Chúa Nhật V Mùa Chay – Năm A
Ga 11, 1-45
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật V Mùa Chay – Năm A
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến,
Càng gần ngày Lễ Lá, phụng vụ như càng muốn giới thiệu cho dân Chúa rõ hơn cây Thập Giá. Thập Giá xem ra chỉ là một cây gỗ bị đóng chéo lại, nhưng thật ra lại bao hàm cả một mầu nhiệm tình thương. Việc Chúa Giêsu làm cho Lazarô sống lại khi ông đã chết chôn được 4 ngày, cho thấy rõ chiều kích thâm sâu của ơn cứu độ. Cũng như trong sách Tiên tri Ezêkiel, tác giả đã cho độc giả thấy rằng cần phải có Thần Khí của Thiên Chúa thì con người mới sống được. Theo Thánh Phaolô tông đồ thì phải có Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Kitô từ cõi chết sống lại, mới làm cho xác phàm hay chết của chúng ta được sống như Ngài đã khẳng định trong thư gửi Tín hữu Rôma, mà lát nữa chúng ta sẽ nghe. Tất cả đều nói lên tình thương của Thiên Chúa qua công cuộc cứu độ của Đức Kitô.
Ca nhập lễ
Lạy Chúa, xin Chúa minh xét cho tôi xin bênh vực quyền lợi tôi đối nghịch với dân vô đạo; xin cứu tôi khỏi tay người độc ác điêu gian, vì Chúa là Thiên Chúa tôi và là sức mạnh tôi.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, vì yêu thương nhân loại, Ðức Giêsu Ki-tô đã hiến thân chịu khổ hình; xin ban ơn trợ giúp, để chúng con biết noi gương Người tận tình yêu thương mọi anh em. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Ed 37, 12-14
“Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống”.
Trích sách Tiên tri Êdêkiel.
Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: “Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở cửa mồ các ngươi, Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi mồ và dẫn dắt các ngươi vào đất Israel. Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống, Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, và các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và đã thi hành”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 129, 1-2. 3-4ab. 4c-6. 7-8
Ðáp: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và Chúa rất giàu ơn cứu độ
Xướng: Từ vực sâu, lạy Chúa, con kêu lên Chúa. Lạy Chúa, xin nghe tiếng con cầu; dám xin Chúa hãy lắng tai, hầu nghe thấu tiếng van nài của con.
Xướng: Nếu Chúa con nhớ hoài sự lỗi, lạy Chúa, nào ai chịu nổi được ư? Nhưng Chúa thường rộng lượng thứ tha, để cho thiên hạ tôn thờ kính yêu.
Xướng: Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy ở lời Ngài. Linh hồn con mong đợi Chúa con, hơn người lính gác mong trời rạng đông.
Xướng: Hơn người lính gác mong hừng đông dậy. Israel đang mong đợi Chúa con: Bởi vì Chúa rộng lượng từ bi, và Chúa rất giàu ơn cứu độ. Và chính Ngài sẽ giải thoát Israel cho khỏi mọi điều gian ác.
Bài Ðọc II: Rm 8, 8-11
“Thánh Thần của Ðấng làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Rôma.
Anh em thân mến, những kẻ sống theo xác thịt, thì không thể đẹp lòng Chúa. Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người. Nhưng nếu Ðức Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội, nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính. Và nếu Thánh Thần của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm
Chúa phán: “Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin Ta, sẽ không chết đời đời”.
PHÚC ÂM: Ga 11, 1-45
“Ta là sự sống lại và là sự sống”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, có một người đau liệt tên là Ladarô, ở Bêtania, làng quê của Maria và Martha. (Maria này chính là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là Ladarô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt”. Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển”.
Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa”. Môn đệ thưa: “Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?” Chúa Giêsu đáp: “Một ngày lại chẳng có mười hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng”. Người nói thế, rồi lại bảo họ: “Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông”. Môn đệ thưa: “Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại”. Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của Ladarô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giêsu mới nói rõ: “Ladarô đã chết. Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”. Lúc đó Tôma, cũng có tên là Ðiđimô, nói với đồng bạn: “Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người”.
Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Martha thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại”. Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
Nói xong bà về gọi Maria em gái bà và nói thầm với em rằng: “Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em”. Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giêsu chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Martha đã gặp Người. Những người Do-thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ. Vậy khi Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết”. Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: “Ðã an táng Ladarô ở đâu?” Họ thưa: “Thưa Thầy, xin đến mà xem”. Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!” Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?” Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: “Hãy đẩy tảng đá ra”. Martha là chị người chết, thưa: “Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày”. Chúa Giêsu lại nói: “Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con”. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Ladarô! Hãy ra đây!” Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: “Hãy cởi ra cho anh ấy đi”.
Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.
Ðó là lời Chúa.
* Hoặc đọc bài vắn này: Ga 11, 3-7. 17. 20-27. 33b-45
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, hai chị em của Ladarô sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt”. Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển”.
Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa”.
Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Martha thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con cũng sẽ sống lại”. Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
Người xúc động và hỏi: “Ðã an táng Ladarô ở đâu?” Họ thưa: “Thưa Thầy, xin đến mà xem”. Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!” Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?” Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ.
Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: “Hãy đẩy tảng đá ra”. Martha là chị người chết, thưa: “Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày”. Chúa Giêsu lại nói: “Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con. Nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con”. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Ladarô! Hãy ra đây!” Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: “Hãy cởi ra cho anh ấy đi”.
Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trong niềm tin tưởng nơi Chúa Cha, Đấng ban sự sống cho những ai tin vào sự chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta dâng lời cầu nguyện.
1. Qua Tin Mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta biết, Ngài yêu mến Mác-ta, Ma-ri-a và La-da-rô. Xin cho mỗi người Kitô hữu, nhờ sống theo mẫu gương tình yêu của Chúa Giêsu, hằng yêu mến Ngài trong anh chị em.
2. Chúa Giêsu là lời đáp trả đầy đủ cho mọi khát vọng của nhân loại. Xin nhìn đến biết bao nhiêu nạn nhân của bất công và bạo lực đang sống trong cảnh lầm than, giúp họ tìm được công lý và bình an.
3. Chúa Giêsu gặp gỡ các bạn hữu Ngài để khơi lên đức tin trong lòng họ. Xin cho hạt giống Lời Chúa đã được gieo vãi vào tâm hồn chúng ta trong Mùa Chay năm nay, sinh hoa kết quả dồi dào.
4. Chúa Giêsu cho La-da-rô, bạn hữu của Ngài được sống lại. Xin cho chúng ta biết làm việc vì anh em đồng loại, và biết loan báo rằng, Chúa Cha ban cho con cái Ngài một đời sống mới, một đời sống bất diệt và không còn khổ đau.
Chủ tế: Lạy Cha, xin nhận lời cầu nguyện của chúng con, xin đổ đầy tình thương vào tâm hồn chúng con, và xin cho chúng con biết giữ gìn những hồng ân mà Cha đã ban cho chúng con, nhờ đó chúng con sẽ tiến bước trong đời sống mới. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã cho chúng con là con cái Chúa được thấm nhuần đạo lý đức tin; giờ đây, xin cũng thương nhận lời chúng con khẩn nguyện và dùng lễ tế này thanh tẩy tâm hồn chúng con. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng (năm A)
Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con. Là người thật, Ðức Ki-tô đã khóc La-da-rô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho La-da-rô sống lại ra khỏi mồ. Ngày nay, cũng vì thương xót nhân loại, Người đã đưa chúng con vào đời sống mới nhờ các bí tích nhiệm mầu. Nhờ Người, đạo binh các Thiên thần muôn đời hoan hỷ trước thánh nhan Chúa, thờ lạy Chúa uy linh cao cả. Xin cho chúng con được đồng thanh với các ngài, và tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Chúa phán: Kẻ nào sống mà tin Ta sẽ không chết đời đời.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con vừa được phúc kết hợp với Mình và Máu Thánh Ðức Ki-tô, xin cho chúng con được trở nên những chi thể sống động của Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Suy niệm
Sự sống
Sưu tầm
Tại thế vận hội ở Los Angeles vào mùa hè năm 1984, võ sĩ Jeff Blatnik của Hoa Kỳ đã giành huy chương vàng về bộ môn đô vật. Khi trận đấu kết thúc, anh đã không vui mừng nhảy lên nhảy xuống, hay vung tay lên trời, cũng như không mỉm cười cúi chào đám đông. Trái lại, anh chỉ đơn giản quỳ gối xuống, cúi đầu cầu nguyện và làm dấu thánh giá. Hình ảnh này đã được chiếu trên màn ảnh truyền hình và người ta đã trông thấy những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má anh. Anh khóc không phải chỉ vì đã đạt huy chương vàng, mà còn khóc vì cách đó 2 năm, anh đã mắc phải bệnh ung thư, và trước trận đấu 18 tháng, anh đã phải giải phẫu. Vậy mà giờ đây, khi dấn thân vào trận đấu quan trọng này, anh đã đoạt được chiến thắng lớn nhất trong đời mình. Với những giọt nước mắt này, anh đã thực sự lôi cuốn và hấp dẫn mọi người, cũng như đã trở nên giống chúng ta một cách tuyệt vời và đầy cảm động.
Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy được nét đẹp tuyệt vời và đầy cảm động ấy nơi Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy Ngài, là Con Thiên Chúa, nhưng đã khóc bên nấm mồ của Ladarô. Từ đó, chúng ta khám phá ra bản tính con người của Ngài. Chính bản tính con người ấy làm cho Ngài trở nên giống chúng ta. Bởi vì Ngài đã từng chịu đói, chịu khát, chịu mệt mỏi, chịu đớn đau, cho nên Ngài sẽ hiểu chúng ta hơn, khi chúng ta lâm vào những cảnh huống như thế, như người xưa đã bảo: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Và như vậy, Ngài hiểu rõ thân phận chúng ta. Và chính sự hiểu biết này đem lại cho chúng ta hiềm vui mừng và hy vọng.
Tuy nhiên đoạn Tin Mừng còn chuyển đến cho chúng ta một sứ điệp khác cũng không kém phần quan trọng, đó là Chúa Giêsu không phải chỉ khóc thương Ladarô, mà còn làm cho anh ta được sống lại. Điều đó chứng tỏ, Ngài không phải chỉ là một người như mọi người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa, đầy quyền năng. Với bản tính con người, Ngài cảm thông và chia sẻ với chúng ta. Còn với bản tính Thiên Chúa, Ngài nâng đỡ và trợ giúp chúng ta, trao ban cho chúng ta nguồn sức mạnh và thực hiện những điều chúng ta van xin, kêu cầu.
Bởi đó hãy tin tưởng và phó thác bản thân cũng như cuộc đời cho Chúa vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng, đồng thời là một người Cha nhân từ và khoan dung, hằng yêu thương chăm sóc đến mỗi người chúng ta.
LÀM NGƯỜI ĐÁNH THỨC
(Chúa Nhật V Mùa Chay A) - Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa - Ban Mê Thuột
“Lazarô, bạn của chúng ta đang ngủ; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy dậy.” (Ga 11,11). Vì không hiểu ngụ ý của Chúa Giêsu, các tông đồ đã phản ứng cách tự nhiên: “Nếu anh ấy đang ngủ thì tự khắc sẽ dậy”. Chúa Giêsu đã từng có lần nói về tình trạng một người đã chết như là đang ngủ, chẳng hạn với cô bé gái con ông Giairô, viên trưởng Hội đường (x.Mc 6,39). Như thế, việc làm cho một ai đó sống lại từ cõi chết được Chúa ví như là đánh thức họ dậy. Và chúng ta cũng có thể loại suy cách nào đó rằng khi đánh thức một ai đó là giúp họ lại được sống hay được sống lại đúng phẩm vị của mình.
1. Những người cần được đánh thức là những người đang ngủ mê.
- Trong những hạnh phúc trần thế chóng qua: Những thiện hảo đời này thật đáng quý nhưng chúng không thể lấp đầy ước vọng của con người. Dù cho đủ đầy những thành công về danh vị hay lợi lộc vật chất thì mọi sự rồi sẽ qua đi khi mà tuổi già chợt đến. Đặc biệt khi cái chết cận kề thì người ta mới nghiệm ra rằng chẳng có thể lấy gì mà mua được sự sống và mạng sống thật đáng quý biết bao. Có thể nói kiếp người là một chuỗi băn khoăn lo lắng mãi cho đến khi nghỉ yên trong lòng đất lạnh. Thế nhưng, tình trạng quá mải lo lắng băn khoăn chính là một trong những hình thái mê ngủ vậy.
- Trong sự ganh đua hơn thiệt, được mất: Cái được, cái thua, cái mất, cái thắng ở đời này chỉ là tương đối. Rất nhiều khi những tưởng rằng thắng mà hoá thua, nghĩ rằng được mà lại mất. Nhiều vận động viên thể dục, thể thao trong các cuộc thi tài đã nghiệm thấy việc chiến thắng bản thân mới là điều quan trọng nhất. Và sự thật này thường được đón nhận khi người ta chiến bại hơn là chiến thắng.
2. Cùng với Đức Kitô, xin làm người đánh thức tha nhân. Một sự thật hiển nhiên dễ dàng đón nhận đó là sẽ chẳng một ai thoát được cái chết. Sự chết là một hiện tượng tất yếu của mọi loài xét như là sinh vật. Đã có sinh, thời có tử. Thế nhưng, cái chết là một sự thật mà con người, sinh vật bậc cao thường khó chấp nhận, đúng hơn là khó đón nhận vì luôn có đó khát vọng được trường sinh bất tử nơi lòng người. Chúa Kitô đã từng mời gọi “hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực thường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6,27). Để làm được điều này thì hãy tin vào Người là Đấng Thiên Chúa sai đến. Vì chính Người là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Người, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Người thì sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11,25-26). Tin vào Chúa Kitô là sống như Người đã sống “không phải đến để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt 20,28). Tin vào Chúa Kitô là đón nhận lời Người và đem ra thực hành trong cuộc sống.
Để làm người đánh thức tha nhân thì cùng với Chúa Kitô, chúng ta cần:
- Ra đi: Ra đi khỏi sự yên ổn cá nhân mình, ra đi khỏi tình yêu vị kỷ và dĩ nhiên là chấp nhận bao gian khó đang chờ phía trước. Tông đồ Tôma đã giận lẫy với các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11,16).
- Có tấm lòng xót thương: Thấy Chúa Giêsu khóc thương Lazarô, “người Do Thái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương Lazarô biết mấy” (Ga 11,35). Thiếu một trái tim biết thao thức trước hạnh phúc của tha nhân, biết thổn thức trước đau khổ của đồng loại thì đừng mong đánh thức được một ai.
- Đặt niềm tin vào quyền năng của Thiên Chúa: “Chúa Giêsu ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con…” (Ga 11,41). Chính nhờ và với quyền năng của Thiên Chúa thì những sự tốt lành mới tỏ hiện. Quả thật, chúng ta không thể đánh thức lòng người nếu không có ân sủng Chúa độ trì.
Thức tỉnh là một trong những đề tài được nhiều nhà đạo đức hôm nay nói đến. Mải mê thế sự là một biểu hiện của con người mọi thời, đặc biệt thời đại hôm nay. Thỉnh thoảng người ta chợt bừng tỉnh khi đối diện với cái chết của người này, người kia hoặc đối diện với cái chết đang cận kề mình. Thế nhưng những thời khắc thức tỉnh ấy rất dễ thoáng qua hay là quá bất chợt và kết quả thu được chẳng là bao. Chính vì thế mãi rất cần những con người đánh thức tha nhân. Chúa Kitô đã tiên phong, bạn và tôi, chúng ta có sẵn sàng tiếp bước Người để làm người đánh thức không? Ước gì chúng ta góp với Đấng Cứu độ một tay làm cho nhân trần bừng tỉnh về sự sống trường sinh mà chúng ta thường tuyên xưng: “Tôi tin có sự sống đời đời”. Chính khi biết hướng đến sự sống đời đời thì con người sẽ biết sống sự sống đời này cách hữu ích và có ý nghĩa.
Chúa Nhật thứ năm Mùa Chay – A
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan (Ga 11, 3-7.17.20-27. 33b-45).
Khi ấy, hai chị em của Ladarô sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt”. Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển”.
Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa”.
Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Martha thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con cũng sẽ sống lại”. Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”.
Người xúc động và hỏi: “Ðã an táng Ladarô ở đâu?” Họ thưa: “Thưa Thầy, xin đến mà xem”. Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!” Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?” Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ.
Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: “Hãy đẩy tảng đá ra”. Martha là chị người chết, thưa: “Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày”. Chúa Giêsu lại nói: “Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con. Nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con”. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Ladarô! Hãy ra đây!” Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: “Hãy cởi ra cho anh ấy đi”.
Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.
Suy niệm
Chúng ta đang cùng với Giáo hội, tiến về những ngày trọng đại của lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, với đỉnh cao là bản án tử của Đức Giêsu, là mầu nhiệm thập giá với màn đêm tang tóc của cái chết, và cũng từ đó, chúng ta sẽ cùng Ngài bước vào mầu nhiệm phục sinh trong uy quyền và vinh quang của Thiên Chúa. Chúa nhật thứ năm Mùa Chay mời chúng ta hướng về mầu nhiệm sống lại của Con Thiên Chúa qua câu chuyện của ông Lazaro, người đã chết 4 ngày và đã được Đức Giêsu cho sống lại.
Phụng vụ Lời Chúa trong tuần lễ này mời chúng ta hướng về một niềm vui vượt trội tất cả những niềm vui trần thế, đó là niềm vui được sống lại trong vinh quang của Thiên Chúa. Lời tiên báo của Ngôn sứ Edekiel về một viễn cảnh huy hoàng của những ai tin vào một Giavê Thiên Chúa, họ sẽ được Ngài mở cửa mồ, đưa ra khỏi sự gông cùm của cái chết, được dẫn vào cõi sống vinh quang: “Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở cửa mồ các ngươi, Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi mồ và dẫn dắt các ngươi vào đất Israel. Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống, Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, và các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và đã thi hành”. Quãng thời gian các Ngôn sứ xuất hiện là những ngày tháng thăng trầm của lịch sử dân Do-thái, vì thái độ bất trung với Giavê, họ không còn được sống như họ ước mong, mà phải nô lệ cho các dân tộc khác, cũng như không còn đời sống phụng tự để bày tỏ tâm tình thờ phượng Thiên Chúa, do đó, Ngài đã gởi các Ngôn sứ đến để khích lệ, để nhắc nhở, để cảnh báo và để hướng dẫn họ trở về con đường Giavê đã hoạch định. Lời Ngôn sứ Edekiel là một minh chứng của tình thương Giavê Thiên Chúa dành cho họ khi tương lai không còn hy vọng. Thiên Chúa vẫn mãi là Đấng tín trung, chậm bất bình và giàu lòng nhân nghĩa. Ngài đã đưa họ ra khỏi cảnh tối tăm, chết chóc, dẫn vào miền ánh sáng và sự sống.
Bài đọc 2 là một lời gợi nhắc của thánh Tông Đồ Phaolô, khi ngài chứng kiến cộng đoàn giáo hội tại Roma đang gặp khủng hoảng về đời sống tâm linh: “Anh em thân mến, những kẻ sống theo xác thịt, thì không thể đẹp lòng Chúa. Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em”. Dù được lãnh nhận bí tích Thánh tẩy, những tín hữu Kitô thành Roma không sống theo tinh thần của Tin Mừng, nhưng chạy theo những giá trị của thế gian, để bị cuốn vào những sinh hoạt của các thần ngoại. Thánh Phaolô đã nhắc lại cho họ rằng: “nếu Thánh Thần của Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Ðấng đã làm cho Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em”. Người tín hữu Kitô là người có Thánh Thần hiện diện trong tâm hồn, trong cuộc đời, cần nghe theo sự hướng dẫn của Ngài để từng ngày trở nên công chính, trở nên con cái của Thiên Chúa như Ngài ước mong.
Trên hành trình tiến về Giêrusalem, Đức Giêsu đang tiến đến gần đích điểm của mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh. Tất cả trong chương trình của Thiên Chúa Cha, cũng từ những biến cố này, Đức Giêsu mời gọi các Tông Đồ, những người đã và đang sống với, sống cùng Ngài, cố gắng tìm hiểu kế hoạch cứu độ của Chúa Cha qua cuộc đời và những bài giáo huấn của Ngài. Câu chuyện Ngài ghé thăm gia đình Lazaro và cho anh ta sống lại sau khi đã chết được 4 ngày. Qua câu chuyện đó, chúng ta thấy niềm tin của các môn đệ, đại diện là Martha và Maria, có phần nào mong manh và chưa thực sự xác tín. Họ biết Đức Giêsu là ai và những bài giáo huấn của Ngài, họ đã từng nghe, thế mà khi nghe tin Ngài đến, họ tìm đến và thưa chuyện với Ngài như một lời trách cứ: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Niềm tin của các phụ nữ đó cách nào chỉ dừng lại bởi họ coi Đức Giêsu như một tiên tri, một người con ưu tú của Thiên Chúa, Ngài xin gì cũng sẽ được, do đó, nếu có Ngài ở đó, Ngài sẽ xin Chúa Cha cho em trai họ không phải chết. Một niềm tin chưa chính thống, một niềm tin còn đặt nền tảng trên lề luật của truyền thống, bởi vậy, khi Đức Giêsu nói rằng, Ngài sẽ cho Lazaro sống lại, họ chỉ nghĩ rằng, ngày sau cùng, khi mọi người được sống lại, em họ sẽ sống. Họ đâu biết rằng, người đang nói chuyện với họ là Con Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. Ngay khi Con Thiên Chúa đứng bên cạnh mình, bên ngôi mộ đá lạnh, Con Thiên Chúa một lần nữa đã khơi dậy niềm tin của những người thân khi Ngài đề nghị mở cửa mồ: “Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: “Hãy đẩy tảng đá ra”. Martha là chị người chết, thưa: “Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày”. Chúa Giêsu lại nói: “Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Thế là người ta cất tảng đá ra”.
Dù tin người bên cạnh là Con Thiên Chúa, Đấng có quyền năng, thế mà khi Ngài yêu cầu mở cửa mồ, mọi người đã lên tiếng, nặng mùi rồi. Nặng mùi của sự ngã lòng, nặng mùi của sự thất vọng, nặng mùi của một niềm tin cạn kiệt, nặng mùi của một đời sống tôn giáo thiếu nền tảng. Tất cả như một bức tranh ảm đạm của một niềm tin thiếu sự chăm sóc và thiếu cố gắng. Đức Giêsu đã lên tiếng bảo họ không phải để trấn an, không phải để ra oai quyền lực, nhưng là để họ thức tỉnh trước vinh quang của Thiên Chúa, để từ biến cố này, họ nhận ra Thiên Chúa vẫn yêu thương họ, vẫn quan tâm và chăm sóc họ mỗi ngày: “Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”. Giữa dòng đời, không thiếu những lúc đức tin của chúng ta cũng bị thử thách như thế bởi niềm tin đó chưa được tôi luyện trong mọi hoàn cảnh cuộc đời, chưa dám chấp nhận tự huỷ để sinh ra một bông lúa mới trĩu hạt. Có thể nói đây là một niềm tin bất động trong nấm mồ, trong tâm hồn đang bị che khuất bởi muôn lề luật và những quan niệm chưa phù hợp với tinh thần của Tin Mừng. Từ đây, vinh quang Thiên Chúa một lần nữa được hiển lộ và cũng là cơ hội Đức Giêsu giới thiệu về cái chết và sự phục sinh của Ngài với nhân loại.
Hành trình đức tin của người tín hữu Kitô hôm nay cũng vậy, dù được thanh tẩy từ bí tích Rửa tội, được gọi là con Thiên Chúa, nhưng thực sự chúng ta đã làm tròn bổn phận người con của Thiên Chúa chưa trong ơn gọi mỗi người và trong hoàn cảnh mình đang hiện diện? Lắm lúc chính những lề luật, những truyền thống đã giới hạn niềm tin trong một phạm vi nhất định hay trong những định kiến thiếu khách quan, để rồi niềm tin đó bị đóng khung, như thế, làm sao chúng ta có thể gặp được một Giêsu đang lang thang nơi những người vô gia cư, làm sao chúng ta có thể gặp được một Giêsu đang quằn quại với những cơn đau của đại dịch, khi tuổi tác họ đã cao, sức khoẻ đã yếu dần. Ngay cả khi được Mẹ Giáo hội cảm thông với những nghi thức, những bí tích đặc biệt, người tín hữu đến đó để ăn năn thống hối, để cầu xin sự tha thứ từ lòng nhân từ của Thiên Chúa, đến đó để bày tỏ tâm tình trở về của Mùa Chay, hay chỉ đến đó vì tiện lợi, đến đó vì khỏi bị cha giải tội quấy rầy bởi đã bỏ xưng tội quá lâu, đến đó để an tâm lỡ có bị lây nhiễm bệnh dịch. Quả là một niềm tin chưa trưởng thành, chưa xác tín và chưa trở nên sống động trong mỗi hoàn cảnh cuộc sống, dù họ là những người Kitô hữu thực thụ.
Đời sống tận hiến cũng còn nhiều khuất tất trong niềm tin nhỏ bé của mỗi thành viên. Sống cộng đoàn là sống tinh thần của Giáo hội, một cộng đoàn gồm những người tội lỗi đang giúp nhau nên thánh, chứ không phải là những đấng thánh, thế mà, những thành viên trong các cộng đoàn luôn coi mình là đấng thánh, và lấy quyền năng của đấng thánh để phán quyết, để định đoạt và để kết án cho người khác. Tham quyền cố vị, mong chức cao quyền trọng vẫn len lỏi vào trong đời sống tận hiến, lắm lúc đã trở thành phản chứng của Tin Mừng, bởi đó là những người đã được Đức Giêsu trao cho trách vụ chính anh chị em sẽ là chứng nhân cho mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, thế mà, thay vì giúp đỡ người bên cạnh được phục sinh, được đóng đinh vào thập giá những tội lỗi, những tật xấu, họ đã cho tha nhân chết chìm trong hố sâu của ganh tị và ích kỷ. Thầy ơi, không vâng lời bề trên là không vâng lời Thầy, nhưng con không thể vâng lời bề trên khi họ thiếu sự quảng đại bao dung, thiếu sự quan tâm và thiếu luôn tình thương. Chắc con phải đợi tới lúc Chúa quang lâm, con mới trở về với Chúa được.
Lạy Chúa, chúng con luôn tin rằng Chúa là Cha, là Đấng Cứu Độ chúng con, nay Ngài đang hiện diện nơi mỗi người, mỗi gia đình, trong lòng Giáo hội, giữa lòng nhân loại, xin củng cố niềm tin mong manh của mỗi người trước mỗi biến cố cuộc đời, để chúng con luôn vững niềm tin vào tình thương của Thiên Chúa. Chúa đã bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa trong thế giới này qua mầu nhiệm tử nạn và phục sinh, để mọi người được cứu độ, xin cho chúng con luôn sống trong niềm hy vọng trước mọi thử thách, bởi Chúa không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ để cho con người thất vọng trước tình thương bao la của Thiên Chúa tình yêu. Amen.
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY A
Ed 37, 12-14; Rm 8, 8-11; Ga 11, 3-45
LM ĐAN VINH
TIN VÀO ĐỨC GIÊ-SU ĐỂ ĐƯỢC SỐNG LẠI VÀ SỐNG ĐỜI ĐỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 11, 3-45
(1) Có một người bị đau nặng, tên là La-da-rô, quê ở Bê-ta-ni-a, làng của hai chị em cô Mác-ta và Ma-ri-a. (2) Cô Ma-ri-a là người sau này sẽ xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Anh La-da-rô, người bị đau nặng, là em của cô. (3) Hai cô cho người đến nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. (4) Nghe vậy, Đức Giê-su bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. (5) Đức Giê-su quý mến cô Mác-ta, cùng hai người em là Ma-ri-a và anh La-da-rô. (6) Tuy nhiên, sau khi được tin anh La-da-rô lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày tại nơi đang ở. (7) Rồi sau đó, Người nói với các môn đệ: “Nào, chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê!”. (8) Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” (9) Đức Giê-su trả lời: “Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. (10) Còn ai đi ban đêm, thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình!”. (11) Người nói những lời này, sau đó Người lại bảo: “La-da-rô, bạn của chúng ta, đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây”. (12) Các môn đệ nói với Người: “Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được, anh ấy sẽ khỏe lại”. (13) Đức Giê-su nói về cái chết của anh La-da-rô, còn họ tưởng Người nói về giấc ngủ thường. (14) Bấy giờ Người mới nói rõ: “La-da-rô đã chết”. (15) Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta đến với anh ấy”. (16) Ông Tô-ma, gọi là Đi-đy-mô, nói với các bạn đồng môn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy!”. (17) Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. (18) Bê-ta-ni-a cách Giê-ru-sa-lem không đầy ba cây số. (19) Nhiều người Do thái đến chia buồn với hai cô Mác-ta và Ma-ri-a, vì em các cô mới qua đời. (20) Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Còn cô Ma-ri-a thì ngồi ở nhà. (21) Cô Mác-ta nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. (22) Nhưng bây giờ con biết: “Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. (23) Đức Giê-su nói: “Em chị sẽ sống lại!” (24) Cô Mác-ta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. (25) Đức Giê-su liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. (26) Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” (27) Cô Mác-ta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. (28) Nói xong, cô đi gọi em là Ma-ri-a, và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!”. (29) Nghe vậy, cô Ma-ri-a vội đứng lên và đến với Đức Giê-su. (30) Lúc đó, Người chưa vào làng, nhưng vẫn còn ở chỗ cô Mác-ta đã ra đón Người. (31) Những người Do thái đang ở trong nhà với cô Ma-ri-a để chia buồn, thấy cô vội vã đứng dậy đi ra, liền đi theo, tưởng rằng cô ra mộ khóc em. (32) Khi đến gần Đức Giê-su, cô Ma-ri-a vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. (33) Thấy cô khóc, và những người Do thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến. (34) Người hỏi: “Các người để xác anh ấy ở đâu?” Họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem”. (35) Đức Giê-su liền khóc. (36) Người Do thái mới nói: “Kìa xem! Ông ta thương anh La-da-rô biết mấy!” (37) Có vài người trong nhóm họ nói: “Ông ta đã mở mắt cho người mù, lại không thể cho anh ấy khỏi chết ư?” (38) Đức Giê-su thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. (39) Đức Giê-su nói: “Đem phiến đá này đi”. Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày”. (40) Đức Giê-su bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”. (41) Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con. (42) Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con, nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con”. (43) Nói xong, Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!”. (44) Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn, Đức Giê-su bảo: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Trong số những người Do thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.
2. Ý CHÍNH:
Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a thì La-da-rô đã chết và chôn được bốn ngày. Gặp hai bà Mác-ta và Ma-ri-a là chị người chết đang khóc thương em, Đức Giê-su đã trấn an họ rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống” (25). Khi ra thăm mộ của La-da-rô, Đức Giê-su đã cầu nguyện với Chúa Cha rồi truyền cho La-da-rô ra khỏi mồ (43) và người chết liền trỗi dậy đi ra ngoài. Qua phép lạ phục sinh La-da-rô này, Đức Giê-su đã mặc khải Người chính là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa hằng sống. Người sẽ ban sự sống và sự sống lại muôn đời cho những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. Mỗi tín hữu phải trở thành ngôn sứ của sự sống.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1-5: + La-da-rô: là tên của người bạn thân với Đức Giê-su, ở làng Bê-ta-ni-a (x. Ga 11, 3). Ngoài La-da-rô này, cũng còn một người ăn xin tên là La-da-rô trong Tin Mừng Lu-ca (x. Lc 16,20). + Bê-ta-ni-a: Là một làng nằm ở phía Đông núi Cây Dầu, cách Giê-ru-sa-lem khoảng ba cây số (x. Ga 11, 18). Đức Giê-su thường đến trọ tại làng này mỗi khi có dịp lên Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra, còn một Bê-ta-ni-a khác là nơi Đức Giê-su chịu phép rửa (x. Lc 16,20). + Mác-ta: là chị lớn trong ba chị em. Bà có tính năng nổ hướng ngoại thể hiện khi đón tiếp Đức Giê-su (x. Lc 10,38-42). + Ma-ri-a: là em của Mác-ta, có tính trầm lặng hướng nội, sẵn sàng hy sinh bình dầu thơm quý giá để xức chân Người (x. Ga 12,1-8). Theo phần lớn các nhà chú giải Thánh Kinh: Bà Ma-ri-a này không phải là người đàn bà tội lỗi (x. Lc 7, 36-50), không phải là người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,3-11), cũng không phải Ma-ri-a Ma-đa-lê-na được trừ khỏi bảy quỷ ám (x. Lc 8,2).
- C 6-16: + Mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy: Các môn đệ mang tâm trạng sợ hãi vì ý thức nguy hiểm: Thầy có thể bị kẻ thù giết hại tại Giê-ru-sa-lem. + Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao?: Đức Giê-su quyết tuân theo chương trình Chúa Cha đã truyền. + La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây: Đức Giê-su dùng chữ “ngủ” để ám chỉ cái chết, giống như trường hợp của con gái ông Gia-ia (x. Mc 5, 39). Thánh Phao-lô cũng coi cái chết chỉ là một giấc ngủ (x. 1 Tx 4,14), là một bước phải vượt qua đến sự sống lại (x. Ep 5, 14). + Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin: Đức Giê-su mừng vì môn đệ sắp được dịp chứng kiến Người truyền cho La-da-rô sống lại, để các ông vững tin nơi Người.
- C 17-27: + Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi: Theo phong tục người Do thái thì người chết thường được chôn ngay trong ngày vừa chết (x. Cv 5, 6). Người Do thái tin rằng trong ba ngày đầu, hồn vía người chết còn lảng vảng gần xác chết. Sang ngày thứ tư khi xác thối rữa, nó mới tan đi. Con số bốn ngày ở đây như muốn nói La-da-rô đã chết thật sự. + Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết: Thời Cựu Ước, nhiều người tin có sự kẻ chết sống lại (x Đn 12,2-3; 2 Mcb 7, 23). Đến thời Đức Giê-su, nhóm Pha-ri-sêu cũng tin như vậy, nhưng nhóm Xa-đốc thì không tin (x Cv 23,8). Riêng Mác-ta tuy tin kẻ chết sẽ sống lại trong ngày tận thế như nhóm Pha-ri-sêu, nhưng vẫn muốn Đức Giê-su làm phép lạ cho em được sống lại ngay lúc này. + Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống: Đức Giê-su là sự sống phát xuất từ Chúa Cha (x. Ga 5, 26). Người làm cho những kẻ tin Người được sống đời đời (x. Ga 5, 24-25). Người cũng sẽ ban cho những kẻ tin được sống lại vào ngày cánh chung, dù xác của họ có bị tiêu hủy cũng sẽ được sống lại (x. Ga 5, 28-29). + Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian: Mác-ta tuyên xưng Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai (x. Ga 1, 19).
- C 28-37: + Thấy cô khóc, và những người Do thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến: Theo thói tục của người Do thái, khi có khách đến viếng xác, thì người nhà bật khóc to, và khách cũng tự nhiên phát khóc lên theo.
- C 38-44: + Đức Giê-su thổn thức trong lòng: Trước sự đau khổ của tang gia, Đức Giê-su có thái độ cảm thông đầy tình người. Nhưng thực ra nguyên nhân sâu xa khiến Đức Giê-su khóc một phần còn vì sự cứng lòng tin của những người Do thái hiện diện (37) và vì niềm tin nửa vời của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a (39). + Đem phiến đá này đi: Phần mộ của người Do thái giàu có thường khoét vào núi đá. Sau khi tắm rửa, xác chết được xức thuốc thơm, cột lại bằng giây băng vài và phủ khăn liệm, đưa vào mồ chôn cất rồi lấp ngòai cửa mồ bằng một tảng đá lớn, như hai môn đệ an táng Đức Giê-su sau này (x Ga 19, 40-42). + Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày: Tuy Mác-ta vừa tuyên xưng đức tin, nhưng vẫn nghi ngờ Ngừơi có thể làm cho La-da-rô sống lại. + Chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao? Vinh quang ở đây là quyền năng Thiên Chúa tỏ hiện qua việc người sắp cho La-da-rô từ cõi chết sống lại. + Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con": Người Do thái khi cầu nguyện thì quay mặt về hướng Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Còn ở đây Đức Giê-su lại ngước nhìn lên trời. Đây là lối cầu nguyện của các Ki-tô hữu sau này. + Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!": Đức Giê-su ra lệnh cho người chết sống lại. Điều đó cho thấy Người có quyền trên sự chết. + Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi: La-da-rô sau khi sống lại phải được người khác cởi khăn và vải liệm. Trái lại, Đức Giê-su sau khi phục sinh, những băng vải vẫn còn để lại trong mồ và khăn che đầu Người cũng được cuốn lại và xếp để riêng ra một nơi (x. Ga 20, 5-7).
4. CÂU HỎI:
1) Ma-ri-a Bê-ta-ni-a có phải là người đàn bà tội lỗi, người phụ nữ ngoại tình sắp bị ném đá hay bà Ma-ri-a Ma-đa-le-na hay không? 2) Đức Giê-su nói La-da-rô đang yên giấc có ý ám chỉ điều gì? Hai trường hợp khác tương tự là những trường hợp nào? 3) Theo phong tục Do Thái thì người chết được chôn khi nào? Ở đây việc La-da-rô được chôn bốn ngày rồi mang ý nghĩa gì? 4) Thời Đức Giê-su, niềm tin về việc kẻ chết sống lại giữa hai phái Xa-đốc và Biệt phái khác nhau ra sao? 5) Tại sao Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng và xao xuyến khi thấy Mác-ta và người đi theo cô khóc? 6) Khi nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày" Mác-ta có hòan tòan tin vào quyền năng phục sinh kẻ chết của Đức Giê-su không? 7) Ngày nay các tín hữu hướng về đâu khi cầu nguyện? Tại sao? 8) Tình trạng của La-da-rô sau khi sống lại khác với tình trạng sống lại của Đức Giê-su thế nào?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25).
2. CÂU CHUYỆN:
1) TÍN THÁC VÀO QUYỀN NĂNG CỦA CHÚA SẼ ĐƯỢC ƠN PHỤC SINH.
Một bé gái nọ có thói quen đọc kinh trước khi đi ngủ. Ngày kia, em bị bệnh nặng phải vào nhà thương. Các bác sĩ cho biết chỉ có giải phẫu mới có hy vọng cứu sống em. Trước khi cho thuốc gây mê, các bác sĩ và y tá báo cho em biết là em sẽ được ngủ một giấc dài. Nghe nói ngủ, cô bé ngây thơ đã xin được quỳ xuống cầu nguyện. Thế là trước mặt mọi người, cô bé quỳ gối cầu nguyện một cách hết sức chân thành, và em kết thúc bằng lời nguyện như sau: “Xin Chúa cho con được chóng lành bệnh”. Cầu nguyện xong, em bé nằm xuống và xin các bác sĩ và y tá tiến hành cuộc giải phẫu...
Ngày hôm sau, cô bé tỉnh dậy với nỗi đau tột cùng. Câu hỏi đầu tiên của em với bác sĩ là:
- Cháu có được lành bệnh không, thưa bác sĩ?
Vị bác sĩ nhìn thẳng vào đôi mắt của em và đáp với tất cả sự xúc động:
- Cháu hãy để cho Chúa lo liệu, bác chưa biết được kết quả của cuộc giải phẫu. Nhưng có một điều bác tin chắc, đó là cháu đã cứu được một người, và người đó không ai khác hơn đó chính là bác đây! Từ lâu, bác đã không đến nhà thờ, bác không còn nhớ đến Chúa và cũng không bao giờ cầu nguyện nữa. Thế nhưng, hôm qua khi nhìn thấy cháu cầu nguyện một cách thật sốt sắng, bác không cầm được nước mắt. Chúa đã đánh động bác. Sáng nay, bác đã đến nhà thờ xưng tội và chịu lễ. Bác tin chắc rằng Chúa đã nhận lời cháu. Cháu đừng lo lắng nữa. Hãy phó thác cho Thiên Chúa!
Khi gặp hoàn cảnh khó khăn, chúng ta hãy tín thác vào tình thương và quyền năng của Chúa để được ơn Chúa chữa lành bệnh tật cho mình và giúp người khác cũng được ơn sống lại thật về phần linh hồn như em bé trong câu chuyện trên.
2) VỀ MỘT CON NGƯỜI ĐƯỢC SỐNG LẠI VỀ PHẦN LINH HỒN:
SI-TA ĐE-LI vốn là một kẻ chuyên quậy phá kẻ khác. Anh đã nhiều lần vào tù ra khám vì tội phá phách cướp giựt. Trong phiên tòa lần thứ năm, quan tòa đã phải tuyên bố như sau: “Có phạt anh thêm nữa cũng vô ích! Nhưng chúng tôi vẫn phải cách ly anh. Chúng tôi đã làm hết cách. Quả thật chúng tôi đã hoàn toàn thất vọng về anh”. Vào tù lần này, ĐE-LI lại ngựa quen đường cũ: có những hành vi vô kỷ luật và đàn áp bạn tù yếu thế hơn anh, nên anh đã bị biệt giam trong hai tuần lễ. Nhưng một phép lạ đã xảy ra: Khi phải nằm thu mình trong căn hầm chật hẹp tăm tối, nằm trên nền đá ẩm mốc hôi hám, ĐE-LI đã có dịp suy nghĩ và nhớ lại những lỗi lầm đã phạm. Vốn là con một trong gia đình giàu có, được cha mẹ cho đi học, nhưng anh lại lười biếng và ăn cắp tiền của cha mẹ rồi sau đó bỏ nhà đi hoang. Từng được nhà trường đánh giá là một học sinh thông minh giàu sáng kiến, anh chỉ có thói xấu là ham vui. Vậy tại sao anh lại không sử dụng những tài năng đó để làm việc tốt hữu ích cho tha nhân, mà lại bỏ nhà đi hoang và phạm tội đàn áp bóc lột kẻ khác? Rồi sau đó anh bắt đầu có những giấc mơ đẹp về Đức Giê-su, mà anh đã từng học biết khi còn theo học lớp giáo lý vỡ lòng. Dường như anh thấy Đức Giê-su đang âu yếm nhìn anh và mời anh hãy đi theo Người. Rồi hình ảnh những người từng bị anh gây thương tích lần lượt lướt qua tâm trí anh. Tự nhiên anh cảm thấy một tình cảm dào dạt đối với họ. Chính tình thương ấy đã tắm mát và chữa lành những vết thương trong tâm hồn sơ cứng của anh. Cảm nghiệm ấy đã dần dần biến đổi anh nên một người mới đầy tràn tình yêu của Đức Giê-su. Sau hai tuần lễ, ĐE-LI được ra khỏi ngục biệt giam và trở lại phòng giam thường phạm. Anh không còn thái độ bắt nạt bạn tù, trái lại còn sẵn sàng bênh vực những kẻ thân yếu thế cô. Anh xin cha tuyên úy nhà giam theo học lớp Thánh Kinh hằng tuần. Anh trở thành người học trò chăm chỉ và xuất sắc nhất trong đám bạn tù. Mấy năm sau, khi được mãn hạn tù, anh đã trở thành chủ tịch hội “Cải cách chế độ lao tù”. Khi nói về anh, cha tuyên úy nhà lao đã nói: “Si-ta Đe-li là một bằng chứng sống động nhất về một phép lạ đã xảy ra: Không những anh là một con người tội lỗi được ơn sám hối, mà còn là một tạo thành mới, một tín hữu tốt lành thánh thiện và là môn đệ đích thực của Chúa Giê-su”.
3) TÁC HẠI CỦA THÓI ƯA TRÌ HOÃN “HÃY ĐỢI ĐẤY”:
Pháp quan Archais ở Thebea đang ngồi uống rượu với một số đông dũng sĩ của mình, bỗng có một sứ giả bước vào mang cho ông một bức thư báo cáo về một âm mưu sát hại ông. Thay vì mở ngay bao thư ra đọc, ông nhét ngay vào trong túi và nói:
- Để mai hãy hay.
Và qua ngày mai thì ông bị giết chết. Trước khi bức thư bị khui ra, thì cả chính phủ đã bị bắt sạch không thoát một ai.
Nếu ngày Chúa lại đến không ai biết trước thì mọi người đang sống phải chuẩn bị sẵn sàng cho ngày giờ đó. Ảo tưởng nguy hiểm nhất là ảo tưởng cho rằng, mình còn sống lâu, còn có đủ thời gian để kịp hồi tâm sám hối trước khi chết.
4) HIỆU QUẢ ĐÁNG NGỜ CỦA THUỐC TRƯỜNG SINH:
Vào thời chiến quốc, có người dâng lên Sở vương một viên thuốc trường sinh. Ông ta bưng viên thuốc này vào hoàng cung. Quan cảnh vệ gác cổng liền hỏi: “Thuốc này có uống được không?” Người kia đáp: “Uống được”.
Lập tức viên quan cảnh vệ liền mở viên thuốc quý ra, cầm cho vào miệng nuốt đi trước sự ngỡ ngàng của người dâng thuốc. Câu chuyện được báo cáo lên vua Sở. Vua liền truyền tống giam quan cảnh vệ vào ngục vì tội “khi quân” và xử tội chết.
Viên quan liền kêu oan rằng: “Hạ thần đã hỏi người dâng thuốc và ông ta nói: ”Thuốc có thể uống được” nên thần mới dám uống. Thế là hạ thần vô tội mà kẻ có lỗi chính là người dâng thuốc kia. Hơn nữa, người dâng thuốc lại nói đó là thuốc trường sinh nghĩa là ai uống vào sẽ được trường sinh bất tử. Thế mà thần uống vào lại sắp phải chết. Như vậy đây là “thuốc tử” chứ sao gọi là “thuốc bất tử” được? Điều đó chứng tỏ người dâng thuốc là kẻ nói dối mà sao bệ hạ lại tin hắn?
Vua nghe quan cảnh vệ nói có lý, liền tha không giết nữa.
3. SUY NIỆM:
1. VỀ MẦU NHIỆM PHỤC SINH KẺ CHẾT:
Dùng quyền năng siêu nhiên để làm cho người bệnh nan y được khỏi bệnh thì nhiều người đã làm được, nhưng làm cho người đã chết được sống lại thì chỉ những người được Chúa ban ơn đặc biệt mới có thể làm được. Chẳng hạn:
Thời Cựu Ước: Ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho con trai của bà góa ở Sa-rép-ta sống lại (x. 1 V 17, 17-24); Ngôn sứ Ê-li-sa cũng phục sinh cho con trai của bà Su-nêm (x. 2 V 4,32-37).
Đến thời Tân Ước, tông đồ Phê-rô đã làm cho bà Ta-bi-tha đã chết được sống lại (x. Cv 9, 39-42). Riêng Ðức Giê-su đã phục sinh kẻ chết ít nhất 3 lần: Cho con trai bà góa ở thành Na-in mới chết đang đem đi chôn sống lại (x. Lc 7, 11-15); Cho con gái ông trưởng hội đường mới chết đang nằm trên giường được trỗi dậy (x. Mt 9,18-26); Cho anh bạn thân La-da-rô chết chôn trong mồ bốn ngày được sống lại ra khỏi mồ (x. Ga 11, 34-45). Ba người này sau khi sống lại cũng chỉ sống thêm được một thời gian rồi lại phải chết. Sự sống lại của họ nhằm tiên báo việc Ðức Giê-su sau này sẽ chiến thắng thần chết. Người sẽ trải qua cái chết và đến ngày thứ ba sẽ từ cõi chết sống lại (x. Ga 20, 1-10). Sự phục sinh của Người là bằng chứng bảo đảm cho niềm tin vào mầu nhiệm kẻ chết sống lại trong ngày tận thế như thánh Phao-lô đã khẳng định: “Nếu Ðức Ki-tô không sống lại, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng tôi là vô ích” (1 Cr 15, 14), và sự phục sinh của Người chứng tỏ Người thực là Con Thiên Chúa hằng sống.
2. ĐỨC GIÊ-SU, CON THIÊN CHÚA LÀM NGƯỜI CÓ QUYỀN TRÊN SỰ CHẾT:
Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho thấy: Ðức Giê-su vừa là Thiên Chúa vừa là người phàm; Người chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã tiên báo sẽ đến và dân Do thái trông mong.
- Là người phàm, nên Đức Giê-su đã xúc động thổn thức và khóc thương người bạn thân khi đứng trước mộ của anh (c 33-35), đến nỗi người ta phải thốt lên: “Kìa xem! Ông ta thương La-da-rô biết mấy!” (c 36). Nhưng là Thiên Chúa, Đức Giê-su đã phán một lời khiến La-da-rô chết 4 ngày được trỗi dậy và ra khỏi mồ. Vì Người “là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Người thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Người sẽ không bao giờ phải chết” (x. Ga 11, 25-26).
+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su đã mở cánh cửa sự sống, phá tan sào huyệt của tử thần: Khi truyền cởi những dải băng liệm cuốn quanh người La-da-rô, Người giải phóng anh khỏi quyền lực của tử thần.
+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su cũng mở cánh cửa đức tin của Mác-ta: Trước đó, đức tin của Mác-ta chỉ mới là thứ đức tin chung chung giống như đa số người Do thái đương thời. Nhưng sau khi chứng kiến La-darô sống lại, đức tin của bà đã trở thành sống động vững chắc. Trước đó, nhiều người Do thái vẫn chưa tin Đức Giê-su. Nhưng sau khi chứng kiến La-da-rô từ cõi chết sống lại, họ đã đạt đến đức tin vào Đức Giê-su. Chính khi tảng đá lấp cửa mộ La-da-rô mở ra cũng phá tan tảng đá nghi ngờ, dẫn họ tới đức tin Đức Giê-su là Con Thiên Chúa.
+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su cũng mở cánh cửa niềm vui: Sự chết của La-da-rô gieo tang tóc u buồn cho hai bà chị Mác-ta và Ma-ri-a. Tiếng khóc của hai người này đã khiến Đức Giê-su cảm động và không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi La-da-rô được Người cho sống lại, đám tang biến thành đám hội, lời phân ưu trở thành lời chúc mừng.
+ Khi mở cửa mộ của La-da-rô, Đức Giê-su cũng mở cánh cửa niềm hy vọng: Từ nay nhân loại hy vọng Đức Giê-su là “sự sống lại và là sự sống”, cũng sẽ làm cho những ai tin vào Người được tham phần vào sự sống đời đời với Người như Người đã nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25-26).
3. MUỐN ĐƯỢC THAM PHẦN SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI PHẢI BIẾT YÊU THƯƠNG:
- Đức Giê-su không chỉ yêu bằng thứ tình yêu thần linh, mà còn yêu thương bằng tình cảm nhân loại. Tình yêu của Người là thứ tình yêu tột đỉnh như Tin Mừng Gio-an viết: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng!” (Ga 13, 1b). Yêu đến cùng là yêu tột cùng, đến nỗi sẵn sàng hy sinh mạng sống vì người mình yêu, như lời Đức Giê-su: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
- Tình yêu của Ðức Giê-su đối với anh bạn thân La-da-rô được thể hiện qua thái độ xúc động khi trước mộ của anh. Tình yêu tự nhiên được thể hiện qua ánh mắt trìu mến, lời nói cử chỉ dịu dàng và thái độ quảng đại như bà mẹ hiền nựng đứa con thơ, như Thiên Chúa đã yêu thương con cái loài người chúng ta, đã sai Con Một đến chịu chết trên thập giá để đền tội thay cho chúng ta và đã từ cõi chết sống lại để cứu sống chúng ta (x. 1 Ga 4, 9).
4. TRỞ NÊN NGÔN SỨ CỦA SỰ SỐNG BẰNG VIỆC THỰC THI YÊU THƯƠNG:
- Trong sứ điệp ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã khuyên các bạn trẻ như sau: “Hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình thương, những ngôn sứ của niềm vui. Hiện nay tuy nhân loại ngày càng văn minh hơn. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối của sự chết như: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, si-đa, ám sát, đặt mìn, tai nạn giao thông… Những cái chết về thể xác phản ảnh một cái chết nguy hiểm hơn. Đó là cái chết của Tình Yêu trong lòng con người! Cái chết ấy sẽ thắng thế khi con người sống buông thả, chán chường và khép kín trong sự ích kỷ. Nhưng chúng ta có Đức Giê-su là “Sự Sống Lại và là Sự Sống”. Một khi chúng ta liên kết mật thiết với Đức Giê-su, chúng ta cũng có thể thông truyền sự sống và niềm vui cho thế giới, giống như Đức Giê-su xưa đã trả lại sự sống cho La-da-rô và lau khô giọt lệ cho hai chị em Mát-ta và Ma-ri-a… Ki-tô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em cần được giúp đỡ, những nơi có những giọt nước mắt cần được lau khô, những nơi có những lời cầu cứu đang mong chờ được đáp ứng”.
- Mỗi ngày chúng ta cần tích cực chuẩn bị cho cuộc sống mai sau, bằng một nếp sống bác ái cụ thể như: "Vui với người vui và khóc với người khóc”; bằng việc quan tâm thăm viếng, an ủi động viên, quảng đại chia sẻ tinh thần vật chất và khiêm tốn phục vụ những người nghèo khổ bệnh tật và bất hạnh… Yêu thương không phải bằng môi miệng nhưng bằng sự quan tâm tới người đau khổ nghèo đói bệnh tật bất hạnh đang sống ngay bên và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu, phục vụ họ như phục vụ chính Đức Giê-su bị bỏ rơi.
4. THẢO LUẬN:
Chúng ta cần phải làm gì để trở thành Ngôn Sứ của Sự Sống, sẵn sàng chia sẻ tình thương của Chúa cho đồng bào Việt Nam, cho những người bệnh tật đau khổ đang sống chung quanh chúng ta?
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy đổ tràn ngập tâm hồn chúng con Thần Khí và sức sống của Chúa.
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa.
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con.
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.- AMEN.
SỐNG VÀ CHẾT
Chúa Nhật 5 Mùa Chay năm A: Ga 11,1-45
Suy niệm
Đúng như lời ngôn sứ Êdêkien đã báo: “Ta sẽ đem các người lên khỏi mồ, hỡi dân Ta và đem các ngươi về đất Ít-ra-en… Ta sẽ ban Thần khí của Ta xuống trên các ngươi và các ngươi sẽ được sống”. Lời này đã được ứng nghiệm cho dân Chúa, và sẽ được Đức Giêsu thực hiện.
Qua bài Tin Mừng, chúng ta cảm nhận được nét đẹp đầy cảm động về tình bạn của Chúa Giêsu. Là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn không cầm được nước mắt bên mồ của Ladarô. Ngài đã trở nên giống chúng ta, sống thân phận của chúng ta, đau cái đau của chúng ta, khổ nỗi khổ của chúng ta. Và rồi đây Ngài cũng sẽ phải chịu đau đớn tận cùng, khi chấp nhận cực hình trên thập giá và chịu chết để cứu chuộc chúng ta.
Lúc gặp Đức Giêsu, Mátta đã thốt lên những lời than trách: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. Khi Đức Giêsu đến chậm, để cho Ladarô phải chết, Ngài cho chúng ta thấy, không ai có thể ngăn chặn được cái chết thể lý. Công việc của Ngài không phải là phá vỡ dòng lưu chuyển sự sống tự nhiên của con người. Ngài không đến để làm cho cuộc đời này thành vĩnh cửu, nhưng trước tiên là để sống thân phận con người, với tất cả những hậu quả bi đát của nó do tội lỗi gây ra. Tuy nhiên, Ngài cũng đã làm cho anh Ladarô sống lại, để biểu hiện quyền năng sự sống của Thiên Chúa nơi mình.
Với bản tính con người, Ngài cảm thông, chia sẻ và nâng đỡ những ai đang phải gặp cảnh buồn thương khốn khổ. Nhưng với bản tính Thiên Chúa, Ngài cho chúng ta được chỗi dậy, được thông phần sự sống Thần Linh của Ngài, như Ngài đã công bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Tin Đức Giêsu, chúng ta thoát khỏi sự trống rỗng của cuộc đời hư không, một cuộc sống đã chết do tội lỗi để bước vào sự sống mới, sự sống đích thật của con cái Thiên Chúa, nên chết như cánh cổng to lớn mở vào thánh điện an vui vĩnh hằng.
Nói là sự sống mới vì sự sống cũ của ta đang bị chôn chặt dưới nấm mồ của buồn sầu, nghi nan, thất vọng, vì lo chạy theo vật chất, tiền tài, danh lợi. Nói là sự sống mới vì sự sống cũ đang trong vòng tranh chấp, kéo theo những tham lam, ích kỷ, ghen ghét, hận thù. Đức Giêsu không chỉ mở cửa mộ cho Ladarô ngày xưa, mà Ngài đang mở cửa mộ cho con người hôm nay, bởi vì mỗi người chúng ta đang chết một cách nào đó. Đó là cái chết thiếu đức tin, thiếu lòng yêu mến và cậy trông hy vọng. Đó là cái chết của một xã hội mà sự phát triển kinh tế không đi đôi với đạo đức; một xã hội muốn loại trừ Thiên Chúa nhưng lại tôn thờ ngẫu tượng; một xã hội văn minh tiến bộ nhưng nhân phẩm con người lại bị chà đạp thảm thương. Chẳng lạ gì thánh Gioan Phaolô II gọi thế giới hôm nay là thời đại của nền văn minh sự chết.
Thế giới văn minh, nhưng vẫn đầy dẫy những cái chết não nùng, như những cuộc tàn sát do chiến tranh, cướp bóc, đói kém, phá thai, ma túy, áp bức, khủng bố, bạo hành, ám sát, tự tử,… Cái chết thân xác phản ánh một cái chết nguy hiểm hơn, là cái chết của tình yêu ở trong lòng người. Đó mới là cái chết đáng sợ, vì không còn là cái chết tạm thời, nhưng là cái chết vĩnh viễn vắng bóng Thiên Chúa. Cái chết đó đang len lỏi vào đời sống đạo của chúng ta, nhất là đối với giới trẻ, những con người dễ bị mê hoặc bởi những hào nhoáng bên ngoài, và dễ buông theo lối sống ảo, là những cạm bẫy giăng mắc của sự chết.
Tôn giáo nào cũng nói đến cứu độ hay giải thoát, để đạt tới sự sống viên mãn. Nhưng thật sự chẳng có ai có quyền trên sự sống con người ngoài một mình Thiên Chúa, Đấng là chủ tể của sự sống đời này và đời sau. Càng không có ai có thể tự giải thoát mình. Chỉ có Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, mới có thể giải thoát chúng ta khỏi những cái chết tai ác, vì Ngài là sự sống lại và là sự sống. Chỉ có Đức Giêsu mới có thể mở những cửa mộ kiên cố của lòng ta, lăn những tảng đá đè nặng trên cuộc đời ta, để ta bước ra khỏi thế giới sự chết mà đi vào thế giới sự sống.
Sự sống lại của Ladarô dù sao cũng chỉ là tiếp nối cuộc sống dương trần, điều quan trọng là sự sống đời đời mà chính Chúa Giêsu sẽ đem lại cho chúng ta nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời mình cho Chúa, để Chúa đưa chúng ta vào cuộc sống mới từ hôm nay. Chỉ khi gắn bó với Chúa Giêsu, nhờ quyền năng Ngài, ta mới có khả năng ra khỏi nấm mộ của bản thân mình, và có khả năng thông truyền niềm vui sự sống cho những người chung quanh, đúng theo ơn gọi của mình là môn đệ Đức Giêsu.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
sống là biết có ngày mình phải chết,
và tất cả sẽ không còn gì hết,
thế nhưng ai cũng ngậm ngùi chua xót,
vô cùng đắng đót trước cảnh biệt ly,
kẻ ở người đi mong gì gặp lại.
Chính Chúa cũng thổn thức và xao xuyến,
đến nỗi không ngăn được dòng lệ nhỏ,
trước bạn hiền đã từ bỏ thế gian,
cho dù Chúa có quyền ban sự sống.
Chúa chẳng muốn để một ai phải chết,
nhưng đó là hậu quả của tội lỗi,
vì con người đã manh tâm phản bội,
để dục vọng cứ mặc sức cuốn lôi.
Tuy cái chết đã đi vào thế giới,
nhưng Chúa đem sự sống mới cho đời,
để ai tin vượt qua những gian tà,
bước theo Chúa trên con đường thập giá.
Cuộc đời này rồi ai cũng phải chết,
nhưng con tin tình yêu không thể chết,
khi con dâng hiến hết cuộc đời mình,
vì cái chết là điểm kết của hy sinh,
để mở ra sự sống mới huy hoàng,
mà chính Chúa đã sống lại vinh quang.
Nên cái chết chẳng còn gì đáng sợ,
chỉ đáng sợ khi con sống nghi ngờ,
thiếu niềm tin vào chính Chúa Giê-su,
nên cuộc sống thành tăm tối ngục tù.
Xin cho con lòng tin tưởng cậy trông,
luôn kiên vững không bao giờ thất vọng,
điều quan trọng là nối kết hiệp thông,
để tình yêu mỗi ngày thêm sâu rộng. Amen.
Lm. Thái Nguyên
Chúa nhật thứ năm mùa chay -A
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. (bài ngắn - Ga 11, 3-7. 17. 20-27. 33b-45)
Khi ấy, hai chị em của Ladarô sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt”. Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển”.
Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa”. Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Martha thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con cũng sẽ sống lại”. Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?” Bà thưa: “Thưa Thầy: vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. Người xúc động và hỏi: “Ðã an táng Ladarô ở đâu?” Họ thưa: “Thưa Thầy, xin đến mà xem”. Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!” Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: “Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?” Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ.
Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: “Hãy đẩy tảng đá ra”. Martha là chị người chết, thưa: “Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày”. Chúa Giêsu lại nói: “Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: “Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con. Nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con”. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Ladarô! Hãy ra đây!” Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: “Hãy cởi ra cho anh ấy đi”.
Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.
Suy niệm
Đối diện với cái chết, một biến cố rất đặc biệt trong cuộc đời một con người, ai cũng cảm thấy buồn kèm theo chút sợ hãi. Có phải vì buồn nên được coi là một chủ đề, để mọi tín hữu Kitô suy niệm và sống trong mùa chay, hay vì sợ hãi nên được gợi lên để răn dạy mỗi người hãy sống làm sao cho có ý nghĩa. Chắc Mẹ Giáo hội không có những ý tưởng như thế khi chọn câu chuyện Chúa Giêsu cho ông Lazaro sống lại, để công bố trong ngày đầu tuần thứ năm của mùa chay, nhưng qua câu chuyện đó, hình ảnh của cái chết liên tưởng đến sự sống siêu nhiên, sự sống thiêng liêng trong mỗi tín hữu, bởi có những lúc, niềm tin của người tín hữu như đang thoi thóp, cũng có lúc bị chết nghẹt trong một xã hội quá đề cao vật chất này.
Cái chết thể lý chia tách con người ra khỏi thế giới, còn cái chết về tinh thần, dù đang sống trong thế giới này, nhưng cái chết đó cũng chia tách con người ra khỏi những sinh hoạt của nó, dân Do-thái ngày xưa, sau khi được định cư trong phần đất tổ tiên để lại, họ chạy theo mọi sinh hoạt tôn giáo của dân ngoại, trào lưu bất thường đó, vô tình giết chết mối tương quan giữa họ với Đấng đã giải thoát họ khỏi ách nô lệ của dân ngoại. Tiên tri Ê-zê-ki-en đã lên tiếng khuyên bảo họ, Thiên Chúa muốn đưa họ ra khỏi nấm mồ của tội phản bội đó, để mỗi ngày, cùng với sự cố gắng của con người, Thiên Chúa sẽ cho họ sống trong ân sủng của Ngài: “Ðây Chúa là Thiên Chúa phán: “Hỡi dân Ta, này Ta sẽ mở cửa mồ các ngươi, Ta sẽ kéo các ngươi ra khỏi mồ và dẫn dắt các ngươi vào đất Israel. Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống, Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, và các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và đã thi hành”. Những tính toán vụn vặt, những suy nghĩ thiển cận, vô tình trở thành nấm mồ vùi lấp đời sống tinh thần và tôn giáo của họ. Và hôm nay, Mẹ Giáo hội không muốn con cái mình, một lần nữa, phải chết như thế.
Các cộng đoàn giáo hội sơ khai trong thưở ban đầu, cũng rơi vào vết xe đổ của dân Do-thái ngày xưa, đó là thiếu xác tín trong niềm tin, thiếu sự chung thủy trong mối tương quan với Thiên Chúa, vì thế, thánh Phaolô đã khuyên nhủ cộng đoàn Roma, đừng để mình trở thành con cái sự tối tăm, nhưng hãy sống ơn gọi của con cái sự sáng: “Anh em thân mến, những kẻ sống theo xác thịt, thì không thể đẹp lòng Chúa. Còn anh em, anh em không sống theo xác thịt, nhưng sống theo tinh thần, nếu thật sự Thánh Thần Chúa ở trong anh em. Nếu ai không có Thánh Thần của Ðức Kitô, thì kẻ ấy không thuộc về Người”. Cách tốt nhất để sống ơn gọi làm con cái sự sáng, đó là sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Ngài là Thiên Chúa Ngôi Ba, luôn hiện diện và hoạt động giữa lòng Giáo hội, lắng nghe và thực hành những gì Ngài chỉ dạy, là phương thế duy nhất để nên thánh trong ơn gọi của mình.
Một người bạn của Đức Giêsu đã qua đời, đó là anh La-za-rô, nghe tin vậy, Ngài đến thăm, an ủi gia đình, đồng thời bày tỏ vinh quang Thiên Chúa qua sự kiện này. Ngài cho anh sống lại, dù đã chết 4 ngày, trước khi cho anh ta sống lại, người thân, bạn bè và các Tông đồ đều thấy sự chia cắt về thể lý giữa người sống và người chết, dù thương tiếc và buồn đau, nhưng con người đành bất lực, đến giờ của Thiên Chúa, mọi sự đều có thể: “Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy La-da-rô đã được an táng bốn ngày rồi. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Mar-tha đi đón Người, còn Ma-ri-a vẫn ngồi nhà. Mar-tha thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy”. Chúa Giêsu nói: “Em con sẽ sống lại”. Mar-tha thưa: “Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con cũng sẽ sống lại”. Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?”. Sự hoài nghi của người thân cho chúng ta thấy tính mong manh của niềm tin nơi con người, dù là bạn thân, hay người quen, nhưng họ chưa thể chấp nhận sự hiện diện của Đức Giêsu là sự hiện diện của Thiên Chúa làm người, Ngài chỉ được gọi là một tiên tri, hiểu theo một góc nhìn theo truyền thống tôn giáo của họ. Hơn nữa, họ chưa thể hình dung sự sống đời sau sẽ bắt đầu từ hôm nay như thế nào, vì thế, khi Đức Giêsu nói: Ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ, họ thấy có phần hoang mang trong niềm tin của mình.
Tin vào một Thiên Chúa duy nhất, sẽ giúp con người tìm thấy niềm vui ngay những phút giây hiện tại, bởi con người sống không thể thiếu định hướng cho ngày mai và tương lai, niềm tin vào Thiên Chúa và giáo lý của Ngài, sẽ giúp định hướng cuộc sống cho con người, đưa con người vào quỹ đạo của những giá trị siêu việt và đầy ý nghĩa. Thứ đến, niềm tin đó sẽ giúp con người có động lực, vượt qua những bế tắc trong hiện tại, vượt qua những thách đố của một xã hội nghiêng chiều về vật chất và thực dụng, những xu hướng đó đang dần kéo con người vào quỹ đạo của nó, biến con người trở thành những công cụ cho xã hội, trở thành những phương tiện cho xã hội thực dụng đó lên ngôi. Đó có thể được coi là cái chết về niềm tin, nó đang chia cắt con người với Thiên Chúa, nếu như con người thiếu vắng Ngài trong cuộc đời.
Tin vào một Thiên Chúa, sẽ giúp con người tìm thấy chính mình, được yêu thương, được chăm sóc, được tôn trọng và được sống trong niềm hạnh phúc làm người, làm con Thiên Chúa. Gia đình người bạn của Đức Giêsu tin vào Ngài, dù niềm tin đó chưa rõ ràng, nhưng họ rất hạnh phúc khi được gặp Ngài, hơn nữa, trong biến cố đặc biệt của gia đình, Con Thiên Chúa ghé thăm, họ được an ủi rất nhiều, và nỗi đau đó vơi đi rất nhiều vì được sẻ chia. Từ biến cố đó, Đức Giêsu còn giúp họ mở đôi mắt của niềm tin, để thấy được sự sống đời đời bên cạnh Thiên Chúa, mới là điểm đến mà con người hướng về. Điểm đến đó giúp con người ngay hiện tại, biết chọn lý tưởng sống cho bản thân, biết phân định những gì thuộc về thế gian, những gì thuộc về Nước Trời.
Sống giữa một xã hội con người không còn tin tưởng vào nhau nữa, thì hình ảnh Thiên Chúa, sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, sẽ là một chủ đề không tưởng, người ta chỉ quan tâm tới những giá trị thực dụng, những sinh hoạt mang tính hình thức và chóng qua, còn những giá trị tinh thần, những giá trị tâm linh, vô tình trở thành những chủ đề thứ yếu và lắm lúc quấy rầy cuộc sống của họ. Mẹ Giáo hội mời con cái suy tư về chủ đề sự chết trong tuần lễ này, để thấy cái chết thể lý, dù đáng sợ, nhưng chưa thực sự đáng sợ so với cái chết tinh thần, cái chết của niềm tin. Chúa Thánh Thần là Thần Chân lý, Ngài luôn hiện diện giữa lòng Giáo hội để dẫn dắt con cái của Ngài, thế nhưng, không thiếu những phút giây, Ngài sống trong sự cô đơn, lạc lõng giữa đoàn con cái. Dẫu biết rằng Thiên Chúa là chủ tể mọi loài và sự sống của con người, nhưng con người như muốn lãng quên điều đó, để tìm sự an phận và tung hoành trong sự tự do của bản thân. Thiên Chúa tôn trọng sự chọn lựa đó, Ngài vẫn đợi chờ con người trở về trong niềm tin và sự chân thành. Ước mong sao con người sớm nhận ra điều đó.
Lạy Chúa, sự hiện diện của Chúa trong thế giới này, giúp con người tìm lại được chính mình, bởi bấy lâu tội đã chia cắt, xin giúp chúng con luôn biết tìm kiếm Ngài, luôn biết tin tưởng vào sự quan phòng của Ngài, để mỗi người trong ơn gọi và hoàn cảnh hiện tại, chúng con luôn được ở trong vòng tay yêu thương của Chúa. Chúa là sự sống lại và là sự sống, xin giúp chúng con biết tìm kiếm sự sống đó cho mình ngay phút giây hiện tại, để được ở bên Chúa, hôm nay, ngày mai và mãi mãi. Amen.
Động từ “ra khỏi” dạy cho chúng ta một bài học: hãy “ra khỏi” chính mình, ra khỏi nấm mồ đang chôn cất mình, không cho mình sống một cuộc sống bình an, vui vẻ, yêu thương và tha thứ. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: nấm mồ đang chôn cất tôi là cái gì vậy? Gia đình tôi, bạn bè tôi, cờ bạc, rượu chè, bê tha, ngoại tình, tham lam, hà tiện, kiêu ngạo… Mỗi người trong chúng ta đều đang bị chôn trong những nấm mồ khác nhau, dẫu cho thân xác chúng ta đang còn sống.
Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy ra khỏi những nấm mồ đang chôn cất mình. Hãy “ra khỏi” con người cũ, nếp sống cũ, những hành vi bất chính tội lỗi và nhỏ nhen, thù hằn và ích kỷ, để tiến vào một cuộc sống mới thánh thiện, vị tha, công chính và yêu thương, một cuộc sống mới cho Chúa và cho tha nhân, chứ không chỉ sống cho mình.
Thật vậy, nếu chúng ta cứ dung túng và ngủ yên trong vũng bùn tội lỗi dơ nhớp của mình, nếu lúc nào chúng ta cũng coi mình hơn người khác, sống mà không nghĩ tới Chúa, sống và làm việc cho nhà Chúa, cho Giáo xứ, Giáo họ và cộng đoàn mà cứ như những người không có Chúa, thì chúng ta giống như những người đang chết và đang bị chôn trong chính cái tôi của mình, trong chính tội lỗi của mình.
Vì thế, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy “ra khỏi” nấm mồ của mình, để sống một cuộc sống mới. Những thực hành Mùa Chay: ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái giúp chúng ta ra khỏi nấm mồ của sự ích kỷ, chia rẽ và hận thù. Mùa Chay sắp hết rồi. Chúng ta đã làm chưa? Những việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh và cố gắng thật nhiều, cố gắng đến mức anh dũng. Hãy nhớ rằng chúng ta không thể làm gì nếu không có ơn Chúa. Vì Chúa đã nói không có thầy anh em chẳng làm gì được (x. Ga 15, 5).
Hãy cầu xin Chúa Giêsu giúp cho chúng ta có sức mạnh và can đảm, để bước ra khỏi những nấm mồ đang chôn cất chúng ta. Hãy trở về với Chúa vì Chúa chính là sự sống lại và là sự sống của chúng ta. Xin Chúa chúc lành cho những cố gắng của mỗi người chúng ta. Amen.