CHÚA NHẬT -Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa
Lc 2, 16-21
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thánh Maria, Mẹ Thiên Chúa
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Hội Thánh chọn ngày đầu năm mừng kính Mẹ Thiên Chúa là để tôn vinh Mẹ là Nữ Vương thời gian, một thời gian mới của ân sủng. Qua Mẹ, Chúa đã đến khai mạc thời cứu rỗi theo lời đã hứa sau khi nguyên tổ phạm tội. Mẹ đã cùng dân tộc Do Thái ngày đêm cầu khẩn Đấng Cứu Thế mau đến…Và nhân loại bắt đầu một trang sử mới khi Mẹ thưa tiếng “Xin vâng”, Chúa nhập thể trong cung lòng Mẹ, Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa ngay từ giây phút ấy. Hôm nay ngày đầu năm Dương Lịch chúng ta cũng không quên dùng ít thời gian yên lặng để cảm tạ Chúa, về những hồng ân mà ta nhận được trong năm cũ. Cùng với Đức Maria, dâng lên Thiên Chúa một năm mới an bình, thịnh vượng, chúng ta đồng tâm thành khẩn xin Chúa thứ tha những lỗi lầm, những thiếu sót trong năm cũ.
Ca nhập lễ
Xin kính chào Thánh Mẫu, đã sinh hạ Quân Vương, Đấng điều khiển vũ trụ muôn thủa tới muôn đời.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng, ngày Ðức Trinh Nữ Maria sinh hạ Ðấng Cứu Thế, Chúa đã tặng ban cho nhân loại, kho tàng ơn cứu độ muôn đời. Xin cho chúng con được nhờ lời Ðức Mẹ nguyện giúp cầu thay, vì chính nhờ Ðức Mẹ chúng con mới được nhận lãnh nguồn sức sống vĩnh cửu là Ðức Giêsu Kitô, Con Chúa, Chúa chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Ds 6, 22-27
“Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel và Ta sẽ chúc lành cho chúng”.
Trích sách Dân Số.
Chúa phán cùng Môsê rằng: “Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: “Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con”. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 66, 2-3. 5. 6 và 8
Ðáp: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con
Xướng: Xin Thiên Chúa xót thương và ban phúc lành cho chúng con; xin chiếu giãi trên chúng con ánh sáng tôn nhan Chúa, để trên địa cầu người ta nhìn biết đường lối của Ngài, cho chư dân thiên hạ được biết rõ ơn Ngài cứu độ.
Xướng: Các dân tộc hãy vui mừng hoan hỉ, vì Ngài công bình cai trị chư dân, và Ngài cai quản các nước địa cầu.
Xướng: Chư dân, hãy ca tụng Ngài; thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài! Xin Thiên Chúa ban phúc lành cho chúng con, và cho khắp cùng bờ cõi trái đất kính sợ Ngài.
Bài Ðọc II: Gl 4, 4-7
“Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Galata.
Anh em thân mến, khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng: “Abba!”, nghĩa là “Lạy Cha!” Thế nên, bạn không còn phải là tôi tớ, nhưng là con; mà nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Dt 1, 1-2
Alleluia, alleluia! – Thuở xưa, nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã dùng các tiên tri mà phán dạy cha ông, nhưng đến thời sau hết, tức là trong những ngày này, Người đã phán dạy chúng ta nơi người Con. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 16-21
“Họ đã gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi… và tám ngày sau người ta gọi tên Người là Giêsu”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Ngày đầu năm dương lịch, chúng ta cùng nhau tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho nhân loại Đức Maria. Qua sự cầu bầu của Mẹ, chúng ta tin rằng Thiên Chúa sẽ tiếp tục ban muôn ơn lành cho nhân loại và thế giới trong năm mới này. Với niềm tin tưởng đó, giờ đây chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời cầu xin.
1. “Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng”.- Xin cho các vị Mục tử và Hội Thánh Việt Nam một năm mới bình an, cho thân bằng quyến thuộc của chúng ta được muôn ơn lành.
2. “Nếu là con, tất bạn cũng là người thừa kế, nhờ ơn Thiên Chúa”.- Xin cho những cá nhân hay gia đình kém may mắn, đau khổ… được Chúa luôn hiện diện nâng đỡ, ủi an.
3. “Các mục tử ra đi vội vã đến thành Belem”,- Xin cho mọi thành phần dân Chúa trong suốt năm nay, luôn biết chia sẻ hạnh phúc đã nhận được cho những người xung quanh và những ai họ gặp gỡ.
4. “Họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và họ đã xem thấy”,- Xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta luôn đồng tâm nhất trí và yêu thương nhau, biết chung lời ca ngợi Chúa vì muôn hồng ân Chúa ban.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, cùng với Đức Trinh Nữ Maria, chúng con bắt đầu một năm mới, xin Chúa cho Mẹ luôn hiện diện với chúng con trong suốt năm mới này, như chính Mẹ đã hiện diện với Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, mọi sự tốt đẹp ở trần gian đều bắt nguồn nơi Chúa, và phải nhờ tay Chúa mới phát triển được tới mức thập toàn. Ngày hôm nay, mừng lễ Ðức Maria Thiên Chúa Thánh Mẫu, chúng con được hoan hỷ vì ơn cứu độ của chúng con đã khai mào, xin cho chúng con cũng được hạnh phúc thấy ơn ấy hoàn thành mỹ mãn. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng Ðức Mẹ I
Ca hiệp lễ
Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa hoan hỷ dự tiệc Nước Trời và hãnh diện tuyên xưng Ðức Trinh Nữ Maria là Mẹ Thánh Tử Giêsu và là Mẹ Giáo Hội. Xin cho yến tiệc này giúp chúng con đủ sức đạt tới phúc trường sinh. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN (Ds 6,22-27; Gl 4,4-7; Lc 2,16-21)
Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.
Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta hân hoan mừng lễ Đức Maria – Mẹ Thiên Chúa.
Nếu các tước hiệu khác nơi Mẹ Maria, Giáo Hội muốn biểu dương công đức ưu việt nơi Mẹ, thì với danh xưng Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội muốn đề cao uy quyền của Mẹ Maria trong vai trò là thân mẫu Thiên Chúa. Bởi vì ngay khi đáp lại lời Thiên Chúa qua tiếng “xin vâng”, Mẹ đã đón nhận, cưu mang và sinh hạ Đấng Cứu Thế, Ngài là Hoàng Tử Hòa Bình, đã đến chuộc tội nhân loại, làm cho Trời – đất kết chữ tình; xe chữ đồng; là chiếc cầu nối liền giữa trời và đất; đem lại sự bình an và giao hòa giữa con người với Thiên Chúa.
Chính vì uy quyền độc nhất vô nhị nơi Mẹ Maria bắt nguồn từ Thiên Chúa, nên Giáo Hội cũng chọn ngày này để cầu nguyện cho hòa bình trên khắp thế giới khi mời gọi con cái mình hướng về Mẹ Maria là Nữ Vương Hòa Bình, để cầu nguyện cho nhân loại được an bình thư thái.
1. Đức Maria Mẹ Thiên Chúa
Danh xưng Mẹ Thiên Chúa được dành cho Đức Maria đã khởi đi từ việc Giáo chủ Constantinople là giám mục Nettôriô từ chối không công nhận thiên chức làm Mẹ Thiên Chúa của Đức Maria. Ông cho rằng: “Mẹ Maria chỉ là Mẹ của Đức Giêsu về mặt nhân tính, còn thiên tính thì không thể. Nơi Đức Giêsu nhân tính và thiên tính tách biệt, không hòa chung thành một”. Từ đó ông rút ra kết luận: “Mẹ Maria không thể là Mẹ Thiên Chúa”. Từ những lập luận trên mà Công Đồng Chung Êphêsô (431) đã đuợc triệu tập để làm sáng tỏ cũng như khẳng định và tuyên bố tín điều “Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa”. Công đồng tuyên tín: “Giây phút long trọng nhất trong đời Đức Mẹ là giây phút Ngôi Hai xuống thai trong lòng Mẹ. Từ giây phút ấy, Đức Mẹ trở nên Mẹ Thiên Chúa”.
Vậy, dựa vào đâu mà Công Đồng có những phán quyết chắc chắn như vậy:
Thưa, Công Đồng dựa vào Thánh Kinh:
Trước tiên, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa nơi Đức Maria đã được hé mở từ thời Cựu Ước khi tiên tri Isaia tiên báo: “Một trinh nữ sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ là Emmanuel” (Is 7,14). Lời tiên báo về việc hạ sinh Đấng Cứu Thế đã được sứ thần Gabriel chính thức và trực tiếp báo tin cho Mẹ Maria: “Bà sẽ thụ thai, sinh con trai và sẽ đặt tên con trẻ ấy là Giêsu…. Vì thế Con Trẻ sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (x. Lc 1,31-35).
Rõ nét hơn cả, chính là lời chào mừng của bà Êlisabét khi được Đức Maria ghé thăm. Lúc ấy, bà được đầy Thánh Thần, nên đã thốt lên: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?” (Lc 1, 43).
Và, khi thời đã điểm, những gì được tiên báo thì nay đã được tỏ hiện trong đêm đông giá lạnh nơi cánh đồng Belem khi Con Thiên Chúa Giáng Sinh làm người để ở cùng chúng ta (x. Lc 2, 1-20). Khi sinh ra Ngôi Lời Thiên Chúa, Đức Maria đã thực sự trở thành Mẹ Thiên Chúa trong vai trò là thân mẫu Đấng Emmanuel.
Với biến cố trọng đại này, Công Đồng Vatican II (1962-1965) tái khẳng định khi viết: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa…. Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô” (Lumen Gentium, số 61).
Chính vì những xác quyết trên mà Giáo Hội không ngớt kêu xin Mẹ Maria trong vai trò là Mẹ Thiên Chúa: “Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử”.
2. Hòa bình chỉ có khi mỗi người cùng ý thức xây dựng
Như vậy, khi sinh hạ Đức Giêsu là Đấng Cứu Thế, là Hoàng Tử Hòa Bình, Chúa của sự bình an, Mẹ Maria cũng trở thành Nữ Vương Hòa Bình cho nhân loại.
Khi chọn ngày mồng 01 tháng 01 hằng năm để cử hành lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa và cầu nguyện cho hòa bình thế giới, Giáo Hội muốn đặt để nhân loại dưới sự che chở đầy uy thế của Mẹ trước tòa Thiên Chúa.
Truyền thống này được bắt đầu từ ý định và mong muốn của Đức Giáo Hoàng Phaolô VI, nên chính ngài đã dời ngày lễ này vào 01-01 hằng năm để xin Đức Maria bầu cử cho thế giới được an bình, hạnh phúc.
Nhân dịp này, mỗi người chúng ta cũng hãy hướng nhìn về đất nước, dân tộc Việt Nam thân yêu, để thấy được sự cần thiết của hai chữ hòa bình!
Có lẽ ngày nay trên thế giới, nhiều nước rất ngưỡng mộ Việt Nam, vì nơi đất nước này, tiếng bom đạn đã chấm dứt hàng chục năm, dân chúng xem ra có vẻ được an bình thư thái!!!
Chúng ta không phủ nhận điều đó, nhưng nếu hiểu hòa bình theo nghĩa không có tiếng bom đạn thì chưa đủ, bởi vì theo quan điểm học thuyết của Kitô giáo, thì: hòa bình không phải chỉ là chấm dứt chiến tranh. Nó cũng không chỉ dừng lại ở chỗ có cơm ăn áo mặc, điện, đường, trường, trạm, được ổn định hay các trung tâm du lịch, vui chơi giải trí được mọc lên…! Không! Hòa bình đích thực nó còn phải tiến xa và sâu hơn nhiều.
Về mặt cá thể:
Trước hết, đó là: mỗi cá thể cần có một mối liên hệ mật thiết với Thiên Chúa là Chủ Tể và nguồn gốc của hòa bình.
Thứ đến, phải đạt được một trạng thái an bình thư thái ngay trong tâm con người. Sống hài hòa trong mối tương giao thân thiện với mọi người.
Cuối cùng, đó là mọi thành phần phải có trách nhiệm, liên đới với nhau trong tình huynh đệ.
Về mặt quốc gia:
Xét trên góc độ quốc gia: một đất nước được coi là hòa bình khi và chỉ khi con người được đảm bảo và quyền tự do tôn giáo được đề cao. Nhân phẩm được coi trọng và bảo vệ. Những lợi ích công cộng được ưu tiên.
Trong lãnh vực giáo dục: hệ thống và các nhà giáo dục cần đào tạo con người phát triển toàn diện cả về chất lượng tri thức lẫn đạo đức, biết kính trên nhường dưới, biết tôn sư trọng đạo, biết lưu giữ và bảo tồn những truyền thống, văn hóa tốt đẹp, biết phát huy những cái mới phù hợp với đạo lý dân tộc….
Về mặt gia đình và tôn giáo:
Trong lãnh vực tôn giáo: cần trú trọng đến “nhân chi sơ tính bổn thiện” nơi con người và phát huy tinh thần bác ái, yêu thương, liên đới dựa trên tình yêu giữa Thiên Chúa và con người.
Trong đời sống gia đình: mỗi thành viên cần ý thức vai trò và bổn phận của mình. Người làm cha cho đáng làm cha; người làm mẹ cho xứng thiên chức làm mẹ; người làm con cần sống hiểu thảo vâng lời….
Như vậy, muốn có hòa bình đúng nghĩa, chúng ta không thể ngồi ù lỳ và mong đợi, mà mọi thành phần phải sống tinh thần trách nhiệm. Trách nhiệm mà không sợ hãi. Trách nhiệm mà vẫn đảm bảo được sự tôn trọng và đối thoại chân thành. Nói cách khác, muốn có hòa bình thì phải chiến đấu. Chiến đấu cho lẽ phải để bảo vệ công bằng, xây dựng sự thật nhằm tiêu diệt cái xấu, nhất là những điều mà người ta vẫn thường ngụy trang khi nhân danh cái xấu để biện minh cho mục đích tốt.
Được như thế, chúng ta mới có một trạng thái tâm hồn an vui thanh thản với bản thân, hiền hòa và nhân ái với mọi người.
Mừng lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta hãy biết noi gương Mẹ, để suy đi nghĩ lại trong lòng những ân huệ của Thiên Chúa và những biến cố trong cuộc đời cũng như xã hội, từ đó, biết xắn tay áo lên và hành động vì một nền hòa bình đích thực.
Mong sao, sau khi dâng thánh lễ, mỗi người ra về với tâm tình đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới phương cách, đổi mới hành động. Đổi mới trong sự vâng phục Thiên Chúa. Đổi mới trong sự hài hòa thiên nhiên. Đổi mới trong sự hy sinh, quên mình. Có thế, lòng chúng ta mới thực sự vui mừng phấn khởi như các mục đồng xưa, để ra đi loan báo tin mừng, tin vui, tin bình an của Hoàng Tử Hòa Bình cho mọi người.
Lạy Mẹ Maria, trong ngày đầu năm mới này, chúng con xin dâng năm sống mới của từng người cho Mẹ, xin Mẹ che chở, cầu thay nguyện giúp, để cho chúng con được an bình thư thái.
Đặc biệt, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Mẹ, luôn suy gẫm Lời Chúa và đem ra thực hành trong đời sống, để Lời của Chúa là cội nguồn bình an được sinh hoa kết qủa dồi dào trong lòng mỗi người chúng con. Amen.
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ THÁNH MARIA MẸ THIÊN CHÚA (01/01)
Ds 6, 22-27; Gl 4, 4-7; Lc 2, 16-21
LM ĐAN VINH - HHTM
ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 2, 16-21
(16) Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ. (21) Khi Hài Nhi được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ Cắt Bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giê-su. Đó là tên mà sứ thần đã đặt, trước khi Hài Nhi thành thai trong lòng Mẹ.
2. Ý CHÍNH: CHÚA GIÊ-SU LÀ CON MẸ MA-RI-A
Đoạn Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc viếng thăm của các mục đồng nơi hang đá Be-lem sau khi được thiên thần hiện đến loan báo Tin mừng về Đấng Cứu Thế đã ra đời. Các mục đồng vui mừng lập tức lên đường đi tìm Đấng Cứu Thế. Cuối cùng họ đã tìm thấy hai ông bà Giu-se Ma-ri-a, và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ tại cánh đồng Bê-lem. Họ đã thuật lại sự thể mắt thấy tai nghe. Riêng Đức Ma-ri-a thì ghi nhớ các điều ấy và suy niệm trong lòng.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là Mẹ của anh”. Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình” (Ga 19, 27).
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỊCH SỬ LỄ ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ THIÊN CHÚA:
Mẹ Thiên Chúa là đặc ân quan trọng nhất trong các đặc ân mà Thiên Chúa đã ban cho Trinh Nữ Ma-ri-a và là tước hiệu được Hội Thánh sử dụng để ca tụng Đức Mẹ.
- Tuy nhiên, đến thế kỷ V, Nes-tô-ri-ô đã công khai chống lại tước hiệu Mẹ Thiên Chúa này. Theo Nes-tô-ri-ô, Đức Ma-ri-a chỉ được gọi là Mẹ Đức Giê-su Ki-tô, chứ không được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Bấy giờ một cuộc tranh luận thần học lớn lao về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể đã xảy ra trong Hội Thánh, nên vào năm 431 Công đồng E-phê-sô đã được triệu tập dưới sự chủ toạ của thánh Xy-ril-lô. Chính Công đồng này đã xác tín Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa như sau: “Nếu ai chối Đức Giê-su là Thiên Chúa, và bởi đó chối Đức Thánh nữ Đồng trinh Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa vì người đã sinh ra thân xác Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, thì bị vạ tuyệt thông.” Từ đây tước hiệu Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa đã được Hội Thánh dùng để tôn vinh Trinh Nữ Ma-ri-a.
- Vào năm 1931, Đức Giáo Hoàng Piô XI khi thiết lập lễ kính Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa đã tuyên bố như sau: “Tín điều Mẹ Thiên Chúa là một mạch nước mầu nhiệm vô tận, tuôn ra mọi đặc ân cho Đức Mẹ và nâng Người lên một địa vị cao sang tuyệt vời bên Thiên Chúa”.
- Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã đặt lễ Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa vào ngày 01.01 là ngày cầu nguyện cho hòa bình thế giới. Trong tông huấn Ma-ri-a-lis Cul-tus ngài đã viết: “Vì có sự trùng hợp giữa ngày 01 tháng Giêng với ngày thứ tám sau lễ Giáng Sinh nên ngày đó được đặt làm ngày cầu nguyện cho hoà bình thế giới, hầu thành quả của hoà bình có điều kiện phát sinh trong lòng nhiều người”.
- Công đồng Va-ti-ca-nô II (1962-1965) trong Hiến chế Tín lý về Hội Thánh cũng đã khẳng định: “Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của Ngôi Lời Thiên Chúa... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp nhất với Giáo Hội. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo Hội trên bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Ki-tô”.
2) BÀ MẸ CỦA TỔNG THỐNG HOA KỲ:
Ngày 20 tháng giêng 1961 JOHN KENNEDY làm Tổng Thống thứ 35 của Hoa Kỳ. Một người Công Giáo đầu tiên giữ chức vụ chóp bu. Trong ngày nhậm chức, có mặt tất cả dòng họ Ken-nơ-dy, cùng bà mẹ đứng một chỗ danh dự. Vào lúc John Kennedy đọc lời thề để nhậm chức Tổng Thống thì ROSE KENNEDY cũng trở thành Mẹ của Tổng Thống. Khi bà sinh John vào năm 1917, Bà đã cho đất nước Hoa kỳ một con người mà sau này làm Tổng Thống. Bà không sinh ra Tổng Thống, nhưng thật sự bà là mẹ của một Tổng Thống.
Một cách tương tự, hôm nay cùng với Hội Thánh, chúng ta xưng tụng Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ đã sinh ra Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng vừa là Thiên Chúa vừa là Người phàm. Đức Ma-ri-a không sinh ra Thiên Chúa và Ngài cũng không phải là Bà Chúa. Mẹ là một con người, được vinh dự dâng hiến bản tính nhân loại để phụng sự cho Ngôi Con trong Ba Ngôi Thiên Chúa. Qua Mẹ, Đức Giê-su vừa là người thật và cũng là Thiên Chúa thật.
3) MẸ MA-RI-A HẰNG CẦU BẦU CHO NHỮNG KẺ NGUY KHỐN:
Trưa ngày 12/10/1972, một chiếc phi cơ chở 45 giáo viên và học sinh đi từ Mông-tê-viu đến Săng-chi-a-gô nước Chi-Lê thi đấu thể thao. Khi băng qua dãy núi Ăng-đét thì máy bay bị trục trặc mất thăng bằng và lao xuống đất rất nhanh. Sau một phút, nó đã đâm xuống lớp tuyết rất dày và bị vỡ ra nhiều mảnh. 28 học sinh may mắn còn sống sót. Một vài cậu chỉ mặc một chiếc áo khoác thể thao trên người. Một số khác thì mặc áo tay dài. Không ai mang theo quần áo lạnh thích hợp với vùng thời tiết lạnh giá 20 độ dưới số không.
Khi màn đêm buông xuống, 28 học sinh sống sót kia ngồi tụm lại bên nhau trong một khoang máy bay còn sót lại. Cũng may, trên phi cơ vẫn còn một ít thức phẩm gồm có các loại thịt nguội, bánh mì và rượu vang… khiến họ hy vọng nhờ đó sẽ có thể sống thêm được một thời gian. Ngoài ra họ cũng có một chiếc ra-đi-ô cát-xét vẫn còn dùng tạm được. Cũng nhờ chiếc ra-đi-ô này mà họ đã hiểu biết công cuộc cứu hộ đang được triển khai sau khi phi cơ của họ lâm nạn, tại các quốc gia trong vùng máy bay bị rơi như Chi-lê, Ác-hen-ti-na và U-rơ-guây. Sau tám ngày, họ nghe được các đoàn cứu hộ báo cáo do thời tiết xấu nên không thể tìm ra chiếc máy bay lâm nạn và không hy vọng còn hành khách nào sống sót. Thế là các nạn nhân này hiểu rằng: họ có sống và trở về nhà hay không là hoàn toàn tùy theo sự may mắn và quyết tâm sống còn của bản thân họ mà thôi.
Ít ngày sau, thêm 12 người nữa theo nhau qua đời vì bệnh viêm màng phổi do không chịu được tiết trời băng giá khủng khiếp. Đoàn người lâm nạn chỉ còn 16 người. Bây giờ họ chỉ biết trông chờ vào phép lạ. Cả 16 học sinh quyết định họp nhau lại cầu nguyện mỗi buổi tối. Cứ vào khoảng 9 giờ tới, khi trăng bắt đầu mọc trên triền núi, thì mọi người ngừng trò chuyện riêng và người điều khiển giờ kinh lấy ra một cỗ tràng hạt, rồi cả bọn ngồi quây quần thành hình vòng tròn cùng đọc kinh Mân Côi. Giờ kinh được tiếp tục bằng lời cầu nguyện tự phát, các bài thánh ca và kết thúc bằng kinh Hãy Nhớ, để xin Mẹ Chúa Trời đoái thương cứu giúp. Những buổi cầu nguyện như thế đã trở thành động lực giúp các học sinh hy vọng được cứu thoát.
Ngày qua ngày, thấm thoát đã sang tuần lễ thứ tám. Thời tiết bắt đầu bớt băng giá. Hai cậu khỏe nhất trong bọn và có kinh nghiệm leo núi quyết định sẽ leo xuống núi cầu cứu. Cuộc hành trình của họ vô cùng khó khăn nguy hiểm. Cũng may một cậu đã tìm thấy một cuộn dây thừng bằng ny-lông và trao cho hai bạn dùng tạm làm dây an toàn khi leo xuống. Hai cậu cũng đem theo một ít lương thực cùng với búa và đinh. Họ bắt đầu tuột xuống vách đá trơn trượt. Chỉ cần bất cẩn một chút thôi là cả hai sẽ bị rơi xuống vực sâu. Mọi người đều hợp ý cầu xin Mẹ Ma-ri-a giúp hai bạn leo xuống đến nơi an toàn. Chín ngày sau, hai cậu đã xuống được đến một trạm kiểm soát ở con đường dưới núi, và chỉ sau vài tiếng đồng hồ, đã có hai chiếc trực thăng cứu hộ xuất hiện bay lên đỉnh núi cao chót vót để cứu tất cả mười bốn học sinh còn lại. Chính nhờ sự thành tín kêu cầu Đức Ma-ri-a, mà các học sinh này đã có thể sống sót tới 70 ngày trên đỉnh núi cao giá lạnh, đang khi không ai trong các thân nhân của họ dám hy vọng người thân của mình còn sống và sẽ có ngày trở về nhà. Suốt 70 ngày gian khổ trên núi, 16 cậu học sinh này đã cảm nghiệm được điều này là: Đức Ma-ri-a không những là Mẹ Thiên Chúa, mà còn là Mẹ của mọi người tín hữu biết thành khẩn kêu xin ngài bầu cử nữa.
3. SUY NIỆM:
1) NGÀY CẦU NGUYỆN CHO HOÀ BÌNH THẾ GIỚI:
Ngày đầu năm mới, Hội Thánh mừng kính Đức Ma-ri-a là Mẹ Thiên Chúa, với mong muốn đặt thế giới vào tay Đức Mẹ để được sinh lại và được đổi mới. Chỉ khi được sinh lại trong Chúa và trong Mẹ, thì thế giới mới thực sự có hoà bình.
Ngày đầu năm mới, Hội Thánh cầu nguyện cho hoà bình thế giới, mong cho các nước đang có chiến tranh biết ngồi lại đàm phán với nhau, cho mỗi người đang thù ghét nhau biết tha thứ và quên mình phục vụ cho nhau để đạt tới một nền hoà bình vĩnh cửu. Vì hoà bình không chỉ là không có chiến tranh nhưng là mọi người biết sẵn sàng sống chung với nhau trong tình tương thân tương ái.
Ngày đầu năm mới, Hội Thánh cũng mời gọi mọi người hãy kết hiệp với Đức Mẹ trong việc cưu mang và sinh hạ một thế giới mới. Cưu mang chắc chắn không tránh khỏi sự vất vả nặng nhọc. Sinh hạ chắc chắn phải chịu sự đớn đau. Nhưng nếu mỗi người biết noi gương Mẹ Ma-ri-a để vâng phục thánh ý Chúa, nhất là biết khiêm nhường phục vụ Chúa đang hiện thân nơi những người nghèo khổ bệnh tật và bị bỏ rơi… thì nhờ đó sẽ có sức mạnh biến đổi gia đình và xã hội mình đang sống trở thành Trời Mới Đất Mới, thành thế giới mới theo thánh ý của Thiên Chúa.
2) ĐỨC MA-RI-A LÀ MẸ CỦA MỘT NHÂN LOẠI MỚI:
Thánh Phao-lô viết: “Khi thời gian tới hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật, hầu chúng ta nhận được ơn làm nghĩa tử” (Gl 4, 4-5). Như vậy, khi sinh hạ Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a cũng hạ sinh một nhân loại mới. Vì Người là Mẹ của Chúa Giê-su là đầu nhiệm thể, nên cũng là Mẹ của các phần chi thể là các tín hữu chúng ta. Hơn nữa, khi đứng dưới chân thập giá, Mẹ Ma-ri-a lại được Chúa Giê-su trao cho sứ mệnh làm Mẹ của môn đệ Gio-an, và sau đó Gio-an đã rước Mẹ về nhà mình mà phụng dưỡng (x. Ga 19,26-27). Gio-an chính là đại diện cho Hội Thánh được Chúa Giê-su trăn trối làm con Đức Mẹ. Cuối cùng, Mẹ Ma-ri-a còn là trạng sư để cầu bầu đắc lực cho các tín hữu chúng ta trước tòa Chúa phán xét sau này.
3) VAI TRÒ CHUYỂN CẦU CỦA MẸ MA-RI-A:
Trong tiệc cưới tại Ca-na, Mẹ Ma-ri-a đã phát hiện bữa tiệc mới nửa chừng mà lại sắp hết rượu. Không đợi cho đôi tân hôn phải van nài, Mẹ đã vội báo cáo cho Đức Giê-su và bảo các gia nhân hãy vâng lời Người dạy. Nhờ lời bầu cử đắc lực của Mẹ, mà dù chưa tới giờ hành động, Đức Giê-su đã nghe lời Mẹ xin để biến nước lã thành rượu ngon, giúp gia đình đôi tân hôn có niềm vui trọn vẹn (x. Ga 2, 1-11). Ngày nay Mẹ Ma-ri-a cũng tiếp tục chuyển cầu cho các đôi vợ chồng trẻ có lòng tin cậy nơi Mẹ, để giúp họ vượt qua những thử thách trong cuộc sống lứa đôi, và làm cho tình yêu của họ dù có lúc bị lạt như nước lã, cũng sẽ biến thành rượu nồng ngày mới yêu nhau. Miễn là họ phải sẵn sàng mời Chúa Giê-su và Mẹ Ma-ri-a đến trong gia đình giống như đôi tân hôn trong tiệc cưới Ca-na xưa.
4) KẾT HIỆP VỚI MẸ MA-RI-A GIỮA ĐỜI THƯỜNG:
Mẹ Ma-ri-a trở thành mẫu gương sống đức tin cậy mến cho các tín hữu chúng ta noi gương về cách ứng xử trước các biến cố gặp phải trong cuộc sống thường ngày.
- Nhờ năng đọc Lời Chúa, các tín hữu sẽ học nơi Mẹ Ma-ri-a: “Luôn ghi nhớ các sự việc ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2, 19).
- Trước các biến cố vui buồn may rủi gặp phải, chúng ta hãy noi gương Mẹ tìm hiểu ý Chúa muốn và mau mắn Xin vâng: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa. xin Chúa cứ làm cho tôi như lời Sứ thần nói” (Lc 1, 38).
- Hãy năng kết hiệp với Mẹ để dâng lời kinh Magnificat: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa” (Lc 1, 46).
- Hãy biết chia sẻ niềm vui ơn cứu độ cho những người thân và phục vụ những ai đang cần được trợ giúp như Mẹ xưa đã giúp bà chị đang mang thai bằng việc: “Ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà” (x Lc 1, 56).
- Hãy cùng Mẹ: Can đảm chia sẻ sự đau khổ với Chúa Giê-su trên cây thập giá như Tin Mừng ghi lại: “Đứng gần thập giá Đức Giêsu, có thân mẫu Người, chị của thân mẫu, bà Maria vợ ông Clopát, cùng với bà Maria Magđala” (Ga 19, 25).
- Mừng lễ Đức Ma-ri-a Mẹ Thiên Chúa hôm nay, chúng ta còn được mời gọi cùng nhau xây dựng hòa bình, bởi vì Đức Ma-ri-a là Mẹ của Đức Giê-su, là Hoàng Tử Hòa Bình, là Chúa của bình an như lời hát của các thiên thần trong đêm giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2, 14).
Vì thế, chúng ta là con cái của Mẹ trong nhiệm thể Đức Giê-su Ki-tô, chúng ta hãy cùng nhau đẩy lùi chiến tranh, xây dựng tình huynh đệ, sống liên đới và trách nhiệm với con người cũng như xã hội hôm nay; Cùng nắm tay nhau để xây dựng một nền văn minh tình thương và ủng hộ sự sống.
- Ngoài ra, mỗi khi đọc kinh kính mừng, chúng ta đều thưa lên cùng Mẹ: Thánh Ma-ri-a Đức Mẹ Chúa Trời. Cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử. Khi chúng ta thưa cùng Mẹ điều đó, là chúng ta ý thức thân phận yếu đuối, mỏng dòn của mình thường hay sa ngã phạm tội, đồng thời cũng nói lên sự phó thác cậy trông nơi Mẹ, là Mẹ của Con Thiên Chúa làm người và cũng là Mẹ của mỗi chúng ta.
4. THẢO LUẬN: Ngày nay khi gặp phải gian nan thử thách, ta nên làm gì để được Mẹ Chúa Trời trợ giúp giống như ngài đã trợ giúp đôi tân hôn trong tiệc cưới Ca-na xưa?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY MẸ MA-RI-A LÀ TỪ MẪU CỦA CON. Mẹ chính là sự sống, sự ngọt ngào và là nguồn hy vọng của chúng con. Lòai người chúng con là con cháu A-Đam E-và bị lưu đày dưới thế gian là thung lũng đầy nước mắt và đang kêu lên cùng Mẹ. Con hướng về Mẹ là Mẹ hằng cứu giúp mà than van kêu cầu. Xin Mẹ đoái thương an ủi nâng đỡ con. Để sau cuộc đời lưu đày này và đến giờ chết, con sẽ được Mẹ dẫn đưa đến cùng Chúa Giê-su Con yêu của Mẹ, để con được Chúa xét xử bao dung. Ôi Ma-ri-a, Mẹ là Trạng Sư của con! Ôi Trinh Nữ Ma-ri-a dịu hiền, xin luôn ở bên con và đừng bỏ con trong giờ sau hết. A-MEN.
Chúa Nhật -Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca (Lc 2, 16-21).
Khi ấy, các mục tử ra đi vội vã đến thành Bêlem, và gặp thấy Maria, Giuse và hài nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ hiểu ngay lời đã báo về hài nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ.
Suy niệm
Thế là một năm dương lịch đã khép lại, nhường chỗ cho năm mới hiện diện trong lịch sử nhân loại. Dẫu 365 ngày trôi qua nhẹ nhàng, nhưng cũng không thiếu những thăng trầm, những biến động trên thế giới cũng như trong mỗi gia đình. Khởi đầu năm mới, Mẹ Giáo hội mời con cái cùng chung chia niềm vui đầu xuân với thánh lễ cầu bình an cho thế giới, cho Giáo hội, cho mỗi gia đình, đồng thời cùng nhau nhắc nhở về đặc ân trọng đại của Đức Maria, người Mẹ yêu dấu của Giáo hội, của con cái. Với tước hiệu Mẹ Thiên Chúa, chúng ta cùng Mẹ tri ân Thiên Chúa Cha, đã cho con người được cộng tác với Ngài, cứu độ thế giới, cứu độ mỗi người chúng con.
Trở lại với bài đọc 1 từ sách Dân số, câu chuyện kể lại lời nhắc của Thiên Chúa, khi ông cùng với con cái Is-ra-el được Thiên Chúa đưa ra khỏi cảnh tù tội, đày đọa tại Ai cập, hơn nữa, họ còn được Ngài chọn làm dân riêng của Ngài với một bản giao ước đầy ý nghĩa và thánh thiêng, được ký kết tại núi Si-nai, với những ân huệ lớn lao đó, mỗi người hãy tạ ơn Thiên Chúa, hãy bày tỏ lòng biết ơn với một thái độ sống tử tế, khiêm tốn và biết phó thác vào đôi tay nhân từ của Ngài: “Chúa phán cùng Môsê rằng: “Hãy nói với Aaron và con cái nó rằng: Các ngươi hãy chúc lành cho con cái Israel; hãy nói với chúng thế này: “Xin Chúa chúc lành cho con, và gìn giữ con. Xin Chúa tỏ nhan thánh Chúa cho con, và thương xót con. Xin Chúa ghé mặt lại cùng con, và ban bằng yên cho con”. Họ sẽ kêu cầu danh Ta trên con cái Israel, và Ta sẽ chúc lành cho chúng”. Biết tin tưởng, phó thác vào Thiên Chúa, cuộc đời con người sẽ sống có ý nghĩa hơn, sẽ là một bài ca tạ ơn Thiên Chúa từ những việc làm, từ những mối tương quan giữa người với người trong cuộc sống, đặc biệt, là với một dân tộc được gọi là dân riêng của Thiên Chúa.
Trước ân huệ lớn lao được làm con Thiên Chúa không theo cách tự nhiên, nhưng hoàn toàn do ý định của Thiên Chúa, đó là những người con của lời hứa, những người con của đức tin, những người con của ân huệ trời cao, vì thế, thánh Phaolô đã nhắc cho con cái thành Colose hãy biết tạ ơn Thiên Chúa, hãy dùng chính đời sống của mình như là một bài ca tạ ơn Ngài mọi nơi và mọi lúc: “Anh em thân mến, khi đã tới lúc thời gian viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con Ngài sinh hạ bởi người phụ nữ, sinh dưới chế độ Luật, để cứu chuộc những người ở dưới chế độ Luật, hầu cho chúng ta được nhận làm dưỡng tử. Sở dĩ vì anh em được làm con, Thiên Chúa đã sai Thần Trí của Con Ngài vào tâm hồn chúng ta, kêu lên rằng: “Abba!”, nghĩa là “Lạy Cha!”. Không chỉ được làm con Thiên Chúa nhờ lời hứa và nhờ niềm tin, nhân loại còn được Thiên Chúa Cha cứu độ bằng giá máu của chính Con Ngài là Đức Giêsu, ơn cứu độ đó không đến từ lòng thương hại, nhưng đến từ tình yêu thương của một người Cha nhân lành. Trước ân huệ đó, mỗi người tín hữu, khi bắt đầu một ngày mới, hãy kêu lên rằng: Lạy Cha chúng con ở trên trời.
Kết thúc tuần bát nhật Giáng sinh, chúng ta mừng kính lễ Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, quả là một tước hiệu có thể làm cho người nghe có chút hoài nghi về đặc ân này, bởi trong lời tuyên tín của đức tin, tôi tin có một Thiên Chúa là Cha toàn năng, thế thì còn ai cao cả cho bằng Thiên Chúa, vậy mà Ngài vẫn có một người mẹ và người mẹ đó tất nhiên sẽ cao cả hơn người con. Câu chuyện không phải là như thế, tước hiệu Mẹ Thiên Chúa được gắn với mầu nhiệm nhập thể của Người Con của Mẹ là Đức Giêsu. Khi nhập thể, Đức Giêsu có hai bản tính: bản tính Thiên Chúa và bản tính loài người, nhưng Ngài vẫn chỉ có một ngôi vị duy nhất, đó là ngôi vị Thiên Chúa. Vì thế, Đức Maria là Mẹ của Đức Giêsu làm người, nhưng trong chiều kích ngôi vị Thiên Chúa, Mẹ vẫn được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Bản thân Mẹ chưa thể hiểu hết ngay lúc đó về mầu nhiệm nhập thể của người con, nhưng Mẹ đón nhận, suy nghĩ cùng chiêm ngắm mấu nhiệm cao cả nơi chính người con của mình, đó là một Thiên Chúa làm người: “Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những việc đó và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và đã xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Khi đã đủ tám ngày, lúc phải cắt bì cho con trẻ, thì người ta gọi tên Người là Giêsu, tên mà thiên thần đã gọi trước khi con trẻ được đầu thai trong lòng mẹ”. Trong vai trò làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria chưa thể lãnh hội tất cả những gì sứ thần trao đổi, Mẹ chỉ biết đó là chương trình của Thiên Chúa Cha, đó là chương trình cứu độ con người và Mẹ được góp một phần nhỏ trong một chương trình lớn lao, ý nghĩa và có tính phổ quát như thế, là một diễm phúc cho Mẹ nói riêng và cho con người nói chung.
Khi đặt thánh lễ mừng kính Mẹ Thiên Chúa, một tước hiệu và cũng là một đặc ân của Mẹ, vào cuối tuần bát nhật Giáng sinh, Mẹ Giáo hội mời chúng ta trở lại với biến cố truyền tin cũng như biến cố giáng sinh của gia đình thánh. Đức Maria mang thai và sinh con là do niềm tin, chứ không do khí huyết hay do người nam. Người con của niềm tin đó là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa, nhưng Ngài đã nhập thể trong thân phận một con người như bao người khác, có Cha, có Mẹ, có gia đình, và đó là bản tính con người và bản tính Thiên Chúa cùng trong một con người có tên gọi là Giêsu. Nơi người con của Đức Maria dù thế nào đó vẫn là Thiên Chúa trong ngôi vị, Ngài là Thiên Chúa thật. Ngôi vị đó không bị mai một nhưng mỗi ngày một trở nên uy quyền hơn, bộc bạch rõ bản tính hơn đó là luôn yêu thương, luôn tha thứ. Từ đây, Đức Maria được hiệp thông với người Con trong mầu nhiệm cứu chuộc, đem lại ơn cứu độ cho nhân loại.
Đón nhận lời truyền tin, Mẹ suy niệm trong lòng, sinh con ra trong sự khó nghèo nhưng có rất nhiều tiếng hát tung hô từ các Thiên Thần, Mẹ suy niệm trong lòng, thấy có sự xuất hiện của các đạo sĩ từ phương xa đến thờ lạy, Mẹ suy niệm trong lòng. Biết con mình là Thiên Chúa làm người, sao không chống lại sự bạo lực của Herode, nhưng chấp nhận để cho con người đem đi trốn tránh, Mẹ suy niệm trong lòng, trở lại quê hương, được về đền thờ dự lễ lớn của dân tộc, rồi bỏ gia đình ở lại đền thờ, để cha mẹ tìm kiếm khắp nơi, rồi tìm thấy trong đền thờ, đang tranh luận với các nhà lãnh đạo tôn giáo, cha mẹ không hiểu, Mẹ lại suy niệm trong lòng. Mọi biến cố trong đời Mẹ, trong gia đình, Mẹ đều suy niệm để cố gắng thấu hiểu, nhưng cuối cùng Mẹ chỉ biết nói: Chúa hạ bệ những ai kiêu căng, Ngài nâng cao những người phận nhỏ. Tâm tình sống của Mẹ là cuộc đời mình là một khí cụ của Thiên Chúa, hãy để cho Ngài sử dụng trong chương trình của Ngài.
Đức Maria là Mẹ Con Thiên Chúa làm người trong mầu nhiệm Giáng sinh. Nơi đó, Mẹ cộng tác với Thiên Chúa Cha, để mầu nhiệm cứu độ trở nên hiện thực. Chính nhờ lời thưa xin vâng của Mẹ, chúng ta hôm nay được gọi là dân mới của Thiên Chúa, được gọi là những người con của lời hứa. Một lời cám ơn Mẹ hôm nay chắc chưa muộn màng, nhưng là một tâm tình tri ân của con cái dâng lên Mẹ. Ước mong sao mỗi người con, bước vào năm mới này, luôn biết cùng Mẹ, nối dài cánh tay yêu thương của Thiên Chúa, để tình trời được tuôn chảy tới mọi người mọi nhà. Hãy là người con hiếu thảo với Thiên Chúa và là người con hiếu trung với Mẹ trong mọi hoàn cảnh cũng như bổn phận của mỗi người.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa hiện diện giữa gia đình nhân loại trong phận người mong manh nơi một Hài nhi, dẫu vậy đó vẫn là Thiên Chúa thật, xin cho chúng con luôn xác tín niềm tin của mình vào một Thiên Chúa đầy quyền năng, đã cúi xuống và hiện diện bên cạnh con người mỗi ngày, để chia sẻ mọi nỗi niềm của chúng con. Chúa đã chọn một người Mẹ để nuôi nấng, chăm sóc, dạy dỗ khi Chúa là một con người, Chúa còn trao người Mẹ của Ngài lại cho chúng con, để người Mẹ đó tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng và dạy dỗ chúng con nên thánh mỗi ngày, xin nhắc chúng con biết sống tình mẫu tử ngày một ấm áp và đầy nghĩa tình hơn với người Mẹ tuyệt vời đó. Amen.
Tôi có phải là “Mẹ” Thiên Chúa không?
Lễ Mẹ Thiên Chúa 2022
Giuse hạt bụi tro
Hôm nay chúng ta tôn vinh Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Đây là một trong bốn đặc ân cao quý mà Thiên Chúa đã ban cho Mẹ, là tước hiệu cổ xưa nhất mà Giáo Hội đã định tín tại Công đồng Êphêxô năm 431. Cứ mỗi lần đọc kinh Kính mừng là chúng ta tuyên xưng và tôn vinh tước hiệu này của Mẹ: Thánh Maria, Đức Mẹ Chúa trời...
Ai trong chúng ta cũng tin nhận Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa. Thế nhưng, chúng ta có hiểu được nội dung của tín điều này không? Rất nhiều điều chúng ta tin trong Đạo, nhưng nếu hỏi lý lẽ thì có khi lại không biết, không giải thích được. Nếu có ai đó hỏi chúng ta: Thiên Chúa là Đấng toàn năng, Đấng tạo thành vũ trụ này. Người là Đấng tự hữu, nghĩa là tự mình mà có, tự mình mà tồn tại. Vậy thì, tại sao Người lại có một người Mẹ là một con người giới hạn, có tên là Maria? Tại sao Giáo Hội lại mừng lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày hôm nay mà không mừng vào ngày khác?
Hôm nay là ngày đầu năm mới Dương lịch, nên chúng ta dễ quên rằng hôm nay cũng là ngày kết thúc và cao điểm của tuần bát nhật Giáng sinh. Cách đây đúng một tuần, chúng ta đã long trọng mừng Con Thiên Chúa ra đời. Hôm nay chúng ta lại mừng người Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa. Hai mầu nhiệm này được liên kết với nhau trong cùng một tuần bát nhật, như muốn nhắc nhở: chúng ta chỉ có thể hiểu được tước hiệu Mẹ Thiên Chúa khi gắn kết tước hiệu đó với mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người.
Khi tuyên xưng, Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa, Giáo Hội không có ý nói Mẹ là Mẹ của Chúa Cha hay Chúa Thánh Thần nhưng là Mẹ của Chúa Giêsu Kitô, Ngôi Lời nhập thể. Mẹ đã sinh ra Chúa Giêsu; mà Chúa Giêsu vừa là con người thật, vừa là Thiên Chúa thật. Vì thế, Mẹ không chỉ là Mẹ của Chúa Giêsu nhưng còn là Mẹ Thiên Chúa.
Được làm Mẹ Thiên Chúa không có nghĩa là Đức Maria được hiện hữu trước Thiên Chúa hay có quyền gì trên Thiên Chúa, nhưng Mẹ đã được phúc sinh ra và nuôi dưỡng Chúa Giêsu. Ý nghĩa của việc tôn vinh Đức Maria đưa dẫn chúng ta đến với Thiên Chúa, và qua Mẹ, đến với Chúa Giêsu Kitô, Con Mẹ.
Đức Maria đã được làm Mẹ Thiên Chúa như thế nào? Để có thể làm Mẹ Thiên Chúa, Đức Maria đã trải qua ba giai đoạn căn bản: Thụ thai Chúa Giêsu, nuôi dưỡng Chúa Giêsu trong cung lòng và tâm trí Mẹ, và sinh ra Chúa Giêsu.
1. Giai đoạn thứ nhất, thụ thai Chúa Giêsu, đã được chúng ta mừng kính vào ngày Lễ Truyền Tin - ngày 25/3, tức là trước ngày 25/12 tròn 9 tháng. Hôm ấy chúng ta được nghe đoạn Tin mừng Lc 1, 26-38 nói về việc Đức Maria khiêm tốn nói lời xin vâng trước ý định của Thiên Chúa dành cho Mẹ. Từ hôm ấy, Mẹ cưu mang Con Thiên Chúa trong cung lòng trinh khiết của Mẹ.
2. Giai đoạn thứ hai là nuôi dưỡng Chúa Giêsu trong cung lòng và tâm trí Mẹ. Cũng như bao người Mẹ khác, Đức Maria đã vất vả, đau đớn khi thai nghén đứa con đầu lòng. Các bà, các mẹ hiểu rõ hơn ai hết những thay đổi trong cơ thể, tinh thần, tâm lý và cảm xúc mà Đức Maria đã trải qua trong thời kỳ mang thai. Tuy nhiên, tất cả những vất vả đau đớn đó sánh sao được với nỗi vui mừng và niềm hạnh phúc khi nghĩ về đứa con đang lớn lên từng ngày trong cung lòng của Mẹ.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô diễn tả rất hay về hình ảnh Đức Mẹ mang thai Chúa Giêsu như thế này: Mẹ lắng nghe trái tim của thai nhi Giêsu đập trong lòng Mẹ, và từ đó, Mẹ lắng nghe trái tim của Thiên Chúa đập trong lịch sử nhân loại và trong cuộc sống của từng người trong chúng ta (Kinh Truyền Tin ngày 01/01/2017).
Mẹ Maria không chỉ được phúc cưu mang con người Giêsu trong cung lòng của Mẹ, nhưng Mẹ còn làm một điều, mà Kinh thánh đã ghi lại, khiến cho muôn ngàn đời ngợi khen Mẹ có phúc: “Đức Maria hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2, 19). Mẹ hằng suy đi nghĩ lại trong tâm trí về những việc mà Thiên Chúa muốn làm trong cuộc đời Mẹ, những lời nói và hành động của Chúa Giêsu, Con Mẹ. Như thế, Mẹ không chỉ cưu mang Chúa Giêsu trong dạ Mẹ, mà còn trong tâm trí Mẹ. Trọn vẹn tinh thần và thể xác, Mẹ cưu mang Chúa Giêsu. Đó là phúc của Mẹ, là lý do giải thích tại sao sứ thần lại chào Mẹ bằng câu: Kính mừng Maria, đầy ơn phúc.
3. Giai đoạn thứ ba là sinh ra và trao ban Chúa Giêsu. Đó là biến cố mà chúng ta đã long trọng mừng kính cách đây đúng một tuần, vào ngày lễ giáng sinh. Mẹ đã sinh ra Con Thiên Chúa và trao ban cho nhân loại. Đó là món quà quý giá nhất mà Mẹ có thể trao ban cho chúng ta. Và rồi, khi Chúa Giêsu chịu chết trên thập giá, Ngài đã trao lại cho chúng ta người Mẹ yêu dấu của Ngài. Từ đó, Mẹ trở thành Mẹ của Giáo Hội, Mẹ của mỗi người trong chúng ta. Chúng ta có người Mẹ yêu thương chúng ta.
Tôi có phải là “Mẹ” Thiên Chúa không? Một câu hỏi nghe tức cười và viển vông, vì Thiên Chúa chỉ có một người Mẹ duy nhất là Đức Maria. Tuy nhiên, đó là điều mà chúng ta có thể làm được trong tinh thần và cách sống Đạo của chúng ta. Chính xác thì câu hỏi nên đặt ra là Tôi có muốn, có ước ao làm “Mẹ” Thiên Chúa không? Nếu có thì chúng ta cũng phải trải qua ba giai đoạn để được làm Mẹ Thiên Chúa, như Đức Maria đã trải qua.
Giai đoạn thứ nhất là “thụ thai” Chúa Giêsu. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta không thể thụ thai Chúa Giêsu về mặt sinh học, nhưng chúng ta có thể mang mầm sống Giêsu trong tâm hồn của mình, khi rước Chúa Giêsu Thánh thể vào lòng, khi biết khiêm tốn nói lời xin vâng trước những ý định của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Muốn được như thế, chúng ta phải đến gần Thiên Chúa, để có thể nhận ra đâu là thánh ý Thiên Chúa. Đến gần Thiên Chúa như thế nào? Thưa chúng ta phải học hỏi Kinh thánh, siêng năng tham dự thánh lễ và cầu nguyện cùng Thiên Chúa, yêu mến và tâm sự cùng Chúa Giêsu Thánh thể thường xuyên. Chính Chúa Giêsu sẽ dạy chúng ta biết đâu là thánh ý Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta.
Giai đoạn thứ hai là nuôi dưỡng Chúa Giêsu. Hãy bắt chước Mẹ Maria suy đi nghĩ lại trong tâm trí về lịch sử cuộc đời mình, từng biến cố đã xảy ra, để nhận ra Thiên Chúa đã tác động và che chở chúng ta như thế nào, đặc biệt là những lúc khó khăn thử thách.
Giai đoạn thứ ba là sinh ra và trao ban Chúa Giêsu. Đã có lần Chúa Giêsu khẳng định: Lòng có đầy thì miệng mới nói ra (Lc 6, 45). Một khi tâm hồn và cuộc sống chúng ta tràn đầy tình yêu với Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta không thể giấu được. Một khi ánh mắt, nụ cười, lời nói và việc làm của chúng ta được mặc lấy “tâm hồn Giêsu” thì làm việc gì chúng ta cũng làm vì Chúa, cho Chúa. Nghĩa là, chúng ta đang trao ban Chúa Giêsu cho đời cho người. Một cuộc sống thật sung mãn và ý nghĩa.
Hôm nay là ngày đầu năm mới, một ngày rất đẹp. Năm mới mở ra cho chúng ta một tương lai mới, một hy vọng mới. Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ Mẹ Thiên Chúa như muốn nói chúng ta không phải là những đứa con mồ côi. Chúng ta không phải đối diện một năm mới một mình, vì có một người Mẹ chan chứa tình mẫu tử sẽ che chở, ủi an và nâng đỡ chúng ta mọi ngày trong năm mới này.
Xin Thiên Chúa qua lời bầu cử của Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, chúc lành cho lành tất cả chúng ta. Amen.