Ga 9, 1-41
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật IV Mùa Chay – Năm A
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến,
Các bài Thánh Kinh của Phụng vụ Chúa Nhật IV Mùa Chay năm A hôm nay, đề cập đến tình yêu cứu độ của Thiên Chúa. Tình yêu cứu độ ấy đã khiến Chúa “chọn kẻ Ngài muốn” mặc dù trước mắt người đời kẻ ấy không là gì, như bài sách 1 Samuel tường thuật việc chọn Đavit. Qua bài Tin Mừng, Đức Kitô đã thương chữa người mù từ mới sinh để anh được nhìn thấy ánh sáng là chính Chúa. Vì thế, Thánh Phaolô Tông Đồ đã kêu gọi tín hữu Ephêsô, hãy đi trong ánh sáng là sự công chính, mà bỏ gian tà là đêm tối, để biết lựa chọn cái gì tốt mà thi hành. Ai không chịu để ánh sáng Thiên Chúa soi dẫn là tự mình chọn sống trong tối tăm.
Tình yêu cứu độ ấy đã khiến Thiên Chúa Cha sai Con Một đến thế gian để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ. Chúng ta hãy mở rộng lòng đón nhận sứ điệp Lời Chúa và làm cho sứ điệp ấy thành hiện thực trong các môi trường chúng ta đang sống. Tâm tình xứng hợp chúng ta phải có là cảm tạ ngợi khen và biết ơn Thiên Chúa Tình yêu.
Ca nhập lễ
Hỡi Giê-ru-sa-lem, hãy hân hoan, và hỡi tất cả các ngươi là những kẻ yêu quý thành ấy, hãy tụ họp lại; hỡi các người là những kẻ ưu phiền, hãy hân hoan vui mừng, để các ngươi nhảy mừng và hưởng no đầy nguồn an ủi các ngươi.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã sai Con một giáng trần để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hoà giải với Chúa. Xin ban cho toàn thể dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động để hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a
“Ðavit được xức dầu làm vua Israel”.
Trích sách Samuel quyển thứ nhất.
Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: “Hãy đổ dầu cho đầy bình và lên đường. Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành Bêlem, vì Ta chọn một người con của ông ấy lên làm vua”.
Khi (họ) vào nhà, Samuel gặp ngay Eliab và nói: “Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?” Và Chúa phán cùng Samuel: “Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi. Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn”. Isai lần lượt đem bảy đứa con mình ra trình diện với Samuel. Samuel nói với Isai: “Chúa không chọn ai trong những người này”. Samuel nói tiếp: “Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?” Isai đáp: “Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên”. Samuel nói với Isai: “Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về”. Isai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: “Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó”. Samuel lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ðavít từ ngày đó trở đi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi
Xướng: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
Xướng: Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. – Dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.
Xướng: Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
Xướng: Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Bài Ðọc II: Ep 5, 8-14
“Từ trong cõi chết, ngươi hãy đứng lên và Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Êphêxô.
Anh em thân mến, xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật. Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì, nhưng phải tố cáo thì hơn. Vì chưng, việc chúng làm cách thầm kín, dầu có nói ra cũng phải hổ thẹn. Nhưng tất cả những việc người ta tố cáo, thì nhờ sự sáng mà được tỏ bày ra; vì mọi việc được tỏ bày, đều là sự sáng. Bởi thế, thiên hạ nói: “Hỡi kẻ đang ngủ, hãy thức dậy, hãy vùng dậy ra khỏi cõi chết, và Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi”.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm
Chúa phán: “Ta là sự sáng thế gian, ai theo Ta, sẽ được ánh sáng ban sự sống”.
PHÚC ÂM: Ga 9, 1-41 (bài dài)
“Hắn đi rửa, rồi trở lại trông thấy rõ”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?” Chúa Giêsu đáp: “Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian”. Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa” (chữ Silôê có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng và những kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: “Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?” Có kẻ nói: “Ðúng hắn!” Lại có người bảo: “Không phải, nhưng là một người giống hắn”. Còn anh ta thì nói: “Chính tôi đây”. Họ hỏi anh: “Làm thế nào mắt anh được sáng?” Anh ta nói: “Người mà thiên hạ gọi là Giêsu đã làm bùn xức mắt tôi và bảo: Ngươi hãy đến hồ Silôê mà rửa. Bấy giờ tôi đi, tôi rửa và tôi trông thấy”. Họ lại hỏi: “Ngài ở đâu?” Anh thưa: “Tôi không biết”.
Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt? Anh đáp: “Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt”. Mấy người biệt phái nói: “Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat”. Mấy kẻ khác lại rằng: “Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?” Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: “Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Ðó là một tiên tri”.
Nhưng người Do-thái không muốn tin anh đã mù và đã được khỏi trước khi đòi cha mẹ anh đến. Họ hỏi hai ông bà: “Người này có phải là con hai ông bà mà ông bà bảo bị mù từ khi mới sinh không? Do đâu mà bây giờ nó lại trông thấy?” Cha mẹ y thưa rằng: “Chúng tôi xác nhận đây chính là con chúng tôi, và nó đã bị mù từ khi mới sinh. Nhưng làm sao mà bây giờ nó trông thấy, và ai đã mở mắt cho nó thì chúng tôi không biết. Nó khôn lớn rồi, các ông hãy hỏi nó, nó sẽ tự thưa lấy”. Cha mẹ anh ta nói thế bởi sợ người Do-thái, vì người Do-thái đã bàn định trục xuất khỏi hội đường bất cứ ai dám công nhận Chúa Giêsu là Ðấng Kitô. Chính vì lý do này mà cha mẹ anh ta nói: “Nó khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”.
Lúc ấy người Do-thái lại gọi người trước kia đã mù đến và bảo: “Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa! Phần chúng ta, chúng ta biết người đó là một kẻ tội lỗi”. Anh ta trả lời: “Nếu đó là một người tội lỗi, tôi không biết; tôi chỉ biết một điều: trước đây tôi mù và bây giờ tôi trông thấy”. Họ hỏi anh: “Người đó đã làm gì cho anh? Người đó đã mở mắt anh thế nào?” Anh thưa: “Tôi đã nói và các ông đã nghe, các ông còn muốn nghe gì nữa? Hay là các ông cũng muốn làm môn đệ Ngài chăng?” Họ liền nguyền rủa anh ta và bảo: “Mày hãy làm môn đệ của người đó đi, còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của Môsê. Chúng ta biết Thiên Chúa đã nói với Môsê, còn người đó chúng ta không biết bởi đâu mà đến”. Anh đáp: “Ðó mới thật là điều lạ: người đó đã mở mắt cho tôi, thế mà các ông không biết người đó bởi đâu. Nhưng chúng ta biết rằng Thiên Chúa không nghe lời những kẻ tội lỗi, mà hễ ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý Chúa, thì kẻ đó mới được Chúa nghe lời. Xưa nay chưa từng nghe nói có ai đã mở mắt người mù từ khi mới sinh. Nếu người đó không bởi Thiên Chúa thì đã không làm được gì”. Họ bảo anh ta: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?” Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ta ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: “Anh có tin Con Thiên Chúa không?” Anh thưa: “Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?” Chúa Giêsu đáp: “Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh”. Anh ta liền nói: “Lạy Ngài, tôi tin”, và anh ta sấp mình thờ lạy Người. Chúa Giêsu liền nói: “Chính vì để luận xét mà Ta đã đến thế gian hầu những kẻ không xem thấy, thì được xem thấy, và những kẻ xem thấy, sẽ trở nên mù”. Những người biệt phái có mặt ở đó liền nói với Người: “Thế ra chúng tôi mù cả ư?” Chúa Giêsu đáp: “Nếu các ngươi mù, thì các ngươi đã không mắc tội; nhưng các ngươi nói “Chúng tôi xem thấy”, nên tội các ngươi vẫn còn”.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 9, 1. 6-9. 13-17. 34-38
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa” (chữ Silôe có nghĩa là được sai)”. Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng và kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: “Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?” Có kẻ nói: “Ðúng hắn”. Lại có người bảo: “Không phải, nhưng là một người giống hắn”. Còn anh ta thì nói: “Chính tôi đây”.
Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: “Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt”. Mấy người biệt phái nói: “Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat”. Mấy kẻ khác lại rằng: “Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?” Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: “Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Ðó là một Tiên tri”. Họ bảo anh ta: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?” Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: “Anh có tin Con Thiên Chúa không?” Anh thưa: “Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?” Chúa Giêsu đáp: “Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh”. Anh ta liền nói: “Lạy Ngài, tôi tin”, và anh ta sấp mình thờ lạy Người.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta khẩn cầu Thiên Chúa giải thoát chúng ta khỏi bóng tối và sự sợ hãi, để biến đổi chúng ta thành ánh sáng cho trần gian. Trong tâm tình đó, chúng ta dâng lời cầu nguyện.
1. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy sống xứng đáng là con cái của sự sáng. Xin cho mỗi Kitô hữu hân hoan vì hồng ân nhận biết Chúa Cha và Đức Giêsu là Con của Ngài, đồng thời để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn.
2. Chúa Giêsu mở mắt cho người mù từ thuở mới sinh. Xin cũng mở mắt và mở tâm trí những người đang nắm giữ vận mệnh của nhân loại, để họ luôn hành động vì công bình, và nỗ lực xây dựng nền văn minh tình thương.
3. Chúa Giêsu giúp mỗi người chúng ta nhận biết Người và nhờ đó được lớn lên trong đức tin. Nhờ lời Chúa, xin cho chúng ta mỗi ngày được lớn lên trong sự hiệp thông với Chúa và với anh chị em.
4. Chúa Giêsu là Bánh Hằng Sống của Chúa Cha từ trời xuống. Được chia sẻ cùng một tấm Bánh Thánh Thể, xin cho mỗi người chúng ta biết chia sẻ bánh hằng ngày với anh chị em, để không ai trong các con cái Chúa cảm thấy cô đơn và bị bỏ rơi.
Chủ tế: Lạy Cha là nguồn mạch ơn tha thứ, trong Chúa Giêsu, Cha đã ban cho chúng con sự tự do đích thực, xin nhận lời cầu nguyện của chúng con, và xin hướng dẫn để chúng con sống theo giáo huấn của Tin Mừng, biết quảng đại phục vụ anh chị em. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa lễ vật này là của lễ đem lại phúc trường sinh. Xin gia tăng lòng kính tin sùng mộ giúp chúng con dâng thánh lễ này cho xứng đáng, hầu mưu ích cho cả trần gian. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng (Năm A)
Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người dẫn đưa nhân loại đang lần bước trong u tối đến nguồn ánh sáng đức tin. Nhờ phép rửa mang lại đời sống mới, Người giải thoát những kẻ sinh ra đã mắc tội truyền, và nâng lên hàng nghĩa tử của Chúa. Vì thế, mọi loài trên trời dưới đất đều thờ lạy Chúa và hát bài ca mới. Cùng với toàn thể thiên thần, chúng con chúc tụng Chúa, và không ngừng tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Chúa đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa, tôi được sáng mắt và tôi đã tin Thiên Chúa.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa là ánh sáng muôn đời chiếu soi mọi người sinh ra trong trần thế, xin rộng ban ân sủng làm cho tâm hồn chúng con được bừng sáng huy hoàng, để chúng con hằng biết suy tưởng những điều đẹp lòng Chúa, và chân thành yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
Người mù
Sưu tầm
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta nhận thấy: Anh mù là một người can đảm và đầy thiện chí. Mặc dù ít học, nhưng lời lẽ của anh thật là khôn ngoan. Tâm hồn anh luôn rộng mở để đón nhận chân lý và luôn cố gắng thực hiện những điều tốt lành, cho dù có gặp phải những phức tạp và phiền toái. Ngoài ra anh còn có một chút châm biến đối với những kẻ rình rập bắt lỗi anh.
Trong khi đó cha mẹ anh lại không muốn dây dưa vào câu chuyện xảy ra. Hai ông bà đã trả lời một cách khôn khéo cho bọn biệt phái: Xin hãy hỏi cháu vì cháu nó đã có tuổi. Chủ đích của hai ông bà không phải là tìm kiếm sự thật, nhưng là tránh đi những khó dễ gặp phải.
Còn đám đông dân chúng thì sao? Một số người đã chứng kiến sự việc xảy ra. Nhưng một số kẻ khác, có phần đông hơn, đã không muốn đón nhận sự thật. Họ bàn tán, họ tranh luận và sau cùng họ chối bỏ sự thật. Để biện minh cho lập trường của mình, họ đã nại tới luật kiêng việc xác ngày Sabat, tức là ngày thứ bảy nơi người Do Thái. Họ đã suy diễn một cách hàm hồ: Người ta không được phép chữa bệnh trong ngày nghỉ lễ. Đó là một điều cấm. Vậy thì Đấng đã chữa lành trong ngày nghỉ lễ là ai, nếu không phải chỉ là một kẻ tội lỗi. Bọn biệt phái bực bội và tức tối. Thế nhưng, lời nguyền rủa và bạo lực không bao giờ là những chứng cứ có giá trị, trái lại nó là một dấu chỉ biểu lộ một niềm tin sai lạc mà thôi.
Chúa Giêsu hay biết anh mù đã bị trục xuất khỏi hội đường, bởi đó khi gặp anh, Ngài đã hỏi anh ta: Con có tin vào Con Người hay không? Anh ta liền thưa: Lạy Thầy, Thầy là ai để tôi tin vào Ngài? Chúa Giêsu nói: Con đã thấy, chính Ngài đang nói với con đây. Cõi lòng anh lúc này được rộng mở để đón nhận chân lý. Anh nói: Lạy Chúa, con xin tin. Anh quỳ gối trước mặt Ngài. Kể từ đó, anh bước theo Ngài và thuộc hẳn về Ngài.
Trong một bài báo bàn về đức tin, cha Jacques Loew đã xác quyết: Đức tin không phải là chấp nhận các công thức có sẵn, một lần thay cho tất cả, cũng không phải là như một chiếc bánh, chúng ta có thể chia ra làm nhiều phần. Trái lại đức tin chính là niềm cậy trông và phó thác, không phải vào tư tưởng và sức riêng của mình, nhưng là vào tình thương và quyền năng của Chúa.
Đời sống của Chúa chính là cái khuôn mẫu cho cuộc đời chúng ta noi theo. Nếu chúng ta tin vào Đức Kitô và lời Ngài giảng dạy, thì cách sống của chúng ta sẽ đổi khác, cách nhìn của chúng ta cũng đổi khác và cách đối xử của chúng ta cũng đổi khác. Thế nhưng chúng ta đã có một niềm tin như thế hay chưa, và hơn thế nữa, chúng ta đã thực sự sống niềm tin của chúng ta hay chưa?
XIN CHO CON ĐỪNG THẤY!
(Chúa Nhật IV Mùa Chay A) - Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
“Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù” (Ga 9, 39). Lời khẳng định của Chúa Giêsu xem ra khó nghe thậm chí thật khó hiểu nếu không ở trong ngữ cảnh lúc bấy giờ. Cùng với anh mù từ thưở mới sinh, chúng ta chân thành tin nhận “Người là ánh sáng thế gian” (Ga 9, 5). Dưới cái nhìn đức tin này chúng ta có thể hiểu phần nào lời tuyên bố của Đấng Cứu Độ.
1. Người làm cho kẻ tự cho mình là thấy, là sáng, là am hiểu, trở nên đui mù, nghĩa là nhận ra sự lệch lạc, sai lầm của mình.
Xem quả thì biết cây. Không ai hái được trái nho nơi bụi gai. “Trong nhóm Pharisiêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày Sabbat”, kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi thì làm sao có thể làm đựơc những dấu lạ như vậy?”. Thế là họ đâm ra chia rẽ. Một dấu lạ vượt quá khả năng bình thường của con người là làm cho kẻ mù từ thuở mới sinh được trông thấy. Đúng là một dấu lạ tốt đẹp. Một hành vi tự nó là tốt đẹp được thực hiện trong một hoàn cảnh trái với quy định của luật lệ thì có còn là tốt đẹp chăng? Nếu luật lệ ấy thuộc hàng thiên luật (như luật tự nhiên, luật mạc khải) thì nói chung là không còn là tốt đẹp vì “mục đích không thể biện minh cho phương tiện”. Giúp kẻ nghèo là việc tốt, lo lắng cho gia đình là việc tốt, nhưng không thể biện minh cho cách thế kiếm tiền để làm những điều ấy bằng việc ăn cắp, tham ô, hối lộ… được. Tuy nhiên nếu luật đó thuộc hàng nhân luật (như luật quốc gia, luật Hội Thánh…), thì các việc tốt đẹp cao cả như việc cứu sống người hay mở mắt người mù thì luôn ở trên các quy định của nhân luật. Chúa Kitô không chỉ một lần như trong câu chuyện hôm nay mà đã nhiều lần vạch trần sự sai lầm của một số người biệt phái, luật sĩ khi họ tuyệt đối hoá nhân luật như luật Lễ nghỉ hay các tập tục tiền nhân mà xem nhẹ và bỏ qua lề luật của Thiên Chúa như đức công bình và đạo yêu thương, lòng từ bi và tình thương xót.
Chước cám dỗ muốn tuyệt đối hoá các chỉ thị, các quy định hay luật lệ của mình, dù chỉ là phàm nhân, vẫn còn đó dưới mọi hình thức. Tình trạng “phép vua thua lệ làng hay đạo trời còn dưới ý con người” vẫn đang tồn tại cách này cách khác ngoài xã hội và có khi cả trong các tập thể tôn giáo. Xin cho ánh sáng Đấng Cứu Độ chiếu soi sự u minh của những người tự cho mình là sáng nhưng thực ra đang ở trong mê lầm. “Nếu các ông đui mù thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy”, nên tội các ông vẫn còn” (Ga 9, 41).
2. Người làm cho người không xem thấy được thấy: Con người thường xem xét dựa vào cái bên ngoài, còn Thiên Chúa thì thấy tận cõi sâu tâm hồn con người. Chính vì thế, để có một cái nhìn quân bình và toàn diện, cần phải biết nhìn theo cách nhìn của Thiên Chúa. Đức Kitô, cuộc đời, những lời giảng dạy và các hoạt động của Người chính là cách thế giúp ta nhìn nhận cuộc đời, con người, các sự vật, hiện tượng cách đúng đắn và chuẩn mực.
Chúa Kitô không chỉ dùng quyền năng làm cho anh mù từ thưở mới sinh được thấy ánh sáng tự nhiên, Người còn khai mở con mắt đức tin của anh khiến anh can đảm nhìn nhận và tuyên xưng Người là một vị Ngôn sứ cho dù phải bị trục xuất ra khỏi Hội đường. Các môn đệ vốn mù tối lầm lạc khi cho rằng anh mù từ thưở mới sinh là do tội của anh ta hoặc do tội của cha mẹ anh ta. Chúa Kitô đã mở mắt cho các ngài để các ngài nhận ra rằng có nhiều sự dữ là do tội lỗi con người gây ra nhưng cũng có nhiều sự dữ xảy ra mà chẳng do bởi lỗi của người này hay người kia. “Đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể được” (Mt 19, 26). Qua các sự dữ, Thiên Chúa có thể làm nổi rõ quyền năng và tình yêu của Người.
3. Là ánh sáng thế gian, Chúa Kitô thúc bách ta phải thấy cả những điều ta không muốn thấy. Quả thật, rất nhiều khi ta bị cám dỗ “được không nhìn thấy” để khỏi phải vất vả, khỏi phải hy sinh hay khỏi phải dấn thân, chia sẻ… Mở cửa ra, nhìn thấy người tàn tật, thế là được mời gọi chia sẻ. Một đôi lần thì có thể được, nhưng một ngày mà đến ba bốn lần nhìn thấy thì sao đây? Thấy chuyện bất công là được mời gọi săn tay áo để tạo lập sự công bằng… Không nguyên chỉ vất vả mà còn biết bao điều phiền toái có thể ập đến. Lắm khi chưa được mạ thì má đã sưng hoặc cảnh ai thổi lửa người đó bỏng môi là điều dường như khó tránh.
Lạy Chúa xin cho con đừng thấy. Một lời cầu xin để mình được an phận. Ánh sáng đã đến thế gian. Chúa Kitô đã đến thế gian, Người làm cho kẻ mù được thấy và bắt kẻ không thích nhìn thấy cũng phải thấy, ngoại trừ chính họ tự ý bịt mắt không muốn nhìn. Không cứu sống là đang giết chết. Không làm điều lành là đã làm điều dữ (x.Mc 3, 1-5). Phải làm ngay hôm nay những gì ta thấy phải làm theo khả năng và hoàn cảnh của mình.
Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm… Một lời cầu xin thật chính đáng và phải đạo mà Kitô hữu thường xuyên đọc. Thế nhưng khi Chúa cho ta thấy, cho ta biết việc phải làm thì sao đây? Có khi nào ta bị cám dỗ “ước gì đừng thấy, ước gì đừng biết” chăng?
Chúa Nhật thứ 4 Mùa Chay – Năm A (2020)
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (Ga 9, 1. 6-9. 13-17. 34-38).
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa” (chữ Silôe có nghĩa là được sai)”. Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được.
Những người láng giềng và kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: “Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?” Có kẻ nói: “Ðúng hắn”. Lại có người bảo: “Không phải, nhưng là một người giống hắn”. Còn anh ta thì nói: “Chính tôi đây”.
Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: “Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt”. Mấy người biệt phái nói: “Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat”. Mấy kẻ khác lại rằng: “Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?” Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: “Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Ðó là một Tiên tri”. Họ bảo anh ta: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?” Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài.
Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: “Anh có tin Con Thiên Chúa không?” Anh thưa: “Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?” Chúa Giêsu đáp: “Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh”. Anh ta liền nói: “Lạy Ngài, tôi tin”, và anh ta sấp mình thờ lạy Người.
Suy niệm
Ánh sáng luôn là một phương tiện giúp con người rất nhiều trong cuộc sống ở mọi lãnh vực khác nhau. Nhờ ánh sáng, con người có thể đi trong đêm tối không sợ lạc đường, nhờ ánh sáng, trong các gia đình có những bữa cơm ấm áp hơn trong tình người, đặc biệt, trong hành trình đức tin của mỗi tín hữu, nhờ ánh sáng, sẽ không bao giờ lạc lối. Ánh sáng đó là gì nếu không phải là Chân Lý, nếu không phải là Lời Chúa, nếu không phải là sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần qua Mẹ Giáo Hội. Chúa nhật thứ 4 Mùa Chay được gọi là Chúa nhật màu hồng, Chúa nhật của niềm vui, Chúa nhật của ánh sáng.
Trong cuộc sống, con người thường lầm tưởng những nghĩ suy của mình giống những nghĩ suy của Thượng Đế. Do những lầm tưởng đó, con người thường áp đặt cho Thượng Đế những kế hoạch, những tính toán theo kiểu thế gian. Câu chuyện trong bài đọc 1 được trích từ sách Samuel quyển thứ nhất, kể về một biến cố rất đặc biệt, là Giavê chọn một con người để thay Ngài hướng dẫn dân riêng của Giavê luôn đi trong chính lộ, con người đó là Đavid. Khi Người của Thiên Chúa đến thăm gia đình ông Isai để chọn một trong số con trai của ông như là người đại diện của Thiên Chúa, ông Isai đã giới thiệu các con mình từ đứa lớn, khoẻ, cho đến đứa có tài năng, nhưng người của Thiên Chúa không chấp nhận, cuối cùng, người của Thiên Chúa đã chọn cậu con trai út, dù đó chỉ là một thanh niên dáng mảnh khảnh, để làm người đại diện cho Thiên Chúa, giúp đỡ dân đi theo kế hoạch của Ngài: “Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?” Và Chúa phán cùng Samuel: “Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi. Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn”. Isai lần lượt đem bảy đứa con mình ra trình diện với Samuel. Samuel nói với Isai: “Chúa không chọn ai trong những người này”. Samuel nói tiếp: “Tất cả con ông có bấy nhiêu đó phải không?” Isai đáp: “Còn một đứa út nữa, nó đi chăn chiên”. Samuel nói với Isai: “Ông hãy sai người đi gọi nó về, vì chúng ta không ngồi vào bàn ăn trước khi nó về”. Isai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: “Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó”. Thiên Chúa là vậy, Ngài nhìn thấu tận tâm hồn, Ngài cần nơi con người sự chân thành, khiêm tốn, chứ không cần nơi con người tài năng, tri thức và sức khoẻ, tất cả những yếu tố đó chỉ là phương tiện, giúp con người khi thực hiện kế hoạch của Thiên Chúa được viên mãn.
Khi hiện diện giữa cộng đoàn giáo dân thành Ephêsô, thánh Tông Đồ dân ngoại đã đánh thức con người mới của họ, có thể bấy lâu nay đang ngủ say trong sự kìm toả của truyền thống, của lề luật: “Hỡi kẻ đang ngủ, hãy thức dậy, hãy vùng dậy ra khỏi cõi chết, và Chúa Kitô sẽ chiếu sáng trên ngươi”. Khi họ ngủ quên trong những vòng kim cô đó, họ quên luôn cả phẩm giá mới của mỗi người, bởi họ đã được Chúa Kitô phục sinh chiếu một luồng sáng mới trên cuộc đời và con người của họ: “Anh em thân mến, xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật”. Khi mỗi người được ở trong thế giới sự sáng, họ được mời gọi sống như con cái sự sáng, là chiếu toả ánh sáng phục sinh của Đức Giêsu Kitô qua cuộc đời và tâm tình sống mỗi ngày. Để ánh sáng phục sinh chiếu toả trên mỗi con người, mỗi biến cố, người tín hữu Kitô cần nghe được Lời Chúa nhắc mỗi ngày, điều Chúa muốn trong mỗi biến cố, và kế hoạch của Ngài trong mỗi cuộc đời, mỗi con người. Những gì người tín hữu thực hiện trong cuộc sống, nếu theo kế hoạch của Thiên Chúa, luôn đem lại lợi ích thực tiễn cho bản thân, cho những người chung quanh, đặc biệt cho tương lai của chính mình. Đó cũng là lúc người tín hữu biến cuộc đời mình trở thành một ngọn đèn cháy sáng, một đốm lửa của tình thương, một hơi ấm của Tin Mừng. Đốm lửa đó, ngọn đèn đó và hơi ấm đó có thể giúp tha nhân tìm thấy sự hiện diện của Thiên Chúa tình yêu giữa lòng thế giới, trong mỗi gia đình và bên cạnh mỗi người giữa cuộc đời.
Không có gì hạnh phúc và vui sướng khi được bước từ thế giới của sự tối tăm vào thế giới của sự sáng. Người mù trong câu chuyện thánh Gioan kể lại trong bài Tin Mừng, là một minh chứng. Anh ta sinh ra trong thế giới của những người khiếm thị, mỗi ngày chỉ ước ao được nhìn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng không thể được: “Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?” Có kẻ nói: “Ðúng hắn”. Lại có người bảo: “Không phải, nhưng là một người giống hắn”. Còn anh ta thì nói: “Chính tôi đây”. Khát vọng sâu xa nhất của người mù là có một đôi mắt sáng. Đôi mắt sáng giúp anh ta hoà nhập vào một gia đình, giúp anh ta hoà nhập vào một cộng đoàn, và hơn nữa, giúp anh ta đứng trên đôi chân phẩm giá một con người. Chỉ vì thiếu đi đôi mắt thể lý, người khiếm thị này như bị lãng quên giữa gia đình và giữa cộng đoàn, vì thiếu đi một phần quan trọng của thân thể, anh ta bị tách ra khỏi cộng đoàn, sống bên lề xã hội, điều tất yếu là anh ta không được cùng cộng đoàn tham gia mọi sinh hoạt tâm linh. Trước một khát vọng rất chân thành nhưng đầy mãnh liệt đó, Đấng Cứu Thế đã động lòng trắc ẩn, xức mắt cho anh ta, bảo anh ta đi rửa sạch bằng dòng nước hồ Siloe: “Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa” (chữ Silôe có nghĩa là được sai)”. Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được”. Được mở mắt, anh chàng khiếm thị quá đỗi vui mừng, anh còn được hướng dẫn đi dâng lễ vật và trình diện với các Tư tế, để từ đó, anh được trở lại với cộng đoàn, được hồi sinh trong tình liên đới, và hơn nữa, anh sẽ được lề luật và của lễ giúp hoàn thiện ơn gọi làm người. Cũng từ dấu lạ được sáng mắt thể lý, đôi mắt tinh thần của anh ta cũng được chữa lành. Anh đã nhận ra người cho anh sáng mắt là Đấng đem ánh sáng cho nhân loại. Anh đã tin và đi theo Ngài. Đức Giêsu được nhìn nhận là ánh sáng của Thiên Chúa, cuộc đời và sứ điệp của Ngài là một bó đuốc sáng, dẫn đưa bao người ra khỏi thế giới bóng tối và sự chết, khi họ tin nhận Ngài, đồng thời, Ngài đưa họ đi vào vương quốc của sự sáng, vương quốc của tình yêu, vương của của sự sống đời đời.
Khi thế giới đang đối diện với đại dịch lớn, làm thay đổi mọi sinh hoạt của nhân loại nói chung và của Giáo hội nói riêng. Chính trong lúc này, mỗi tín hữu cần có một đôi mắt tinh thần thật sáng, để nhìn nhận câu chuyện hiện tại thực hư như thế nào, cần có một đôi mắt tinh thần sáng, để thấy hành trình đức tin của nhân loại đang đi hướng nào, rồi từ đây, ánh sáng Lời Chúa và Nguồn Nước hằng sống sẽ rửa đôi mắt đức tin mỗi người được sáng hơn trước mọi biến cố của thế giới, hầu có thể giúp củng cố niềm tin cho anh chị em mình.
Trong đời sống hàng ngày của mỗi tín hữu Kitô, đôi mắt đức tin có những lúc bị che lấp bởi những đám mây ảo, hoặc những tảng băng tàng hình. Để có một gia đình hạnh phúc và ngập tràn yêu thương, mỗi thành viên nên thẳng thắn nhìn nhận những khiếm khuyết của nhau, chấp nhận nó để giúp nhau hoàn thiện, chấp nhận những khiếm khuyết là một đòi hỏi phải từ bỏ cái tôi và những cá tính của mình, để có thể thấy nơi người mình yêu, dù còn thiếu sót, nhưng thật đáng yêu và đáng trân trọng biết bao. Đó cũng là lúc đôi mắt tinh thần được rửa sạch, được chăm sóc, để nhận ra đó là một nửa của cuộc đời mình, và nơi một nửa đó, có sự hiện diện của một Thiên Chúa tình yêu, mình phải trân trọng và yêu thương. Những yếu tính của hôn nhân Công giáo hay tự nhiên đều mời gọi những ai chọn sống hãy có một đôi mắt tinh thần đủ sáng, đủ tinh anh, để chấp nhận nhau trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Còn đời sống hiến dâng cũng là một ơn gọi đặc biệt trong kế hoạch của Thiên Chúa. Có thể nói rằng đó là một ơn gọi dành riêng cho đời phục vụ, phục vụ tha nhân, phục vụ các thành viên trong cộng đoàn, phục vụ cả những người mình khó chấp nhận. Để có thể sống ơn gọi phục vụ cách vẹn tròn, cần có một đôi mắt tinh thần đủ sáng, một đôi mắt đức tin đủ xác tín và đầy tình tích cực, để trong mọi hoàn cảnh được gởi tới, người tín hữu Kitô sống ơn gọi phục vụ có thể nhận ra một Đức Kitô đang nhận chịu muôn vàn thiệt thòi, đau khổ, trong đó có cả những thiếu thốn về cả vật chất lẫn tinh thần, từ đó, mới có đủ nghị lực để đón nhận họ, phục vụ họ, yêu thương họ và xa hơn nữa là tha thứ cho họ.
Mỗi ơn gọi đều có những giá trị thiêng liêng trong hành trình. Mỗi ơn gọi cũng có những khó khăn nhất định khi bước vào. Lắm lúc người tín hữu dễ sai lạc trong hành trình ơn gọi của mình, bởi đôi mắt đức tin chưa đủ sáng, chưa đủ tự tin và chưa thực sự xác tín để sống và đón nhận những thách đố trong hành trình. Đó có phải là lúc chúng ta cần đến sự hiện diện của Thiên Chúa, để người tẩy rửa những bóng đen vô hình, đang che lấp những mảnh sáng của niềm tin và lòng mến trong tâm hồn. Cũng có lúc cần đến những hơi nóng của đời phục vụ, để làm tan chảy những tảng băng tàng hình, đang ẩn hiện trên bầu trời tình yêu, nơi những người chọn ơn gọi phục vụ được gởi tới. Đó là lúc đôi mắt đức tin và tình yêu đủ sáng, đủ nóng và đủ ấm để nhận ra sự hiện diện cách này cách khác của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa chạnh lòng thương người mù từ thuở mới sinh, để rồi trả lại cho anh ta đôi mắt thể lý trong sáng, cũng như chữa lành đôi mắt đức tin của anh, để anh tin và đi theo Chúa, xin Chúa chữa đôi mắt chúng con, dù đôi mắt thể xác còn tinh anh, nhưng đôi mắt đức tin có lúc đã bị mù, bị che phủ bởi sự ích kỷ và tính toán của kiếp người. Chúa đã đón nhận và hướng dẫn anh mù lên đường để làm chứng về một Đấng đem ánh sáng tình yêu và hy vọng đến cho mọi người, xin cho chúng con được tiếp bước người mù đó, trong mỗi ơn gọi được Chúa trao mời, cố gắng lên đường, cố gắng phục vụ, và cố gắng đón nhận tha nhân, bởi nơi đó, một Thiên Chúa yêu thương họ và yêu thương chúng con, đang hiện diện. Amen.
Chúa nhật tuần lễ thứ tư mùa chay -A (2023)
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (bài ngắn - Ga 9, 1. 6-9. 13-17. 34-38).
Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy, và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôe mà rửa” (chữ Silôe có nghĩa là được sai)”. Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được. Những người láng giềng và kẻ xưa kia từng thấy anh ta ăn xin đều nói: “Ðó chẳng phải là người vẫn ngồi ăn xin sao?” Có kẻ nói: “Ðúng hắn”. Lại có người bảo: “Không phải, nhưng là một người giống hắn”. Còn anh ta thì nói: “Chính tôi đây”. Họ liền dẫn người trước kia bị mù đến với những người biệt phái, lý do tại Chúa Giêsu hoà bùn và chữa mắt cho anh ta lại nhằm ngày Sabbat. Các người biệt phái cũng hỏi anh ta do đâu được sáng mắt. Anh đáp: “Ngài đã xoa bùn vào mắt tôi, tôi đi rửa và tôi được sáng mắt”. Mấy người biệt phái nói: “Người đó không phải bởi Thiên Chúa, vì không giữ ngày Sabbat”. Mấy kẻ khác lại rằng: “Làm sao một người tội lỗi lại làm được những phép lạ thể ấy?” Họ bất đồng ý kiến với nhau. Họ liền quay lại hỏi người mù lần nữa: “Còn anh, anh nói gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp: “Ðó là một Tiên tri”. Họ bảo anh ta: “Mày sinh ra trong tội mà mày dám dạy chúng ta ư?” Rồi họ đuổi anh ta ra ngoài. Chúa Giêsu hay tin họ đuổi anh ra ngoài, nên khi gặp anh, Người liền bảo: “Anh có tin Con Thiên Chúa không?” Anh thưa: “Thưa Ngài, nhưng Người là ai để tôi tin Người?” Chúa Giêsu đáp: “Anh đang nhìn thấy Người và chính Người đang nói với anh”. Anh ta liền nói: “Lạy Ngài, tôi tin”, và anh ta sấp mình thờ lạy Người.
Suy niệm
Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn. Bấy lâu nay người ta thường tìm hiểu người đối diện qua đôi mắt của họ mỗi khi cùng trò chuyện, cùng làm việc và cùng tham gia mọi sinh hoạt trong cuộc sống. Thế nhưng, đó chỉ là một góc nhìn chủ quan, một cách đánh giá tha nhân xem ra không mấy gần gũi với thực tế. Thực tế, muốn hiểu và biết một ai đó, bản thân cần có một đôi mắt sáng thực sự, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Phụng vụ Lời Chúa tuần lễ thứ tư mùa chay, mời gọi người tín hữu hãy cầu nguyện cho bản thân có được đôi mắt sáng, đôi mắt đây là đôi mắt tâm hồn, bởi khi có đôi mắt sáng, góc nhìn của người đó mới có chiều sâu, mới vượt ra khỏi giới hạn của định kiến, của dục vọng và của suy nghĩ thiển cận của bản thân. Đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, nhưng đó chỉ là một chút mang hình thức, còn tận đáy tâm hồn của người đó, cần có một đôi mắt sáng đến từ một trái tim mang dáng dấp của một trái tim bằng thịt, một trái tim biết yêu và biết rung động.
Sa-mu-el là một tiên tri lớn, được lớn lên trong môi trường tôn giáo truyền thống, được dạy dỗ nhờ các bậc hiền triết, các tiên tri, thế mà, khi được Thiên Chúa sai đi xức dầu cho một chàng thanh niên để làm vua dân Do-thái, ông đã có những cái nhìn thất bại, chủ quan theo ý riêng của ông, qua những chọn lựa, ông đã nhận ra cái nhìn của Gia-vê Thiên Chúa hoàn toàn khác con người: “Trong những ngày ấy, Chúa phán cùng Samuel rằng: “Hãy đổ dầu cho đầy bình và lên đường. Ta sai ngươi đến nhà Isai dân thành Bêlem, vì Ta chọn một người con của ông ấy lên làm vua”. Khi (họ) vào nhà, Sa-mu-el gặp ngay E-li-ap và nói: “Có phải người xức dầu của Chúa đang ở trước mặt Chúa đây không?” Và Chúa phán cùng Sa-mu-el: “Ðừng nhìn xem diện mạo, vóc cao, vì Ta đã loại nó rồi. Ta không xem xét theo kiểu của con người, vì chưng con người nhìn xem bên ngoài, còn Thiên Chúa thì nhìn xem tâm hồn”. Là một người được chọn làm vua phải có tướng mạo uy nghi, mạnh mẽ, đó là cách nhìn theo hình thức bên ngoài, là cách thông thường của con người, nhưng Thiên Chúa lại có cái nhìn vào tận tâm hồn những ai Ngài cần dùng. Có những công việc, con người tưởng chừng như thành công sẽ đến, nhưng thay vào đó là thất bại, có những công việc, con người nghĩ rằng không bao giờ có thành công, thì mọi sự lại viên mãn. Bởi tất cả đều nằm trong cái nhìn của Thiên Chúa: “I-sai sai người đi tìm đứa con út. Ðứa út này có mái tóc hoe, có đôi mắt xinh và gương mặt đẹp. Chúa phán: “Ngươi hãy chỗi dậy, xức dầu lên nó, vì chính nó đó”. Sa-mu-el lấy bình dầu ra, xức lên nó trước mặt các anh em, và Thánh Thần Chúa ngự trong Ða-vít từ ngày đó trở đi”.
Sống giữa một thế giới đầy những vẻ lấp lánh của hình thức, của mẫu mã, đôi mắt đức tin của người tín hữu Kitô hôm nay, đang bị bóng đen của những mẫu mã đó che khuất. Do đó, chúng ta có thể hiểu được phần nào, những lời giáo huấn của thánh Phaolô gởi đến cộng đoàn Ê-phê-sô khi anh em tín hữu ở đó, có những cái nhìn lệch lạc về niềm tin, về cách làm chứng cho tin mừng thiếu nền tảng chân lý của tin mừng: “Anh em thân mến, xưa kia anh em là sự tối tăm, nhưng bây giờ, anh em là sự sáng trong Chúa. Anh em hãy ăn ở như con của sự sáng, bởi vì hoa trái của sự sáng ở tại tất cả những gì là tốt lành, là công chính và chân thật. Anh em hãy nhận biết điều gì làm đẹp lòng Chúa, và đừng thông phần vào những việc con cái tối tăm không sinh lợi ích gì, nhưng phải tố cáo thì hơn”. Được tái sinh nhờ phép rửa, người tín hữu cần có một đôi mắt sáng với những góc nhìn của chân lý đến từ Tin Mừng, có được như thế, cuộc sống và lời chứng từ cuộc sống, mới thực sự đem lại giá trị tinh thần cho tha nhân, đặc biệt là trong việc truyền giáo.
Khi gặp người mù, các Tông đồ cũng có cái nhìn theo định kiến, có phải vì cha mẹ ăn ở nên con cái là nạn nhân không? Các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng có những góc nhìn hạn hẹp theo truyền thống, theo lề luật, vì thế, những người bệnh thường bị quy gán với những lý do rất chủ quan, rất thiếu thực tế: “Khi ấy, Chúa Giêsu đi qua, thấy một người mù từ khi mới sinh. Môn đệ hỏi Người: “Thưa Thầy, ai đã phạm tội, anh này hay cha mẹ anh, khiến anh mù từ khi mới sinh?” Chúa Giêsu đáp: “Không phải anh cũng chẳng phải cha mẹ anh đã phạm tội, nhưng để công việc của Thiên Chúa tỏ ra nơi anh. Bao lâu còn ban ngày, Ta phải làm những việc của Ðấng đã sai Ta. Ðêm đến không ai có thể làm việc được nữa. Bao lâu Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng thế gian”. Nói xong, Người nhổ xuống đất, lấy nước miếng trộn thành bùn, rồi xoa bùn trên mắt người ấy và bảo: “Anh hãy đến hồ Silôê mà rửa” (chữ Silôê có nghĩa là được sai). Anh ta ra đi và rửa, rồi trở lại thì trông thấy được”. Trong cuộc sống, không chỉ ngoài xã hội, nhưng trong chính tôn giáo, nhiều khi vì quan niệm lệch lạc, vì truyền thống tôn giáo, vì định kiến xã hội trong cộng đoàn, có nhiều góc nhìn được phác họa, có nhiều thảm họa đã xảy ra trong các gia đình và cá nhân của cộng đoàn, gây nên nhiều nỗi tang thương, đau khổ và như bị ruồng bỏ. Đó có phải là kế hoạch của Thiên Chúa không?
Ai cũng mong cho mình có đôi mắt sáng, ai cũng mong cho mình được bình an, khỏe mạnh và lạc quan giữa cuộc đời. Nhưng tiếc thay, ai cũng muốn hơn người khác trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, vì thế, không thiếu những câu chuyện thương tâm xảy ra, chỉ vì không ưa nhau, không thích nhau, hay oán ghét hận thù nhau. Vì thích sống trong những lời khen, nên con người thích tạo những vỏ bọc bên ngoài thật sang trọng và đẳng cấp, tất cả chỉ mong được người đời khen ngợi và kính nể, mong có những cái nhìn tâm phục khẩu phục, thực chất những hình thức đó, đâu làm nên giá trị của một con người, đặc biệt là người Kitô hữu. Thiên Chúa cần người tín hữu biết dựa vào những giá trị của tin mừng, biết khởi đi từ những giá trị nhân bản Kitô giáo, để làm sao cho mình có đôi mắt đức tin sáng, cho bản thân có những cái nhìn đúng đắn, không mang màu sắc định kiến, hay theo kiểu thế gian, cũng như không dựa vào bất cứ những giá trị truyền thống nào của con người.
Để sống tâm tình mùa chay cách tích cực, người tín hữu phải có cái nhìn như thế nào về mùa chay, về ý nghĩa của thời gian thánh này. Có nhiều người đã đi qua nhiều mùa chay, nhưng chỉ biết đó là thời gian có ngắm nguyện, có tuần thánh, có những ngày phải ăn chay kiêng thịt, có ngày được hôn chân Chúa, nhưng thực chất, chưa một lần có cái nhìn sâu xa mang chiều kích nội tâm của mùa chay. Hãy trở về với chính mình, trở về với những suy tư và nhận thức của bản thân, để tìm lại giá trị và ý nghĩa của mùa chay. Đây có phải là thời gian cần thiết, để người tín hữu rà soát lại tâm tình sống đạo của mình, bấy lâu nay tôi nhìn Thiên Chúa với góc nhìn thế nào, Ngài là ai, Ngài có ảnh hưởng gì đến đời sống của tôi. Còn về bản thân, mùa chay là dịp thuận tiện để bày tỏ sự mong manh của mình, cần sự giao hòa từ Thiên Chúa, cần lòng nhân từ của Ngài để được thứ tha. Thiên Chúa đang đợi chờ con người, khát mong được gặp con người, để tha thứ, để yêu thương và để nên một với Ngài.
Con người không thể áp đặt bất cứ điều sự việc gì, hay một cái nhìn như thế nào cho Thiên Chúa được, bởi Ngài có những chương trình, những kế hoạch cho riêng mỗi người và mọi người. Vì thế, con người đừng nên dựa vào định kiến riêng tư, đừng dựa vào suy đoán chủ quan theo xã hội, cũng đừng dùng những truyền thống của con người để áp đặt cho Thiên Chúa. Sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới này là vì yêu, vì mong được chia sẻ tình yêu đó cho con người, chứ không phải hiện diện để phán xét hay nghiêm phạt. Nếu muốn được thông chia sự sống thần linh với Thiên Chúa, con người cần loại bỏ tất cả những gì trong bản thân, để có một trái tim trống rỗng, một lý trí và ý chí tích cực, tất cả dành cho Thiên Chúa, có như vậy, tinh thần mùa chay mới thực sự là một dịp thuận tiện để con người hoán đổi chính mình.
Lạy Chúa, Chúa đến trần gian để bày tỏ cho con người biết chương trình cứu độ của Chúa Cha, ơn cứu độ đó sẽ đưa con người đến với mầu nhiệm tình yêu Ba Ngôi, xin cho chúng con luôn ý thức rằng, để đi vào quỹ đạo của tình yêu Ba Ngôi, con người cần loại bỏ những định kiến thế gian trong chính mình. Satan luôn có mặt mọi nơi, mọi lúc và trong mọi công việc, để cám dỗ con người, chia cắt con người với Thiên Chúa, xin ban thêm sức mạnh của niềm tin và tình yêu, để chúng con vượt thắng mọi cám dỗ, không rơi vào cạm bẫy của Satan, để chúng con được ở mãi trong ngôi nhà tình yêu của Thiên Chúa. Amen.
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY A
1 Sm 16, 1b.6-7.10-13a; Ep 5, 8-14; Ga 9, 1-41
LM ĐAN VINH - HHTM
XIN MỞ MẮT ĐỨC TIN ĐỂ VỮNG BƯỚC ĐI THEO CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG? Ga 9, 1-41
(1) Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh. (2) Các môn đệ hỏi Người? “Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù. Anh ta hay cha mẹ anh ta?” (3) Đức Giê-su trả lời? “Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta phạm tội. Nhưng chuyện đó xảy ra là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh. (4) Chúng ta phải làm những việc của Đấng đã sai Thầy, khi trời còn sáng. Đêm đến, không ai có thể làm việc được. (5) Bao lâu Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian”. (6) Nói xong, Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù. (7) Rồi bảo anh ta? “Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa” (Si-lô-ác có nghĩa là? Người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được. (8) Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói? “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao?” (9) Có người nói? “Chính hắn đó!” Kẻ khác lại rằng? “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi”. Còn anh ta thì quả quyết? “Chính tôi đây!” (10) Người ta liền hỏi anh? “Vậy làm sao mắt anh lại mở ra được như thế? ”. (11) Anh ta trả lời? “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo? “Anh hãy đền hồ Si-lô-ác mà rửa”. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được”. (12) Họ hỏi anh? “Ông ấy ở đâu?” Anh ta đáp? “Tôi không biết”. (13) Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pha-ri-sêu. (14) Nhưng ngày Đức Giê-su trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày Sa-bát. (15) Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời? “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy”. (16) Trong nhóm Pha-ri-sêu, người thì nói? “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sa-bát”; Kẻ thì bảo “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. (17) Họ lại hỏi người mù? “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp? “Người là một vị Ngôn sứ!”. (18) Người Do thái không tin là trước đây anh bị mù nay nhìn thấy được, nên đã gọi cha mẹ anh ta đến. (19) Họ hỏi? “Anh này có phải là con ông bà không? Ông bà nói là anh bị mù từ khi mới sinh, vậy sao bây giờ anh lại nhìn thấy được?”. (20) Cha mẹ anh đáp? “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi mới sinh. (21) Còn bây giờ làm sao nó thấy được, chúng tôi không biết, hoặc có ai đã mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng hay. Xin các ông cứ hỏi nó. Nó đã khôn lớn rồi, tự nó, nó nói về mình được”. (22) Cha mẹ anh nói thế vì sợ người Do thái. Thật vậy, người Do thái đã đồng lòng trục xuất khỏi hội đường kẻ nào dám tuyên xưng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. (23) Vì thế, cha mẹ anh mới nói? “Nó đã khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi nó”. (24) Một lần nữa, họ gọi người trước đây bị mù đến và bảo? Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi”. (25) Anh ta đáp? “Ông ấy có phải là người tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều? Trước đây tôi bị mù, mà nay tôi nhìn thấy được!” (26) Họ mới nói với anh? “Ông ấy đã làm gì cho anh? Ông ấy đã mở mắt cho anh thế nào?” (27) Anh trả lời? “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông còn muốn nghe lại chuyện đó nữa? Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông ấy chăng?” (28) Họ liền mắng nhiếc anh? “Có mày mới là môn đệ của ông ấy. Còn chúng ta, chúng ta là môn đệ của ông Mô-sê. (29) Chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã nói với ông Mô-sê. Nhưng chúng ta không biết ông ấy bởi đâu mà đến”. (30) Anh đáp? ”Kể cũng lạ thật! Các ông không biết ông ấy bởi đâu mà đến, thế mà ông ấy lại là người đã mở mắt tôi! (31) Chúng ta biết? Thiên Chúa không nhậm lời những kẻ tội lỗi. Còn ai kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý của Người, thì Người nhậm lời kẻ ấy. (32) Xưa nay chưa hề nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. (33) Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì”. (34) Họ đối lại? “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư? ” Rồi họ trục xuất anh. (35) Đức Giê-su nghe nói họ đã trục xuất anh, và khi gặp lại anh, Người hỏi? “Anh có tin vào Con Người không?”. (36) Anh đáp? “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” (37) Đức Giê-su trả lời? “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây”. (38) Anh nói? “Thưa Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người. (39) Đức Giê-su nói?"Tôi đến thế gian này chính là để xét xử? cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!". (40) Những người Pha-ri-sêu đang ở đó với Đức Giê-su nghe vậy, liền lên tiếng? “Thế ra cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?” (41) Đức Giê-su bảo họ? “Nếu các ông đui mù, thì các ông đã chẳng có tội. Nhưng giờ đây các ông nói rằng? “Chúng tôi thấy, nên tội các ông vẫn còn!”.
2. Ý CHÍNH?
Câu chuyện Đức Giê-su chữa cho người mù từ khi mới sinh cho thấy? Đức Giê-su chính là Ánh Sáng Thế Gian, và chỉ những ai có lòng khiêm hạ mới đón nhận được ánh sáng ấy. Trong cuộc đối thoại, anh mù đã từng bước hiểu biết về Người? Từ "một người tên là Giê-su” (11) đến “một vị Ngôn sứ!” (17), rồi “Người bởi Thiên Chúa mà đến” (33). Cuối cùng là “Con Người” (35), là Tôi Trung của Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai, thì anh mù đã tuyên xưng? “Thưa Ngài, tôi tin” và sấp mình trước mặt Người (37). Quả thật, chỉ những ai thực tâm muốn tìm Chúa mới gặp được Người.
3. CHÚ THÍCH?
- C 1-5? + Ai đã phạm tội khiến người này sinh ra đã bị mù? Cựu Ước thường cho rằng? tai nạn, bệnh tật và đau khổ là hình phạt do tội lỗi của tội nhân (x. St 3,3) hay tội của cha ông người ấy (x. Xh 20,5). Chính Đức Giê-su có lần cũng chia sẻ tư tưởng ấy? “Này, anh đã được khỏi bệnh. Đừng phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn hơn trước!” (Ga 5, 14). + Là để các việc của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh? Ở đây Đức Giê-su còn coi bệnh tật như một tai họa mà con người phải chịu đựng, như một quyền lực của Sa-tan đang đè trên con người mà Đức Giê-su đến nhằm giải thoát cho họ (x. Lc 13,16).
- C 6-9? + Đức Giê-su nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù? Theo các nhà chú giải Kinh Thánh? Đức Giê-su làm như vậy để thử thách đức tin của người mù. + Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa? Si-lô-ác có nghĩa là “Được sai đến”. Như nước hồ của “Người được sai phái” đã cho người mù từ thuở mới sinh nhìn thấy thế nào, thì “Đấng Được Sai” cũng ban ánh sáng cho những ai đang ngồi trong bóng tối tội lỗi và sự chết như vậy.
- C 35-41? +Anh có tin vào Con Người không?? Sau khi mở con mắt thể xác để anh mù được nhìn thấy, Đức Giê-su cũng muốn mở mắt đức tin cho anh. Vì thế Người đặt câu hỏi để khơi dậy niềm tin như Người đã từng làm đối với người phụ nữ Sa-ma-ri (x. Ga 4,26). + Tôi đến thế gian này chính là để xét xử? Xét xử không phải là lên án (x. Ga 3,17), nhưng là như ánh sáng chiếu soi để tỏ cho thấy những điều thầm kín trong lòng người ta (x. Ga 3,19-21). + Cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù? Câu này tương tự lời cầu nguyện của Đức Giê-su với Chúa Cha? “Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (x. Mt 11,25). Chỉ những ai khiêm tốn và thành tâm đón nhận đức tin mới được nhìn thấy ơn cứu độ.
4. CÂU HỎI?
1) Đối với các tín hữu, bệnh tật có phải do tội lỗi gây ra không? 2) Việc Đức Giê-su lấy bùn thoa vào mắt người mù để chữa bệnh mang ý nghĩa thế nào? 3) Tại sao Đức Giê-su lại ra lệnh cho anh mù đến rửa mắt tại hồ Si-lô-ác? 4) Tại sao Đức Giê-su lại nói? "Cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù"?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA? Đức Giê-su nói? “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử? cho người không xem thấy được thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù!” (Ga 9, 39).
2. CÂU CHUYỆN?
1) NĂM ANH MÙ ĐI XEM VOI?
Ngày xưa ở Ấn Độ, có một ông vua muốn bày trò tiêu khiển, liền cho quân lính đi kiếm năm người bị mù từ lúc mới sinh đưa về triều đình làm trò tiêu khiển cho triều thần. Vua truyền đưa đến một con voi khổng lồ và bảo năm anh mù rằng? “Các ngươi chưa hề biết voi là gì thì hôm nay trẫm sẽ cho các ngươi biết. Các ngươi hãy lại gần sờ vào voi rồi nói cho trẫm và quần thần biết voi có hình thù ra sao. Ai tả con voi đúng nhất sẽ được trọng thưởng”.
Anh mù thứ nhất sờ đúng cái chân của voi liền tâu? “Tâu bệ hạ! Con voi có hình thù giống như cột nhà!” Anh thứ hai sờ đúng cái tai voi vội cãi? “Không đúng. Voi giống như một cái quạt lớn”. Anh thứ ba sờ trúng cái vòi lại nói? “Voi giống như một khúc cây ngoằn ngoèo!” Anh thứ tư sờ trúng bụng voi cãi lại? “Voi giống một tảng đá lớn, tròn tròn!” Tới lượt anh thứ năm sờ trúng đuôi con voi thì cho cả bốn người kia đều sai và tâu vua? “Voi chỉ như một cái chổi cùn!”
Anh nào cũng quyết liệt bảo vệ ý kiến của mình là đúng, và bác bỏ ý kiến của các người kia. Ban đầu họ còn nói nhỏ, về sau to tiếng và còn xông vào đánh nhau chí chóe, đang khi nhà vua và triều thần ai cũng cười cho sự mù quáng đáng thương của cả bọn.
Mỗi người mù nói trên chỉ biết được một phần sự thật mà tưởng rằng mình am tường tất cả và đánh giá những ai không suy nghĩ giống như mình đều sai lạc. Giả như họ biết khiêm tốn nhìn nhận kiến thức hạn hẹp của mình và biết bổ sung bằng ý kiến kẻ khác thì hay biết mấy.
2) VIỆC NGƯỜI THÌ SÁNG, VIỆC MÌNH THÌ QUÁNG?
Có một học giả rất thông thái nhưng lại mắc bệnh đãng trí. Một hôm ông cỡi lừa đi thăm một ông bạn thân. Dù đang ngồi trên lưng lừa, nhưng ông vẫn tranh thủ đọc sách thánh hiền và buông lỏng dây cương. Con lừa sau khi đi được một đoạn đường đã theo đường cũ quay trở lại ngôi nhà của ông. Thấy lừa dừng lại, ông học giả tưởng đã đến nhà bạn, liền xuống lừa và đi chung quanh quan sát một vòng ngôi nhà. Ông nói lời phê bình cốt để bạn ông trong nhà nghe được? "Ông bạn già của ta sao lại cẩu thả như thế này? Ngôi nhà đã bị xuống cấp gần sập đến nơi mà chẳng chịu lo sửa sang gì cả!". Vợ ông ở trong nhà nghe vậy liền bước ra và nói? "Ông nhận xét thật chính xác. Nhưng đây là nhà của ông đó!".
Trong cuộc sống, nhiều người thường có nhận định sáng suốt về chuyện của người khác, nhưng lại mù mờ về những chuyện của chính mình như người ta thường nói? “Việc người thì sáng, mà việc mình thì quáng”. (Theo Ernst Wilhelm Nusselein).
3) NHÌN NGOẠI VẬT THEO LĂNG KÍNH BẢN THÂN?
Một vị Nhật hoàng sau khi làm việc căng thẳng muốn thư giãn, nên yêu cầu các quan tìm kiếm một người biết nói đùa. Người ta đã dẫn đến cho vua một vị thiền sư.
Nhật hoàng nói? “Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe và ta sẽ không hài tội về lời nói đùa của ngươi”. Thiền sư nói? “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước để hạ thần nói đùa theo”. Nhà vua nói? “Ta thấy nhà ngươi giống y như một con lợn!” Thiền sư đáp? “Còn hạ thần thì nhìn thấy bệ hạ giống y như Đức Phật!” – Nhà vua liền thắc mắc? “Tại sao ta bảo nhà ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta là Đức Phật?”- “Tâu bệ hạ, dễ hiểu thôi ạ? ai có tâm của Phật thì nhìn đâu cũng thấy Đức Phật; Còn ai có tâm của lợn thì nhìn đâu cũng thấy lợn!”
4) ĐỪNG SOI MÓI KHÍCH BÁC THA NHÂN?
Có một đôi vợ chồng kia rủ nhau đi xem một cửa hàng nổi tiếng chuyên trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước vào đến cửa, bà vợ liền nhìn vào bên trong cửa hàng và nêu nhận xét gián tiếp chê bai cửa hàng? "Tranh thêu gì đâu mà xấu tệ! Như mặt người đàn bà trong bức tranh kia trông chẳng giống ai!". Ông chồng liền vội bịt miệng vợ lại và nói? "Đó không phải là tranh thêu đâu, mà là tấm gương soi đó. Hình người phụ nữ bà thấy kia chính là hình của bà phản chiếu trong tấm gương đó! Tốt nhất là bà hãy giữ im lặng dùm, chứ đừng lên tiếng phê phán cách hồ đồ!". Bà vợ cảm thấy xấu hổ nên đã vội vã bỏ về ngay sau đó.
Câu chuyện trên cho thấy thói xấu của nhiều người trong chúng ta? Tuy sáng mắt nhưng lại có tâm hồn mù tối. Nhiều khi chúng ta phê phán người khác mà không ngờ đã tự lộ ra chân tướng không tốt của mình, như người ta thường nói? "Chân mình những lấm bê bê. Lại cầm bó đuốc mà rê chân người".
3. SUY NIỆM?
1) AI CŨNG CẦN ÁNH SÁNG SOI ĐƯỜNG?
Vào một đêm nọ, có một người mù đến thăm một người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy anh bạn mù không mang theo lồng đèn trên tay, chủ nhà liền lấy ra chiếc lồng đèn của mình trao cho anh mù. Nhưng anh mù từ chối và nói? “Đối với người mù như tôi thì ban ngày cũng như ban đêm, ánh sáng có khác gì bóng tối. Cho nên tôi sẽ không cầm theo chiếc lồng đèn vì việc làm đó là vô ích!
Bấy giờ chủ nhà mới giải thích? “Tôi biết anh không cần đến chiếc lồng đèn để soi đường. Nhưng nếu anh không có nó trên tay thì người khác sẽ không nhìn thấy anh và có thể họ sẽ đụng vào người anh đấy!” Anh mù nghe bạn nói có lý nên đã nhận chiếc lồng đèn rồi ra về.
Đi được một đoạn đường, bất ngờ anh mù bị một người đi ngược chiều tông vào suýt té. Anh ta liền tức giận la mắng? “Bộ anh bị đui hả? Không thấy tôi đang cầm chiếc đèn lồng trên tay hay sao”. Người kia liền trả lời? “Đúng là anh đang cầm một chiếc đèn lồng đấy. Nhưng ngọn lửa bên trong cây đèn đã tắt rồi, nên tôi không nhìn thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!”
Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được rằng? Để đi trong bóng đêm ai cũng cần ánh sáng. Ánh sáng giúp người ta thấy đường đi, thấy người khác và tránh được các trở lực trên đường. Người mù đi trong đêm tối, tưởng như không cần ánh sáng soi đường, nhưng anh vẫn cần có cây đèn cháy sáng, để người khác khỏi đụng phải anh.
2) CÓ HAI LOẠI MÙ? MÙ MẮT THỂ XÁC VÀ MÙ TỐI TÂM HỒN?
Người mù bẩm sinh trong Tin Mừng hôm nay tuy bị mù mắt thể xác nhưng lại sáng lòng hơn những người Pharisêu luôn tự hào về sự khôn ngoan thông thái. Người Pha-ri-sêu bị thành kiến che mờ tâm trí nên không nhận ra Đức Giê-su là Đấng cứu độ và đã tự loại mình ra khỏi Nước Trời do Người thiết lập.
Có nhiều nguyên nhân gây ra bệnh mù tâm hồn như sau?
- Mù quáng do lòng tham không đáy?
Sách Các Vua có thuật lại câu chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, có lòng tham lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông lão nghèo Na-vốt, nên đã dàn dựng một vụ án kể tội Na-vốt đã dám nguyền rủa Thiên Chúa và nhà vua, rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven trở thành mù quáng phạm tội giết hại người nghèo vô tội để chiếm đoạt vườn nho của ông ta. (1 V Ch 21).
Mù quáng do thói ganh tị?
Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un rất yêu thương Đavít, nhưng sau khi Đavít giết được tướng giặc khổng lồ là Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và khải hoàn về thành. Đa-vít được các phụ nữ đi đón rước. Họ vừa múa nhảy theo tiếng reo mừng não bạt, vừa ca hát như sau? “Vua Sa-un hạ được hàng ngàn, còn Đa-vít giết được hàng vạn”. Nghe lời ca đó, vua Sa-un cảm thấy rất tức giận Đa-vít. Chính do lòng ganh tị đã làm cho vua trở thành kẻ mù quáng, từ lòng yêu thương hóa ra thù ghét và đã ra tay truy lùng Đa-vít, quyết giết chết bằng được người anh hùng Đa-vít nầy. (1 Sm, Ch 18).
Mù quáng do dục tình lấn lướt?
Sau khi lên làm vua thay Sa-un, vua Đa-vít do mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va. Dục vọng đã làm cho vua mù quáng và đã phạm tội nặng giết chồng đoạt vợ (2 Sm, Ch 11).
Tóm lại, do tình dục, do lòng tham, do kiêu căng ganh tị… mà người ta có thể trở nên mù tối phạm phải những tội ác không ngờ. Bất cứ người mù nào cũng khao khát được sáng; nhưng điều đáng tiếc là nhiều người mù tâm hồn, do không ý thức tình trạng mình đang bị mù, nên không quyết tâm ra khỏi tình trạng mù quáng của mình, và cuối cùng đã bị loại ra khỏi Nước Trời, giống như các đầu mục dân Do thái khi xưa.
3) HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN CỦA NGƯỜI MÙ TRONG TIN MỪNG?
Niềm tin của người mù vào Đức Giê-su tăng dần theo sự thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh? Thoạt tiên, anh chỉ coi Đức Giê-su là một người nào đó qua câu nói? “Người tên là Giê-su đã trộn một chút bùn, xức vào mắt tôi, rồi bảo? Anh hãy đền hồ Si-lô-ác mà rửa. Tôi đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy được” (Ga 9, 11). Sau khi nghe đám đông bàn tán, và bị người Pha-ri-sêu tra hỏi, anh đã nêu nhận định? “Người là một vị Ngôn sứ!” (Ga 9, 17). Rồi trước sự phê phán của các đầu mục, anh đã can đảm bênh vực việc làm của Đức Giê-su? “Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9, 33). Cuối cùng khi gặp gỡ Đức Giê-su và được Người cho biết mình chính là Con Người, là Đấng Thiên Sai (x. Ga 9, 35-37), thì anh mù đã lập tức tuyên xưng đức tin? “Thưa Ngài, tôi tin”, và đã thể hiện niềm tin bằng việc sấp mình xuống trước mặt Người (Ga 9, 38).
4) SỐNG TINH THẦN MÙA CHAY THẾ NÀO?
- Theo Đức Giê-su thì mù không phải là một cái tội. Cố tình bịt tai nhắm mắt do cứng lòng tin như các đầu mục Do thái mới là tội. Nhiều khi chúng ta cũng có thái độ giống như các người này khi tự bịt tai nhắm mắt, cố tình không nhìn nhận những khuyết điểm lỗi lầm của mình. Mùa Chay là mùa sám hối canh tân. Muốn biết mình ra sao, chúng ta cần có thời gian tĩnh tâm để hồi tâm sám hối và quyết tâm canh tân đời sống.
- Ngoài ra, trong bất cứ việc gì, chúng ta cần ý thức mình chỉ nhìn thấy một phần sự thật, nên phải khiêm tốn tìm hiểu và học hỏi tha nhân. Điều ta biết chỉ là phần nổi nhỏ bé của tảng băng. Còn những điều ta chưa biết thì to lớn và chìm sâu dưới mặt nước. Do đó, khi có quan điểm khác nhau, thay vì cãi nhau chúng ta hãy khiêm tốn lắng nghe và sẵn sàng chấp nhận ý kiến đúng đắn của người khác để đạt tới chân lý.
- Cuối cùng, ta cần lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, tiếp thu sự phê bình của người khác để nhận biết con người thật của mình, vì thói thường? “Việc người thì sáng, việc mình thì quáng!”, và “biết mình biết người, trăm trận trăm thắng!”. Khi nhận ra con người thật của mình, chúng ta sẽ phải canh tân đổi mới để ngày một nên hoàn thiện hơn theo thánh ý Thiên Chúa.
4. THẢO LUẬN?
Trong Mùa Chay này, Bạn sẽ làm gì để nhận ra con người thực của mình và quyết tâm tu sửa các thói hư tật xấu để ngày càng nên hoàn thiện giống như Đức Giê-su hơn?
5. NGUYỆN CẦU?
LẠY CHÚA GIÊ-SU? hiện nay còn biết bao người đang mù chữ, mù kiến thức, mù giáo lý… Nhất là đang cố tình bịt tai nhắm mắt giống như những người Pha-ri-sêu xưa. Trong Mùa Chay này, xin cho chúng con biết dành thì giờ tham dự những cuộc tĩnh tâm để duyệt xét lại con người thật của mình. Xin cho chúng con ngày một hiểu biết Chúa để yêu mến Chúa hơn, biết rõ con để không còn dám tự mãn, nhưng quyết tâm tu sửa các thói hư để ngày một nên hoàn thiện giống Chúa nhiều hơn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Chúa ơi, Chúa là ai
Chúa Nhật IV Mùa Chay Năm A
Hôm nay chúng ta bước vào Chúa nhật IV Mùa Chay. Chúa nhật hôm nay đánh dấu chúng ta đã đi quá nửa chặng đường của Mùa Chay, mùa của chay tịnh và hoán cải. Đừng quên rằng đích điểm của Mùa Chay là Mùa phục sinh. Chúa Giêsu phục sinh đang chờ chúng ta ở cuối đường hầm. Ngài là ánh sáng. Ngài giáng sinh làm người để giải thoát chúng ta khỏi bóng tối của đam mê và lầm lạc, của tội lỗi và sự chết.
Trong bài Tin mừng hôm nay, có rất nhiều cuộc gặp gỡ và tiếp xúc giữa Chúa Giêsu với những người khác, với anh mù, với những người Pharisêu và người Do-thái. Có cuộc gặp gỡ mang lại đức tin, niềm vui và ánh sáng, nhưng cũng có những cuộc gặp gỡ phơi bày tâm tư người ta không tin vào Chúa Giêsu.
Trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và anh mù, anh nhận ra Chúa Giêsu là Đấng cứu thế một cách từ từ. Chính qua việc gặp gỡ và tiếp xúc với Chúa Giêsu, chứ không phải nhờ vào phép lạ, mà anh nhận ra và tin vào căn tính đích thực của Chúa Giêsu. Ban đầu, Ngài chỉ là một người xa lạ, một người nào đó tên là Giêsu, một người đã chữa lành cho anh. Sau đó, khi những người Pharisêu chất vấn ai đã chữa anh sáng mắt, anh khẳng định Ngài là một vị ngôn sứ. Cuối cùng, khi gặp lại Chúa Giêsu, anh tin nhận và sấp mình thờ lạy Ngài với tư cách là Con Người, là đấng được Thiên Chúa sai tới để giải thoát dân người. Như thế, nhờ việc nhận ra Chúa Giêsu là ai, Chúa Giêsu có ý nghĩa gì cho cuộc đời anh, đã làm gì cho anh, anh mù đã tin vừng vàng và mạnh dạn làm chứng về Chúa Giêsu cho người khác.
Chúng ta nhớ lại người phụ nữ Samaria trong bài tin mừng Chúa Nhật tuần trước. Chị cũng nhận ra Chúa Giêsu theo một tiến trình tương tự như thế: ban đầu Chúa Giêsu là một người xa lạ, một người Do-thái, một tiên tri, và cuối cùng là Đấng Mêsia cứu thế. Một khi đã nhận ra Chúa Giêsu là Đấng cứu thế, Đấng có thể giải thoát chị khỏi quá khứ tội lỗi, khỏi những mặc cảm và tự ti với người đời, chị đã bỏ lại gàu nước của mình, chạy đi loan báo Tin Mừng về Chúa Giêsu cho người khác. Chị đã được giải thoát và không còn ngại ngùng, sợ hãi khi gặp gỡ người khác nữa.
Như thế, đích đến của hai cuộc gặp gỡ này đều là nhận biết căn tính đích thực của Chúa Giêsu, tin vào Chúa và loan báo Tin mừng về Chúa cho người khác. Đó cũng là điều mà Chúa Giêsu muốn chúng ta thi hành: Tin vào Chúa, thờ lạy Chúa và loan báo về Chúa cho người khác.
Những việc đó chỉ có thể xảy ra khi chúng ta đã có những lần gặp gỡ và đối thoại thân tình với Chúa Giêsu. Chúng ta có hay đối thoại với Chúa Giêsu như hai người bạn thân không? Chúa Giêsu có sống bên cạnh chúng ta trong cuộc sống thường ngày không? Những câu hỏi xem ra dễ trả lời nhưng khó sống, khó giữ đều đặn và điều độ.
Chúa Giêsu đang là ai đối với tôi? Một người xa lạ, một tiên tri, người thầy, người cha, người anh, người bạn thân, hay là một ai khác? Câu trả lời Chúa Giêsu là ai đối với tôi rất quan trọng, để chúng ta xác định được tương quan với Chúa. Biết Chúa là ai với mình, thì chúng ta mới biết cách tương quan với Chúa như thế nào cho đúng.
“Đức Kitô là ai, Chúa ơi, Chúa là ai. Xin giúp con biết Chúa là ai”. Đó là lời cầu nguyện của Thánh Augustinô khi ngài đi tìm ý nghĩa cho cuộc đời, đi tìm khuôn mặt của Chúa Giêsu cứu thế trong cuộc sống của ngài. Hãy bắt chước ngài. Hãy hỏi Chúa: Chúa ơi, Chúa là ai. Xin giúp con biết Chúa là ai.
Chúng ta đang có một cặp mắt sáng, tuy nhiên, cặp mắt đức tin của chúng ta có sáng không? Chúng ta cầu nguyện với Chúa hằng ngày, tuy nhiên, chúng ta có nhìn ra Chúa Giêsu là ai đối với tôi và Chúa đang làm gì trong cuộc đời tôi không?
Ước gì mỗi người trong chúng ta biết Chúa là ai, biết mình là ai và mình đang có tương quan với Chúa như thế nào. Đó là câu hỏi hệ trọng nhất trong cuộc đời của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Có thể nói được như vậy. Khi biết Chúa là ai, Chúa có ý nghĩa gì đối với mình, đã làm gì cho cuộc đời mình, đã yêu thương mình như thế nào thì chúng ta mới thực sự biết sống.
Xin Thiên Chúa là tình yêu dọi chiếu ánh sáng của Ngài trên chúng ta, để rồi tới phiên mình, chúng ta cũng biết làm chứng về ánh sáng tình yêu Chúa cho những người mà chúng ta gặp gỡ trên đường đời. Amen.
Giuse hạt bụi tro