TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Đại Lễ Chúa Giáng Sinh

“Hôm nay, Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”. (Lc 2, 1-14)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Chúa Nhật IV Phục Sinh -Năm A

24/04/2023 03:10:39 |   849

Chúa Nhật IV Phục Sinh -Năm A
Chúa Chiên Lành. Cầu cho ơn Thiên Triệu

Ga 10, 1-10


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật IV Phục Sinh -Năm A
Chúa Chiên Lành. Cầu cho ơn Thiên Triệu

Dẫn vào Thánh Lễ

Anh chị em thân mến,

Hôm nay Chúa Nhật IV Phục Sinh, là ngày Giáo Hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cách riêng cho ơn thiên triệu, tức là cầu nguyện cho có nhiều tâm hồn nhiệt thành đáp lại lời mời gọi của Chúa làm linh mục hoặc tu sĩ nam nữ để rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho mọi người. Thực tế, chúng ta thấy có rất nhiều người vào chủng viện, vào dòng tu, nhưng rất ít người trở thành linh mục hay tu sĩ, vì kẻ được gọi thì nhiều nhưng người được chọn thì ít, và không phải tất cả ai được chọn cũng đều trở nên hoàn hảo, vì trong 12 tông đồ được chọn cũng có một Giuđa phản bội. Vậy chúng ta hãy dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho có nhiều ơn gọi trung thành tiến bước theo Chúa Giêsu mà hân hoan phục vụ Tin Mừng Nước Trời.

Ca nhập lễ

Địa cầu đầy ân sủng Chúa, do Lời Chúa mà trời xanh được tạo thành – Alleluia.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Ðức Kitô, vị Mục Tử oai hùng của chúng con, đã khải hoàn tiến vào thiên quốc; xin cho chúng con là đoàn chiên hèn mọn cũng được theo gót Người vào chung hưởng hạnh phúc vô biên. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn thuở muôn đời.

Bài Ðọc I: Cv 2, 14a. 36-41

“Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa và làm Ðấng Kitô”.

Trích sách Tông đồ Công vụ.

Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô”.

Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: “Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?” Phêrô nói với họ: “Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến”. Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: “Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này”. Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi

Hoặc đọc: Alleluia.

Xướng: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.

Xướng: Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.

Xướng: Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.

Xướng: Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.

Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 20b-25

“Anh em đã trở về cùng Ðấng canh giữ linh hồn anh em”.

Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.

Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Ðấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Ðấng canh giữ linh hồn anh em.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 10, 14

Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”. – Alleluia.

PHÚC ÂM: Ga 10, 1-10

“Ta là cửa chuồng chiên”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ”. Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.

Ðó là lời Chúa

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến, với tâm hồn tràn ngập niềm vui phục sinh của Con Chúa, Đấng là Mục Tử nhân lành dẫn dắt chúng ta vượt qua thung lũng tội lỗi và bóng tối sự chết đến đồng cỏ xanh tươi trong sự sống sung mãn của Người. Vậy, cùng với Người, chúng ta hãy xin Chúa Cha tuôn đổ phúc lành trên toàn thế giới.

1. Xin cho các vị mục tử của Hội Thánh được tràn đầy Thánh Thần, để như thánh Phêrô, các ngài có thể can đảm rao giảng Đức Giêsu là Chúa, và là Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn thế giới.

2. Xin cho những ai đang bị thiệt thòi hay bị bách hại vì trung thành với Chúa Kitô có thể nhận ra ân phúc khi làm việc lành mà phải chịu đau khổ.

3. Xin cho nhiều tâm hồn quảng đại đáp trả lại tiếng Chúa gọi để trở nên những linh mục và tu sỹ nhiệt thành, theo gương Chúa Kitô Mục Tử nhân lành, hoàn toàn hiến thân cho Chúa và phục vụ các linh hồn.

4. Xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta mỗi ngày biết lắng nghe và trung thành đi theo Chúa Kitô để trở nên đoàn chiên đích thực của Người.

Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa tỏ lộ tình yêu Chúa trong Đức Kitô là Mục Tử nhân lành. Xin cho chúng con luôn ở lại trong đoàn chiên của Người và cảm nghiệm tình Chúa yêu thương. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng vui sướng trong suốt thời gian mừng mầu nhiệm Vượt Qua; để mầu nhiệm thánh này không ngừng đem lại ơn cứu độ và trở nên nguồn vui bất tận cho mọi người tín hữu. Chúng con cầu xin…

Lời tiền tụng Phục Sinh

Ca hiệp lễ

Đấng chăn chiên nhân lành đã phục sinh, Người đã phó mạng sống mình vì con chiên, và đã đoái thương chịu chết vì đoàn chiên – Allêluia.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa là mục tử nhân lành, chúng con là đoàn chiên đã được Chúa cứu chuộc bằng máu châu báu của Ðức Giêsu Kitô. Cúi xin Chúa giờ đây thương đoái, dẫn đưa chúng con vào đồng cỏ Nước Trời. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

ĐỨC GIÊSU LÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN
CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH A – CHÚA CHIÊN LÀNH

(Cv 2,36- 41; 1Pr 2,20- 25; Ga 10,1- 10)
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

Trong cuộc sống, nhiều khi chúng ta được hỏi hay chính bản thân đặt ra cho mình câu hỏi: “Đức Giêsu là ai?”. Đây có thể là câu hỏi quan trọng nhất trong cuộc đời của con người nói chung và của những người tin Đức Giêsu nói riêng. Câu hỏi đó hôm nay chúng ta được chính Đức Giêsu mặc khải khi nói: “Ta là cửa chuồng chiên”.

Tại sao lại là “cửa chuồng chiên?”

1. Cửa chuồng chiên là gì?

Trước khi nói đến “cửa chuồng chiên”, chúng ta nên nhắc lại hình ảnh người mục tử chăn chiên nơi đất nước Dothái:

Ở đất nước này, người ta thường hay có những đàn gia súc như chiên hoặc cừu. Mỗi đàn như thế thường có người chăn dắt. Bổn phận của các mục tử chăn chiên chính là lo sao tìm được cho chúng những đồng cỏ xanh tươi, những dòng suối mát trong lành. Bảo vệ chúng khỏi bị tấn công bởi những sói dữ, hùm beo… Khi chăm lo cho chúng như thế, người mục tử phải biết rõ từng con: con nào đau ốm; ghẻ lở; con nào đi hoang, lạc đàn… Biết để làm gì? Thưa để yêu thương, để chăm sóc… để có tương quan thân tình.

Khi đêm về, người mục tử có trách nhiệm dẫn chiên về dàn và cho chúng vào chuồng. Lúc này, họ lại được ví như “cửa chuồng chiên”.

Hình ảnh “cửa chuồng chiên” là một hình ảnh được dùng để biểu đạt cho sự an toàn.

Thật vậy, khi nói đến cửa thì ai cũng hiểu là để đóng vào hoặc mở ra. Khi đóng vào thì như một sự bảo vệ để khỏi bị kẻ thù tấn công và trộm cắp. Đóng vào để tránh sương gió lùa vào. Đóng vào thì mọi người an tâm ngon giấc.

Còn khi cánh cửa mở ra, ấy là nó có tác dụng chào đón một luồng gió mới vào nhà, làm cho nhà khỏi bị ẩm mốc, hôi hám. Mở ra là để cho mọi người và súc vật trong nhà được tự do ra vào, lui tới…

2. Đức Giêsu là Mục Tử và là Cửa Chuồng Chiên

Khi tự cho mình là Mục Tử và Cửa Chuồng Chiên, Đức Giêsu muốn sống những đặc tính của người mục tử và vai trò của cửa chuồng chiên trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Mặt khác, Ngài cũng muốn giới thiệu và trao cho các Tông đồ và môn đệ những đặc tính của người mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên trong Giáo Hội.

Thật vậy, Đức Giêsu chính là Mục Tử Nhân Lành, Ngài đã biết rõ từng con chiên, Ngài đã yêu thương chúng và làm cho chúng được hạnh phúc. Ngài đã chữa lành mọi vết thương thân xác và tâm hồn để cho chiên được bình an, và Ngài đã hy sinh cả mạng sống để cho chiên được sống và sống dồi dào.

Khi mời gọi các Tông đồ, môn đệ và những ai dấn thân trên con đường loan báo Tin Mừng, Đức Giêsu cũng mời gọi họ hãy đi trên con đường mà Ngài đã đi. Con đường đó là gì, nếu không phải là con đường của hiền lành, khiêm nhường, vâng lời và yêu thương. Con đường đó chính là con đường của hạt lúa mục nát, con đường của thánh giá…?

Trở nên như Ngài, tức là cũng phải trở nên như những cánh cửa của chuồng chiên. Như vậy, các ngài như là người lính canh chừng. Canh chừng cho khỏi kẻ thù tấn công là những thứ học thuyết vô bổ, tạm thời, chóng qua vô ích. Canh chừng để đàn chiên không bị kẻ thù gian dối, lọc lừa và tội lỗi lôi kéo. Canh chừng như một người cha, người mẹ canh giấc ngủ của con mình. Nếu cần, hình ảnh người Mục Tử hi sinh cả mạng sống của mình cho đoàn chiên cũng là lời mời gọi cho các mục tử ngày nay trong Giáo Hội.

3. Mọi kitô hữu đều là mục tử nhân lành và cửa chuồng chiên

Khi nói đến ngày thế giới cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu, nhiều người nghĩ đây là ngày dành riêng cho các linh mục và tu sĩ. Nghĩ như vậy không sai. Nhưng nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì hôm nay cũng là ngày của mỗi chúng ta, những người đã lãnh nhận Phép Rửa tội nhân danh Chúa Ba Ngôi để thi hành chức năng Tư tế, Ngôn sứ và Vương đế của Đức Giêsu Kitô.

Vì thế, khi kết hợp với Đức Giêsu là vị Mục Tử tối cao, mỗi người đều có thể và như một trách nhiệm phải là mục tử và cửa chuồng chiên cho mình và gia đình mình.

Mục tử và cửa chuồng chiên cho mình và gia đình, tức là hãy tự lo cho chính mình. Lo cho chính mình là biết làm điều lành, tránh điều ác. Biết trở nên gương sáng, chứng nhân cho người khác. Những bậc làm cha mẹ khi thi hành sứ vụ mục tử này chính là sống sự chung thủy với nhau, trở thành những người mẫu mực, khôn ngoan, luôn làm gương sáng, yêu thương các con mình. Biết lo cho các con mình được học hành, trao dồi đạo đức cho chúng, dạy cho chúng biết mến Chúa và yêu người… Biết cảnh giác và canh trừng trước những nguy hại của thời buổi kinh tế thị trường, công nghệ thông tin… Biết giáo dục con cái hướng thiện, làm ăn chân chính…

Với những người làm con, chúng ta nghĩ ngay đến bổn phận trước tiên phải có chính là sự hiếu kính với tổ tiên, ông bà, cha mẹ… biết làm những gì có lợi cho đời sống thiêng liêng trước rồi mới nghĩ đến những lợi nhuận vật chất sau.

Nói chung, mọi thành phần trong gia đình phải lo chu toàn bổn phận cách tốt đẹp trong sự yêu mến Chúa, kính trọng và yêu thương nhau, để xây dựng tình đoàn kết, hiệp nhất trong gia đình.

Làm được như thế, ấy là lúc chúng ta thể hiện vai trò mục tử phổ quát của mình cách rõ nét nhất.

4. Cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu

Hôm nay, Giáo Hội cũng dành riêng Chúa Nhật này để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu; đồng thời Giáo Hội cũng muốn mọi thành phần trong Giáo Hội biết liên đới với nhau để cùng giúp nhau chu toàn sứ mạng đem Chúa đến cho muôn dân.

Vì thế, chúng ta hãy cầu xin Chúa cho các bạn trẻ, biết quảng đại đáp lại lời mời gọi đầy yêu thương của Chúa, sẵn sàng dấn thân trên con đường loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Xin cũng cầu nguyện cho các linh mục đang làm mục vụ khắp nơi trên thế giới, được trở nên mục tử đích thực của Chúa giữa trần gian. Gặp được nhiều điều thuận lợi trong khi thi hành sứ vụ. Xin cũng nhớ đến các linh mục đang gặp khó khăn trên hành trình ơn gọi cũng như sứ vụ loan báo Tin Mừng.

Hôm nay, Giáo Hội cũng mời gọi con cái mình hãy đóng góp phần mình vào trong việc vun trồng ơn gọi bằng cách khuyến khích con em mình tiến bước trên hành trình dâng hiến; sẵn sàng hy sinh dâng con cho Chúa, đồng thời quảng đại giúp đỡ các Chủng Viện, Dòng Tu trong khả năng của mình, để góp phần vào việc đào tạo ơn gọi linh mục, tu sĩ cho Chúa và cho Giáo Hội.

Lạy Chúa Giêsu mục tử tối cao, chúng con tạ ơn Chúa đã ban cho Giáo Hội những mục tử, tài đức, khôn ngoan, thánh thiện và đạo hạnh. Xin Chúa tiếp tục thánh hóa các ngài, để các ngài trở nên những mục tử như lòng Chúa ước mong. Xin Chúa cũng đón nhận sự chân thành, cộng tác của mỗi người chúng con trong việc bảo vệ, cổ võ và vun trồng ơn Thiên Triệu. Amen.
 

ĐỂ CHIÊN ĐƯỢC SỐNG DỒI DÀO 
“Phần tôi, tôi đến để chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10)

Suy niệm: Đức Giê-su không chỉ loan báo Tin Mừng, Ngài là chính Tin Mừng ấy. Ngài không chỉ ban Bánh hằng sống, Ngài nói: “Ta là Bánh hằng sống.” Ngài không chỉ chiếu sáng cho trần gian, nhưng là Ánh sáng ấy. Ngài chỉ cho ta cửa thiên đàng, nhưng Ngài cũng là cửa ấy. Ngài chỉ định các mục tử  coi sóc đoàn chiên, nhưng Ngài xác quyết: “Ta là Mục tử.” Ngài đến không phải chỉ để hướng dẫn đường đi, Ngài khẳng định: “Ta là con Đường, Sự thật, và Sự sống” (J. Baxter). Tin Mừng, Bánh hằng sống, Ánh sáng, con Đường, Sự thật ấy được vị Mục tử nhân lành hoàn tất trong cuộc Vượt qua, đem lại sự sống dồi dào, viên mãn cho đoàn chiên được cứu chuộc.

 Mời Bạn: “Điều gì làm thay đổi đời bạn? Hãy bắt đầu bằng câu: “Chúa là Mục tử tôi” (M. Lucado). Có thể nhiều vị thần, lắm ngẫu tượng được bạn cấp giấy phép cho vào chăn dắt cuộc đời mình. Chúa nhật Chúa Chiên Lành hôm nay nhắc bạn nhìn lại sự chết mà các loại ngẫu tượng ấy đang tác hại trong đời mình, để rồi dành cho Chúa Giê-su vị trí Mục tử đích thật qua việc vâng nghe lời Ngài. Mong đời bạn sẽ thay đổi tích cực nhờ xác tín Chúa là Mục tử đời mình.

Sống Lời Chúa: Tôi nhìn ngắm Chúa Giê-su, vị Mục tử nhân lành của đời mình, quyết tâm để Ngài chăn dắt cuộc đời, vâng theo lời Ngài dạy.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, Chúa là Mục tử nhân lành chăn dắt đời con. Đi theo Chúa, con xác quyết mình có được mọi sự tốt đẹp của cuộc đời: hạnh phúc, niềm vui, an bình, ý nghĩa, và sự sống vĩnh cửu. Xin cho con luôn vâng nghe lời Chúa hướng dẫn mọi ngày. Amen.

 

ĐỂ CHIÊN ĐƯỢC SỐNG
Chúa Nhật 4 Phục Sinh năm A: Ga 10, 1-10 - Lm. Thái Nguyên

LmTN 250423a

 

Suy niệm

Chúng ta đang ở trong mùa Phục Sinh, mùa của thiên nhiên lan tràn sự sống, với những đồng cỏ xanh tươi bát ngát trên các nương đồi, mặc sức cho đàn chiên no thỏa dưới sự chăn dắt của một chủ chiên tốt lành. Đó là bức tranh biểu tượng cho một thực tại sâu nhiệm trong đời sống tinh thần của con người. Điều này được diễn tả qua hình ảnh người Mục tử nhân lành, là chính Đức Giêsu Kitô. Ngài là vị mục tử tối cao từ Thiên Chúa mà đến, vị mục tử đích thực mà dân Chúa hằng luôn mong đợi từ ngàn xưa. Ngài đến để đem lại sự sống mới cho con người.

Đức Giêsu là vị Mục tử nhân lành, nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay Ngài còn ví mình là cửa chuồng chiên. Ai không qua cửa mà vào chuồng chiên thì đều là những tên trộm cướp. Đó là những mục tử giả hiệu, vì trèo qua những ngõ khác mà đột nhập vào. Đàn chiên sẽ nhận ra ngay kẻ lạ mặt, chúng hoảng sợ và chạy trốn chứ không nghe theo. Vì họ đến chỉ để giết hại và phá hủy đàn chiên. Còn người mục tử chân chính thì đi qua cửa mà vào. Với lời nói và giọng điệu riêng biệt, chiên nhận ra ngay tiếng của người chủ và cất bước theo sau.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã giải thích dụ ngôn này như sau: “Khi Ngài đưa ta đến với Cha, Ngài nhận mình là Cửa. Khi Ngài săn sóc ta, Ngài nhận mình là Mục Tử”. Cửa chuồng chiên là cổng duy nhất để chiên nhận ra người chủ đích thật, và cũng là lối đi duy nhất để chiên vào trong tìm được sự an toàn, cũng như để chiên ra ngoài tìm đến đồng cỏ xanh tươi. Đức Giêsu là Cửa duy nhất đem lại sự sống thật cho nhân loại, vì Ngài đến để cho chiên được sống và sống dồi dào. Chỉ những ai ra vào Cửa Giêsu mới tìm thấy được niềm vui ơn cứu độ.

Đức Giêsu là gương mẫu tuyệt đối cho mọi mục tử khác trong vai trò lãnh đạo dân Chúa. Giữa chiên và Ngài có một mối dây thân thiết:

“Tôi biết chiên tôi và chiên tôi biết tôi”. Chiên đã trở thành điều vô cùng quý giá đối với Ngài, đến nỗi Ngài dám hy sinh mạng sống mình cho chúng. Với tâm tình và tính cách đó,
Ngài là mô mẫu để giúp phân biệt mục tử thật và mục tử giả. Mục tử giả sẽ không dám sống như Ngài, càng không dám hy sinh để bảo vệ đàn chiên, mà chỉ nhằm vào những con chiên béo bở để no thỏa cho mình. Mục tử thật cũng khác với kẻ chăn thuê, là kẻ không quan tâm gì đến sự sống của đàn chiên, mà chỉ nhằm đến quyền lợi và bổng lộc cho mình.


Người mục tử lý tưởng theo gương Đức Kitô qua lời dẫn giải của Đức Thánh Cha Phanxicô: là “người gần gũi với dân chúng, là người cha, người anh em, với sự hiền dịu, kiên nhẫn và thương xót; là người yêu sự khó nghèo, không tham vọng tìm địa vị cao… là người săn sóc canh giữ đoàn chiên hiệp nhất, chú ý các hiểm nguy có thể đe dọa đoàn chiên, làm cho niềm hy vọng của đoàn chiên lớn lên; là người có khả năng củng cố bước đi của Thiên Chúa nơi dân Người với tình yêu thương và lòng kiên nhẫn: ở đàng trước đoàn chiên để chỉ đường, ở giữa đoàn chiên để duy trì đoàn chiên hiệp nhất, ở đàng sau đoàn chiên để tránh cho ai đó khỏi phải ở lại phía sau…”.

Giáo Hội dành Chúa Nhật thứ 4 Phục Sinh để cầu nguyện cho ơn gọi linh mục và tu sĩ. Làm sao có được những mục tử như lòng Chúa mong ước, và những tu sĩ dám tận hiến trọn vẹn đời mình? Về điều này, thánh Gioan Phaolô II đã kêu gọi mọi tín hữu hãy chăm lo cho mảnh đất nơi hạt giống ơn gọi được nảy mầm và lớn lên. Mảnh đất đó là cộng đoàn giáo phận và giáo xứ, với những nét phát họa cơ bản như: một cộng đoàn biết lắng nghe Lời Chúa, nhờ đó người trẻ sẽ dễ nghe được tiếng Chúa mời gọi vang lên từ trái tim mình; một cộng đoàn biết chuyên tâm cầu nguyện, dành ưu tiên cho đời sống tâm linh, nhờ đó người trẻ mới dám đáp lại tiếng Chúa kêu mời, quên mình để phục vụ vô vị lợi và hiến thân vô điều kiện; một cộng đoàn biết hăng say làm việc tông đồ, khao khát làm cho Chúa được mọi người nhận biết và yêu mến; một cộng đoàn quan tâm phục vụ và sống cho người nghèo.

Gia đình là một Hội Thánh tại gia. Chính từ những gia đình đạo đức thánh thiện, mới có những con người trẻ tốt lành, dám quảng đại hiến dâng cuộc đời mình để phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Giáo Hội lúc nào cũng cần đến sự hướng dẫn của các mục tử để chăm sóc đoàn chiên Chúa, cũng như hiện diện của các tu sĩ sống đời thánh hiến, để thế giới hiểu được thế nào là tình yêu, thấy được thế nào là những thực tại vô hình. Ước chi mỗi người chúng ta luôn cầu nguyện và canh tân cuộc sống mình, gia đình mình, để tạo điều kiện cho ơn gọi phát triển nơi các bạn trẻ, góp phần xây dựng Giáo Hội của chính Đức Kitô.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu, Mục Tử nhân lành,
đã hy sinh đời mình vì nhân thế,
không như kẻ chăn thuê chỉ yên bề,
không kể gì sống chết của đàn chiên.


Là Mục Tử Đấng chăn chiên nhân từ,
Chúa dẫn con đến đồng xanh suối mát,
đem lại bình an sự sống cho xác hồn,
chẳng bao giờ chúng con sợ thiếu thốn.


Chúa chính là nơi chốn để tựa nương,
cho cả những ai phải sa cơ lỡ bước,
để vượt qua tăm tối của đêm trường,
đón nhận được tình thương và ân sủng.


Xin cho đoàn chúng con trong mọi lúc,
biết nhận ra ân phúc của đời mình,
để luôn sống trong ân tình của Chúa,
biết nghe theo tiếng Chúa ở mọi nơi,
biết bước theo chân Chúa ở mọi thời,
đừng để con xa rời tình thương Chúa.


Trong kế hoạch yêu thương và cứu độ,
Chúa vẫn chọn một số trong chúng con,
để nên như mục tử giữa gian trần,
đại diện Chúa để phục vụ tha nhân,
để chăm lo dẫn dắt đoàn dân Chúa,
và đưa về những ai đang sa lạc.


Xin cho các bạn trẻ biết mở lòng,
nghe được tiếng Chúa đang vang vọng,
biết đáp lại tình Chúa vẫn ước mong,
và góp phần với Chúa cho cuộc sống.


Xin cho con có tâm tình của Chúa,
biết quan tâm đến người đang khốn khó,
biết chăm lo cho kẻ bị bỏ rơi,
để tình Chúa sáng lên trong cuộc đời. Amen

 

 

 
 

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 4 PHỤC SINH A

Cv 2, 14a.36-41; 1 Pr 2, 20b-25; Ga 10, 1-10
LM ĐAN VINH - HHTM

 

https://www.tonggiaophanhanoi.org/wp-content/uploads/2017/03/Chua-nhat-IV-PS-14-4-2023-800x533.jpg

 

ĐỂ NÊN MỤC TỬ NHÂN LÀNH NOI GƯƠNG ĐỨC GIÊ-SU
I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Ga 10, 1-10

(1) “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. (2) Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. (3) Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh, anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. (4) Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. (5) Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ. (6) Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ. (7) Vậy, Đức Giê-su lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. (8) Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. (9) Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. (10) Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.

2. Ý CHÍNH:

Bài Tin Mừng hôm nay giới thiệu Đức Giê-su vừa là mục tử vừa là cửa chuồng chiên:

- LÀ MỤC TỬ THẬT SỰ CỦA DÂN ÍT-RA-EN: Vì Người đi qua cửa chính mà vào chuồng chiên và được người giữ cửa là Gio-an Tẩy Giả giới thiệu. Do đó, Người được đàn chiên là dân chúng nghe theo. Còn các đầu mục Do thái chỉ là người lạ, nên chiên chạy trốn và không đi theo họ.

- LÀ CỬA CHO CHIÊN RA VÀO: Các luật sĩ và Biệt phát không tin Đức Giê-su và không được Thiên Chúa ủy nhiệm coi sóc đàn chiên. Họ leo rào mà vào chuồng nên chỉ là hạng trộm cướp. Kẻ trộm đến chỉ để giết hại và phá huỷ đàn chiên. Còn Đức Giê-su đến để đem lại cho chiên sự an toàn, tự do, lương thực và sự sống dồi dào.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-3: + Ràn chiên: hay chuồng chiên, là hình ảnh quen thuộc của dân Do thái vốn là một dân du mục. Ở đây ràn chiên là hình ảnh ám chỉ Giáo hội là Nước Trời hay Nước Thiên Chúa. + Cửa vào: Mỗi chuồng chiên chỉ có một cửa chính để chiên ra vào. Ai muốn được công nhận là mục tử đích thực của Chúa phải qua cửa chính là Đức Giê-su mà vào Hội Thánh. Họ phải được Người tuyển chọn và trao sứ mệnh chăn chiên. Còn kẻ trèo qua lối khác mà vào, như các kinh sư hay Pha-ri-sêu, thì chỉ là mục tử giả hiệu hay hạng trộm cướp. + Người giữ cửa mở cho anh ta vào: Đức Giê-su chính là Mục tử đích thực, vì Người đã được người giữ cửa là Gio-an Tẩy Giả làm chứng là “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” (Ga 1, 31-34). + Và chiên nghe tiếng của anh: Đàn chiên chỉ nhận biết và nghe theo một chủ chăn duy nhất, như các Tông đồ đã nghe lời và đi theo một mình Đức Giê-su (x. Ga 1, 35-51). + Anh gọi tên từng con rồi dẫn chúng ra: Trong ràn có nhiều đàn chiên. Ban chiều, mỗi mục tử sẽ đưa đàn chiên vào ràn, rồi đến sáng sẽ lại đến dẫn đàn chiên ấy ra khỏi chuồng để dẫn đến đồng cỏ cho chúng ăn cỏ uống nước. Đây là kiểu nói cường điệu. Thực ra các mục tử chỉ đặt tên và gọi tên một con chiên đầu đàn thôi và các con khác sẽ theo sau con chiên đầu đàn này ra ngoài. Ở đây Đức Giê-su nhấn mạnh tinh thần trách nhiệm của Người là vị Mục tử tốt lành, khác với các Pha-ri-sêu và kinh sư là những kẻ chăn thuê vô trách nhiệm.

- C 4-6: + Anh ta đi trước và chiên đi theo sau: Câu này nhắc đến sứ mệnh Mục tử của Đức Giê-su: Khi đã kéo Môn đệ ra khỏi thế gian (x. Ga 15, 19). Người đi tiên phong dẫn họ tới đồng cỏ non là Hội Thánh. Chiên sẽ nhận biết tiếng nói và chỉ đi theo Mục tử Giê-su, vì Người luôn nói Lời của Thiên Chúa cho họ (x. Ga 14, 10). + Chúng sẽ không theo người lạ,..: Người lạ là những kẻ không do Thiên Chúa sai đến, nhưng đã leo rào mà vào. Người lạ ám chỉ các đầu mục dân Do thái đương thời. Vì họ không phải là mục tử đích thực, nên chiên đã không đi theo họ mà trái lại chúng còn lẩn trốn họ nữa.

- C 7-8: + Tôi là cửa cho chiên ra vào: Vì thính giả không hiểu ý nghĩa dụ ngôn, nên Đức Giê-su phải giải thích rõ ràng: Người chính là cửa chuồng chiên tức là cửa ngõ để vào Nước Trời, mà ai muốn vào Nước Trời ấy đều phải tin Người. + Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ: Mọi kẻ đến trước ở đây không nhằm chỉ các ngôn sứ Cựu Ước, mà chỉ nhắm tới những kẻ không được Thiên Chúa sai như các pha-ri-sêu và kinh sư Do thái (x. Mt 23, 1-8). Họ bị Đức Giê-su quở trách là bọn đạo đức giả, cản đường người khác gia nhập Nước Trời, có lòng tham lam, ăn ở bất công, dẫn dường đui mù và đã từng giết hại nhiều vị ngôn sứ chân chính (x. Mt 23, 13-32).

- C 9-10: + Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu: Đức Giê-su là con đường người ta phải đi ngang qua để được vào Nước Trời. Tương tự như câu: “Thầy là đường…Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” (Ga 14,6). + Người ấy sẽ ra vào: Ra vào nghĩa là được tự do đi lại. + Gặp được đồng cỏ: Trong Đức Giê-su, các tín hữu sẽ được cứu khỏi làm nô lệ cho tội lỗi và ma quỷ. Họ sẽ được hưởng tự do đích thực (x. Ga 8, 31-36). Nhờ Đức Giê-su, họ sẽ tìm được của nuôi thân là Nước hằng sống và Bánh trường sinh (x. Ga 4, 14 ; 6, 35). + Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy: Kẻ trộm ám chỉ các đầu mục Do thái, vì không được Thiên Chúa sai đến, nhưng họ đã leo rào mà vào chuồng chiên. Họ chỉ đi tìm lợi ích cho bản thân hơn là lợi ích của đàn chiên (x. Mt 23, 4-7). + Tôi đến cho chiên được sống và sống dồi dào: Nhờ có lương thực là Lời Chúa và Thánh Thể, mà đức tin của các tín hữu sẽ trở nên vững mạnh và có được sự sống đời đời.

4. CÂU HỎI:

1) Ràn chiên nghĩa là gì và là hình ảnh ám chỉ điều gì? Cửa vào ám chỉ ai? 2) Đức Giê-su là Mục Tử thực sự của đoàn chiên vì đã được Gio-an Tẩy Giả là người giữ cửa làm chứng như thế nào? 3) Đàn chiên chỉ nhận biết tiếng nói và đi theo ai? Phải chăng mọi con chiên đều được đặt tên và mỗi buổi sáng người mục tử phải gọi tên từng con chiên để dẫn chúng ra khỏi chuồng? 4) Ý nghĩa của câu: anh ta đi trước và chiên đi theo sau… là gì? 5) Tại sao đàn chiên không nghe theo người lạ? Người lạ nói đây ám chỉ những ai? 6) Những kẻ đến trước được liệt vào hạng trộm cướp nói đây ám chỉ ai? Tại sao? 7) Đức Giê-su tự nhận mình là cửa chuồng chiên mà ai muốn vào chuồng chiên phải đi qua, giống như nơi khác Người đã tự ví mình là gì? 8) Kẻ trộm đầu mục Do thái khác với vị Mục Tử tốt lành là Đức Giê-su thế nào?


II. SỐNG LỜI CHÚA


1. LỜI CHÚA: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10, 9)

2. CÂU CHUYỆN:

1) ĐỨC GIO-AN PHAO-LÔ II – HÌNH ẢNH MỤC TỬ NHÂN LÀNH:

Ngày 27/04/2014, Đức Thánh Cha Gio-an Phaolô II đã được Giáo hội tôn phong lên bậc hiển thánh. Người là một người môn đệ đã họa lại rõ nét hình ảnh mục tử của Thầy Chí Thánh Giê-su. Một vị mục tử luôn làm việc: Cho dù tuổi đã cao lại thêm nhiều bệnh tật, thế mà ngài vẫn luôn hiện diện bên đàn chiên, vẫn lên tiếng gọi đàn chiên, vẫn là chỗ dựa vững chắc và an toàn cho đàn chiên. Đến nỗi khi ngài qua đời, Đức tổng Giám mục Lê-ô-nar-do San-dri, thứ trưởng Ngoại giao của Toà Thánh đã nói với toàn thế giới rằng: “Hôm nay, chúng tôi trở thành những đứa con mồ côi”.

Tại sao người ta lại tỏ lòng thương tiếc một cụ già như thế? Có phải người ta ngưỡng mộ Ngài vì ngài nhiều tiền, nhiều quyền thế không? Thưa không phải thế. Người ta thương tiếc ngài như một mục tử đã sống hết mình vì đàn chiên. Một mục tử canh giữ hoà bình không chỉ cho đàn chiên mà cho hàng tỉ người trên khắp hành tinh này. Người mục tử với 26 năm chăn dắt đàn chiên của Chúa đã không ngừng bảo vệ quyền sống của con người, nhất là của các thai nhi. Người mục tử đã không ngừng đi đến tận cùng thế giới để gieo rắc an bình, công bình, tha thứ và yêu thương. Người mục tử đã đi đến cùng đường để quy tụ đàn chiên, để tìm kiếm các con chiên lạc đưa về một mối và cuối đời, trong những tiếng nấc hoà trộn với hơi thở bị ngắt quãng, ngài đã nói với đàn chiên đang canh thức cầu nguyện cho ngài trong giờ lâm chung rằng: “Ta đã đi tìm kiếm các con. Và bây giờ các con đã đến với Ta. Ta xin cám ơn các con”.

2) TINH THẦN MỤC TỬ CỦA MỘT BÀ MẸ:

Trong cuốn tự thuật, DIM-MY CÁC-NÂY (Jimmy Cagney) một nam diễn viên nổi tiếng ở HÔ-LI-GÚT (Hollywood) đã thuật lại câu chuyện cảm động về bà mẹ của ông. Câu chuyện xảy ra vào thời thơ ấu của Các-nây khi mẹ ông nằm thoi thóp chờ chết. Chung quanh giường có bốn anh em trai và một cô em gái út duy nhất. Vì bị tai biến mạch máu não, nên bà mẹ của Các-nây không thể nói thành tiếng. Sau khi bà cố lần lượt hôn năm đứa con, bà liền giơ cánh tay phải còn cử động được lên. Dim-my kể lại những gì đã xảy ra như sau: “Mẹ tôi dùng ngón tay phải chỉ vào anh con trai trưởng rồi lại chỉ vào ngón tay trỏ của bàn tay trái bị tê liệt của bà, rồi bà lần lượt chỉ vào từng người trong mấy anh em chúng tôi, mỗi người được tượng trưng bằng một trong bốn ngón tay trái. Riêng ngón cái thì bà chỉ vào đứa em gái út Din-ni (Jeannie) mới ba tuổi. Bà cầm ngón cái ấy để vào giữa lòng bàn tay và ép bốn ngón tay kia lên ngón cái ấy. Cuối cùng bà dùng bàn tay phải vỗ nhẹ lên nắm đấm của bàn tay trái”. Dim-my nhận xét rằng cử chỉ của mẹ ông lúc đó thật tuyệt vời. Năm anh em hiện diện đều hiểu được ý nghĩa mà bà muốn diễn tả: Bốn anh em trai phải thay bà để che chở và giúp đỡ cho cô em gái út bé nhỏ sau khi bà qua đời. Đó là một cử chỉ đầy ý nghĩa mà không lời nói nào có thể diễn tả hay hơn được. Cử chỉ ấy của bà đã để lại ấn tượng mạnh mẽ không bao giờ phai mờ trong tâm khảm của anh em chúng tôi, khiến chúng tôi luôn giữ lời trăn trối của bà”.

3) ĐỨC TÍNH HY SINH CỦA MỤC TỬ: CÂU CHUYỆN «ANH PHẢI SỐNG»

Có hai vợ chồng trẻ làm nghề đốn củi vào mùa nước lũ. Chiều tối, khi trở về họ đặt củi trên chiếc thuyền lan mong manh, nhỏ bé để xuôi theo dòng nước quay về nhà. Thình lình một dòng lũ từ những sườn núi ồ ạt tuôn xuống dòng sông, tạo thành một dòng xoáy mỗi lúc một mạnh khiến chiếc thuyền lan nhỏ bé của họ bị bể vỡ tan tành. Người chồng cố níu kéo vợ khỏi bị nước lũ cuốn trôi. Nhưng dòng nước xoáy mỗi phút giây qua đi lại trở nên mạnh mẽ hơn. Sức lực của anh chồng xem ra mỗi lúc đuối dần khi phải một mình bơi sải vừa để thoát thân lại vừa phải cứu vợ. Người vợ thấy sức chịu đựng của chồng đã sắp cạn kiệt, nên đã buông tay ra để mặc cho dòng nước lũ cuốn đi. Chị chỉ kịp gào thét trong cơn mưa giông và nước lũ: “Anh phải sống để nuôi dạy đàn con anh nhé!”.

4) MỤC TỬ CÓ SỨC MẠNH BIẾN ĐỔI SỐ PHẬN ĐỜI NGƯỜI:

Dương Ân Điển là đứa bé bị bỏ rơi, người ta nhặt được nó ở một quầy bán thịt, trong cái chợ nghèo vùng núi miền Nam, đảo Đài Loan. Câu chuyện thương tâm này xảy ra năm 1974, ấy là lúc vừa lọt lòng, em đã không có hai cánh tay, chân phải thẳng đơ không thể co duỗi.

Thế mà 25 năm sau, đứa bé tàn tật bất hạnh ấy đã trở thành nhà danh họa tài ba, chuyên vẽ tranh bằng chân và miệng. Cô đã tổ chức nhiều cuộc triển lãm ở Mỹ và Nhật, và là thành viên của Hiệp Hội quốc tế những người vẽ tranh bằng chân và miệng.

Cuộc đời cô thay đổi nhanh chóng như thế, thành công rực rỡ như thế, cũng là nhờ mục sư Dương Húc và vợ ông là Lâm Phương Anh nhận nuôi. Đặc biệt là ông Tưởng Kinh Quốc đã cho cô đi giải phẫu chỉnh hình cột sống, nắn chân phải, sửa đường làm cầu cho cô dễ dàng đi tới trường. Ông đã nói với cô: “Cháu không có tay, nhưng còn chân, và có thể làm được rất nhiều việc”. Chính tình thương, sự chăm sóc, và lời động viên của ông Tưởng Kinh Quốc đã thay đổi số phận của một con người.

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27). Thiên Chúa là chủ chiên nhân lành, Người yêu thương mỗi người chúng ta bằng một tình yêu cá biệt, cho dù chúng ta có què quặt đui mù, có xấu xa đốn mạt đến đâu, mỗi người chúng ta đều có chỗ đứng độc nhất vô nhị trong tình yêu bao bọc của Chúa; mỗi người chúng ta đều có vị trí đặc biệt trong trái tim yêu thương của Người. Tấm lòng quảng đại yêu thương của ông Tưởng Kinh Quốc dành cho cô bé tàn tật Dương Ân Điển chỉ là hình bóng tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa đối với chúng ta, những con chiên của Người.

5) ĐỨC GIÊ-SU LÀ CỬA BẢO VỆ ĐÀN CHIÊN:

George Smith kể lại một loại chuồng chiên khi đi du lịch ở Đông phương: Bấy giờ ông cùng đi với một người chăn chiên. Thấy một chiếc chuồng ông liền hỏi người chăn chiên:

- Đó có phải là chuồng chiên không?

Người ấy đáp:

- Dạ, phải.

Rồi Geoge nói:

- Tôi thấy chỉ có một lối đi vào.

Giơ tay chỉ khoảng trống ở hàng rào, người ấy đáp:

- Vâng, ở đàng kia là cái cửa.

Ông Geoge rất ngạc nhiên bảo:

- Nhưng ở đó đâu có cửa?

Người chăn chiên đáp:

- Dạ, tôi là cửa.

Geoge chợt nhớ câu truyện trong Tin Mừng Gio-an nên tiếp tục hỏi người chăn chiên:

- Anh muốn nói gì khi bảo chính anh là cái cửa?

Người chăn chiên giải thích:

- Chiên vào chuồng xong, tôi đến nằm ngay ngưỡng cửa, và sẽ không có con chiên nào có thể đi ra hoặc con chó sói nào có thể đi vào chuồng nếu không nhảy qua người tôi.

3. SUY NIỆM:

Chúa nhật IV Phục Sinh được gọi là Chúa nhật lễ Chúa Chiên lành. Tin Mừng Gio-an đề cập đến hình ảnh quen thuộc của vùng Trung Đông: các mục tử, cửa chuồng chiên:

1) TÔI LÀ MỤC TỬ NHÂN LÀNH (Ga 10, 7):

- Mục tử là người vào chuồng chiên ngang qua cửa chính, chứ không lén lút leo rào mà vào chuồng (x. Ga 10, 1-2). Người giữ cửa quen biết mục tử nên sẵn sàng mở cửa, và chiên cũng quen biết mục tử quen với giọng nói của anh, nên dễ dàng phân biệt anh với người lạ hay kẻ trộm (x. Ga 10, 3-5). Mục tử nhân lành yêu thương chiên, biết tên và âu yếm gọi từng con chiên trong đoàn ra ngoài. Mục tử sẽ đi trước dẫn đường, các con chiên sẽ yên tâm theo sau, vì chúng biết đang đi theo ai và người chủ chiên sẽ dẫn chúng đi đâu. Hầu như có một sự hiểu biết cảm thông và gần gũi giữa đoàn chiên và người mục tử.

- Trong lịch sử dân Ít-ra-en, các vua chúa và đại tư tế được gọi là mục tử. Danh hiệu Mục Tử Nhân Lành thường được dành riêng để gọi Đức Chúa. Qua trung gian ông Mô-sê, Đức Chúa đã dẫn đưa con dân Ít-ra-en vượt qua Biển Đỏ, qua sa mạc 40 năm để về miền Đất Hứa dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và con cháu đến muôn đời. Đức Chúa như người mục tử đã gắn liền số phận với đàn chiên là dân Ít-ra-en. Hình ảnh mục tử đó chỉ được rõ nét nơi Đức Giê-su trong thời Tân Ước sau này. Hôm nay, Đức Giê-su tuyên bố Người là Mục Tử nhân lành. Khác với các đầu mục Do-thái là bọn người chăn thuê. Chúng chỉ biết lợi dụng đàn chiên để tìm tư lợi, Mục Tử nhân lành Giê-su yêu thương đàn chiên, hiểu biết từng con, luôn phục vụ đàn chiên và sẵn sàng thí mạng sống bảo vệ đàn chiên khỏi bị sói dữ cắn xé. Đáp lại, con chiên cần nghe tiếng chủ chiên, yêu mến và vâng lời chủ chiên. Đức Giê-su tóm lại sứ mệnh mục tử của Người như sau: “Kẻ trộm đến chỉ để ăn trộm, giết hại và phá hủy. Phần Tôi, Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).

2) TÔI LÀ CỬA CHUỒNG CHIÊN (Ga 10, 9):

Sau khi đã tự mô tả là một người mục tử nhân lành, Đức Giê-su lại nhận mình là cửa chuồng chiên. Hôm nay Đức Giê-su tuyên bố: «Tôi là cửa cho chiên ra vào… Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ» (Ga 10, 7.9). Đức Giê-su chính là mục tử chăn dắt đoàn chiên là các tín hữu. Khác với kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá hủy, Đức Giê-su đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào (x. Ga 10, 10).

- Cửa chuồng chiên là lối cho chiên ra vào chuồng để được bảo vệ an toàn và được sống dồi dào. Chỉ người nào đi qua Cửa chuồng chiên Giê-su tức là Hội Thánh thì người ấy mới là mục tử thực sự của Thiên Chúa và mới được hưởng ơn cứu độ của Ngài ban cho (x. Ga 10, 9). Thánh Gio-an Kim Khẩu nói: “Khi Đức Giê-su đưa chúng ta đến với Chúa Cha, Người nhận mình là Cửa. Khi Người săn sóc dưỡng nuôi ta, Người nhận mình là Mục Tử”. Cửa Giê-su cũng giúp phân biệt mục tử giả và thật: Mục tử giả sẽ không dám đi ngang qua Cửa Giê-su để vào chuồng chiên. Chớ gì Hội Thánh có nhiều mục tử thực sự của Chúa Giê-su, có tình yêu thương thể hiện qua lối sống gần gũi «có mùi chiên», biết tên từng con chiên và mang lại cho chiên của ăn thiêng liêng là Lời Chúa và Thánh Thể đem lại sự sống dồi dào.

3) NGUYÊN NHÂN THIẾU ƠN THIÊN TRIỆU TRONG CÁC NƯỚC TÂN TIẾN?

a) Hiện nay nhiều nơi trên thế giới nhất là tại các nước Âu Mỹ, đang thiếu trầm trọng ơn gọi linh mục tu sĩ. Nhiều nhà thờ không có linh mục nên phải đóng cửa hoặc bán đi để trả nợ. Cũng có nhiều dòng tu bị giải thể vì không còn lớp tu sĩ trẻ kế thừa.

b) Hiện tượng thiếu ơn gọi linh mục tu sĩ thường do mấy nguyên nhân như sau:

- Một là vì các đôi vợ chồng trẻ do thói ích kỷ nên không muốn sinh nhiều con, để dành tiền bạc và thời gian phục vụ cho các nhu cầu riêng của mình.

- Hai là các người trẻ hôm nay luôn chịu ảnh hưởng của lối sống thực dụng và hưởng thụ: chỉ biết tìm thỏa mãn các đam mê nhục dục thấp hèn, các nhu cầu ích kỷ bản thân… và mất đi cảm thức đức tin.

- Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất có lẽ là do người lớn đã không nhiệt tâm cổ võ cho ơn thiên triệu và không quảng đại hiến dâng con mình cho Chúa và Hội Thánh.

- Mỗi Giáo xứ phải trở thành vườn ươm trồng ơn thiên triệu: Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II trong sứ điệp về ơn gọi năm 1996 đã nhắc đến việc cần phải làm là tạo một môi trường thuận lợi cho hạt giống ơn gọi dễ phát triển là các giáo xứ. Ngài nói như sau: “Phải làm sao để mỗi giáo xứ trở thành một cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa, cộng đoàn cầu nguyện, hăng say làm việc tông đồ và luôn quan tâm phục vụ những người nghèo khổ. Giới trẻ hôm nay vẫn không thiếu những tâm hồn quảng đại, không thiếu những người trẻ muốn sống cuộc đời lý tưởng và có ý nghĩa. Họ cần được Hội Thánh hướng dẫn để gặp được Đức Giê-su, để nghe lời Người và theo làm môn đệ của Người, sẵn sàng chia sẻ sứ mệnh cứu độ của Người. Giới trẻ hôm nay cũng cần được nghe những tiếng kêu than của bao người đói khát chân lý hay đang cần được công lý bảo vệ. Hội Thánh phải giúp giới trẻ cảm nhận được bổn phận lớn lao là xây dựng thế giới này trở thành một ngôi nhà của tình thương và hạnh phúc. Giới trẻ cũng cần có những người thầy, người bạn dám sống niềm tin giữa muôn trở lực khó khăn, và luôn đứng vững trước sức mạnh của các cám dỗ muốn thỏa mãn các đam mê bất chính”.

4) LÀM GÌ ĐỂ GIÚP HỘI THÁNH THÊM NHIỀU LINH MỤC TU SĨ?

a) Hỗ trợ của các bậc cha mẹ trong gia đình: Hiện nay sở dĩ thiếu ơn gọi một phần cũng là do lỗi của chúng ta chưa thiết tha cầu xin Thiên Chúa sai thêm thợ gặt đến, chưa quyết tâm trở thành chứng nhân của Chúa, chưa quảng đại dâng con và khuyến khích chúng quảng đại phục vụ Chúa và Hội Thánh trong bậc tu trì.

b) Vai trò của gương sáng: Đức Giáo hoàng Phan-xi-cô đã nói về các mục tử trong Hội Thánh như sau: “Giám Mục không phải là Giám Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân. Cũng vậy, Linh Mục không phải là Linh Mục cho bản thân ngài, mà là cho dân: để phục vụ, nuôi dưỡng, chăm sóc dân là đoàn chiên của ngài…” Đức Giáo Hoàng đòi hỏi linh mục như sau: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình.” Hiện nay trong giáo xứ của chúng ta, vẫn còn nhiều người chưa biết Chúa, hoặc đã biết Chúa nhưng chối bỏ đức tin, cố tình loại Chúa ra khỏi cuộc đời mình… Các cha xứ phải đi tìm kiếm họ để an ủi, chữa lành và giúp họ trở về với Chúa.

c) Gây ý thức về tầm quan trọng và nhiệm vụ ươm trồng ơn thiên triệu: Mỗi người chúng ta cần cầu nguyện cho mình sống đúng vai trò là linh mục, là quý chức giúp việc, là chồng vợ, cha mẹ và con cái trong gia đình.

d) Quảng đại đóng góp tinh thần vật chất cho chủng viện: Các gia đình, hội đoàn, giáo xứ… hãy quảng đại để tích cực cộng tác với Hội Thánh ươm trồng ơn thiên triệu và có thêm nhiều linh mục tu sĩ hiến thân chăm sóc đàn chiên và loan báo Tin Mừng cho an hem lương dân chưa nhận biết Chúa, vì «lúa chín đầy đồng mà thiếu thợ gặt».

4. THẢO LUẬN:

Theo bạn mục tử tốt như lòng Chúa mong ước hôm nay cần có những phẩm chất nào trong các phẩm chất sau đây: khôn ngoan, đạo đức, có bằng cấp cao, thông thạo ngoại ngữ, đàn hay hát giỏi, giảng hấp dẫn, nhiệt tình tông đồ, sống đơn giản, dấn thân hy sinh, chu toàn bổn phận, thái độ khiêm tốn, hiền hòa, vui vẻ, tiết độ, trung thực, vị tha, đúng đắn trong giao tiếp, quan tâm đến giới trẻ, có lòng thương xót? Tại sao?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin ban cho chúng con những linh mục biết quảng đại, hy sinh trong đời phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Xin ban cho chúng con những linh mục có trái tim biết yêu thương bằng tình yêu của Chúa, một trái tim mở rộng để sẵn sàng đón nhận hết mọi người, nhất là những người đau khổ và bị bỏ rơi. Xin ban cho chúng con những linh mục có đức tin vững mạnh, luôn sống kết hiệp mật thiết với Chúa, để giúp chúng con gặp được chính Chúa. Xin ban cho chúng con những linh mục biết chăm chỉ rao giảng Lời Chúa, có sức làm nóng lên đức tin yếu kém và làm bùng cháy ngọn lửa yêu thương trong lòng chúng con, giúp chúng con thêm đức tin để nhìn thấy Chúa trong mọi người. Cuối cùng xin Chúa ban cho chúng con những linh mục là những vị chủ chăn tốt lành noi gương Chúa xưa, đến để cho chiên “được sống và sống dồi dào”.


Chúa nhật thứ tư mùa phục sinh
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. (Ga 10, 1-10)

Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ”. Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá hủy. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.

Suy niệm

Mỗi khi được cùng với Giáo hội đón Chúa nhật thứ tư mùa phục sinh, hình ảnh người mục tử đi trước, dẫn một đoàn chiên theo sau, hướng về một đồng cỏ xanh tươi, với những đám cỏ xanh mượt, đầy năng lượng cho sự sống, rồi sau đó, tất cả cùng đi về phía trước tới một dòng suối nước trong xanh, mát mẻ, đem lại sự tươi mát và thanh thản cho cuộc sống. Tất cả những hình ảnh đó, gợi lên cho mỗi người tâm tình của một vị mục tử đang chăn dắt đoàn chiên của ngài ở trần gian, đó là Đức Giêsu phục sinh. Người mục tử đó đã chọn lựa và thiết lập cho mình một đoàn chiên, đã chăm sóc, nuôi dưỡng cảm thông và bảo vệ đoàn chiên đó cách cẩn thận, thậm chí còn hy sinh cả sự sống của mình cho đoàn chiên mỗi khi gặp hiểm nguy. Đó là tâm tình của ngày lễ Chúa Chiên lành, chúa nhật thứ tư mùa phục sinh.

Để cho đoàn chiên được sống và sống dồi dào, đòi hỏi người mục tử phải nghe được mùi chiên, phải hiểu được đoàn chiên của mình, đồng thời, người mục tử phải chuẩn bị cho đoàn chiên những thức ăn cần thiết cho sự sống thể lý và sự sống tinh thần. Thánh Phê rô, khi được trao trách vụ đứng đầu Giáo hội, ngài đã chuẩn bị những thức ăn cần thiết cho đời sống đức tin của con cái. Với những bài giảng xác tín về mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Thầy, thánh nhân đã hướng dẫn cho đoàn chiên phải sống như thế nào, để đền đáp tình yêu tự hiến của Thầy: “Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô”. Đấng chịu đóng đinh đó đã trao chính thịt và máu của Ngài cho con người làm của ăn, thức uống hàng ngày. Ai tin vào Thiên Chúa, hãy đón nhận thứ lương thực đó mỗi ngày, sẽ giúp họ có sự sống dồi dào hơn, sung mãn hơn.

Chứng kiến nhiều biến cố trong các cộng đoàn Giáo hội thưở ban đầu, vị thủ lãnh đã gởi tới các anh chị em tín hữu những lời khuyên bảo đầy kinh nghiệm, bởi từ những thăng trầm về đức tin của bản thân, thánh Phêrô muốn con cái mình hãy ý thức rằng, giá trị của ơn cứu độ quá cao cả, con người khó có thể đền đáp: “Anh em được gọi làm việc đó, vì Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Ðấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành”. Sự khiêm hạ của Con Thiên Chúa làm người là hình mẫu cho con người thấy thái độ phục vụ của Đấng được gọi là tình yêu. Nay Ngài đang muốn họa lại bức tranh phục vụ đó nơi mỗi cuộc đời của các tín hữu, ai sẽ là người cộng tác với Ngài?

Hình ảnh người mục tử đi vào cửa chuồng dẫn đoàn chiên ra đồng cỏ, tới dòng nước trong lành, được gán cho một Thiên Chúa cúi xuống, dẫn dắt đoàn con của Ngài tới bàn ăn với những món được đem từ trời đến, đó là Thịt và Máu của Con Thiên Chúa, bên cạnh đó là chén Máu cứu độ của Ngài, tất cả là những thức ăn cần thiết cho con người được sống và sống dồi dào: “Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy”. Bàn tiệc đó nay vẫn còn nơi Thánh lễ mỗi ngày, Thiên Chúa luôn mời gọi, luôn dọn sẵn và luôn trao tặng cho con người, chỉ với mong muốn con người được sống bên cạnh Ngài, dẫu rằng cuộc đời còn nhiều thăng trầm, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn đồng hành, luôn chia sẻ và luôn cảm thông với con người, giúp con người vượt thắng tất cả trong tin yêu và hy vọng.

Khi được mời gọi cầu nguyện cho ơn thiên triệu, cho các Linh mục trong giáo hội, cũng là lúc cần hướng tới giá trị đích thực của ơn gọi đó. Đức Giêsu thiết lập chức Linh mục, cho con người cộng tác với Ngài, để hiện tại hóa mầu nhiệm cứu độ của Ngài khi xưa trên thánh giá. Vì thế, phải chăng người Linh mục hôm nay phải là hiện thân của một Đức Giêsu trên thập giá, một Đức Giêsu phó mình vì con người, hy sinh tất cả cho con người, hay người Linh mục hôm nay tạo ra một Đức Giêsu khác, sống thức thời, hiện đại và được gọi cách thực dụng hơn đó là ‘Làm Linh Mục’. Tính ưu việt của thiên chức đó đang bị tục hóa do những yếu tố từ chủ nghĩa tương đối và tính cách thực dụng của cuộc sống. Vậy người Linh mục hôm nay là khuôn mặt của một Đức Giêsu thực dụng, thích trải nghiệm và thích được chỗ nhất trong hội đường và các ngã đường thế gian chăng. Tính thánh thiêng của thiên chức còn được trân trọng nữa không?

Yếu tố thứ đến là sự khủng hoảng đức tin từ nơi các gia đình. Lòng khao khát dâng con cho Thiên Chúa trong ơn gọi thánh hiến, của các bậc cha mẹ hầu như không còn. Mải mê với công ăn việc làm cho bằng bạn bè, hoặc lo lắng làm sao cho cái trẻ cái đẹp đừng chạy xa, nên các bậc cha mẹ vô tình quên hướng dẫn cho con cái thấy giá trị thánh thiêng của ơn gọi dâng hiến, của đời phục vụ các linh hồn giữa lòng Giáo hội. Những giờ kinh gia đình, những lời chỉ dạy nhân cách sống trong các gia đình ngày nay, hầu như không còn được quan tâm. Tất cả như bị cuốn vào quỹ đạo của đời sống hưởng thụ và tiêu thụ, của chủ nghĩa cá nhân, thì lấy đâu ra những ơn gọi dâng hiến cho Thiên Chúa, để phục vụ tha nhân hôm nay và ngày mai.

Sự quan tâm được dành cho một cái gì đặc biệt chung quanh cuộc sống, một giọt mực đen trên tờ giấy trắng luôn được quan tâm hơn cả tờ giấy lớn có giọt mực nhỏ, chỉ là một con người, các Linh mục hay Tu sĩ dành hết cuộc đời cho Thiên Chúa và cùng Thiên Chúa, họ tiến vào giữa lòng thế giới, phục vụ tha nhân trong im lặng và tin tưởng, thế nhưng, chỉ một chút khiếm khuyết của đời tu, thế là tất cả trở thành một chủ đề trên các trang mạng xã hội, trở thành điểm đến của bao lời đàm tiếu. Linh mục không phải là một công chức, càng không phải là một nhân viên văn phòng, nhưng chỉ là một con người, thậm chí còn được ví von là một cái thùng rác công cộng. Tất cả đều được nhận chịu như là một hệ quả của một chọn lựa khác người. Thầy Chí Thánh đã đi trước với những lời chỉ trích, dèm pha, đối đầu tranh luận và thậm chí đã bị loại trừ, chỉ vì đem đến cho họ một lối sống khác thế gian, một giáo lý gây thiệt thòi và tổn thương danh dự của họ. Và hôm nay, người Linh mục trong thời đại mới này, đang nhận chịu tất cả như Thầy mình.

Cầu nguyện cho ơn gọi Thiên triệu, cho các Tu sĩ, có phải là nhắc nhở người tín hữu hãy ý thức rằng, nếu mong chờ nơi các Linh mục một sự thánh thiện đủ, một tấm lòng bao dung đủ, thì chính trong tâm hồn họ, hãy khởi động những giá trị nhân bản đó, khi người tín hữu biết sống bao dung, biết quảng đại phục vụ, biết giúp đỡ Giáo hội, là lúc họ đang hướng dẫn cho con cái của họ biết quảng đại chia sẻ và giúp đỡ, cũng như sẵn sàng hiến thân phục vụ cho đồng loại, cho các linh hồn, cho gia đình Thiên Chúa giữa lòng thế giới này. Đó là một sự chờ đợi của Thiên Chúa, Ngài mong con người hãy biết cầu nguyện cho mỗi một người Cha, mỗi một người Mẹ trong các gia đình, hãy giáo dục con cái theo tinh thần Tin mừng, theo tinh thần của Thầy Chí Thánh là Đức Giêsu Kitô, Đấng đã hiến thân mình cho nhân loại, cho mỗi người và mỗi gia đình.

Lạy Chúa Giêsu, người mục tử nhân lành, xin Chúa soi sáng cho các bậc Cha Mẹ trong các gia đình, hãy là những người mục tử nhân lành, dám hy sinh cho con cái, cho gia đình, để từ nơi cộng đoàn nhỏ bé đó, những ơn gọi Linh mục, Tu sĩ được gieo trồng và được lớn lên mỗi ngày. Chúa đã chăm sóc đoàn chiên của Chúa Cha bằng sự quan tâm, chăm sóc và bảo vệ trong sự bình an của Thiên Chúa, xin cho chúng con luôn biết cầu nguyện cho các Linh mục, các Tu sĩ biết mặc lấy tâm tình của Chúa, để sống xứng với ơn gọi cao quý mà mỗi người được vinh dự chia sẻ và cộng tác với Chúa, Đấng đã hiến dâng chính mình cho Thiên Chúa Cha, để cứu độ con người. Amen.
 

BIỆN CHỨNG MỤC TỬ– CHIÊN
(Chúa Nhật IV Phục Sinh A) Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột

Hằng năm cứ vào ngày Chúa nhật IV Phục Sinh, Hội Thánh mời gọi chúng ta, Kitô hữu đặc biệt cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và tu sĩ. Qua các con số thống kê, chúng ta nhận ra đây là một nhu cầu vừa chính đáng và hợp lý lại vừa mang tính cấp thiết. Tuy nhiên, dù có cấp thiết đến mấy thì Hội Thánh vẫn kiên trì chủ trương rằng cần “chất hơn là lượng”. Chính vì thế mà không thể vì lý do thiếu hụt linh mục hay tu sĩ mà hạ thấp tiêu chí cũng như các yêu cầu của việc đào tạo. Xin được góp một vài suy nghĩ về vấn đề này dựa trên các bản văn Lời Chúa của ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh. Cụ thể, xin chia sẻ đôi nét về biện chứng mục tử nhân lành và con chiên ngoan hiền.

Nói đến biện chứng là nói đến một trong những “học thuyết mang tính triết học về các mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, hay là khoa học về các quy luật vận động và phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy” (Tự Điển Bách Khoa Việt Nam-1995). Biện chứng pháp được xây dựng chủ yếu trên quy luật vận động, sự biến đổi của sự vật, hiện tượng và những ảnh hưởng tương tác giữa chúng. Cái nhìn này không phải là mới lạ với khám phá của Hégel hay Karl Marx, nhưng đã bàng bạc sẵn có trong các hệ tư tưởng Đông phương như quy luật âm dương, bát quái, ngũ hành hay sắc sắc không không… Không muốn đi sâu vào lãnh vực chuyên môn mang tính triết học, nhưng xin góp cái nhìn theo một góc độ cha ông chúng ta cảm nghiệm: “có con rồi mới có cha; có cháu rồi mới có ông, có bà”.

1. Để là mục tử nhân lành, cần phải là chiên ngoan hiền:

Chúa Kitô đã minh nhiên khẳng định Người chính là mục tử nhân lành (x.Ga 10, 11). Tuy nhiên, để đảm nhận vai trò mục tử thì trước tiên Người đã vuông tròn vị thế con chiên hiền ngoan. Thánh Phêrô giới thiệu Đức Kitô như là con chiên tinh tuyền, hiền lành, gánh tội gian trần. “Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe, nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình. Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá…” (1Pr 2, 21-24). Thánh Tông đồ cả đã kết luận rằng chính khi đảm nhận phận việc ấy thì Đức Kitô đã chu toàn trách vụ “vị mục tử, Đấng chăm sóc linh hồn chúng ta” (c.25).

Chiên không đi theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn. Trái lại, chiên nhận biết tiếng mục tử và đi theo mục tử. Dưới cái nhìn này thì Chúa Kitô là một con chiên đích thực vì “lương thực của Người là thi hành thánh ý Cha trên trời” (x.Ga 4, 34). Cho dù mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu, Con chiên tinh tuyền Giêsu Kitô vẫn một mực “xin đừng theo ý con, một vâng theo thánh ý Cha mà thôi” (x.Lc 22, 39-44).

2. Để là con chiên hiền ngoan, cần phải có tấm lòng mục tử nhân hậu:

Chúa Kitô không minh nhiên giới thiệu mình là con chiên, nhưng cuộc đời của Người, đặc biệt cuộc hiến tế thập giá của Người mặc nhiên khẳng định Người là con chiên vượt qua của Giao Ước mới. Trong khi đó vị ngôn sứ cao trọng hơn mọi ngôn sứ là Gioan Tẩy giả đã long trọng giới thiệu Chúa Kitô là “Chiên Thiên Chúa” (Ga 1, 36).

Để thực thi phận vụ “Con Chiên Thiên Chúa”, Chúa Kitô đã sống tình một mục tử tốt lành, nhân hậu. Người chạnh lòng thương xót khi thấy đoàn lũ đông đảo như chiên không người chăn (x.Mc 6, 34). Người nhiệt thành đến quên cả ăn uống để băng bó thương tích cho đoàn chiên (x.Mc 3, 20), để dẫn chiên đến đồng cỏ xanh, nguồn suối mát. Người hiến dâng mạng sống vì đàn chiên và mong sao không một con chiên nào lạc đàn (x.Ga 10, 11;14). Lẽ sống của người mục tử chính là sự sống, sự phát triển của từng con chiên và của đàn chiên. Chính vì thế, người mục tử là người “biết” chiên tức là gắn bó mật thiết với chiên, sẵn sàng chung thân, đồng phận với chiên, lấy sự sống của chiên làm nguồn sống của mình.

Vài tâm tình hướng đến các mục tử (giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ):

Diễn ý câu nói của Thánh Giáo phụ Âugustinô: Cho anh em, tôi là mục tử (giám mục). Cùng với anh em, tôi là con chiên (tín hữu). Để các ngài, các vị chu toàn bổn phận mục tử Chúa giao phó thì ta hãy cầu xin cho các vị, các ngài trước hết biết sống vuông tròn vị thế con chiên:

- Hiền lành: Trưởng thành nhân cách, vững vàng các nhân đức nhân bản. Điều này không phải được ngay một sớm một chiều hay nhờ lãnh nhận chức này, vụ kia. Nhưng cần phải trau dồi, luyện tập liên lỉ. Học xong một giáo trình các nhân đức nhân bản với điểm số tối đa mà vẫn là người thiếu nhân bản là chuyện rất bình thường.

- Vô tì tích: Dĩ nhiên, ngoại trừ Mẹ Maria được Chúa giữ gìn thì phận người khó tránh lỗi lầm. Để ngày càng thêm thanh sạch, vô tì tích, thì không gì hơn “hãy đem những cái bên trong ra mà phân phát (lòng quảng đại)” (x.Lc 11, 41).

- Ngoan ngoãn: biết luôn vâng theo ý Chúa. Để sống và hành động theo thánh ý Chúa thì tiên vàn cần có một đời sống cầu nguyện chuyên chăm và một tâm hồn “dễ bảo” dưới tác động của Thánh Thần.

Vài tâm tình hướng đến những ứng viên ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ:

Khi nhận ứng viên vào Tu viện hay Chủng viện, các vị hữu trách thường dò xét các ý hướng của ứng viên. “Con đi tu để làm gì?” Một câu hỏi thường gặp nhằm lượng giá ý hướng các ứng viên. Các vị hữu trách thường dễ hài lòng trước các câu trả lời mang tính cống hiến, phục vụ vị tha hơn là những câu trả lời hàm chứa sự vị kỷ cho dù đó là lợi ích cá nhân rất là thiêng thánh như đi tu để được rỗi linh hồn. Thánh Công Đồng dạy: “Việc giáo dục toàn diện các chủng sinh nhằm huấn luyện cho họ thực sự thành những vị chăn dắt các linh hồn… (tức là các mục tử)” (ĐT số 4). Ước gì các tu sinh, chủng sinh có được chút tâm tình của người mục tử ngay khi còn mài đũng quần ở tu viện hay chủng viện. Đó là tâm tình của người mục tử:

- Biết cống hiến hơn là hưởng thụ: “Con Người đến không phải để cho người ta hầu hạ nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống mình làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 46; x. Ga 13, 12-17).

- Nhiệt thành: Sẵn sàng đi trước trong các việc khó mà đó là những việc phải làm, đáng làm và nên làm.

- Biết đồng cảm, đồng phận với tha nhân, đồng loại và nhất là với những người nghèo, người bất hạnh… “Quả vậy, thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người trong các mối tương quan với Thiên Chúa để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì chính người cũng đầy yếu đuối…” (Dt 5, 1-3).

Có thể nói rằng hơn bao giờ hết, nhân loại chúng ta hiện nay đang vào giai đoạn thích hưởng thụ và tìm đủ cách đủ kiểu để hưởng thụ. Chính vì thế, đời sống cống hiến dường như đang vắng bóng dần. Một điều chắc chắn là nhân loại, xã hội mọi thời, đặc biệt hôm nay đang rất cần những con người sẵn sàng cống hiến, những cuộc đời biết hiến dâng. Chính vì thế ơn thiên triệu linh mục, tu sĩ vẫn mãi là ơn chúng ta cần kiên trì cầu xin. Tuy nhiên, sự cầu xin của chúng ta không được phép dừng lại ở thái độ thầm thì, chấp tay hay móc túi để góp tiền, mà còn phải biết mở miệng, nắm tay để dệt xây những mục tử biết vuông tròn phận vụ con chiên hiền ngoan và những con chiên luôn ắp đầy tâm tình mục tử tốt lành.
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây