫn có đó, vẫn hiện diện và chia sẻ với các ông. Các ông còn được vị khách này giải thích tường tận những gì đã nói về Đấng Messia mà Môisen và các Ngôn sứ, tức là toàn bộ Kinh thánh đã loan báo. Cho đến khi được đồng bàn với Người, tận mắt chứng kiến Người cầm bánh, dâng lời chúc tụng tạ ơn, bẻ ra và trao cho, mắt các ông mới bừng sáng. Các ông hân hoan vui mừng. Tâm hồn các ông được Đấng Phục sinh chiếu dọi. Tâm trí các ông được Người khai mở. Đức Kitô, Thầy của các ông đã thực sự sống lại. Không nghi ngờ gì nữa, vị khách bộ hành, người đã giảng dạy Kinh Thánh và cùng với các ông chia sẻ nghi lễ Bẻ Bánh chính là Đức Kitô Phục Sinh. Niềm vui vì được gặp Chúa Phục Sinh, được Người dạy dỗ và chia sẻ bàn tiệc Thánh, khiến cho hai môn đệ Emmau quên hết nhọc nhằn. Các ông lập tức lên đường với niềm vui mừng trở về Giêrusalem. Hội ngộ với các môn đệ khác và công bố Tin Mừng Phục Sinh. Kể từ đó, Tin Mừng Phục Sinh theo dấu chân của các Tông Đồ lan rộng khắp hoàn cầu.
Đường Emmau thật kỳ lạ. Đường dẫn đưa những lữ khách từ Giêrusalem về Emmau sao xa xôi vạn lý, thế mà giờ đây lúc trở về lại hoá nên gần gũi thân quen. Cùng một con đường, cùng một buổi chiều mà hai môn đệ đi lại hai lần, mỗi lần lại mỗi dáng vẻ hoàn toàn khác nhau. Khi đi thì đường xa vời vợi, đi mãi không đến. Lúc về sao ngắn ngũi, chưa đi đã đến. Khi đi thì chán nản u sầu. Lúc về phấn khởi hân hoan. Khi đi chán chường chậm chạp. Lúc về nhanh nhẹn vui tươi. Điều kỳ diệu của đường về là hai môn đệ đã gặp được Chúa Kitô Phục Sinh. Chính Người làm nên khác biệt giữa hai lần đi về. Gặp Chúa Kitô Phục Sinh là bí quyết giúp thay đổi cuộc đời, giúp cuộc sống có ý nghĩa, có niềm vui, có hy vọng và có lẽ sống.
Sứ điệp Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay có thể được tóm kết trong ba chữ T : Thánh Kinh, Thánh Thể và Hội Thánh. Đó cũng là cũng chính là ba con đường chính yếu để chúng ta gặp gỡ Đấng Phục Sinh và thể hiện niềm tin của mình trong đời sống.
1. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh nhờ Thánh Kinh
Chúa Giêsu Phục Sinh đến như người bạn đồng hành. Người chăm chú lắng nghe họ kể nổi đau buồn. Người đốt lên ngọn lửa bừng cháy trong tim họ khi giải thích Thánh Kinh “Bắt đầu từ Môisen và duyệt qua hết các Tiên tri, chú giải cho họ những gì liên quan đến Người trong các bản văn Thánh Kinh”. Người đã giải thích cho các ông: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môisen, các sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (Lc 24, 44). Vậy thì cả lịch sử cứu độ hướng về Người và chỉ có ý nghĩa vì Người. Lịch sử vũ trụ, lịch sử nhân loại, mọi lịch sử chỉ là lịch sử cứu độ, lịch sử của “Đức Kitô hôm qua, hôm nay, mãi mãi vẫn là một”. Nghe Lời Chúa, lòng họ bừng lên, nội tâm được biến đổi. Chúa Phục Sinh cũng soi lòng mở trí cho các môn đệ đang quy tụ ở Giêrusalem. Người giúp các ông hiểu được những lời Kinh Thánh loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Người cũng giúp các ông hiểu những thành quả tinh thần của việc sám hối và ơn tha thứ tội lỗi mà Đấng Phục Sinh đem lại cho muôn dân nước. Bài đọc 1, sách CVTĐ kể lại diễn từ thứ hai ngỏ lời với đám đông dân chúng Giêrusalem, thánh Phêrô lớn tiếng công bố sự Phục Sinh của Đấng Chịu Đóng Đinh và chứng minh rằng Kinh Thánh đã tiên báo những đau khổ của Đấng Mêsia.
Thánh Giêrônimô đã nói : Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.
Thánh Kinh là bức tâm thư Thiên Chúa gởi cho Dân được tuyển chọn.Cần có đức tin và lòng mến để tiếp nhận như giáo huấn của CĐVTC II đã dạy:”Trong các Sách Thánh,Chúa Cha trên trời bằng tất cả lòng trìu mến đến gặp gỡ con cái mình và ngỏ lời với họ.Vậy sức mạnh và quyền năng chứa đựng trong Lời Chúa lớn lao đến độ trở thành điểm tựa đầy năng lực cho Hội Thánh và là sức mạnh của đức tin,lương thực nuôi linh hồn,nguồn sống thiêng liêng,tinh tuyền và trường cửu cho con cái của Hội Thánh” (MK21).
Học hỏi Thánh Kinh để tìm được nguồn năng lực cho sức mạnh đức tin, lương thực thần thiêng nuôi linh hồn, nguồn sống thiêng liêng, tinh tuyền và trường cửu (MK 21), trau dồi và phát triển kiến thức thần học, nhưng điều căn bản vẫn là để giúp biết rõ hơn về mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Đức Giêsu Kitô (MK 26); Đấng mà cả hai Giao ước đều nhắm đến: Cựu ước nhìn với tất cả lòng mong đợi, Tân ước nhìn Người như Đấng hoàn tất các lời hứa cứu độ, cả hai đều đặt Người như trung tâm. Việc đọc và suy niệm Lời Chúa mang lại nguồn sáng, soi dẫn cuộc đời và lương thực thần thiêng cho cuộc sống, sau nữa là để “khi phải truyền đạt kho tàng bao la của Lời Chúa, không ai trở thành kẻ huênh hoang rao giảng Lời Chúa ngoài môi miệng vì không lắng nghe Lời trong lòng” (MK 26).
2. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Luca tường thuật, suốt trên con đường đi về Emmau có một khách bộ hành đi cùng, hai môn đệ không nhận ra Thầy kính yêu của mình. Mãi đến lúc ngồi vào bàn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, tạ ơn, bẻ ra trao ban thì hai ông mới nhận ra. Chính qua cử chỉ bẻ bánh mà các môn đệ nhận ra Chúa Giêsu Phục Sinh. Chúa Giêsu bẻ bánh, nhắc lại cử chỉ khi lập phép Thánh Thể. Nhờ phép Thánh Thể toàn bộ con người các ông đổi mới.
Chúng ta không thấy Chúa Kitô về mặt thể lý tự nhiên, nhưng có thể gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Bí Tích Thánh Thể.
Thánh Thể là trung tâm của cộng đoàn phụng vụ cử hành biến cố Vượt Qua của Chúa Giêsu. Thánh Thể quy tụ các tín hữu hiệp thông trong đức ái. Hội Thánh “duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền” biểu lộ căn tính của mình rõ nét nhất lúc cử hành Thánh Thể. Thánh Thể làm nên thân thể Chúa Kitô. Thánh Thể là thần lương nuôi dưỡng con cái Hội Thánh. Qua bí tích Thánh Thể, mọi tín hữu không những được hiệp nhất với Thiên Chúa mà còn được nên một với nhau trong Hội Thánh.Thánh Thể là một bài học yêu thương tuyệt hảo nhất, yêu thương đến tột cùng, trao ban đến tận cùng. Nhờ tham dự việc cử hành Thánh Thể, cộng đoàn tín hữu trở thành một thực thể sống động, hiệp thông, liên kết trong đức ái, làm nên một thân thể mầu nhiệm. (x.Tông Thư “Mane Nobiscum Domine”, số 11-18, Đức Gioan Phaolô II, ban hành ngày 7.10.2004).
Chúng ta gặp Chúa Phục Sinh khi cử hành Bí Tích Thánh Thể: cầm bánh, tạ ơn, bẻ ra và trao cho nhau. Điều quan trọng là chúng ta có cử hành Bí Tích Thánh Thể như một cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu không hay chỉ còn là một nghi thức.
Chúng ta vẫn gặp được Chúa Giêsu mỗi lần cùng nhau cử hành Bí Tích Thánh Thể. Miễn là có đủ lòng tin và có một cảm thức nhạy bén trước mầu nhiệm của Thiên Chúa để chúng ta có thể đón nhận sự hiện diện sống động của Người và đi vào cuộc gặp gỡ thực sự với Người.
3. Gặp gỡ Chúa Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh
Hai môn đệ hân hoan trở về gặp các Tông đồ và kể lại cuộc gặp gỡ kỳ diệu với Đấng Phục Sinh. Tin vui phải được loan đi. Tin Mừng Phục Sinh phải được công bố. Từ nay, các ông sẽ là những chứng nhân cho Đấng cùng đồng hành với các ông, chia sẽ vui buồn, dẫn dắt tâm hồn, thắp sáng niềm tin, đốt nóng niềm hăng say cũng như sẽ đồng bàn và trao sự sống mới trong cử chỉ thân quen. Từ nay các ông sẽ là người loan báo Đấng Phục Sinh cho anh chị em của mình bằng chứng từ của một đời sống dấn thân phục vụ. Không có rào cản nào chắn được bước chân của các ngài nữa vì Đấng Phục Sinh đang cùng đồng hành trên khắp mọi nẻo đường trần thế.
Chính Đức Kitô đã củng cố niềm tin Phục Sinh cho các Tông Đồ. Thành thánh Giêrusalem là nơi Chúa Giêsu hoàn tất sứ mạng và cũng là nơi Hội Thánh khởi sự thi hành sứ mạng của mình. Tất cả những ai đã gặp gỡ Chúa Giêsu Phục Sinh giữa lòng Hội Thánh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Chúa Kitô Phục Sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Chúa Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói : “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được diễm phúc cử hành cao điểm của niềm tin, mầu nhiệm cái chết thập giá và sự sống lại của Đức Kitô Giêsu. Người đang ban Lời chân lý (Thánh Kinh) và Bánh Trường Sinh (Thánh Thể), đang ủi an và chia sẻ tình yêu, đang động viên và soi sáng giúp chúng ta trở thành một cộng đoàn huynh đệ hiệp nhất (Hội Thánh). Mỗi Thánh Lễ, chúng ta được đồng hành bên nhau trong tình hiệp nhất, được chia sẻ Lời Chúa và được rước lấy Thánh Thể. Chúa Giêsu luôn đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường loan báo Tin Mừng Phục Sinh.
Chúa Giêsu Cứu Thế đã in dấu chân trên những nẻo đường truyền giáo “bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ”. Chúng ta bước theo Chúa trên hành trình sứ vụ, mỗi ngày đã qua như một dấu chân trên cát, nối lại những dấu chân, cuộc đời sẽ thành đường dài của niềm vui và hy vọng.
Chúa nhật III Phục sinh – B
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 24, 35-48).
Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Mọi người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: “Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ”. Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: “Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”. Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: “Ở đây các con có gì ăn không?” Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: “Ðúng như lời Thầy đã nói với các con, khi Thầy còn ở với các con, là cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh”. Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: “Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó, và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy”.
Suy niệm
Được gặp lại Thầy sau biến cố tử nạn, các Tông đồ rất vui và có thể nói ngập tràn trong hạnh phúc. Nhưng để chấp nhận một sự thật như thế, đòi hỏi các Tông đồ phải loại bỏ những suy nghĩ, những hình ảnh về Thầy mình hiện đang có trong tâm hồn của họ, đồng thời thay vào đó hình ảnh một người Thầy đang sống trong vinh quang của Thiên Chúa sau khi chiến thắng sự chết, dù thân xác Thầy vẫn là một. Chấp nhận một Thiên Chúa đang sống bên cạnh mình cách vô hình và sẵn sàng để thay đổi não trạng tôn giáo của bản thân về Thiên Chúa là một sự khiêm tốn đức tin mà các Tông đồ đã đi tiên phong, để rồi hôm nay lời mời gọi đó, một lần nữa, Mẹ Giáo hội gởi tới con cái mỗi khi đại lễ Phục sinh trở về.
Trở lại với những lời chứng ban đầu của các Tông đồ, chúng ta bắt gặp một bài giáo lý của thánh Phêrô, khi ngài trình bày về một Thiên Chúa phục sinh dưới góc nhìn mới của các Tông đồ. Đức Giêsu Kitô là một vị Thiên Chúa làm người, luôn sống bên cạnh con người, để hướng dẫn con người từng ngày thay đổi thái độ sống, thay đổi hình ảnh Thiên Chúa trong suy nghĩ, để họ có thể gặp gỡ và trò chuyện với Ngài: “Khi ấy, Phêrô nói với dân chúng rằng: “Thiên Chúa Abraham, Thiên Chúa Isaac, Thiên Chúa Giacóp, Thiên Chúa các tổ phụ chúng ta đã làm vinh danh Chúa Giêsu, Con của Ngài, Ðấng mà anh em đã nộp và chối bỏ trước mặt Philatô, trong khi Philatô xét là phải tha cho Người. Anh em đã chối bỏ Ðấng Thánh, Ðấng Công Chính, và xin tha tên sát nhân cho anh em, còn Ðấng ban sự sống thì anh em lại giết đi, nhưng Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại, điều đó chúng tôi xin làm chứng”. Các Tông đồ trong những thời khắc đầu tiên nghe tin Thầy đã sống lại, cũng chưa thể chấp nhận, chưa thể cúi xuống để cho Ngài thay đổi suy nghĩ, thay đổi hình ảnh về một Thiên Chúa phục sinh đang hiện diện bên cạnh các ngài, phải trải qua một quá trình, trải qua một khoảng lặng của đức tin, rồi tất cả đã được thay đổi, đã được chấp nhận, và các ngài đã trở thành những chứng nhân rất sống động và xác tín.
Không bước ra trước đám đông để trình bày biến cố sống lại của Thầy cách xác tín như thánh Phêrô, nhưng thánh Gioan lại trình bày biến cố đó dưới góc độ của tình yêu, của lòng mến. Chính dưới góc nhìn mới mẻ này, chúng ta khám phá được chiều sâu của tình yêu tự hiến, đặc biệt là tình yêu cứu chuộc của Con Thiên Chúa: “Các con thân mến, Cha viết những điều này cho các con, để các con đừng phạm tội. Nhưng nếu có ai đã phạm tội, thì chúng ta có Ðức Giêsu Kitô, Ðấng công chính, làm trạng sư nơi Ðức Chúa Cha. Chính Người là của lễ đền tội chúng ta; không nguyên đền tội chúng ta mà thôi, nhưng còn đền tội cho cả thế gian”. Sự hiện diện của Con Thiên Chúa trong lịch sử nhân loại không dừng lại nơi mầu nhiệm cứu độ qua cái chết và sự phục sinh của Ngài, nhưng xa hơn nữa chính là khi Đức Giêsu đóng vai của người trạng sư để bầu chữa cho con người trước tòa Chúa Cha. Con người là gì mà Thiên Chúa yêu thương như thế, nhân loại là chi mà Chúa phải bận tâm. Lời của vịnh gia ngày xưa đã ứng với lời chứng của thánh Gioan khi ngài trình bày về mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa dành cho con người. Vì thế, thái độ khiêm tốn đức tin của người tín hữu hôm nay là một đòi hỏi phải có để được đồng hành với Chúa phục sinh: “Ai nói mình biết Người, mà không giữ giới răn Người, là kẻ nói dối, và nơi người ấy không có chân lý. Còn ai giữ lời Người, thì quả thật, tình yêu của Thiên Chúa đã tuyệt hảo nơi người ấy”.
Biến cố phục sinh của Đức Giêsu đã xảy ra cách đây hơn hai ngàn năm nhưng mãi đến hôm nay, ý nghĩa của biến cố đó vẫn là một bước ngoặt để người tín hữu Kitô thay đổi cuộc sống. Lời kể của thánh Luca trong bài tin mừng cho chúng ta thấy những lần hiện ra của Đức Giêsu, dù trong cùng một thân xác khi Ngài bị kết án, hay khi Ngài được mai táng trong mồ đá, nhưng các bà cũng như các môn đệ không nhận ra Ngài bên cạnh, bởi đó là một thân xác vinh hiển trong uy quyền của Thiên Chúa: “Mọi người còn đang bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: “Bình an cho các con! Thầy đây, đừng sợ”. Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: “Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây”. Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: “Ở đây các con có gì ăn không?” Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ”. Dù trong cùng một thân xác nhưng sự hiện diện của Đức Giêsu phục sinh bên cạnh các môn đệ là một sự hiện diện của một Thiên Chúa làm người, một sự hiện diện trong một con người đích thực, đang thực hiện những hành vi nhân linh chứ không dừng lại nơi những hành vi nhân sinh.
Người tín hữu Kitô mừng lễ phục sinh long trọng nhưng bên cạnh đó họ còn được mời sống mầu nhiệm phục sinh trong ơn gọi hàng ngày của mình. Để sống được mầu nhiệm phục sinh, người tín hữu cần phải thay đổi hình ảnh Thiên Chúa trong niềm tin, trong ý thức và trong hành trình đức tin của mình. Con Thiên Chúa sống lại trong vinh quang và uy quyền của Thiên Chúa đã đưa con người lên một tầm cao mới, đặt con người vào đúng giá trị ban đầu là của họ là một thành viên trong gia đình của Thiên Chúa. Do đó, người tín hữu không chỉ học làm người mỗi ngày, nhưng cần phải sống trưởng thành hơn với những hành vi, những thái độ trong cuộc sống, đặc biệt trong việc tôn trọng thân xác của mình cũng như của tha nhân. Đi trong quỹ đạo của một xã hội đề cao thân xác và chiều chuộng thân xác, nhiều lúc người tín hữu Kitô đã bị cuốn vào vòng xoáy của quỹ đạo đó nên đặt giá trị của thân xác không đúng chỗ như Tạo Hóa thưở ban đầu mong muốn. Chiều chuộng, coi trọng thân xác dẫn đến một thực tại là chỉ thực hiện những hành vi nhân sinh, theo bản năng tự nhiên của con người, kết cục chỉ là nô lệ cho thân xác, nô lệ cho bản năng tự nhiên của con người, trong khi đó, thân xác con người là khí cụ của tình yêu, là đền thờ của Chúa Thánh Thần, là chi thể trong thân thể mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô phục sinh.
Sống mầu nhiệm phục sinh là thay đổi ý thức và quan niệm sống, là thay đổi hình ảnh về một Thiên Chúa yêu thương, đồng thời, dù thân xác mỗi người là vậy nhưng phải đổi thay về khái niệm thân xác, đổi thay về giá trị thân xác, từ đây người tín hữu nhận ra được sự hiện diện của Đức Giêsu phục sinh đồng hành với mỗi người và mọi người. Cùng lúc, Ngài hiện ra với hai ông trên đường về quê, và cùng lúc đó, Ngài lại hiện ra với các ông còn lại đang cầu nguyện trong phòng kín, quyền năng Thiên Chúa đã đưa Đức Giêsu vượt ra khỏi giới hạn của không gian và thời gian, nhưng hình ảnh về thân xác của Ngài vẫn là một, bởi thế, dù đứng bên cạnh các ông, nhưng khi Ngài lên tiếng gọi tên và hỏi han, các ông mới nhận ra Ngài đã sống lại và đang bên cạnh các ông. Nhiều lần trong cuộc sống hôm nay, Ngài cũng đứng bên cạnh cuộc đời mỗi người môn đệ, nhưng do chúng ta chưa sống mầu nhiệm phục sinh, chưa đổi mới hình ảnh Thiên Chúa trong cuộc sống và trong ơn gọi của mình, nên chúng ta chưa nhận ra Ngài đó thôi, hãy cố gắng đổi thay và khiêm tốn hơn, chúng ta sẽ nhận ra sự hiện diện của Thầy Chí Thánh trong cuộc đời và trong hành trình ơn gọi của mỗi người.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, để nhận được sự hiện diện của Ngài giữa cuộc đời mỗi người, chúng con xin Ngài cho chúng con trở nên mù lòa trong hiện tại, để ánh sáng phục sinh soi chiếu và mở lại đôi mắt cho chúng con nhận ra Ngài. Để được gắn bó với Chúa phục sinh mỗi ngày, xin giúp chúng con biết trân trọng thân xác mình và tha nhân, để thấy một Con Thiên Chúa làm người trong thân xác con người đúng nghĩa. Từ đây, mầu nhiệm phục sinh của Con Thiên Chúa vẫn là tâm điểm để chúng con đổi mới cuộc đời, đổi mới ý thức sống và thái độ đức tin của bản thân. Amen.
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh