TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

CN34TNb - Đức Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ

“Quan nói đúng: Tôi là Vua”. (Ga 18, 33b-37)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Chúa Nhật Lễ Lá - Năm A

26/03/2023 09:00:26 |   979

Chúa Nhật Lễ Lá - Năm A

Mt 26, 14-27,66


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật Lễ Lá - Năm A

I.  NGHI THỨC TƯỞNG NIỆM CHÚA VÀO GIÊ-RU-SA-LEM

(1) Linh mục chào giáo dân như thường lệ; nói ít lời với giáo dân hoặc:

Anh chị em thân mến, chúng ta tụ họp nơi đây, để cùng toàn thể Giáo Hội khai mạc tuần thánh tưởng niệm mầu nhiệm Vượt Qua, tức là cuộc thương khó và Phục Sinh của Ðức Ki-tô. Ðể chuẩn bị Tuần Thánh, trong suốt mùa chay, chúng ta đã cầu nguyện, thống hối, chia sẻ tình thương và cơm áo cho nhau.

Chúa nhật lễ lá hôm nay là ngày kỷ niệm Ðấng Cứu Thế vào thành thánh Giê-ru-sa-lem để hoàn tất mầu nhiệm Vượt Qua đem lại cho loài người ơn cứu độ, chúng ta hãy đem cả niềm tin mà hăng hái bước theo Người. Xin Người ban ơn để chúng ta thông phần đau khổ Người đã chịu trên thập Giá, hầu được chia sẻ vinh quang Phục Sinh và sự sống của Người.

(2) Linh mục đọc một trong hai lời nguyện sau đây:

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin thánh X hiến những cành lá này, để chúng con cầm mà hoan nghênh Ðức Giêsu là Vua chúng con. Xin ban cho mọi người chúng con đây là tín hữu Chúa được theo Người vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vĩnh cửu. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Hoặc:

Lạy Chúa, xin gia tăng lòng tin cho chúng con là những kẻ cậy trông vào Chúa. giờ đây chúng con cầm những cành lá này, nghênh đón Ðức Ki-tô khải hoàn vinh hiển. Xin Chúa thương nhận lời và ban cho chúng con được sống kết hợp với Người như cành liền cây hầu sinh hoa kết quả. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

(3) Linh mục thinh lặng rảy nước thánh trên lá. phát lá;

Công bố Tin Mừng: Mt 21, 1-11

“Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa”

Tin Mừng Chúa Giêsu Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

Khi Ðức Giêsu và các môn đệ đi gần tới thành Giê-ru-sa-lem đến làng Bết-pha-ghê, phía núi cây ô-liu, Người sai hai môn đệ và bảo: “các anh đi vào làng trước mặt kia và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. Nếu có ai nói gì, thì trả lời là Thầy có việc cần dùng. Thầy sẽ trả ngay. Sự việc đã xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ.

“Hãy bảo thiếu nữ xi-on: Kìa Ðức Vua đến với ngươi; Khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của thú vật chở đồ.”

Các môn đệ ra đi và làm theo lời Ðức Giêsu đã dạy. Các ông dắt lừa mẹ lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Ðức Giêsu cỡi lên. Ðông đảo dân chúng trải áo xuống mặt đường, một số khác lại chặt cành chặt lá rải lên lối đi. Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy “Hoan hô Thái Tử nhà Ða-vít! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô Chúa trên các tầng Trời!” Khi Ðức Giêsu vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: ” Ông nào vậy?” Dân chúng trả lời: “Ngôn sứ Giêsu, người Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy.”

Ðó là Lời Chúa.

(4) Sau Tin Mừng, tùy nghi giảng vắn tắt. Ðể bắt đầu cuộc rước chủ tế kêu gọi:

Anh chị em thân mến, chúng ta hãy noi gương dân thành Giê-ru-sa-lem mà hoan hỷ lên đường nghênh đón Ðức Ki-tô.

(5) Thứ tự: người cầm hương; thánh giá có gắn lá; Linh mục và giúp lễ; giáo dân tay cầm lá.

Hình thức thứ hai: Nhập lễ trọng thể

Giáo dân cầm cành lá trong tay tụ họp ngoài hay trong chính nhà thờ. Chủ tế, giúp lễ và đại diện giáo dân đến một nơi đã dọn sẵn ngoài cung thánh. (14) Ðang khi ấy hát Hoan hô Thái Tử… Rồi làm phép lá, công bố Tin Mừng; sau đó tiến lên cung thánh cách trọng thể, trong khi ấy hát “xưa Chúa vào thành thánh…”

Tới bàn thờ, chủ tế tuỳ nghi xông hương. Ðọc lời nguyện nhập lễ, tiếp tục như thường.

Hình thức thứ ba: Nhập lễ đơn giản

Như thường lệ

II. THÁNH LỄ

Ca nhập lễ

Lạy Chúa, xin mau cứu giúp tôi, xin kíp bảo vệ tôi. Xin cứu tôi thoát hàm sư tử, và giữ mạng sống yếu hèn tôi khỏi sừng tê giác.

Ðọc kinh tin kính

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã muốn cho Ðấng cứu chuộc loài người phải sống kiếp phàm nhân và chịu khổ hình thập giá để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin cho chúng con biết đón nhận bài học Người để lại trong cuộc thương khó, và được thông phần vinh quang phục sinh với Người. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.

Bài Ðọc I: Is 50, 4-7

“Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.

(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

Trích sách Tiên tri Isaia.

Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui. Tôi đã đưa lưng cho kẻ đánh tôi, đã đưa má cho kẻ giật râu; tôi đã không che giấu mặt mũi, tránh những lời nhạo cười và những người phỉ nhổ tôi. Vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con?

Xướng: Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: “Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương”.

Xướng: Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con.

Xướng: Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm… Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ.

Xướng: Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. “Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!”

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

“Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu, để khi nghe tên Giêsu, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống, và mọi miệng lưỡi phải tuyên xưng Ðức Giêsu Kitô là Chúa để Thiên Chúa Cha được vinh quang.

Ðó là lời Chúa.

Câu Xướng Trước Phúc Âm

Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

Bài Thương Khó: Mt 26, 14 – 27, 66 (bài dài)

“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

(C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu)

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ:

S. “Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?”

C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng:

J. “Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông”.

C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ.

Và khi các ông đang ăn, Người nói:

J. “Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy”.

C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người:

S. “Thưa Thầy, có phải con không?”

C. Người trả lời rằng:

J. “Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!”

C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng:

S. “Thưa Thầy, có phải con chăng?”

C. Chúa đáp:

J. “Ðúng như con nói”.

C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán:

J. “Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta”.

C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán:

J. “Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy”.

C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông:

J. “Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: “Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác”. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con”.

C. Phêrô liền thưa:

S. “Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm”.

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần”.

C. Phêrô lại thưa:

S. “Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy”.

C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy.

Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ:

J. “Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện”.

C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông:

J. “Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy”.

C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói:

J. “Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn”.

C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô:

J. “Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối”.

C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng:

J. “Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha”.

C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo:

J. “Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần”.

C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này:

S. “Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy”.

C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói:

S. “Chào Thầy”.

C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo:

J. “Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?”

C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo:

J. “Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?”

C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng:

J. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép”.

C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.

Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng:

S. “Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày”.

C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói:

S. “Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?”

C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:

S. “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?”

C. Chúa Giêsu trả lời:

J. “Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây”.

C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói:

S. “Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?”

C. Họ đáp lại:

S. “Nó đáng chết!”

C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng:

S. “Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?”

C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:

S. “Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa”.

C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng:

S. “Tôi không hiểu chị muốn nói gì?”

C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó:

S. “Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét”.

C. Ông thề mà chối rằng:

S. “Tôi không biết người ấy”.

C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:

S. “Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi”.

C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: “Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần”, và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.

Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng:

S. “Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính”.

C. Nhưng họ trả lời:

S. “Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!”

C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói:

S. “Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu”.

C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: “Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi”.

Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng:

S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Ông nói đúng!”

C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:

S. “Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?”

C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:

S. “Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?”

C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:

S. “Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy”.

C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

S. “Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?”

C. Họ thưa:

S. “Baraba!”

C. Philatô hỏi:

S. “Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?”

C. Họ đồng thanh đáp:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Quan lại hỏi:

S. “Nhưng người này đã làm gì nên tội?”

C. Chúng càng la to:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:

S. “Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi”.

C. Toàn dân đáp:

S. “Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi”.

C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:

S. “Tâu vua dân Do-thái!”

C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: “Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm”. Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:

S. “Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!”

C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:

S. “Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: “Ta là Con Thiên Chúa!”

C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:

J. “Eli, Eli, lema sabachtani!”

C. Nghĩa là:

J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!”

C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:

S. “Nó gọi tiên tri Elia”.

C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:

S. “Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?”

C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:

S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa”.

C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê.

Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ.

Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng:

S. “Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: “Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại”. Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước”.

C. Philatô trả lời:

S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý.

C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.

Hoặc đọc bài vắn này: Mt 27, 11-54

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đứng trước tổng trấn Phi-latô, và quan hỏi Người rằng:

S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Ông nói đúng!”

C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:

S. “Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?”

C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:

S. “Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?”

C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:

S. “Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy”.

C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

S. “Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?”

C. Họ thưa:

S. “Baraba!”

C. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

S. “Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?”

C. Họ đồng thanh đáp:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Quan lại hỏi:

S. “Nhưng người này đã làm gì nên tội?”

C. Chúng càng la to:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:

S. “Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi”.

C. Toàn dân đáp:

S. “Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi”.

C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:

S. “Tâu vua dân Do-thái!”

C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: “Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm”. Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:

S. “Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!”

C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:

S. “Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: “Ta là Con Thiên Chúa!”

C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:

J. “Eli, Eli, lema sabachtani!”

C. Nghĩa là:

J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!”

C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:

S. “Nó gọi tiên tri Elia”.

C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:

S. “Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?”

C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:

S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa”.

Lời nguyện tín hữu

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Chúa nhật hôm nay, Giáo Hội tưởng niệm việc Chúa Giêsu tiến vào thành thánh Giêrusalem, để hoàn tất cuộc khổ nạn và phục sinh. Chúng ta khẩn cầu Chúa Cha, Đấng giầu lòng thương xót, ban ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Trong tâm tình đó, chúng ta dâng lời cầu nguyện.

1. Trong Tuần Thánh, Giáo Hội tưởng niệm Mầu Nhiệm Vượt Qua của Chúa Giêsu, ước gì trong thời gian hồng phúc này, Chúa nhìn thấy chúng ta đang chờ đợi và mong muốn đi theo Ngài, cùng với Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, các Đức Giám Mục, Linh Mục và toàn thể Giáo Hội.

2. Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho những người đang tham dự vào cuộc thương khó của Chúa Giêsu, họ là những người bệnh tật và nghèo khổ, bị bỏ rơi và bị bách hại, xin cho họ tìm thấy nơi Chúa Giêsu con đường dẫn tới ơn cứu độ.

3. Chúng ta cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta đang quy tụ nơi đây để cử hành cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, xin cho mỗi người biết sử dụng thời gian hồng phúc này như là thời khắc sám hối và đổi mới đời sống.

4. Chúng ta hiệp ý cầu nguyện cho các bạn trẻ trên toàn thế giới, cách riêng các bạn trẻ trong giáo phận, xin cho họ cảm nhận được kinh nghiệm sâu xa khi gặp gỡ Chúa Giêsu, Đấng là Ánh Sáng của nhân loại.

Chủ tế: Lạy Cha, xin lắng nghe lời cầu nguyện của dân Cha, đang khi chúng con cử hành cuộc khổ nạn của Con Cha; sau khi tôn vinh Con Cha trong ngày vui mừng này, xin giúp chúng con vững bước theo Người với tình yêu bền vững và trung tín, ngay cả trong thời khắc đêm tối của thập giá. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng, cúi xin Chúa nhớ lại cuộc khổ hình của Ðức Ki-tô và cho chúng con được làm hoà cùng Chúa. Thật chúng con chẳng làm gì nên công trạng, nhưng chúng con tin sẽ được Chúa mở lượng khoan hồng tha thứ, nhờ hiến lễ độc nhất vô song của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Lời tiền tụng

Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con. Người là Ðấng vô tội, đã cam chịu khổ hình thay cho những người tội lỗi, và bằng lòng chịu kết án bất công thay cho kẻ gian tà. Người đã chết để tẩy trừ tội lỗi, và đã sống lại để thánh hoá chúng con. Vì thế, cùng với toàn thể Thiên thần và các thánh, chúng con ca ngợi Chúa, và vui mừng phấn khởi tung hô rằng:

Thánh! Thánh! Thánh!…

Ca hiệp lễ

Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà con phải uống, thì xin theo ý Cha.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, tại bàn tiệc Thánh Thể, Chúa cho chúng con được thoả chí toại lòng. Nhờ Con Một Chúa chịu khổ hình thập giá, Chúa làm cho chúng con tin tưởng vững vàng sẽ được ơn cứu độ, thì nhờ mầu nhiệm Người đã phục sinh, xin cho chúng con đạt tới quê trời như lòng hằng mong ước. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Suy niệm

NHỮNG MÂU THUẪN QUA CUỘC THƯƠNG KHÓ CỦA ĐỨC GIÊSU! (Is 50,4- 7; Pl 2,6- 11; Mt 26,14- 27,66)
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

Hôm nay, Giáo Hội hoàn vũ cử hành long trọng biến cố Đức Giêsu vào thành Giêrusalem để khởi đầu cuộc thương khó. Trên hành trình ấy có các môn đệ, những người phụ nữ đã theo Ngài từ lâu, và cả những người đã từng chịu ơn hoặc vì hiếu kỳ nên đi theo Ngài.

Cuộc vào thành của Đức Giêsu lần này cũng như các diễn biến trước và sau đó có nhiều điều lạ thường. Thật vậy, trong cuộc đời sứ vụ, từ lời nói đến hành động của Ngài nhiều khi hàm chứa những sự mâu thuẫn đối với cuộc sống và con người đương thời, cho nên họ không thể hiểu được, và vì thế, dẫn đến cái chết của Đức Giêsu.

1. Sự mâu thuẫn từ phía Đức Giêsu

Người ta thường nói: “Mâu thuẫn thì có thể sẽ làm sáng tỏ chân lý tốt”. Thật vậy, trong công cuộc loan báo Tin Mừng về Nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã nhiều lần nói đến sự mâu thuẫn này.

Trước tiên, về những lời dạy mang tính mâu thuẫn: ví dụ như khi nói về sự tự hủy, Ngài đã dùng hình ảnh hạt lúa mục nát để sinh bông hạt mới; hay “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (x. Ga 12, 24-25); về sự khiêm nhường, Ngài phán: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11); khi đi dự tiệc, hãy chọn chỗ rốt hết, để được người ta mời lên chỗ danh dự (x. Lc 14, 7-10); vì “ Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52); về sự hối cải, Ngài nói: “cả triều thần Thiên Quốc ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn” (Lc 15, 7); về sự từ bỏ: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mt 16, 24).

Tiếp theo, Đức Giêsu đã nói và áp dụng sự mâu thuẫn đó vào chính mình như sau: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sống lại” (Lc 9, 22); “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12, 32); và Ngài đã sống sự mâu thuẫn ấy khi dân chúng tôn mình làm vua thì lại bỏ chốn và khi dân chúng không tôn thì lại vào thành như vị vua; rồi lạ lùng trong tiến trình “đăng quang”: Ngài là Vua, tiến vào thành của mình, nhưng lại khiêm tốn ngồi trên lưng lừa con vẫn còn theo mẹ (x. Dc 9,9). Là Vua, nhưng không có vương miện, chỉ có vòng gai; không có vương trượng, chỉ có cây sậy; không có cẩm bào, chỉ có trần trụi nhuốc nhơ; không có câu tán tụng, chỉ có lời nhạo báng khinh chê; không thống trị bằng sức mạnh, chỉ có phục vụ trong yêu thương cho đến chết và chết trên thập giá vì yêu.

Như vậy, những sự mâu thuẫn đến lạ lùng của Đức Giêsu đều nhằm làm toát lên sự vâng lời tuyệt đối của Ngài với Thiên Chúa Cha và vì yêu thương, cứu độ con người. Cả cuộc đời, con người và sứ vụ của Đức Giêsu đều muốn lộ hiện một vị Thiên Chúa là Tình Yêu.

2. Sự mâu thuẫn từ phía dân chúng

Ở đời có câu: “Dò sông dò biển dễ dò – Mấy ai lấy thước mà đo lòng người“. Thật vậy, khi sống bên Aicập, dân Israel ngày đêm cầu khấn danh Đức Chúa, xin Người đến cứu họ khỏi ách nô lệ tủi nhục cơ cùng, Đức Chúa nhận lời và đã cho Môisê dẫn dân ra khỏi Aicập, thoát khỏi cảnh áp bức bạo tàn. Nhưng chẳng bao lâu, họ gặp có chút thử thách, nhưng họ đã than trách Chúa, và nhớ những củ hành, củ tỏi bên Aicập. Tệ hơn nữa, đã đúc bò vàng để thờ lạy thay Đức Chúa, Đấng đã cứu họ ra khỏi cảnh nô lệ bên Aicập. Đây chính là sự mâu thuẫn do sự bất trung của dân với Đức Chúa.

Sang thời Đức Giêsu cũng vậy, trong giai đoạn này, những người Dothái đã chứng kiến các phép lạ của Đức Giêsu làm, nào là chữa lành bệnh tật, trừ quỷ, cho người chết sống lại, và hóa bánh ra nhiều nuôi dân chúng… Vì thế, họ tâm phục Đức Giêsu, nên khi vào thành, dân chúng đã tung hô Ngài là con vua Đavít, là Vua Israel. Và như là sự tất yếu, họ đã chặt cành lá lót đường và trải áo mình để Đức Giêsu đi qua. Cuộc diễu hành rầm rộ làm nao lòng những nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị thời bấy giờ. Tuy nhiên, vẫn những người đã tôn vinh, chúc tụng Đức Giêsu hôm nào, thì chẳng bao lâu sau, họ đã toa dập với thế lực sự ác để làm chứng gian hại Ngài và hô vang: hắn đáng chết; đóng đinh nó vào thập giá…

Sự thật đã rõ, họ cung chúc Đức Giêsu chỉ vì hy vọng Ngài làm Vua để thống lãnh theo kiểu trần gian, đánh đông dẹp bắc, giải thoát họ khỏi ách thống trị của Đế Quốc và nhiều khi theo Chúa chỉ vì cái bụng, vì những ân huệ, bổng lộc thức thời… Và, họ đã bị thất bại khi không được Đức Giêsu đáp ứng những yêu sách đó, vì thế, họ đã sẵn sàng giơ tay ủng hộ án tử cho Đức Giêsu.

Đây là sự mâu thuẫn lòng dân với con người và sứ vụ của Đức Giêsu.

3. Hai sự mâu thuẫn dẫn đến hệ quả khác nhau

Thật vậy, sự mâu thuẫn trong lời giảng dạy, lối sống và hành động của Đức Giêsu thể hiện rõ nét sự vâng phục, khiêm nhường, tự hạ, yêu thương và cứu chuộc con người.

Như vậy, mâu thuẫn nơi Đức Giêsu làm cho con người được kết hiệp mật thiết hơn với Thiên Chúa và tha nhân để đạt được tình trạng tự do và hạnh phúc thực sự khi đã loại trừ cái tôi ích kỷ, tự phụ, kiêu căng để hướng tha.

Còn sự mâu thuẫn của những người Dothái thì hoàn toàn khác:

Khác là chỉ vì cái bụng của họ, do ích kỷ, tự phụ, kiêu ngạo hay những mục đích tầm thường rẻ tiền.

Vì thế, họ tôn vinh Thiên Chúa hay Đức Giêsu cũng chỉ vì cái bụng. Hoặc chỉ vì danh vọng, chức quyền, lợi nhuận cá nhân hay tập thể, chứ không phải vì yêu mến, tin tưởng, phó thác.

Sự mâu thuẫn này nơi dân Dothái lộ hiện rõ bản chất thực dụng hay ý đồ đen tối của họ. Vì thế, dẫn đến sự đối đầu. Đức Giêsu không đối đầu với họ, nhưng tự họ trở nên bất ổn nên dẫn đến hệ quả là khước từ Thiên Chúa để thờ bò vàng, rồi đến lượt Đức Giêsu, họ tìm cách loại Ngài ra khỏi môi trường và cuộc sống của họ.

4. Người kitô hữu sống sự mâu thuẫn của Tin Mừng

Ngày hôm nay, chúng ta đang sống trong một xã hội không mấy chân thực. Đời sống đạo đức bị đảo lộn rất nhiều. Phong tục tập quán tốt dần dần được thay thế bằng những trào lưu tục hóa, nhất thời… Đây chính là sự mâu thuẫn luân thường đạo lý trong xã hội.

Vì thế, chúng ta không lạ gì khi vẫn còn đó trong xã hội những chuyện: “Chân lý thuộc về kẻ mạnh”; vẫn còn đó những chuyện thỏa hiệp, toa rập để cho hận thù, chia rẽ lên ngôi; vẫn còn đó những chuyện vì miếng cơm manh áo, vì lợi nhuận cá nhân, củng cố chức quyền mà sẵn sàng bất chấp bán rẻ lương tâm để cho lương tháng được nhiều. Những người có lương tri và đạo hạnh lại là mối đe dọa của sự bất công, suy đồi và gian dối.

Nếu chúng ta thuộc về những thành phần như thế, ấy là lúc chúng ta làm cho những vết thương của Đức Giêsu tiếp tục rỉ máu, và cuộc thương khó của Đức Giêsu không ngừng tái diễn, khiến Ngài phải đau khổ, tủi nhục đắng cay và ngay cả cái chết qua những hành vi, lựa chọn sai lầm và tàn nhẫn của con người.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết can đảm lựa chọn cho mình sự mâu thuẫn của Chúa, để trong cuộc sống của chúng con toát lên vẻ đẹp của sự vâng phục, khiêm nhường và yêu thương như Chúa vì hạnh phúc và ơn cứu độ của con người. Amen.


Suy niệm
Đau khổ của Đức Kitô
Sưu tầm

Trong thời đệ nhị thế chiến, có một linh mục Hoà Lan bị Đức quốc xã bắt và đem về trại tập trung ở Dachau. Tại đây ngài bị nốt trong một chiếc cũi. Bọn lính mua vui bằng cách bắt ngài phải sủa lên như con chó mỗi lần chúng đi qua. Cuối cùng ngài đã chết vì bị tra tấn. Bọn lính đâu có ngờ giữa cơn thử thách, ngài vẫn tiếp tục viết nhật ký, qua đó chúng ta biết sở dĩ ngài có thể chịu đựng được mọi đau đớn là vì ngài biết rằng Chúa Giêsu đã từng đau đớn như thế trước ngài. Trong một lời kinh, ngài đã bày tỏ cùng Chúa: Lạy Chúa, sẽ không có nỗi đau đớn nào làm con ngã gục bởi vì con luôn nhìn thấy đôi mắt đầy đau khổ của Chúa. Con đường thập giá Chúa đã đi qua giúp con chịu đựng nỗi đắng cay một cách khôn ngoan. Vậy trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu đã phải chịu đựng những khổ đau nào?

Trước hết là nỗi đớn đau trong tâm hồn. Thực vậy, tại vườn Cây Dầu, Ngài đã đổ mồ hôi máu khi nghĩ đến cơn thử thách sắp tới. Còn gì đau đớn cho bằng khi bị những người thân yêu của mình bỏ rơi và phản bội. Chúa Giêsu đã trải qua nỗi đớn đau này khi bị Giuđa bán đi với giá 30 đồng bạc, khi bị Phêrô chối bỏ chỉ vì một vài câu hỏi vu vơ, khi bị các môn đệ bỏ rơi. Và điều quan trọng hơn nữa, đó là Ngài đã mặc lấy thân phận tội nhân, và cảm thấy như bị chính Chúa Cha từ bỏ. Bởi đó, trên thập giá Ngài đã phải thốt lên: Lạy Cha, sao Cha lại bỏ con?

Có lẽ mỗi người chúng ta đều đã có kinh nghiệm về vấn đề này, khi chúng ta bị những người trong gia đình, trong khu xóm, những người chúng ta yêu mến và kính trọng phản bội.

Tiếp đến là những đau khổ ngoài thể xác. Ngài đã bị đánh đập, bị đội mão gai và bị đóng đinh vào thập giá. Dĩ nhiên chúng ta chưa nếm thử những đớn đau khủng khiếp như thế, nhưng ít ra chúng ta cũng đã trải qua những đau khổ ngoài thân xác, chẳng hạn như khi chúng ta đau yếu bệnh tật.

Có một bác sĩ vì chữa lành thương tích cho một thành viên chống đối chính phủ, nên đã bị cảnh sát bắt giữ và bị tra tấn dã man. Trong lúc bị tra tấn như vậy, vị bác sĩ này cảm nghiệm được một cách mơ hồi nỗi đau đớn Chúa Giêsu đã từng chịu, cũng như thấy được rằng Chúa luôn ở bên cạnh và giúp đỡ để ông được kiên vững. Còn chúng ta thì sao?

Nói theo kiểu nhà Phật thì đời là bể khổ, mà mỗi người chúng ta là một cách bèo trôi dạt trên đó. Đúng thế, đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Hay nói cách khác, đã là người thì ai cũng phải đau khổ. Thoạt sinh ra thì đã khóc choé, đời có vui sao chẳng cười khì. Trong những giây phút đớn đau và tăm tối, chúng ta hãy nhìn lên thập giá và chúng ta sẽ thấy được rằng chính Chúa cũng đã đớn đau trước chúng ta và hơn chúng ta bội phần.

Từ đó, chúng ta sẽ tìm thấy được niềm an ủi và khích lệ để biết chấp nhận mọi đớn đau gian khổ, như góp một phần nhỏ bé của chúng ta vào thập giá Đức Kitô.

Suy niệm
Chúa Nhật Lễ Lá – năm A
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu (Mt 21, 1-11).
 
Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay”. Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán:
 
“Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ”.
 
Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!”
Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: “Người đó là ai vậy?” Dân chúng trả lời rằng: “Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa”.
 
Suy niệm
 
Mùa Chay đang dần khép lại với cao điểm là những ngày Tuần Thánh. Khởi đầu một tuần lễ đặc biệt trong năm phụng vụ là Lễ Lá, kỷ niệm biến cố Đức Giêsu long trọng tiến vào thành Giêrusalem, như là bước vào cuộc tử nạn trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha.
 
Phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ đặc biệt này mời gọi chúng ta hướng về thành Giêrusalem, nơi được coi là trung tâm của đời sống tâm linh của mọi người Do-thái. Nơi cổng thành đó cách đây hơn 2000 năm, Đức Giêsu cùng  các môn đệ của Ngài, long trọng tiến vào thành trong sự chào đón nồng nhiệt và muôn tiếng tung hô vang trời. Dân chúng đón tiếp Ngài như đón tiếp một vị anh hùng đến để giải thoát họ khỏi ách đô hộ của đế quốc Roma, họ tin như thế, và họ mong đợi một biến cố đến trong đất nước, để họ được tự do, được hạnh phúc. Thế nhưng, họ chưa hiểu được chuyến đi đặc biệt này của Đức Giêsu không phải là của một anh hùng nhưng là của Con Thiên Chúa làm người. Ngài đến để chấn hưng mọi sự, Ngài đến để kiện toàn lề luật, Ngài đến để trao lại quyền tự do cho con người, Ngài đến để đưa con người trở về với ngôi nhà đích thực của mình là gia đình Thiên Chúa.
 
Sau khi vào thành, Đức Giêsu cùng các đồ đệ, tổ chức một bữa tiệc gọi là tiệc ly. Nơi bàn tiệc đó, Đức Giêsu đã giới thiệu một mầu nhiệm vô cùng ý nghĩa của Con Thiên Chúa làm người, mầu nhiệm tự huỷ như tấm bánh, sẵn sàng bẻ ra, trao ban cho tất cả mọi người. Từ nơi bàn tiệc đó, khuôn mặt thực sự của Thầy, của các học trò dần dần xuất hiện. Khởi đầu là khuôn mặt của Giuđa, kẻ đã bán Thầy mình 30 đồng bạc. Một người học trò không có tâm, không có tình và cũng không có nghĩa. Tiếp đó là khuôn mặt của Phêrô, người được Thầy tin tưởng giao cho việc trông coi đức tin của anh em mình. Vậy mà khi nghe cô con gái trong sân dinh Philato hỏi mấy câu, ông đã mạnh mẽ chối Thầy, lời chối từ đó như trút bỏ trách nhiệm khỏi cuộc sống bản thân chăng? Rồi khuôn mặt của các môn đệ, các bản văn Tin Mừng không nhắc nhiều đến các môn đệ, bởi các ông đã bỏ trốn và chấp nhận một sự hẩm hiu và sống trong những nỗi gặm nhấm của lương tâm.
 
Câu chuyện Đức Giêsu vào thành Giêrusalem có thể nói là một biến cố trong lịch sử của thế giới, cũng là câu chuyện trong lịch sử của dân Do-thái nói riêng về góc nhìn tôn giáo, và đó cũng là câu chuyện đã và đang xảy ra trong cuộc đời mỗi người. Chúng ta không ngồi đây để truy tìm những khuôn mặt của môn đệ này, môn đệ kia theo Thầy cách nửa vời, hay theo Thầy vì một lợi ích riêng tư, nhưng chúng ta đi tìm những khuôn mặt đó đang ẩn hiện trong chính cuộc đời mỗi người chúng ta. Trong cuộc đời, có lúc tôi là một Phêrô, đã phản bội, đã chối Chúa cách thẳng thừng bằng những lối sống vô luân, bằng những cách sống đạo vụ hình thức, sống giả dối và không dám làm chứng cho sự thật. Cũng có lúc tôi là một Giuđa đã bán đứng Thầy khi vì đồng tiền, vì địa vị trong cuộc sống, vì sự nghiệp của tương lai, vì bệnh sĩ cứ tái phát thường xuyên, cũng có lúc tôi là một Giacôbê, một Gioan muốn xin Thầy được ngồi bên này, ngồi bên kia, chỉ vì muốn thể hiện tài năng, muốn thể hiện cái tôi của bản thân, muốn có một chức tước nên chấp nhận luồn cúi và nịnh hót. Và bao khuôn mặt khác của các môn đệ ẩn hiện trong cuộc đời tôi đã làm cho khuôn mặt của Thầy Chí Thánh bị đánh bầm dập, thân thể Thầy bị lột trần trụi, cánh tay và đôi chân bị những mũi đinh đâm thâu, trái tim Thầy còn bị đâm thủng bởi không thiếu những lúc tôi đã phản bội tình yêu, phản bội lòng thương xót của Thiên Chúa ngay trong đời sống và ơn gọi của mình. Nếu như Tuần Thánh là những ngày thánh thiêng, thì đó sẽ là những ngày chúng ta ngồi coi lại bộ phim cuộc đời của mình, để thấy những khuôn mặt của những môn đệ đã sống bên Thầy, nhưng vẫn còn THAM – SÂN – SI ẩn hiện trong những biến cố và những hoàn cảnh mà lúc đó tha nhân đang cần đến sự hiện diện của Thầy Giêsu, thì chúng ta lại thay vào đó khuôn mặt của chính mình.
 
Cũng có những lúc khuôn mặt của Philato, của Hêrôđê, của hai tên trộm trên đỉnh Canvê xuất hiện trong đời sống đạo của mỗi người. Khi tha nhân cần đến sự công bằng, cần đến sự đỡ nâng, thì chúng ta đã rửa tay để nói lên sự vô can của mình, khi biết sự thật là vậy, chúng ta đã nhắm mắt để biến trắng thành đen, biến lành thành dữ, biến sáng thành tối, có phải là lúc khuôn mặt của một người tham lam chiếc ghế quyền lực là Philato đang ngự trị trong cuộc đời của mình không? Khi những biến cố đến trong cuộc đời, Thiên Chúa cần chúng ta im lặng để thấy được sự cao cả của Thiên Chúa và để lời cầu nguyện của mỗi người chạm được trái tim tình yêu của Thiên Chúa, thì chúng ta đã phản ứng như Hêrôđê, chê bai Thiên Chúa khờ dại. Và có những lúc, người tín hữu Kitô khoác lên cho Chúa Kitô chiếc áo của lễ nghi, chiếc áo của sự ngoan ngoãn, và nói với mọi người rằng, tôi đang thực hiện thánh ý Thiên Chúa, nhưng thực ra là đang yêu sách Thiên Chúa thực hiện theo ý tôi. Những biến cố trên chặng đường khổ nạn của Thầy Giêsu có những con người âm thầm giúp đỡ, chia sẻ với Ngài như Simon, người đã vác đỡ thập giá cho Ngài. Nếu như tâm tình khiêm hạ và chia sẻ của Simon luôn sống động trong đời người tín hữu, chắc hôm nay thế giới sẽ vơi đi rất nhiều nỗi đau về thể xác lẫn tinh thần, đặc biệt là trong đại dịch Cúm lớn này. Và nếu mỗi người là Vêronica sẵn sàng trao cho anh chị em của mình một cái khăn ấm áp tình người trong những lúc hoạn nạn, trong những hoàn cảnh thiếu thốn và khó khăn về vật chất, ắt sẽ làm cho những tảng băng của sự dửng dưng tan chảy, thay vào đó là sự ấm áp của tình liên đới cộng đoàn.
 
Nhìn ra được những khuôn mặt của những nhân vật trong từng chặng đường thập giá, không phải để chê bai, để kết án họ, để xa lánh họ, nhưng là một bài học giúp bản thân tìm những sự bất toàn, khiếm khuyết trong chính con người và cuộc sống của mình. Từ đó, biết dừng lại ở đỉnh đồi Canve, biết im lặng trong sự thất bại của con người trước những biến cố, những đại dịch, để từ đây, cầu xin lòng nhân từ của Thiên Chúa, kéo tất cả những thói hư tật xấu đó lên thập giá với Ngài.
 
Bước theo chân Thầy vào thành Giêrusalem là lúc chúng ta nhận chịu sự yếu đuối của con người phải cần đến tình thương và ơn cứu độ của Thiên Chúa. Có được tình thương đó, con người cần cố gắng để sửa đổi cuộc đời, sửa đổi những gì chưa hoàn thiện, và chính lúc mỗi người cố gắng làm điều đó là lúc chúng ta đang lau khô khuôn mặt của Thầy Chí Thánh, chính là lúc chúng ta đang làm cho khuôn mặt của Ngài được hiển lộ trong cuộc đời của mình. Và đó có phải là lúc mỗi người đang sống trong mầu nhiệm phục sinh với Con Thiên Chúa làm người không? Mùa chay đã qua đi, để lại những lời mời đổi thay cuộc sống, và bên cạnh là những hoang mang của đại dịch Cúm, niềm tin của mỗi người lắm lúc bị lung lay, bị hoang mang, thậm chí nghi ngờ có Thiên Chúa hay không trong thế giới này. Giuđa tin rằng mình có bán Thầy cho những người tìm bắt Ngài, thì Thầy cũng sẽ tự giải thoát được vì Thầy có quyền năng, nhưng anh ta đã nghĩ sai về Thiên Chúa. Chính suy nghĩ lệch lạc đó, anh ta không dám quay trở lại xin tha thứ, xin sám hối, mà chấp nhận đi vào đêm tối của sự bế tắc và khổ đau.
 
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đi vào lịch sử nhân loại với mầu nhiệm giáng sinh, đã sống với, sống cùng và sống cho con người, thế nhưng con người đã khước từ Chúa với một bản án bất công và nhục nhã, xin cho mỗi tín hữu Kitô chúng con cảm nghiệm được tình thương đó để chung chia với Chúa qua bản án ngày xưa và cảm thông với những người đang bị bỏ rơi, bị ruồng rẫy hôm nay, bởi họ là con cái của Chúa. Chúa đã im lặng đón nhận thánh ý Chúa Cha để cho chúng con hôm nay được sống và sống dồi dào, xin cho chúng con cũng biết im lặng những lúc cần thiết, để thánh ý Chúa được sáng tỏ và vinh quang của tình yêu được hiển lộ trong mỗi biến cố, mỗi cuộc đời của người tín hữu con Chúa. Amen. 

Suy niệm
Cùng với Chúa Giêsu bước vào Tuần Thánh tại gia
Giuse Phạm Đình Ngọc SJ 

Từ trước tới giờ, Chúa Nhật Lễ Lá năm nay thật ngoại lệ đến lạ thường. Ngoại lệ vì Giáo Hội cho phép giáo dân tham dự nghi lễ online; lạ thường vì chúng ta không được nhận những nhành lá, không cùng nhau hiện diện tại thánh đường để cử hành lễ Lá. Tất cả vì một nguyên nhân ai cũng biết và phải đề phòng: Virus Covid–19.

Dẫu sao chúng ta có thể đọc hoặc nhớ lại biến cố ngày này thời Đức Giêsu: Ngài đã cưỡi lừa vào thành thánh Giêrusalem. Đó là biến cố bước vào Tuần Thánh cùng với Đức Giêsu chịu thương khó. Đây là một trong những dịp lễ trọng đại và kéo dài cả tuần trước ngày Sa bát. Tuy nhiên, các thánh sử chỉ ghi lại cho chúng ta vài câu về biến cố này. Chẳng hạn thánh Gioan thuật lại như sau:

“Dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Ðức Giêsu tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò:

Hoan hô! Hoan hô!
Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Chúa!
Chúc tụng vua Ítraen!
Ðức Giêsu gặp một con lừa nhỏ, liền cỡi lên như có lời chép:
Hỡi thiếu nữ Sion, đừng sợ!
Này Ðức Vua của ngươi ngự đến,
ngồi trên lưng lừa con.” (Ga 12,12–19)

Đó là những ngày đại lễ Vượt Qua của người Do Thái. Thiên Chúa của chúng ta vào thành thánh với muôn vạn lời chúc tụng. Ngài cũng đang hòa cùng niềm vui lễ hội với dân. Hôm nay Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta sống lại biến cố này một cách khác thường, nhưng không thiếu tâm tình thiêng liêng.

1. Chúa muốn vào nhà chúng ta

Nếu không có Covid–19, mỗi giáo xứ trong những này này rộn ràng lắm. Nào là vệ sinh, lau dọn nhà thờ, nào là tập dượt bài Thương Khó, chuẩn bị nhành lá, tập hát mừng đại lễ. Nói chung, mỗi người một việc để chuẩn bị cho cả Tuần Thánh. Các giáo xứ, nhà thờ năm nay vắng người. Phải chăng Chúa muốn cho chúng ta một kinh nghiệm độc đáo trong mùa dịch này: Chúa tiến vào nhà mình!

Với mệnh lệnh của nhà nước và hướng dẫn của Giáo Hội, chúng ta cử hành lễ Lá tại gia đình. Thay vì đến nhà thờ gặp Chúa, chính Đức Giêsu tìm đến tận mỗi gia thất của chúng ta. Nơi đó, Ngài có được mỗi người đón tiếp, tung hô và trò chuyện không? Dù giàu sang gấm lụa, nghèo nàn thiếu thốn, Chúa thực sự muốn bước vào tất cả những nơi đó. Cũng như dân thành năm xưa, hẳn là mỗi người cũng hạnh phúc đón Đức Vua, Thiên Chúa của chúng ta vào nhà mình.

Một lý do đơn giản: gia đình cần Chúa đến lúc này. Khi dấu hiệu đại dịch mỗi lúc một tăng, van xin Chúa hiện diện là điều cần thiết. Trong khi tham dự lễ Lá online, xin đừng giam Chúa trong chiếc điện thoại, máy tính hoặc nơi TV. Qua những phương tiện truyền thông, chúng ta tin rằng Thiên Chúa cũng thực sự đến với mỗi người. Chẳng phải mỗi người chúng ta là một đền thờ của Chúa Thánh Thần sao? (1 Cr 6,19–20). Chẳng phải gia đình cũng là Giáo Hội thu nhỏ đó sao? Dù Virus có khủng khiếp đến đâu, với Chúa và trong Chúa, hy vọng tình thế sẽ tươi sáng hơn nhiều.

2. Xin Chúa cứu nhân loại

Thử tưởng tượng người người tung hô Thiên Chúa lúc đó: vang rền cả một vùng trời. Nếu để ý, chúng ta thấy đám đông đang tán dương Đức Giêsu bằng lời của thánh vịnh 118. Nơi đó, họ hoan hô, chúc tụng Đấng ngự nhân danh Chúa mà đến! Hoan hô trong tiếng Do Thái là “Ho–san–na”, nghĩa là “xin cứu”, “xin ban ơn cứu độ”. Vào thời Chúa Giêsu, từ này cũng ám chỉ Đấng Thiên Sai. Lời hoan hô ấy thường được dùng trong bối cảnh phụng vụ. Dĩ nhiên, lúc này mỗi người cũng đang ước nguyện van xin Chúa giúp: “Hoan hô Chúa trên các tầng trời!”  

Nếu mạng xã hội có thể nối kết con người, thì nơi đó, chúng ta cũng thấy biết bao lời nguyện cầu dâng về Chúa. Mỗi người một ý nguyện, tâm tình. Dù cách xa về địa lý, nhưng chúng ta được liên kết gần gũi với nhau. Cùng nhau phòng chống dịch, cùng hướng về nhau và về Chúa. Khi đó, lời cầu nguyện của chúng ta cũng sẽ vang thấu trời. Hy vọng Chúa sẽ nhận lời chúng con.

Theo truyền thống Do Thái, các tư tế cũng dùng thánh vịnh 118 để chúc phúc cho các trưởng phái đoàn tiến lên Đền Thờ. Trong ý nghĩa này, chúng ta thấy Đức Giêsu cũng được chúc phúc. Hay nói đúng hơn, chính nhờ sự hiện diện của Ngài mà đoàn người hôm ấy được chúc phúc. Họ nhìn ngắm Đức Giêsu trên lưng lừa mà van xin: “Nguyện xin Chúa tuôn đổ phúc lành cho dân người lúc này.”

Trước cảnh u ám này, Chúa nhắn với mỗi người đừng sợ hãi, đừng hoang mang. (Mt 28,5). Chúa Giêsu đã không sợ khi bước vào thành thánh, dù Ngài biết nơi đó nguy hiểm đến tính mạng mình. Là người Công Giáo, chúng ta có nhiều lý do để sẵn sàng ứng phó với đại dịch lần này. Bằng cách nào? Cùng với Chúa và với nhau. Đó là mẫu số chung cho mỗi người lúc này. Nghe có vẻ lạ tai! Cứ nhìn vào xã hội và Giáo Hội, chẳng phải chúng ta đang cố gắng theo hướng đó sao?

3. Chúa bắt đầu chết vì tôi

Trong ngày Lễ ngày, chúng ta được nghe lại bài Thương Khó của Chúa chúng ta. Sau ngày lễ này, Thượng Hội Đồng quyết định bắt Đức Giêsu (Ga 11,45–54). Vậy là Đức Giêsu đã có án tử. Ngài đang đi vào con đường tử nạn, và chịu đóng đinh vào thập giá vì chúng ta. Đó là nguồn sức mạnh để mỗi người thêm lý do bám vào Chúa. Ngài nhất định không bỏ con người. Dù dịch bệnh có tàn nhẫn đến đâu, dù con người có chối bỏ Thiên Chúa, Đức Giêsu vẫn đang chịu chết để cứu độ con người.

Nếu chúng ta đang chịu đau khổ vì virus, thì chính Con Thiên Chúa cũng đang chịu cực hình. Trong hoàn cảnh đó, Đức Giêsu một lòng tín trung vào Chúa, sẵn sàng chấp nhận thử thách. Trong đó, đau khổ thực sự là một thử thách đức tin của mỗi người. Hoặc nói như thánh Giacôbê tông đồ: “Anh em hãy tự cho mình là được chan chứa niềm vui khi gặp thử thách trăm chiều. Vì như anh em biết: đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn.” (Gc 1,2–3). Cụ thể hãy kiên nhẫn với Thiên Chúa, bởi Ngài đang rất kiên nhẫn với con người. Ngài sẽ nhậm lời khẩn nguyện của ta. Đồng thời kiên nhẫn đi cùng với Chúa trong đau khổ, vinh quang sẽ chờ ta phía trước.

Giáo Hội vẫn đang gọi mời chúng ta hãy cùng bước vào con đường của Đức Giêsu. Với lời tung hô chúc tụng, lời van nài nguyện xin, hy vọng mỗi người đi với Chúa đến cuối con đường thập giá. Nơi đó, Chúa đã chết vì chúng ta và mời gọi mỗi người đón nhận mọi khổ đau, dịch bệnh trong bình an và tin tưởng. Vì chúng ta muốn yêu mến Thiên Chúa thật nhiều. “Đức mến này thì nhẫn nhục, hiền hậu,... tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả.” (1Cor 13,1–8).

HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT LỄ LÁ -A

- KIỆU LÁ: Mt 21,1-11
-THÁNH LỄ: Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mt 27, 11-54
LM ĐAN VINH - HHTM

 

CON ĐƯỜNG VINH QUANG NGANG QUA THẬP GIÁ
I. HỌC LỜI CHÚA


1A. TIN MỪNG KIỆU LÁ: Mt 21,1-11

(1) Khi thầy trò đến gần thành Giê-ru-sa-lem và tới làng Bết-pha-ghê, phía núi Ô-liu, Đức Giê-su sai hai môn đệ (2) và bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh tháo dây ra và dắt về cho Thầy. (3) Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng. Người sẽ gởi lại ngay. (4) Sự việc đó xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ: (5) Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ”. (6) Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giê-su đã truyền. (7) Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giê-su cỡi lên: (8) Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. (9) Đám đông, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy: “Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúa tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời”. (10) Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: “Ông này là ai vậy?” (11) Đám đông trả lời: “Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy”.

1B. TIN MỪNG TRONG THÁNH LỄ: Mt 27,11-54

2. Ý CHÍNH PHỤNG VỤ CN LỄ LÁ:

Phụng vụ CN Lễ Lá gồm hai phần:

- Phần đầu lễ, bài Tin Mừng diễn tả cuộc khải hoàn của Đức Giê-su như một ông vua ngồi trên lưng lừa khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, giữa những tiếng hoan hô tưng bừng của mọi người: “Hoan hô con Vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời”.

- Nhưng rồi đến bài Tin mừng trong thánh lễ thuật lại buổi xử án Đức Giê-su và cuộc khổ hình của Người, khi phải vác cây thập giá lên Núi Sọ, chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp như một kẻ tội đồ. Người vô tội nhưng đã chịu hình phạt thập giá đau thương nhục nhã của một tử tội để đền tội thay cho mọi người chúng ta.

3. CHÚ THÍCH:

- C 1-6: + Thầy trò đến gần Giê-ru-sa-lem: Theo Tin Mừng Gio-an (x Ga 12, 1), sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su tới Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem khỏang gần 3 cây số vào buổi chiều, và thầy trò đã đến ở trọ qua đêm tại Bê-ta-ni-a trong nhà ba chị em Mác-ta Ma-ri-a và La-da-rô. + Tới làng Bết-pha-ghê: Giữa Bê-ta-ni-a và Giê-ru-sa-lem có làng Bết-pha-ghê, nằm dưới chân núi Ô-liu về phía Đông. + Sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó…: Câu này nói lên tính siêu việt nơi con người Đức Giê-su: Ngài có cái nhìn thấu suốt không gian thời gian, thấu suốt tâm can con người (x. Mt 9, 4; Lc 7, 39-40). + Một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh: Chỉ Tin Mừng Mát-thêu mới nói đến con vật là lừa mẹ và lừa con. Còn ba Tin Mừng kia chỉ nói đến một con lừa tơ chưa một lần sử dụng, như dành riêng cho công việc linh thánh này. + “Chúa cần đến chúng”: Chủ lừa chắc là chỗ quen biết trước nên Đức Giê-su căn dặn môn đệ trả lời như vậy. Từ “Chúa” ở đây ám chỉ ông chủ lừa này đã tin Người là Đấng Thiên Sai.

- C 7-9: + Một đám người rất đông lấy áo mình trải xuống mặt đường: Dân chúng ở đây phần lớn là những người từ xứ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua. Họ nghỉ trong các quán trọ trên đường vào Thành, hoặc tạm trú trên sườn núi Cây Dầu. Những người này phấn khởi ra đón vị Vua Thiên Sai mà họ hy vọng sẽ giúp họ chống lại ách thống trị của ngoại bang. Họ lấy áo lót đường và chặt cành cây Ô-liu trải trên lối đi để bày tỏ lòng trọng kính Đức Giê-su như một vị Vua Thiên Sai theo phong tục Cận Đông thời bấy giờ. + Con vua Đa-vít: Dân chúng đã tin Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai, là “Con Vua Đa-vít” khi họ thấy Người làm cho hai người mù được sáng mắt (x. Mt 20,30), và truyền cho La-da-rô chết bốn ngày sống lại (x. Ga 11, 45). Đó là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Is 29, 18-19; 25, 7-9). + Hoan hô: Dân chúng nô nức theo sau và phấn khởi hoan hô Người bằng lời hoan hô được ghi trong Thánh Vịnh 118 (x. Tv 118, 25-26).

4. HỎI ĐÁP:

- HỎI 1: Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem mấy lần trong đời của Người?

ĐÁP: Đọc Tin Mừng Mát-thêu, ta có cảm tưởng Đức Giê-su chỉ lên Giê-ru-sa-lem một lần duy nhất trong cuộc sống trần gian. Nhưng thực ra, Người đã lên Đền thờ ít là 5 lần quan trọng: Lần 1 khi mới sinh được 40 ngày (x. Lc 2, 22-24). Lần 2 năm 12 tuổi, trẻ Giê-su theo cha mẹ lên Đền thờ (x. Lc 2,42). Lần 3,4,5: Trong gần 3 năm rao giảng Tin Mừng, mỗi năm Đức Giê-su đều lên Đền thờ dự lễ Vượt Qua (x. Ga 2, 13; 5, 1; 12, 12), và vào nhiều lễ khác (x. Ga 7, 10.14; 10, 22-23).

- HỎI 2: Tại sao Người không cưỡi ngựa mà lại dùng lừa?

ĐÁP: Đức Giê-su ngồi trên lừa con chưa mang ách và chưa ai cưỡi cho thấy Người là Đấng Thiên Sai. Vì lừa mẹ ám chỉ dân Do-thái đã từng mang ách của Luật Mô-sê (x. Cv 15, 10), còn lừa con ám chỉ dân ngoại chưa từng mang ách, giờ đây sẽ được mang ách êm ái và gánh nhẹ nhàng của Đức Ki-tô (x. Mt 11, 29-30). Người cưỡi trên mình lừa thay ngựa để nói lên sự khiêm tốn và hiếu hòa của Vua Thiên Sai. Bên Do-thái, các bậc vua chúa quan quyền thường dùng lừa thay vì dùng ngựa. Như hoàng tử Áp-sa-lon đã chết thảm khi đang cưỡi lừa (x. 2 Sm 18, 9).

 

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi, hiền hậu ngồi trên lưng lừa” (Mt 21, 5).

2. CÂU CHUYỆN:

1) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG TỘT ĐỈNH CỦA CHÚA GIÊ-SU:

Vào một ngày Chúa Nhật nọ, BOB lái xe đưa vợ đi mua sắm một số đồ cần dùng. Hai vợ chồng bàn nhau vào một tiệm cầm đồ bình dân để tìm mua hàng rẻ. Bà chủ tiệm chỉ cho họ một số hàng quá hạn cần thanh lý. Bà vợ của BOB cầm lên xem một cây Thánh giá đã cũ, rồi ghé tai chồng nói nhỏ: “Đây là cây Thánh giá bằng bạc đắt tiền mà sao bà chủ tiệm lại để giữa các món hàng rẻ tiền này?” Sau đó, hai vợ chồng đã mua được cây Thánh giá ấy với giá chỉ một đôla! Về đến nhà, BOB liền mang cây Thánh giá ra lau chùi sạch sẽ. Một lát sau, cây Thánh giá cũ kia đã trở nên bóng lộn và giá trị đã tăng lên cả trăm đôla! Rồi BOB trân trọng đặt cây Thánh giá kia lên bàn. Sau đó cậu con trai của BOB đi học giáo lý về. Cậu chăm chú nhìn cây Thánh giá và tự nhiên hai giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má. BOB rất ngạc nhiên trước thái độ của con trai và hỏi cậu nguyên nhân tại sao khóc như thế? Bấy giờ cậu bé trả lời như sau: “Thưa ba, hôm nay ở nhà thờ con học giáo lý về cây Thánh giá của Chúa Giê-su. Con biết Chúa Giê-su vì yêu thương nhân loại, nên đã sẵn lòng chịu chết trên cây Thánh giá, để đền tội thay cho chúng ta. Vì thế khi nhìn thấy cây Thánh giá này, con liền nghĩ đến tình thưong của Chúa thật quá lớn lao, và dù con đã cố kìm nén lại mà tự nhiên nước mắt cứ chảy ra!”.

2) MỖI NGƯỜI ĐỀU GÓP PHẦN VÀO VIỆC ĐÓNG ĐINH CHÚA GIÊ-SU:

Danh hoạ Rembrandt, người Hoà Lan, sống vào thế kỷ 17, đã để lại nhiều bức tranh nổi tiếng, trong đó nổi tiếng nhất là bức tranh “Ba cây thập giá”.

Chiêm ngưỡng tác phẩm, hầu như ai cũng chú ý vào ba cây thập giá ở trung tâm: giữa hai cây thập giá của hai tên gian phi, thập giá của Chúa Giê-su đã nổi bật. Dưới chân thập giá là một đám đông mà gương mặt nào cũng biểu lộ sự hận thù ganh ghét... tác giả như muốn nói rằng: mọi người đều góp phần vào việc đóng đinh Chúa Giê-su trên cây thập giá.

Khi quan sát đám đông, người ta thấy một gương mặt dường như bị mất hút trong bóng tối, nhưng chỉ cần một vài nét cũng đủ để các nhà chuyên môn nhận ra đó là khuôn mặt của danh hoạ Rembrandt là tác giả bức tranh.

Tại sao giữa đám đông đằng đằng sát khí muốn thảm sát Chúa Giê-su, mà Rembrandt lại chèn thêm khuôn mặt của mình vào? Câu trả lời duy nhất có lẽ là do ông đã ý thức về tội lỗi của mình. Rembrandt như muốn thú nhận chính ông khi phạm tội cũng đã gián tiếp hành hình và treo Chúa Giê-su trên cây thập giá.

3) TÌNH YÊU CỦA CHÚA TRỔI VƯỢT HƠN TÌNH YÊU CỦA NGƯỜI PHÀM:

Môn đệ của một vị đạo sĩ kia muốn từ bỏ thế gian, nhưng anh ta xem ra còn quyến luyến với tình cảm gia đình nên nói với đạo sĩ: “Vợ con của con rất thương yêu con, nên chắc sẽ không bằng lòng cho con thoát tục theo thầy đâu”.

Nghe vậy, vị đạo sĩ muốn chứng minh cho anh chàng biết sự thật nên đã dạy cho anh một kỹ năng chết giả. Sau khi thực tập thuần thục, vị đạo sĩ bảo anh hãy về nhà áp dụng kỹ thuật chết giả này. Quả thật, anh ta đã áp dụng tuyệt vời bài học chết giả bằng việc nhắm mắt xuôi tay và ngừng thở, nhưng vẫn có thể nghe được tiếng khóc than của vợ con và người thân trong gia đình.

Ngày hôm sau, vị đạo sĩ đến để phân ưu cùng tang quyến. Sau giây phút tưởng niệm người quá cố, ông bảo với vợ con đang khóc thương người mới qua đời như sau: “Tôi có bí quyết để cứu sống người này, nếu có ai sẵn lòng chết thay thì anh ta sẽ sống lại”.

Bấy giờ anh chàng giả chết rất ngạc nhiên khi nghe từng người trong gia đình anh nêu ra các lý do để từ chối chết thay anh. Sau cùng anh lại càng ngạc nhiên hơn nữa khi nghe chính người vợ nghĩa thiết của anh đã tóm lại quyết định của mọi người trong gia đình như sau: “Tôi nghĩ là không ai đồng ý chết thay cho chồng tôi đâu. Thực ra dù không có anh ta, thì chúng tôi vẫn có thể sống được!“.

4. LOÀI NGƯỜI LUẬN TỘI THIÊN CHÚA:

Tôi có một giấc mơ. Tôi mơ thấy ngày tận thế. Hàng tỉ tỉ người tập trung tại một cánh đồng rộng lớn trước toà Thiên Chúa để chờ Ngài xét xử. Nhiều người sợ hãi. Nhưng nhiều người khác lại nổi giận.

Một phụ nữ nói: “Sao Chúa có thể xét xử chúng tôi được? Ngài có biết gì về đau khổ đâu! Chúng tôi đã phải chịu khủng bố, đánh đập, tra tấn và giết chết.” Vừa nói bà vừa vạch tay áo cho thấy một con số do một trại tập trung Đức quốc xã xâm vào cánh tay bà.

Tiếp theo, một người đàn ông da đen cúi đầu xuống, để lộ một sợi dây thừng đang quấn quanh cổ ông: “Tôi đã bị buộc cổ như thế này chỉ vì tội làm người da đen, bị rứt khỏi những người thân yêu, rồi bị dẫn xuống chiếc tàu chật cứng như nêm, bị bán làm nô lệ, làm việc nặng nhọc cho đến chết”.

Sau đó, một cô gái với dòng chữ “con hoang” khắc trên trán lên tiếng: “Tôi phải chịu đựng sự sỉ nhục này vượt sức… vượt sức…”. Cô nghẹn ngào không nói tiếp được.

Nhiều tiếng nói khác tiếp theo… Mọi người đều trách Chúa vì những khổ đau họ đã gánh chịu khi còn sống. Ngài sung sướng quá vì cứ sống ở trên trời chỉ toàn ngọt ngào và sáng láng, chẳng hề có một chút mồ hôi, nước mắt, đói khát, sợ hãi, hận thù. Bởi vậy Ngài có biết gì về những nỗi khổ của loài người đâu!

Thế rồi họ nhất trí bắt Ngài phải xuống sống ở trần gian. Tuy nhiên phải làm sao cho Ngài sống y như một người thường để không ai biết Ngài là Thiên Chúa, và cũng không cho Ngài được sử dụng quyền phép Thiên Chúa của Ngài. Rất nhiều góp ý được đưa ra:

– Hãy cho Ngài trở thành một tên Do-thái.

– Làm sao để người ta nghĩ Ngài là một đứa con hoang, để không ai biết Cha thật của Ngài là ai.

– Ngài phải làm việc bận rộn đến nỗi bà con Ngài tưởng Ngài bị mất trí.

– Ngài phải nếm nỗi đau bị những người bạn thân nhất phản bội.

– Ngài phải bị đưa ra toà án để phải chịu quan tòa luận tội cách bất công.

– Ngài phải bị kết án là một tay lừa đảo và bị xử tử ô nhục trên cây thập tự.

– Trước khi chết, Ngài còn phải nếm mùi bị tra tấn và lăng nhục.

– Cuối cùng phải cho Ngài nếm mùi chết cô đơn và bị người thân bỏ rơi khủng khiếp đến mức nào.

Lời góp ý cuối cùng đưa ra xong, mọi người im lặng… Và bỗng nhiên họ nhận ra rằng chính Chúa đã thi hành bản án ấy từ lâu! (Flor McCarthy)

3. SUY NIỆM:

1) ĐẠO CÔNG GIÁO LÀ CON ĐƯỜNG VINH QUANG QUA THẬP GIÁ:

Người tín hữu là người chấp nhận đi trên Con Đường của Chúa Giê-su: Là đòi phải bỏ đi ý riêng của mình để vâng theo ý Thiên Chúa muốn như lời cầu của Chúa Giê-su với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu được, xin cho con khỏi uống chén này. Nhưng đừng theo ý con mà xin vâng ý Cha”, và như Người đã dạy các môn đệ: “Ai muốn theo tôi phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo tôi”. Mỗi người tín hữu chúng ta cần ý thức rằng: Ai đi Con Đường Giê-su sẽ không được dừng lại lúc Chúa khải hoàn vào thành Giêrusalem với cành lá, quần áo trải thảm trên đường, và đám đông hoan hô… nhưng phải trung thành theo Chúa trên đường thập giá, kết thúc trên Núi Sọ, chịu chết ô nhục giữa hai tên trộm cướp như một kẻ đại gian đại ác.

- Trên đường lên Giê-ru-sa-lem mọi người đều đi theo Chúa và đều là môn đệ của Chúa. Nhưng trên đường lên Núi Sọ thì chỉ còn ít người đi theo Chúa. Có những người đã phản nộp Thầy như Giu-đa, có người chối bỏ Thầy như Phê-rô. Còn những môn đệ còn lại thì đều hèn nhát bỏ Thầy mà chạy trốn…

2) TÔN VINH CHÚA GIÊ-SU LÀ VUA THIÊN SAI:

- Bài Tin Mừng khi rước lá thuật lại việc Đức Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem như một vị Vua Thiên Sai, được dân chúng theo sau hoan hô như đón mừng một ông vua khải hoàn vào thành, hầu ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ Gia-ca-ri-a. Vào thời Đức Giê-su, nhiều người Do-thái đang chờ mong Đấng Thiên Sai đến để lãnh đạo dân đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi bờ cõi Do-thái và thiết lập một Triều Đại Mới, giống như triều đại của vua Đa-vít và vua Sa-lô-mon xưa. Nhưng thực ra sứ mệnh cứu thế của Đức Giê-su không phải như dân Do-thái đang trông đợi. Người là Đấng Thiên Sai nhưng là ông Vua “Mục Tử tốt lành, hiền hậu và khiêm nhường”. Người đã xưng mình là Vua trước mặt quan Tổng Trấn Phi-la-tô, khi hai tay đang bị trói, thân thể bị đòn đánh tan nát; khi phải đứng trước tòa án như một tội nhân. Danh hiệu Vua của Chúa Giê-su được ghi bằng dòng chữ viết tắt “INRI” gắn trên cây thập giá, nghĩa là: “Giê-su Na-da-rét Vua dân Do-thái”.

- Đức Giê-su chính là Vua nhưng không phải như một ông Vua trần tục, đòi được người khác hầu hạ, nhưng là ông Vua Mục Tử Tốt Lành, hiền hậu và khiêm nhường:

+ Là Vua Mục Tử: Người biết rõ đàn chiên, yêu thương mọi con chiên và chăm sóc từng con, nhất là sẵn sàng đi tìm những con đi hoang, băng bó những con bị thương tích, âu yếm và vác chúng trên vai mà đưa về đàn. Ngày nay Người yêu thương đàn chiên Hội Thánh và yêu đến tột cùng, khi thiết lập bí tích Thánh Thể để ở với Hội Thánh mọi ngày và trở nên lương thực thần linh nuôi dưỡng Hội Thánh. Người cũng nêu gương khiêm nhường cho chúng ta, và mời gọi chúng ta hãy học nơi Người sự hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

+ Là Vua Hòa Bình: Người không ngồi trên ngựa chiến uy quyền khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem, nhưng khiêm tốn ngồi trên con lừa. Người đến không để kết án và trừng phạt tội nhân, nhưng để yêu thương, tha thứ cho những tội nhân thực lòng sám hối ăn năn như tha tội người trộm lành trên cây thập tự. Người là Vua Mục Tử bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng chịu chết để cho chiên được sống và sống dồi dào.

Còn chúng ta hôm nay sẽ làm gì để đáp lại tình thương vô biên của Vua Giê-su?

3) ĐÁP LẠI TÌNH THƯƠNG CỨU ĐỘ CỦA VUA GIÊ-SU:

Một số việc các tín hữu chúng ta cầm thực hiện để trở thành môn đệ của Chúa Giê-su và xứng đáng được Chúa Cha đón nhận vào Nước Trời đời sau:

+ Siêng năng cầu nguyện: Lý do Tông đồ Phê-rô sa ngã và hèn nhát chối Thầy ba lần là vì quá tự tin vào sức riêng hơn tin cậy vào ơn Chúa, đã ăn uống no say và không theo lời Thầy dạy:” Hãy tỉnh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ”.

+ Luôn vâng theo thánh ý Chúa Cha: Khi gặp rủi ro, bệnh tật và những điều trái ý cực lòng, chúng ta hãy xin vâng theo ý Chúa Cha. Tránh đi coi bói toán, tin vào bùa phép và các thứ mê tín khác… Hãy xin Chúa thêm sức mạnh giúp chúng ta chấp nhận những đau khổ không thể tránh khỏi, coi đau khổ gặp phải như phương thế để đền tội mình và góp phần cứu rỗi anh em.

+ Tránh cố tình phạm tội như Giu-đa, vì sẽ bị phạt chung số phận với ma quỷ như lời Chúa phán: “Khốn cho kẻ nộp Con Người. Thà nó đừng sinh ra thì hơn”.

+ Sẵn sàng tha thứ cho những kẻ có lỗi với mình như lời kinh Lạy Cha, noi gương Chúa Giê-su đã tha thứ cho Phê-rô sau khi ông chối Thầy ba lần; Hãy năng cầu xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ làm hại mình noi gương Chúa Giê-su đã xin Cha tha cho những kẻ làm khốn mình.

+ Luôn giữ bình tĩnh và dùng tình thương để hoán cải kẻ thù, noi gương Chúa Giê-su đã ứng xử với Giu-đa khi anh ta hôn mặt để nộp Người cho kẻ thù.

+ Kiên nhẫn chịu đựng khi bị khích bác, noi gương Chúa Giê-su đã im lặng chịu đựng trước những lời hò hét đả đảo của đám đông cuồng nộ.

+ Thực lòng sám hối và tin yêu Chúa noi gương kẻ trộm lành trên cây thập tự khi trách bạn: “Mi chịu cùng một án, mà mi chẳng sợ Thiên Chúa sao? Phần chúng ta, bị như thế này là đích đáng, vì xứng với tội ta đã làm. Còn ông Giê-su này đâu có làm điều gì xấu?” và cầu xin Chúa Giê-su: “Lạy ông Giê-su. Khi nào về Nước Ngài, xin nhớ đến tôi cùng”. Chúa Giê-su đã lập tức tha tội và ban ơn cứu độ cho anh khi phán: “Ta bảo thật. Ngay hôm nay anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với Ta”.

+ Quyết tâm loại trừ tính ganh ghét: Sau cùng, mỗi người chúng ta hãy quyết tâm loại trừ tính ganh ghét những ai hơn mình, để tránh phạm thêm tội ác khác như các đầu mục Do Thái xưa đã ganh ghét và giết hại Chúa Giê-su.

4. THẢO LUẬN:

Trước đau khổ thập giá gặp phải do bản thân, người khác và do hoàn cảnh tự nhiên gây ra, chúng ta phải ứng xử thế nào để thể hiện đức tin vào tình thương quan phòng của Thiên Chúa noi gương Đức Giê-su?

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Trong những ngày Tuần Thánh này:

Vì Chúa đã lấy thịt mình mà nuôi dưỡng chúng con, xin giúp chúng con năng nhớ đến những người nghèo khó gần bên để nhường cơm xẻ áo cho họ.

Vì Chúa đã xao xuyến buồn sầu trong vườn Cây Dầu, xin giúp chúng con sẵn lòng chấp nhận chén đắng đau khổ gặp phải trong cuộc sống.

Vì Chúa đã bị kết án bất công, xin giúp chúng con dám lên tiếng bênh vực công lý. Vì Chúa đã bị xỉ nhục nhạo cười, xin giúp chúng con nhẫn nhịn chịu đựng tha nhân.

Vì Chúa đã vác cây thập giá nặng nề, xin giúp những ai đang đau khổ trên giường bệnh, biết sẵn sàng vác Thánh giá đời mình mà theo chân Chúa.

Vì Chúa đã bị lột áo và chịu đóng đinh tay chân vào thập giá, xin giúp chúng con biết đóng đinh tính xác thịt mình vào thập giá Chúa.

Vì Chúa đã giang tay chịu chết trên thập giá, xin giúp chúng con biết cầu nguyện điều tốt cho tha nhân.

Vì Chúa đã phục sinh vinh quang, xin cho chúng con biết đón nhận mọi sự trái ý xảy đến với niềm cậy trông phó thác vào tình thương quan phòng của Chúa…

Nhờ đó, sau này chúng con hy vọng sẽ được tham phần vào hạnh phúc với Chúa trong Nước Trời muôn đời.- AMEN.

 

SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU

Chúa Nhật Lễ Lá năm A: Mt 26, 14-27, 66
 


Suy niệm

Với Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào Tuần Thánh, là tuần quan trọng nhất trong năm Phụng vụ. Trong tuần thánh, chúng ta chứng kiến những giây phút cuối đời trần thế của Chúa Giêsu, và cử hành cuộc thương khó của Ngài là nguồn ơn cứu độ cho nhân loại chúng ta. Cũng như dân Do Thái xưa, chúng ta cầm cành lá trên tay để đón mừng Chúa như vị Vua hòa bình của thế giới. Nhưng qua bài Thương Khó, chúng ta lại thấy bao nhiêu tội lỗi nhân loại của chúng ta trút lên mình Chúa. Ngài tự gánh hết những tội tình của thế nhân, và muốn rửa sạch hết những tội ác của con người trong cái chết và sự phục sinh của Ngài.

Vì thế, khi nghe kể lại cuộc thương khó và khổ nạn của Chúa Giêsu, ta không thể nghe như nghe những câu chuyện lịch sử khác, nhưng nghe như một thiên tình sử muôn đời của Thiên Chúa gắn liền với cuộc đời của chúng ta. Chúng ta hãy làm sống lại thiên tình sử đó trong chính cuộc đời mình, cảm nhận từ chính tâm hồn mình, nói một cách khác là nội tâm hóa biến cố đau thương và tử nạn của Chúa Giêsu.

Qua bài Thương Khó, ta cần khám phá ra con người mình qua cách hành xử của Philatô, Hêrôđê, Phêrô, Giuđa, các thượng tế, khách qua đường… nghĩa là thấy mình cũng không tránh khỏi những tội phạm tương tự như họ: gian dối, phản bội, ích kỷ, cao ngạo, làm chứng gian, hiềm thù, ghen ghét, độc ác…Vì những tội lỗi đó mà dung nhan của Chúa Giêsu nơi chúng ta bị bầm dập, tồi tàn, đến nỗi người ta không còn nhận ra hình dạng của Chúa trong đời sống của mình.

Phải thấy được tất cả những điều đó qua mọi hành vi và thái độ sống của chúng ta đối với Chúa và tha nhân. Nhờ đó, gợi lên trong ta tâm tình sám hối sâu xa để làm một bước chuyển hóa, bằng cách dám chết đi cho tội lỗi để khơi sáng lại dung nhan Chúa Giêsu trong trái tim và trên khuôn mặt của mình. Không có sự thao thức và niềm khao khát này, tâm hồn ta vẫn trơ trọi, chai lì, dù có qua bao nhiêu tuần thánh nữa cũng vậy thôi, và điều đáng sợ là có thể mất đi cơ hội ngàn đời.  

Mở đầu cuộc thương khó là việc nhà cầm quyền Do Thái tìm cách bắt Đức Giêsu. May mắn cho họ là có sự tiếp tay của Giuđa. Không biết động cơ nào đã thúc đẩy anh làm một việc tầy trời, là tìm cách nộp Thầy cho các thượng tế. Anh ta là một trong nhóm Mười Hai, được Thầy Giêsu tuyển chọn giữa bao nhiêu người, và anh cũng đã từ bỏ mọi sự mà đi theo Thầy. Thời gian ba năm tuy không dài, nhưng đậm đà tình nghĩa Thầy trò với những sướng khổ, vui buồn trên đường loan báo Tin Mừng, đủ để cho anh nhận ra vai trò và sứ mạng từ trời của Thầy, với những bài giảng cuốn hút, nhất là anh đã chứng kiến những phép lạ lớn lao. Tại sao bỗng chốc lại trở nên tan tác?

Phải chăng vì ham tiền mà Giuđa tìm cách bán Thầy mình? Dù sao thì biến cố xức dầu tại Bêtania, Gioan đã nhận định về Giuđa rằng: y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung”. Nhưng bán Thầy chỉ có ba mươi đồng thì có nghĩa gì đâu. Phải chăng Giuđa có một âm mưu gì lớn lao chứ không thể ti tiện như thế? Người ta nghi anh thuộc phái Zêlốt, nhóm ái quốc cực đoan, luôn tìm cách nổi dậy để đánh đuổi quân Rôma, giành lại độc lập cho Palestin. Chính vì biết Thầy có một quyền lực siêu phàm, nên anh muốn đặt Thầy trong trường hợp đã rồi, để Thầy không còn đường nào khác hơn, là phải ra tay hành động để làm cuộc cách mạng như anh đã dự trù. Nhưng rồi anh đã sửng sốt khi thấy mọi sự ngoài dự định của mình. Thầy đưa tay chịu nộp chứ không ra tay hành động.

Đức Giêsu đã đoán trước được sự việc. Trong bữa tiệc ly, Ngài nhắc khéo anh đến ba lần, để anh kịp thời tỉnh ngộ. Nhưng anh đã mê man trong thế trận mà mình đã bày ra, không ngờ kẻ sa lưới lại là anh. Dù đã đan tâm phản bội Thầy, đưa Thầy vào chỗ chết, nhưng anh ta vẫn sốt sắng tham dự trọn vẹn Bí Tích Thánh Thể mà Thầy vừa thiết lập, là chính thực tại của mầu nhiệm cứu chuộc mà Đức Giêsu sẽ thực hiện trọn vẹn bằng sự hiến tế trên thập giá. Ðã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho người nào nộp Con Người”.

Có ai ngờ người đồng bàn thân thiết với Thầy lại là kẻ phản bội. Đúng như lời Thánh vịnh: “Cả người bạn thân con hằng tin cậy, đã cùng con chia cơm sẻ bánh, mà nay cũng giơ gót đạp con!” (41, 10). Dù đã là môn đệ Chúa, đang trên bước đường theo Chúa, vẫn ở bên Chúa, vẫn chia sẻ một bàn tiệc với Chúa trong Thánh Lễ, nhưng coi chừng tâm ý ta đã khác, đức tin đã phai, tình mến đã nhạt. Đó cũng là điều gây thương tổn nặng nề cho trái tim Đức Giêsu, Đấng cứu độ ta.  

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Đối diện với Thập giá Chúa,
con thấy mọi loang lổ của tâm hồn,
đều được phơi bày trên thân xác Chúa
,

Con kiêu căng nên Chúa phải bị treo.

Con ích kỷ nên Chúa chẳng còn gì.          
Con lãnh đạm nên Chúa bị bỏ rơi.           
Con no thỏa nên Chúa đành đói khát.
Con ham muốn nên Chúa phải trần truồng.

Con hà tiện nên Chúa chịu oan khiên.
Con lười biếng nên Chúa phải ưu phiền.
Con ghen ghét nên Chúa bị đâm thâu.
Con gian dối nên Chúa đội mão gai.

Con buông thả nên Chúa bị nhục mạ.
Con xa hoa nên Chúa chịu đóng đinh.
Con tham lam nên Chúa chịu hành hình.
Con hận thù nên Chúa chết điêu linh...


Tội con không thể nào mà nói hết,
con có chết bao lần cũng không xong,
nhưng rồi Chúa đã chết cho con sống,
cho thế nhân niềm tin yêu hy vọng,
cho những ai lòng sám hối cậy trông,
được vượt qua khỏi cảnh đời tang tóc..
.

Xin xóa tội con theo lượng cả đức từ bi.
Xin cứu vớt con khỏi sa vòng lâm lụy.
Ôi Thập giá
Chúa mãi mãi đáng yêu vì!
tay chắp gối quỳ lòng con mãi niệm suy. Amen.

Lm. Thái Nguyên


 

 
 

Chúa nhật Lễ Lá -A
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu. (Mt 21, 1-11)

Khi các ngài đến gần Giêrusalem, vào địa hạt Bếtphaghê, giáp núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi và bảo rằng: “Các con hãy đến làng trước mặt kia, sẽ gặp ngay một con lừa mẹ cột ở đó với con lừa con. Các con hãy mở dây, dẫn về đây cho Thầy; và nếu có ai bảo các con điều gì, thì hãy nói: Chúa cần đến chúng, và Ngài sẽ gởi trả lại ngay”. Mọi việc này xảy ra để ứng nghiệm lời tiên tri đã phán: “Các ngươi hãy bảo thiếu nữ Sion rằng: Kìa vua ngươi nhân ái đến cùng ngươi, ngồi trên lừa mẹ và lừa con, là con của con vật chở đồ”. Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!”

Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: “Người đó là ai vậy?” Dân chúng trả lời rằng: “Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa”.

Suy niệm

Thế là những ngày mùa chay đang dần khép lại, đó là 40 ngày được mời gọi vào sa mạc cuộc sống, bên cạnh đó là những việc làm như ăn chay, sám hối, cầu nguyện và chia sẻ với anh chị em khó khăn, bất hạnh, là những việc làm cần thiết, để bày tỏ sự nỗ lực của bản thân trong tinh thần của một tội nhân trở về với Thiên Chúa, người Cha nhân từ. Mẹ Giáo hội mời gọi con cái hãy luôn ý thức về thân phận tội lỗi và đầy khiếm khuyết của mình, để luôn cố gắng chỗi dậy, cố gắng trở về. Thiên Chúa, một người Cha nhân từ, sẵn sàng quên mọi lầm lỗi, mọi thiếu sót của con người, nếu như con người tin tưởng vào Ngài, trở về để được giao hòa và bước vào một hành trình mới của niềm tin. Bài Tin mừng theo thánh Matthêu kể lại biến cố Đức Giêsu vào thành Gie-ru-sa-lem, được mọi người đón rước long trọng, toàn thể dân thành náo nức, mọi cánh tay giơ cao chào đón Ngài, để rồi, chỉ sau đó ít ngày, cũng những cánh tay đó, những con người đó, đã giơ cao, hô vang đóng đinh Ngài vào thập giá. Cuộc đời con người là thế, đổi thay và thiếu sự cố gắng, đặc biệt trong niềm tin.

Trở lại với phần phụng vụ Lời Chúa trong Thánh lễ đặc biệt, khởi đầu tuần thánh, bài đọc 1 trích từ sách tiên tri Isaia, tường thuật về ơn gọi tiên tri của ngài, đồng thời hướng tới những ai chọn Thiên Chúa là chủ tể cuộc đời, hãy mạnh dạn để loan báo tin vui cho thế giới: “Chúa đã ban cho tôi miệng lưỡi đã được huấn luyện, để tôi biết dùng lời nói nâng đỡ kẻ nhọc nhằn. Mỗi sáng Người đánh thức tôi, Người thức tỉnh tai tôi, để nghe lời Người giáo huấn. Thiên Chúa đã mở tai tôi, mà tôi không cưỡng lại và cũng chẳng thối lui”. Các tiên tri được sai đến với con cái Israel để giúp họ sám hối, giúp họ hoán cải cuộc đời, trở về với Giavê, để được sống trong sự chăm sóc đặc biệt của Ngài. Thiên Chúa mượn cuộc đời và lời nói của các tiên tri, để nhắc nhở những ai tin tưởng vào Ngài, sống theo giáo huấn của Ngài, thì mai ngày, người đó sẽ được Thiên Chúa trọng thưởng.

Con Thiên Chúa, khi bước vào lịch sử nhân loại, đã sống trọn vẹn ơn gọi của mình, dẫu là Con Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu luôn tìm thánh ý Cha, dù rằng có những phút giây, Ngài cũng chưa hiểu hết ý Cha mình muốn gì trong cuộc đời mình. Vậy mà, Ngài đã khước từ tất cả, thực hiện trọn vẹn ý Cha, để rồi, Chúa Cha đã trọng thưởng cho Ngài. Cùng nghe lại lời của thánh Tông Đồ dân ngoại trong lá thư gởi giáo đoàn Phi-lip-phê, để biết phần nào ơn gọi của Đức Giêsu: “Chúa Giêsu Kitô, tuy là thân phận Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá”. Ánh hào quang của mầu nhiệm phục sinh luôn nằm ở phía sau của vầng mây u ám thập giá, những bước chân nặng nề thập giá, làm cho người ta sợ hãi, làm cho con người ngại ngùng đồng hành với Con Thiên Chúa, ngay cả các học trò thân tín của bỏ chạy giữa chừng, một đức tin sợ hãi và nhát đảm.

Đọc lại câu chuyện Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem, Ngài được dân chúng đón rước long trọng, trải áo trên đường, phất cao những cành lá như chào đón một vị vua chiến thắng trở về. Tiếng hô vang của đám đông, tiếng reo mừng của những người biết Ngài, tất cả những âm thanh đó, tạo nên một bầu khí thật hào hùng, để rồi sau đó ít ngày, cũng vang lên những âm thanh ồn ào của đám đông, cũng những cánh tay giơ cao la ó, nhưng không phải là đón chào, không phải là tung hô, mà là tiếng kêu của sự giận dữ, điên cuồng và giận ghét: “Các môn đệ ra đi và làm theo lời Chúa Giêsu dạy bảo. Hai môn đệ dẫn lừa mẹ và lừa con về, trải áo lên mình chúng và đặt Chúa ngồi lên trên. Phần đông dân chúng trải áo xuống đường, kẻ khác thì chặt nhành cây trải lối đi. Dân chúng kẻ thì đi trước, người theo sau tung hô rằng: “Hoan hô con vua Ðavit! Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến. Hoan hô trên các tầng trời!”. Khi Ngài vào thành Giêrusalem, thì cả thành phố náo động và nói rằng: “Người đó là ai vậy?” Dân chúng trả lời rằng: “Người ấy là Tiên tri Giêsu, xuất thân từ Nadarét, xứ Galilêa”. Chỉ là bước khởi đầu thế mà hai mặt của câu chuyện đã được hiển lộ, cuộc đời con người phần nào cũng có hai mặt như thế, hôm nay tung hô, chúc tụng, đón rước thật long trọng, ngày mai vang tiếng kêu giận dữ, những nắm tay kết án giơ cao, dồn người khác vào bước đường cùng của cuộc đời.

Bước vào tuần thánh, một tuần lễ đặc biệt trong hành trình đức tin của người Kitô hữu. Mỗi người được nghe tường thuật lại câu chuyện vụ án Đức Giêsu, bắt đầu từ hôm nay, theo sau đó là những chặng đường thăng trầm của Con Thiên Chúa làm người. Thái độ giận dữ của con người trước những âm mưu của ma quỷ, vô tình đẩy họ đến chỗ trở thành kẻ phản bội, trở thành người vô ơn, còn Đấng Cứu Độ thì im lặng trong sự bí ẩn, có phải vì thất bại, có phải vì lộng ngôn, nên vạ miệng đã kết tội chính mình. Các nhà lãnh đạo tôn giáo đã mượn lề luật, truyền thống tôn giáo và cả yếu tố chính trị, để kết án Con Thiên Chúa, nhưng sâu thẳm bên trong là sự thù ghét, ganh tị. Chính sự hận thù đã treo Con Thiên Chúa lên cây thập tự, một bản án hết sức phi lý và phi nghĩa. Nếu không có sự phân định rõ ràng, có những lúc yếu tố tôn giáo, vô tình trở thành cớ vấp phạm và gây ra nhiều nỗi đau khổ giữa cuộc sống của mỗi người.

Bên cạnh có, nhân vật Philatô, một nhà lãnh đạo về xã hội. Ông ta có quyền bính trong tay, có thể tha và cũng có thể kết án bất cứ ai. Ông hiểu rõ về tâm ý của các nhà lãnh đạo tôn giáo, ông cũng am tường về con người Giêsu, theo nghĩa xã hội, ngoài ra, ông còn bị tác động từ người thân về những gì liên quan đến vụ án. Có thể nói, ông vua này có thể tha bổng cho tội nhân ngay tại tòa, nhưng không, ông đã rửa tay nói lên tính vô tội của mình, không liên lụy đến cái chết này, nhưng thực chất bên trong, chỉ vì sợ mất chiếc ngai vàng quyền lực, sợ mất uy tín trước hoàng đế, sợ mất ảnh hưởng giữa đám đông dân chúng, ông đã thoái thác trách nhiệm về vụ án cho đám đông. Một con người nhu nhược và luôn bị áp lực của tham vọng, quyền bính, vô tình đã dẫn đến cái chết oan nghiệt của tử tội Giêsu.

Một nhân vật khác cũng liên quan rất nhiều đến vụ án Giêsu, đó là Phêrô. Đây là một người học trò cưng của Đức Giêsu, xuất thân là một ngư phủ, ít học, nhưng tính tình cương trực, thẳng thắn, sau khi được gọi làm môn đệ, ông đã từ bỏ tất cả, theo Thầy học đạo. Hơn nữa, còn được chọn làm người đại diện của anh em, vậy mà ông ta lại là người bỏ Thầy chạy tìm sự an toàn khi vụ án xảy ra. Khi nghe Thầy nói về sự việc sẽ xảy ra như thế nào, anh học trò này đã lớn tiếng: Ai bỏ Thầy thì bỏ, phần con sẽ theo Thầy đến cùng, hơn nữa, khi Thầy bị bắt, anh ta rút gươm bảo vệ Thầy ngay. Thế nhưng, khi nghe tin Thầy bị kết án, cũng chính anh là người đầu tiên và duy nhất chối bỏ Thầy mình tới ba lần. Đau khổ nào cho bằng một học trò chối bỏ Thầy. Kể từ đây, người học trò cưng không còn ở bên cạnh Thầy trên chặng đường khổ nạn, tới đỉnh đồi Can-vê, người học trò này cũng biến mất trong đêm tối.

Hai nhân vật trong vụ án đặc biệt này, một đại diện về khía cạnh xã hội, một đại diện về khía cạnh tôn giáo, hai con người này tượng trưng cho hai yếu tố trong mỗi người chúng ta, yếu tố xã hội và yếu tố tôn giáo. Là một tín hữu Kitô sống giữa đời, nhiều lúc chúng ta thấy mình chẳng liên quan gì đến vụ án của Thầy mình, không la ó kết án, không giơ tay đồng tình trong việc đóng đinh Thầy, nhưng vì sự an toàn bản thân, vì tương lai của sự nghiệp, của sĩ diện bản thân và gia đình, không thiếu những lần, đã thỏa hiệp với những việc làm chống lại những giá trị của Tin mừng, chống lại những giá trị đó có phải là đang chống lại Thầy mình, đang kết án Thầy mình đó sao. Cũng không thiếu những lần, chính bản thân là một tín hữu Kitô, đã chối bỏ Thầy khi cố gắng tìm kiếm những thần linh ngoại bang, để giúp cho công ăn việc làm, cho sự nghiệp thành công, đó có phải là lúc người học trò chối bỏ Thầy trước mặt thiên hạ không? Là một người tín hữu Kitô, trong con người của tôi cũng có hình bóng của Philatô, nhu nhược và đầy tham vọng, cũng có hình bóng của Phêrô, nhát đảm và yếu đuối, dừng lại trong tuần thánh để suy niệm hai hình ảnh đó, để thay đổi cuộc đời, thay đổi suy nghĩ và thay đổi thái độ sống của bản thân, đó có phải là lúc tôi đang làm sống lại hình ảnh một Thiên Chúa yêu thương luôn hiện diện bên cạnh tôi, đang dẫn tôi đi trong ánh sáng vinh quang của Ngài đó sao.

Lạy Chúa, vì yêu thương con, Chúa đã chấp nhận tất cả, hy sinh tất cả, kể cả sự sống và giá trị của một con người, để làm sao có thể đưa chúng con trở về với gia đình của Thiên Chúa, xin uốn nắn lòng trí và trái tim con, để chúng con không phải lần mò mãi trong đêm tối đức tin, nhưng đi trong ánh sáng phục sinh. Chúa đã chấp nhận sự bất toàn nơi con người chúng con, xin tha thứ cho sự yếu đuối đó và giúp chúng con làm sống lại hình ảnh của Chúa trong cuộc đời mỗi người. Amen.

Cuộc thương khó liên quan gì đến tôi?
Chúa Nhật Lễ Lá - Năm A - Giuse hạt bụi tro

 

 

Chúng ta đã nghe bài thương khó rất nhiều lần. Tuy nhiên, có bao giờ chúng ta xúc động, dù chỉ là một giây lát nào đó, vì cảm nhận được rằng chính vì yêu tôi mà Chúa phải chịu thương khó như thế không? Có bao giờ chúng ta được đánh động, để quyết tâm biến đổi đời sống mình tốt hơn, để Chúa bớt đi một đòn roi đập vào thân thể, bớt đi một mũi gai đâm thấu vào đầu, bớt đi chút sắc nhọn của lưỡi đòng làm chảy máu con tim yêu thương của Chúa.

Chúng ta đã nghe cuộc thương khó bằng một thái độ như thế nào? Có thể chúng ta nghe cách bàng quan, vì câu chuyện tang thương này đã xảy ra hai ngàn năm rồi. Nó đã thuộc về quá khứ, chẳng còn liên quan gì tới hôm nay và không dính dáng gì tới cuộc đời tôi. Có thể chúng ta phẫn nộ và trách Giuđa đã bán Chúa, Phêrô chối Chúa, các thượng tế và kỳ mục bày mưu tính kế hãm hại Chúa, Philatô nhu nhược không dám tha Chúa, đám đông dân chúng ba phải lúc thì tung hô lúc thì đả đảo Chúa. Cũng có thể chúng ta đau xót khi nhìn thấy Chúa phải chịu bao nhiêu roi đòi, nhục mạ, khinh khi, khạc nhổ, thách thức… mà vẫn lặng thinh, không nói một lời.

Cuộc thương khó của Chúa Giêsu đã qua đi, nhưng nó có ảnh hưởng gì tới cuộc đời tôi ngày hôm nay hay không. Đó là mới là điều quan trọng. Chúng ta được mời gọi tiếp cận cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong các nhân vật, để khám phá ra chính mình, và biết mình phải làm gì để Chúa bớt chịu đau thương.

Giuđa đã bán Chúa để lấy ba mươi đồng bạc. Đó là cái giá để mua một người nô lệ thời bấy giờ. Giá của Chúa cũng không hơn gì một người nô lệ rốt hết trong xã hội. Giuđa là một môn đệ thân tín, được Chúa chọn lên bậc tông đồ, được làm thủ quỹ quản lý tiền bạc cho Chúa và nhóm Mười Hai. Thế mà ông lại chỉ điểm cho người ta bắt Chúa. Chúng ta không hiểu được hết động cơ của ông, nhưng việc bán Chúa là một việc đáng trách. Tệ hơn nữa, ông bán Chúa bằng một nụ hôn. Tại sao ông không chỉ thẳng mặt, nêu đích danh Chúa Giêsu mà lại hôn Chúa như thế? Người ta chỉ hôn nhau khi yêu nhau. Nụ hôn là dấu chỉ của tình yêu, nay lại trở thành dấu chỉ của sự phản bội.

Lắm khi chúng ta cũng bán đứng Chúa và những người thân yêu của mình như Giuđa vì một chút lợi lộc chóng qua. Có những người dùng lời nói hết sức ngọt ngào, nhưng với mục đích là dụ dỗ và lừa lọc người khác, làm họ phải lao đao lận đận rồi bỏ trốn. Có những người một tay ôm vợ con nhưng tay kia lại chìa ra để nắm lấy một bàn tay khác. Có người thì sẵn sàng bán rẻ nhân phẩm của mình để lấy một chút lợi lộc, bán tình anh em để lấy một vài mét đất vô tri vô giác, bán lòng hiếu thảo với cha mẹ để đổi lấy sự yên thân cho chính mình và gia đình. Như thế, rất có thể, chúng ta không bán Chúa, nhưng lại sống giống y như Giuđa vậy.

Chúng ta trách Phêrô chối Chúa, không chỉ một mà là những ba lần. Một vài giờ trước đó, ông đã thề rằng dù ai có bỏ Chúa thì con cũng không bao giờ bỏ Chúa, con sẵn sàng chết vì Chúa. Chúng ta thấy hình ảnh của mình trong thánh Phêrô không? Chúng ta tuyên xưng đức tin vào Chúa nhưng có khi nào chối bỏ Chúa không? Rất có thể chúng ta không chối Chúa công khai, nhưng chối trên giấy tờ, chối trong cách ăn nết ở của chúng ta. Tin Chúa mà không làm theo lời Chúa dạy. Có đạo mà không sống đạo, khiến cho đời sống đạo và đời sống thường nhật như hai đời sống tách biệt nhau, song song với nhau.

Đám đông dân chúng tung hô nghênh đón Chúa Giêsu vào thành thánh, vì cứ tưởng Chúa sẽ làm vua, và họ sẽ được hưởng lợi lộc trần gian. Nhưng rồi, họ thất vọng vì Chúa Giêsu không làm vua theo cách họ mong đợi. Thế là, họ lại cùng nhau hò la đóng đinh Chúa Giêsu vào thập giá. Chúa gì chẳng như chúng tôi mong đợi gì hết. Chúa gì không làm theo lời chúng tôi cầu xin. Cho nó chết! Đóng đinh nó vào thập giá. Có khi chúng ta cũng có mặt trong đám đông ba phải ấy, chỉ theo Chúa vì lợi lộc chứ không phải vì niềm tin, vì tình yêu.

Suy nghĩ một chút về một vài nhân vật trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu như thế, cũng đủ thấy con người chúng ta dễ thay lòng đổi dạ, đổi trắng thay đen như trở bàn tay. Bài Tin mừng hôm nay có thể phản chiếu cả cuộc đời của mỗi người chúng ta. Hôm nay tung hô, chúc tụng Chúa, ngày mai gào thét: đóng đinh, đóng đinh nó vào thập giá. Hôm nay yêu thương, ngày mai oán thù. Hôm nay vui tươi, ngày mai buồn sầu. Hôm nay hiền hòa, ngày mai hung dữ. Hôm nay tin tưởng, ngày mai nghi ngờ. Đó là những mặt tích cực và tiêu cực đang cùng tồn tại trong con người chúng ta. Chúng ta sẽ vác thánh giá với Chúa, sẽ sống với Chúa trong cuộc tử nạn và phục sinh với khuôn mặt nào đây?

Chúa Giêsu vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi đến muôn đời. Mỗi ngày Chúa Giêsu vẫn đang vác thập giá của chúng ta lên đồi Canvê vì yêu thương chúng ta. Bao lâu chúng ta không chịu thương chịu khó, thì bấy lâu, Chúa Giêsu vẫn còn phải chịu khó chịu thương vì phần rỗi của chúng ta. Bao lâu chúng ta còn sống trong vũng lầy tội lỗi, thì bấy lâu, Chúa Giê-su còn có lý do để tiếp tục vác Thánh Giá lên Calvê và chịu chết vì chúng ta. Lạy Chúa, xin cho con được cùng chết với Chúa, để được cùng Chúa phục sinh vinh hiển. Amen.

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây