Chúa Nhật XXX Thường Niên – Năm C
Chúa Nhật Truyền Giáo
Lc 18, 9-14
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật XXX Thường Niên – Năm C
Ca nhập lễ
Tâm hồn những ai tìm Chúa, hãy mừng vui. Hãy coi trọng Chúa và quyền năng của Người, hãy luôn luôn tìm kiếm thiên nhan Chúa.
Dẫn nhập Thánh lễ:
Anh chị em thân mến! Tuần trước Chúa Nhật XXIX Chúa dạy chúng ta phải cầu nguyện trong tinh thần kiên trì và phó thác. Hôm nay Chúa Nhật XXX TN năm C, Chúa muốn nhắn nhủ mỗi người chúng ta phải cầu nguyện với lòng khiêm tốn như người thu thuế và xác nhận con người được công chính là nhờ chương trình của Chúa, chứ không phải do công lao của mình. Nhìn lại bản thân của mỗi người, chúng ta chỉ là một tạo vật nhỏ bé trong vũ trụ bao la, một con người với biết bao lầm lỗi, có làm được điều gì tốt lành thì cũng là do ơn Chúa ban. Chính nhờ lòng khiêm tốn mà lời cầu nguyện của chúng ta sẽ được Thiên Chúa xót thương và nhận lời. Chúng ta cùng cúi đầu chân thành nhìn lại những thiếu xót, những lầm lỗi, thiết tha dâng lên Chúa tấm lòng tan nát khiêm cung, xin Chúa xót thương tha thứ để xứng đáng cử hành các Mầu Nhiệm Thánh.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin cho chúng con được thêm lòng tin cậy mến và biết yêu chuộng những điều Chúa truyền dạy, hầu đáng hưởng những gì Chúa hứa ban. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: Hc 35, 15b-17. 20-22a
“Lời cầu nguyện của người khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây”.
Trích sách Huấn Ca.
Chúa là quan án, Người không xem sao vinh quang loài người. Chúa không vì nể kẻ nghịch với người nghèo khó, và Người nhậm lời kẻ bị áp bức kêu cầu. Người không khinh rẻ kẻ mồ côi khẩn nguyện, cũng không khinh rẻ người goá bụa, khi nó bày tỏ lời than van.
Nỗi hồn đắng cay, của lễ được nhận, và tiếng kêu oan kíp thấu tầng mây. Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường vọng lên tới các tầng mây: nó sẽ không yên lòng cho đến khi lời nguyện nó đến nơi, và nó chẳng rút lui cho đến khi Ðấng Tối Cao đoái nhìn. Chúa sẽ không trì hoãn, Người sẽ xét đoán những người công chính và sẽ ra lời phán quyết.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 33, 2-3. 17-18. 19 và 28
Ðáp: Kìa người đau khổ cầu cứu và Chúa đã nghe (c. 7a).
Xướng: Tôi chúc tụng Thiên Chúa trong mọi lúc, miệng tôi hằng liên lỉ ngợi khen Người. Trong Thiên Chúa linh hồn tôi hãnh diện, bạn nghèo hãy nghe và hãy mừng vui.
Xướng: Thiên Chúa ra mặt chống người làm ác, để tẩy trừ di tích chúng nơi trần ai. Người hiền đức kêu cầu và Chúa nghe lời họ, Người cứu họ khỏi mọi nỗi âu lo.
Xướng: Thiên Chúa gần gũi những kẻ đoạn trường, và cứu chữa những tâm hồn đau thương giập nát. Thiên Chúa cứu chữa linh hồn tôi tớ của Người, và phàm ai tìm đến nương tựa nơi Người, người đó sẽ không phải đền bồi tội lỗi.
Bài Ðọc II: 2 Tm 4, 6-8. 16-18
“Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha”.
Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi Timôthêu.
Con thân mến, phần cha, cha đã già yếu, giờ ra đi của cha đã gần rồi. Cha đã chiến đấu trong trận chiến chính nghĩa, đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin. Từ đây triều thiên công chính đã dành cho cha. Và trong ngày đó, Chúa là Ðấng phán xét chí công sẽ trao lại cho cha mũ triều thiên ấy; nhưng không phải cho cha mà thôi, mà còn cho những kẻ yêu mến trông đợi Người xuất hiện.
Lần đầu tiên cha đứng ra biện hộ cho cha, thì chẳng ai bênh đỡ cha, trái lại mọi người đều bỏ mặc cha: xin chớ chấp tội họ. Nhưng Chúa đã phù hộ cha và ban sức mạnh cho cha, để nhờ cha mà lời rao giảng được hoàn tất, và tất cả các Dân ngoại được nghe: vậy cha đã thoát khỏi miệng sư tử. Chúa đã giải thoát cha khỏi mọi sự dữ và cứu lấy cha để đưa vào nước Người trên trời. Nguyện chúc Người được vinh quang muôn đời! Amen.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 14, 5
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống; không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 18, 9-14
“Người thu thuế ra về được khỏi tội”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu nói dụ ngôn sau đây với những ai hay tự hào mình là người công chính và hay khinh bỉ kẻ khác: “Có hai người lên đền thờ cầu nguyện, một người biệt phái, một người thu thuế. Người biệt phái đứng thẳng, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, tôi cảm tạ Chúa vì tôi không như các người khác: tham lam, bất công, ngoại tình, hay là như tên thu thuế kia; tôi ăn chay mỗi tuần hai lần và dâng một phần mười tất cả các hoa lợi của tôi’. Người thu thuế đứng xa xa, không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực và nguyện rằng: ‘Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội’. Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không. Vì tất cả những ai tự nâng mình lên, sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nâng lên”.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúng ta hãy luôn nhớ mình chỉ là hư vô, để trong mọi sự, chúng ta biết hoàn toàn lệ thuộc và qui hướng vào Chúa, như nguyên nhân và cùng đích của chúng ta. Hiệp với toàn thể Hội Thánh chúng ta tha thiết khẩn nài Chúa chấp nhận những ước nguyện của chúng ta :
1. “Lời cầu nguyện của kẻ khiêm nhường lọt vào tận các tầng mây” – Xin cho Đức Hoàng, các Giám mục, các Linh mục luôn ý thức trách nhiệm đặc biệt của các ngài, là dâng lời cầu nguyện cho mọi thành phần Hội Thánh và xã hội, cần thực hiện trong tinh thần khiêm tốn để Chúa lắng nghe.
2. “Cha đã chạy đến cùng đường và đã giữ vững đức tin” – Xin cho các Kitô hữu luôn noi gương Thánh Phaolô tông đồ, nhìn nhận phận yếu hèn của con người, mà biết gắn bó với Đức Kitô để được trung thành trong đức tin và bước theo Chúa đến cùng.
3. “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống” – Xin Chúa thức tỉnh lương tâm các nhà lãnh đạo các Quốc Gia, để họ bớt kiêu căng, chấm dứt chạy đua vũ trang và biết dùng tiền của, sức lực mà kiến tạo một thế giới thịnh vượng và an bình
4. “Xin thương xót tôi là kẻ có tội” – Xin cho mọi người trong giáo xứ chúng ta, nhận thức được tình trạng tội lỗi của mình như người thu thuế, để mau mắn canh tân cuộc sống trong tâm tình khiêm tốn, cậy trông và yêu mến chân thành.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết xử dụng muôn hồng ân Chúa ban, trong tâm tình biết ơn và tránh những tư tuởng, hành vi tự mãn, tự tôn hoặc những mặc cảm tự ti buồn tủi, để chúng con luôn là dấu chỉ của niềm vui, sự hiệp nhất và phục vụ chân thành. Chúng con cầu xin….
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin nhìn đến lễ vật chúng con dâng để tỏ lòng kính tôn thần phục và xin cho lễ tạ ơn này góp phần làm vinh danh Chúa. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Xin cho chúng tôi được hân hoan mừng Chúa chiến thắng, và nhân danh Thiên Chúa, chúng tôi nâng cao ngọn cờ.
Hoặc đọc:
Đức Kitô đã yêu thương chúng ta, và đã phó mình làm của lễ tế thơm tho ngọt ngào dâng lên Thiên Chúa vì chúng ta.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, xin cho chúng con được hưởng nhờ trọn vẹn ơn thiêng của bí tích chúng con vừa cử hành để nhờ thánh lễ tưởng niệm Ðức kitô chịu thương khó, chúng con được sống lại với Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời…
Suy niệm
Con mắt – Lm. Vũ Đình Tường
Mắt là đèn soi cho chúng ta. Mắt giúp quan sát, nhìn sự việc. Có người ví von mắt là cửa sổ của tâm hồn. Rất nhiều trường hợp hai người cùng quan sát một sự việc, cùng dùng mắt kết quả nhìn khác nhau. Trường hợp hai người nghe cùng câu chuyện do một người kể, kết quả nhận định khác nhau. Tai, mắt hay ngũ quan không nắm vai trò chủ động trong mọi quyết định. Mắt thấy, tai nghe là bước mở đường cho bước kế tiếp đưa đến phán đoán. Khi phán đoán tai mắt đóng góp bao nhiêu phần trăm?
NHÌN KHÁC NHAU
Điều chắc chắn hầu như mọi biến cố quan trọng trong đời mỗi người nhìn một cách khác nhau, nhận định sự việc khác nhau mặc dù họ nhìn chung một sự kiện, nghe cùng một câu chuyện, do một người kể nhưng phán đoán mỗi người mỗi khác. Mắt giúp quan sát, nhìn đi nhìn lại cũng chỉ rõ bên ngoài, không thấu suốt nội tình, bên trong. Phán đoán dựa vào quan sát bên ngoài để đoán những gì bên trong đưa đến kết quả có thể là đúng cũng có thể sai. Bởi vì đoán nên không thể quả quyết. Khi quả quyết thì không còn đoán. Nếu đoán thì không thể xác quyết vì có thể còn những chuẩn đoán chính xác hơn, hợp lí hơn.
XÉT MÌNH
Phúc âm đưa ra trường hợp hai người cầu nguyện trong đền thờ. Một được Chúa nhận lời; một không. Cả hai cùng xét mình, nhìn lại cách ăn, nết ở trong thời gian qua. Trong thánh điện kết quả xét mình của hai người đối nghịch nhau.
Một đứng thẳng, ưỡn ngực cầu nguyện; một cúi mặt, đấm ngực ăn năn.
Một đứng gần gian cung thánh; một xa tít cuối đền thờ.
Một tự hào ăn ngay, ở lành; một hối hận vì tội đã phạm.
Một vỗ ngực tự xưng công chính giữ trọn luật; một đấm ngực ăn năn xin Chúa xót thương.
Cả hai đều nhìn vào chính mình, nhận xét về chính mình, cầu nguyện trong đền thờ. Người tự nhận là tội nhân được tôn vinh; người tự tôn vinh bị hạ xuống.
HAI NGỘ NHẬN
Tự nhận mình công chính là một ngộ nhận lớn, bắt nguồn từ kiêu hãnh, tự phụ. Thực thi đức ái và giữ trọn luật là nhiệm vụ chung mọi thành phần trong xã hội, không trừ ai. Làm xong, làm tốt nhiệm vụ được coi là công dân tốt. Trong Giáo Hội họ là người đầy tớ khôn ngoan và trung thành. Hoàn thành nhiệm vụ không biến ta thành công chính. Ta trở nên công chính nhờ Đức Kitô. Nói theo ngôn ngữ Phúc âm hôm nay ta được công chính hoá nhờ lòng thương xót Chúa.
‘Lậy Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi’.
Nhờ thành tâm thống hối, đấm ngực ăn năn sấp mình trước Thánh Nhan xin chúa thương xót để trở nên công chính. Như thế công chính hoá không phải do tài năng con người tự kiếm mà là đặc ân Chúa ban do khiêm nhường, thống hối, thành tâm và tạ ơn.
Khiêm nhường là con đường mở thêm lối đi dẫn ta đến cùng Chúa, đưa ta tới tha nhân. Kêu ngạo là con đường một chiều, không ngã rẽ. Đường dài mấy cũng có cuối đường. Như thế kêu ngạo là con đường cụt, đường dẫn đến sự chết. Người đi đường cụt bị tắc nghẽn nơi cuối đường. Không lối thoát.
Ngộ nhận thứ hai của ngưòi tự nhận công chính là soi mói, buôn điều. Không biết đang đi trên đường cụt. Đến khi nhận ra đã cuối ngày. Kêu ngạo, tự phụ che mất đường công chính. Tôn mình lên cao đến nỗi chỉ nhìn thấy người, còn mình thì không. Dùng quá nhiều thời gian kháo chuyện thiên hạ. Hãy nghe anh ta nói: ‘con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia’.
Trong lời cầu anh nhắc đến tạ ơn. Tạ ơn chân thành luôn đi với khiêm tốn. Thiếu lòng thành việc tạ ơn chỉ là môi mép. Người tự phụ không cần Chúa vì tin vào khả năng mình.
Nhắc đến việc tốt lành: ăn chay mỗi tuần hai lần và công đức mười phần trăm mức thu nhập.
Không thấy anh nhắc đến việc thương người nghèo, cho kẻ đói ăn, khát uống. Không nhắc đến thăm người đau yếu bệnh tật. Những người này không có trong đời của anh có lẽ vì ‘con không như bao kẻ khác’
PHÚC HỌA
Ngộ nhận xảy ra cho mọi thời đại. Thiếu cẩn trọng phúc biến ra hoạ, rơi vào ngộ nhận.
Thay vì đi xét mình, xét tội mình thì kháo tội người, buôn điều, chỉ trích, phê bình người khác. Tưởng như thế là giúp người, làm đẹp lòng Chúa. Lỗi lầm dễ mắc phải, xét tội người khác, cáo lỗi người khác tưởng làm như thế là làm phúc, giúp người trở về đường ngay nẻo chính.
Chê người là tự phong cho mình hay hơn.
Nói xấu người là tự cho mình tốt hơn.
Chỉ trích người là tự nhận mình đúng, người sai.
Làm thế là tự hại chính mình, đang chích cho mình liều thuốc Pharisiêu.
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật Truyền Giáo
Dẫn vào Thánh lễ
Hôm nay là Khánh nhật Truyền giáo. Hội Thánh dành riêng để cầu nguyện cho việc truyền giáo. Đồng thời nhắc nhở chúng ta về bổn phận cầu nguyện, đặc biệt cho việc truyền giáo. Truyền giáo là bản chất của Hội Thánh, vì thế mỗi Kitô hữu có trách nhiệm và bổn phận truyền giáo, nghĩa là đem tình yêu của Chúa đến cho mọi người.
Giờ đày trong tâm tình sốt mến, chúng ta cùng ăn năn thống hối để dâng Thánh lễ.
Ca nhập lễ
Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa muôn dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc; vì Chúa hùng vĩ và rất đáng ngợi khen.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa muốn tất cả mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý, xin hãy nhìn đến cánh đồng đầy lúa chín và đoái thương sai thợ gặt đến rao giảng phúc âm cho muôn loài, để dân Chúa được lời hằng sống qui tụ và được thần lực các bí tích thúc đẩy, biết tiến bước trên đường cứu độ và bác ái. Nhờ Ðức Kitô Chúa chúng con….
Bài Ðọc I: Is 60, 1-6
Trích sách Tiên Tri Isaia.
Ðứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Ðức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi. Chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước. Ðưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông. Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Ðức Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 18, 2-5
Ðáp: Âm thanh họ truyền khắp địa cầu.
Xướng: 1) Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm. Ngày qua mách bảo cho ngày tới, đêm này kể lại với đêm kia. – Ðáp.
2) Chẳng một lời một lẽ, chẳng nghe thấy âm thanh, mà tiếng vang đã dội khắp hoàn cầu và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển. Chúa căng lều cho thái dương tại đó. – Ðáp.
Bài Ðọc II: 1Tm 2,1-8
Trích Thư Thánh Phaolô Tông Ðồ Gửi Tín Hữu Timôthê.
Vậy tiên vàn mọi sự, tôi truyền phải dâng lời khẩn xin, cầu nguyện, kỳ đảo, tạ ơn cho hết mọi người, cho vua Chúa và hết các người quyền cao chức trọng, ngõ hầu ta được qua một đời yên hàn, ổn định, trong đạo đức vẹn toàn và nghiêm chỉnh. Ðó là điều tốt lành, đẹp lòng Thiên Chúa, Cứu Chúa của ta. Người muốn cho mọi người được cứu thoát và được nhìn biết sự thật. Vì chỉ có một Thiên Chúa và cũng chỉ có một Ðấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại: một người, là Ðức Yêsu, Ðấng đã thí mình làm giá chuộc thay cho mọi người; chứng đã tuyên ra vào chính thời chính buổi, mà tôi đã được đặt làm lệnh sứ, làm tông đồ — và tôi nói thật, chứ không nói dối — làm tấn sĩ dân ngoại, trong đức tin, trong sự thật.
Vậy tôi muốn nam nhân cầu nguyện mọi nơi thì giăng lên những bàn tay lành thánh, không nóng giận, không cãi cọ.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài đọc sau đây:
Bài Ðọc II: Cv 1, 3-8
Trích sách Công Vụ Tông Ðồ.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, Người lại còn dùng nhiều cách để chứng tỏ cho các ông thấy là Người vẫn sống sau khi đã chịu khổ hình: trong bốn mươi ngày, Người đã hiện ra nói chuyện với các ông về Nước Thiên Chúa. Một hôm, đang khi dùng bữa với các Tông Ðồ, Ðức Giêsu truyền cho các ông không được rời khỏi Giêrusalem, nhưng phải ở lại mà chờ đợi điều Chúa Cha đã hứa, “điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới, đó là: ông Gioan thì làm phép rửa bằng nước, còn anh em thì trong ít ngày nữa sẽ chịu phép rửa trong Thánh Thần.
Bấy giờ những người đang tụ họp ở đó hỏi Người rằng: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quốc Ítraen không?” Người đáp: “Anh em không cần biết thời giờ và kỳ hạn Chúa Cha đã toàn quyền sắp đặt, nhưng anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giêrusalem, trong khắp các miền Giuđê, Samari cho đến tận cùng trái đất”.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Mt 28, 19-20
Alleluia, alleluia! – Thầy bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ. – Alleluia.
Phúc Âm: Mc 16,15-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Mác-cô.
Và Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội. Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỉ, nói các thứ tiếng, Chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe”.
Vậy sau khi đã nói với họ rồi, Chúa Yêsu được nhắc về trời và ngự bên hữu Thiên Chúa. Còn họ thì ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng họ hoạt động, và củng cố lời bởi phép lạ kèm theo.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài Phúc Âm sau đây:
Phúc Âm: Mt 28, 16-20
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Ðức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. Ðức Giêsu đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài Phúc Âm sau đây:
Phúc Âm: Lc 24, 44-53
Khi hai môn đệ từ Emmau trở về còn đang nói với nhóm Mười Một, thì chính Ðức Giêsu đứng giữa các ông. Người bảo: “Khi còn ở với anh em, Thầy đã từng nói với anh em rằng tất cả những gì sách Luật Môsê, Các Sách Ngôn Sứ và các Thánh Vịnh đã chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm.”
Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh và bảo: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Ðấng Kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, và phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân của những điều này. Và đây, chính Thầy sẽ gửi cho anh em điều Cha Thầy đã hứa. Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống.”
Sau đó, Người dẫn các ông tới gần Bêtania, rồi giơ tay chúc lành cho các ông. Và đang khi chúc lành, thì Người rời khỏi các ông và được rước lên trời. Bấy giờ các ông bái lạy người, rồi trở lại Giêrusalem, lòng đầy hoan hỉ, và hằng ở trong Ðền Thờ mà chúc tụng Thiên Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến, chúng ta được mời gọi nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, tin tưởng và phó thác nơi Người trong mọi hoàn cảnh đời sống. Giờ đây chúng ta dâng lên Người những lời khẩn nguyện, xin Người trở thành bạn đồng hành trong cuộc đời của chúng ta.
1. Chúng ta cầu nguyện cho các mục tử của Giáo Hội, để các ngài chu toàn sứ mạng Chúa đã trao phó, trong tinh thần dấn thân phục vụ, ngõ hầu bày tỏ cho mọi người lòng nhân hậu của Chúa.
2. Chúng ta cầu nguyện cho các nhà truyền giáo đang nỗ lực đem Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Xin cho những ai chưa biết Chúa được biết Chúa nhờ lời rao giảng và nhờ chứng tá đời sống của các nhà truyền giáo.
3. Chúng ta cầu nguyện cho mọi người thuộc mọi dân tộc và ngôn ngữ, biết tôn trọng thiên luật mà Thiên Chúa đã ghi khắc trong tâm khảm mỗi người, nhờ đó họ trả cho Xê-da những gì thuộc về Xê-da và trả cho Chúa những gì thuộc về Chúa.
4. Chúng ta cầu nguyện cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta, kiên vững trong đức tin, quảng đại trong đức ái, nhẫn nại trong niềm hy vọng, nhờ đó đời sống của chúng ta trở thành chứng tá về sự hiện diện của Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu, xin lắng nghe lời cầu nguyện của chúng con. Xin Thần Khí Chúa giúp chúng con biết chung tay xây dựng một thế giới công bằng, bác ái và huynh đệ hơn. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin nhìn đến dung nhan của Ðức Kitô Ðấng đã hiến thân làm giá cứu chuộc mọi người, để nhờ Người, từ đông sang tây, danh Chúa được ngợi khen nơi các dân tộc và khắp mọi nơi một của lễ duy nhất được hiến dâng lên Chúa uy linh. Nhờ Ðức…
Ca hiệp lễ
Chúa phán: Các con hãy dạy dỗ cho muôn dân, tuân giữ mọi điều Thầy truyền cho các con. Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con đã được hồng ân cứu chuộc bổ dưỡng, chúng con nài xin Chúa, nhờ ơn cứu độ muôn đời trợ giúp, cho đức tin chân thật luôn luôn tăng trưởng. Nhờ Ðức Kitô…
Suy niệm
ĐƯỢC RỬA TỘI VÀ ĐƯỢC SAI ĐI
SUY NIỆM LỄ KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO
+TGM Giuse Vũ Văn Thiên
“Được rửa tội và được sai đi, Giáo Hội Chúa Kitô thi hành sứ mạng trong thế giới”, đó là chủ đề cho tháng Mười năm nay, được Đức Thánh Phanxiccô tuyên bố là “Tháng Truyền Giáo Ngoại Thường”. Mục đích của Tháng truyền giáo ngoại thường là giúp các tín hữu thấy tính thời sự và cấp thiết của công cuộc loan báo Tin Mừng, vì lời Chúa Giêsu sai các tông đồ ra đi loan truyền Tin Mừng vẫn mang tính thời sự. Công đồng Vantican II khẳng định: “Truyền giáo là bản chất của Giáo Hội lữ hành”. Tuy vậy, trong suy tư và thực hành của số đông những người Công giáo, khái niệm “Truyền giáo” thực sự ít được để ý đến. Làm thế nào để hâm nóng nơi mỗi người tín hữu tinh thần truyền giáo, là căn bản của đời sống Kitô hữu? Đó là một trong những băn khoăn của Giáo Hội, của Đức Thánh Cha và của những vị chủ chăn ở mọi cấp độ.
Khái niệm “được sai đi” gắn liền với Bí tích Thanh tẩy. Bởi lẽ Bí tích này trao cho chúng ta ba sứ mạng quan trọng: Ngôn sứ, Tư tế và Vương đế. Chính vì thế, người giáo dân không được giữ lối suy nghĩ cũ kỹ trước đây coi việc truyền giáo là của “nhà tu” hoặc của một số người được tuyển lựa. Mỗi tín hữu đều có bổn phận thực thi sứ mạng này, tùy hoàn cảnh, khả năng và điều kiện của mình. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu, một nữ tu sống trong Đan viện Các-men, không bao giờ ra ngoài và không tiếp xúc với ai. Tuy vậy, thánh nữ có tinh thần truyền giáo, qua những ước ao cháy bỏng để “đem Thánh giá đi trồng tại mọi miền đất trên thế giới” như lời Thánh nữ đã viết. Vì vậy, Thánh nữ cộng tác vào sứ mạng truyền giáo của Giáo Hội bằng lời cầu nguyện. Nhiệt huyết truyền giáo được thể hiện qua những lời cầu nguyện sốt sắng và những hy sinh trong cuộc sống hằng ngày. Vì lẽ đó, Thánh Têrêsa được đặt làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, ngang hàng với Thánh Phanxicô Xaviê, là người rảo khắp vùng Á châu để rao giảng Tin Mừng. Qua việc chọn Thánh Têrêsa làm Bổn mạng các xứ truyền giáo, Giáo Hội khẳng định với chúng ta: hiệu quả của công cuộc truyền giáo không chỉ đến từ những hoạt động bên ngoài, mà còn đến từ lời cầu nguyện và những thao thức làm cho Chúa Giêsu được mọi người nhận biết.
Nhìn lại thực tế các cộng đoàn tín hữu Công giáo tại Việt Nam, một tác giả đã nhận định: “Giáo dân tự hài lòng và an tâm với những sinh hoạt và tổ chức nội bộ, chưa ý thức vận dụng những thuận lợi sẵn có này cho công cuộc truyền giáo. Các linh mục chuyên chăm việc mục vụ hơn là truyền giáo, ưu tiên lo cho giáo dân hơn là đi tìm lương dân, hoạt động nghiêng về điều hành hơn là mở rộng, quản lý hơn là khám phá, suy nghĩ theo lối mòn hơn là tư duy cải biến, chuộng an thân hơn là dấn thân” (Trích bài viết của Lm G.B Trương Thành Công trong buổi gặp gỡ tại Vinh từ ngày 21-23/8/2019 do UB LBTM của HĐGM VN tổ chức). Quả vậy, hầu hết nơi các cộng đoàn và các cá nhân, chúng ta hài lòng với một tổ chức ổn định trong giáo xứ, nên ít để ý tới việc “đi ra các vùng ngoại biên” như Đức Thánh Cha mời gọi.
“Tháng truyền giáo ngoại thường” đã đến phần cuối và sẽ kết thúc. Tuy vậy tinh thần truyền giáo gắn liền với đời sống đức tin của người Kitô hữu. Cũng trong bài viết được nêu trên đây, tác giả nêu ba bước trong lộ trình truyền giáo cho lương dân: tiếp cận, xây dựng yêu thương và kể lại những điều may lành Chúa làm cho bản thân, như chứng từ chân thực về đức tin và vào sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời. Phương pháp này nhằm tạo sự thân thiện đối với anh chị em không cùng tôn giáo, không mang tính chiêu dụ nhưng khiêm tốn và chân thành trình bày đức tin của mình cho người khác.
Điều cần phải thực hiện trước hết khi nói đến truyền giáo, đó là xây dựng gia đình bền vững trong đức tin và trong tình yêu thương. Một gia đình tốt sẽ có sức lan tỏa sức mạnh truyền giáo đến môi trường xung quanh. Tình nghĩa vợ chồng, mối tương quan hài hòa giữa anh chị em và các thế hệ con cháu… tất cả là một chứng từ hùng hồn và hiệu quả cho đời sống đức tin. Khởi đi từ gia đình, chúng ta liên hệ đến khái niệm “gia đình” rộng lớn hơn, tức là giáo xứ, vì giáo xứ là một gia đình lớn gồm nhiều gia đình nhỏ hợp lại. Tình liên đới hiệp thông nơi cộng đoàn giáo xứ là một trong những điều kiện căn bản để thực thi sứ mạng truyền giáo. Tiếc thay đây đó còn tồn tại những chia rẽ nghiêm trọng nơi các cộng đoàn, như phản chứng của Tin Mừng và làm méo mó hình ảnh của Giáo Hội Chúa Kitô. Những hoạt động từ thiện nhằm giúp những người cơ nhỡ, dù là người đồng đạo hay anh chị em lương dân, đều diễn tả sinh động đức Ái là cốt lõi của Tin Mừng và giúp mọi người nhận ra các tín hữu là con của Cha trên trời.
“Có một thuộc tính không thể thiếu đối với những người bước vào đời sống tông đồ. Một điều tối quan trọng và thiết yếu, đó là họ phải có đời sống thánh thiện, Bởi vì ai rao giảng Thiên Chúa thì bản thân họ phải là một người của Thiên Chúa…” (Maximum Illud, số 26). Sự thánh thiện của mỗi chúng ta là điều cần thiết để Tin Mừng của Chúa được lan tỏa trong cuộc sống hôm nay. Đó cũng là điều mỗi người phải thực hiện trước hết, nếu muốn trở nên tín hữu đích thực và những thừa sai loan báo Tin Mừng.
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT TRUYỀN GIÁO – CN 30 TN C
Mt 28, 16-20.
LM ĐAN VINH - HHTM
LOAN BÁO TIN MỪNG TRONG THẾ GIỚI HÔM NAY
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Mt 28, 16-20.
(16) Mười một môn đệ đi tới miền Ga-li-lê, đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Đức Giê-su đến gần, nói với các ông: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. (20) Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
2. Ý CHÍNH:
Trong bài Tin mừng của thánh Mát-thêu hôm nay, Đức Giê-su Phục Sinh hẹn các Tông đồ đến một ngọn núi tại miền Ga-li-lê. Ở đó sau khi tuyên bố được Chúa Cha trao toàn quyền trên trời dưới đất, Chúa Phục Sinh đã chỉ thị cho các Tông đồ đi khắp thế gian thâu nạp môn đồ cho Người, làm phép rửa cho họ “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”. Người cũng hứa sẽ ở cùng các ông mọi ngày cho đến tận thế.
3. CHÚ THÍCH:
- C 16-17: + Mười một môn đệ: Đây là Nhóm Mười Hai, nhưng thiếu Giu-đa, kẻ phản bội, và lúc đó Mát-thi-a chưa được bổ sung vào danh sách để thế chỗ Giu-đa (x. Cv 1,15-26). Nhóm này là Tông Đồ Đoàn được trao quyền lãnh đạo Hội Thánh. Còn về Giu-đa Ít-ca-ri-ốt: khi thấy Thầy Giê-su sắp bị kết án tử hình, anh ta đã hối hận, liền đem ba mươi quan tiền trả lại cho các đầu mục Do thái nhưng bị từ chối. Giu-đa thất vọng ném tiền vào gian cung thánh Đền thờ rồi đi thắt cổ tự tử (x. Mt 27,3-5). + Đi tới miền Ga-li-lê: Tức là đến miền đất dân ngoại theo chỉ thị của Chúa Phục Sinh, qua bà Ma-ri-a Mác-đa-la (x. Mt 28,10), và cũng để noi gương Đức Giê-su đã khởi đầu rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại xứ Ga-li-lê (x. Mt 4,12-17), + Đến ngọn núi Đức Giê-su đã truyền cho các ông đến: Ngày nay người ta không thể xác định đây là núi nào. Nhưng có lẽ Mát-thêu chỉ muốn nói đến ngọn núi với ý nghĩa tượng trưng: Núi là nơi Thiên Chúa gặp gỡ và mặc khải cho loài người. Chẳng hạn: Đức Chúa đã trao Thập Giới cho Mô-sê trên núi Khô-rép (x. Xh 24,13.15.18). Đức Giê-su cũng đã công bố Hiến Chương Nước Trời hay Tám Mối Phúc Thật trên núi, gọi là “Bài Giảng Trên Núi” (x. Mt 5,1-7,27). + Thấy Người, các ông bái lạy: Sau nhiều lần hiện ra để củng cố niềm tin cho môn đệ, trước khi về trời Chúa Phục Sinh đã hiện ra để trao cho các ông sứ mệnh loan Tin mừng đi khắp thế gian. Cử chỉ bái lạy nói lên các ông đã tin Chúa Giê-su là “Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa”. + Nhưng có mấy ông lại hoài nghi: Câu này xem ra mâu thuẫn với thái độ bái lạy vừa nói. Thực ra, hoài nghi là thái độ phải xảy ra nơi các môn đệ trước khi các ông đạt được đức tin hoàn hảo. Chắc là Mát-thêu muốn nói đến sự hoài nghi đã xảy ra trước đó mà ngài chưa lần nào đề cập đến. Như vậy đây chỉ là một sự trục trặc về lối hành văn, chứ không mâu thuẫn về mặt tư tưởng. Ngoài ra cũng có người cho rằng: Vì đây là cuộc hiện ra để “trao sứ mệnh” cho Nhóm Mười Một đại diện Hội Thánh, nên sự hoài nghi ở đây ám chỉ sự hoài nghi nói chung của Hội Thánh xưa nay: Mầu nhiệm Phục Sinh tuy là một sự thật hiển nhiên, nhưng bao giờ cũng vẫn có kẻ còn hoài nghi.
- C 18-19: +Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất: Lúc khởi đầu sứ mệnh, cũng trên núi cao, Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban (x. Mt 4, 8-10). Nhưng giờ đây Người tuyên bố đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm lời tuyên sấm của Ngôn sứ Đa-ni-en về sứ mệnh của Con Người như sau: “Đấng Lão Thành trao cho Người quyền thống trị, vinh quang và vương vị; Muôn người thuộc mọi dân tộc, quốc gia và ngôn ngữ đều phải phụng sự Người. Quyền thống trị của Người là quyền vĩnh cửu, không bao giờ mai một; Vương quốc của Người sẽ chẳng hề suy vong, khác hẳn với mọi vương quốc. Nó sẽ ăn hết toàn cõi đất, sẽ dẫm nát và nghiền tan” (Đn 7, 14). + Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ: Hội Thánh phải dùng quyền Đức Giê-su ban để nhân danh Người mà làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người. Trước hết là dân Do Thái (x. Mt 10,5-6), rồi đến mọi dân nước trên thế giới (x. Mt 8, 11). + Làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần: Để người ta trở nên môn đệ Đức Giê-su, các Tông đồ phải làm phép rửa tái sinh họ bằng nước và Thần Khí (x. Ga 3, 3.5). Phép rửa được cử hành nhân danh Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28, 19).
- C 28,20: + Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em: Sứ mệnh các Tông đồ gồm cả quyền dạy dỗ các tín hữu cho tới khi Hội Thánh đạt tới tình trạng viên mãn (x. Ep 1,23). + Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế: Chúa Phục Sinh hứa sẽ luôn ở trong Hội Thánh cho đến ngày tận thế nhờ Chúa Thánh Thần và qua các vị mục tử, để giúp Hội Thánh chu toàn sứ mệnh “được sai đi”. Qua đó Đức Giê-su chứng tỏ là “Đấng Em-ma-nu-en: Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 23).
4. CÂU HỎI: 1)Tại sao chỉ có mười một Tông đồ hiện diện lúc Chúa lên trời? 2) Số phận của Giu-đa Ít-ca-ri-ốt thế nào sau khi phạm tội phản nộp Thầy? 3) Tại sao Chúa Phục Sinh truyền cho các Tông đồ trở về Ga-li-lê? 4) Ngọn núi Chúa truyền cho các Tông đồ đến là núi nào? 5) Mấy kẻ còn hoài nghi gồm những ai và họ hoài nghi điều gì? 6) Đức Giê-su đã từ chối quyền hành trên các nước thế gian do Xa-tan hứa ban vào lúc nào? 7) Đức Giê-su đã được ai trao toàn quyền trên trời dưới đất, ứng nghiệm sấm ngôn của vị Ngôn sứ nào và nội dung lời sấm đó thế nào? 8) Sau khi thâu nạp môn đệ, Hội Thánh phải tiếp tục làm gì cho họ? 9) Làm thế nào để loan báo Tin Mừng cách hữu hiệu cho lương dân hôm nay?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.
2. CÂU CHUYỆN:
1) DẤN THÂN LOAN BÁO TIN MỪNG NHƯ THÁNH PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê:
Phan-xi-cô Xa-vi-ê chào đời vào năm 1506 tại Tây Ban Nha trong một dòng tộc quý phái. Khi cảm nhận sâu sắc bởi câu Lời Chúa: “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn nào được ích gì” (Lc 9, 25), ngài đã gác lại những khát vọng hoài bảo của mình và trở thành cánh tay cộng tác đắc lực với thánh I-nha-xi-ô trong việc truyền giáo theo lệnh Chúa truyền trước khi về trời: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28, 18-20).
Trong sứ vụ được sai đi rao giảng cho vùng Á Châu rộng lớn, thánh nhân đã mang về rất nhiều linh hồn cho Chúa Ki-tô bằng thái độ hiền lành, ứng xử khiêm tốn lịch sự và sống kết hợp thâm sâu với Thiên Chúa nên ngài đã gặt hái được nhiều hoa trái là đưa được rất nhiều linh hồn về cho Chúa.
Thánh nhân qua đời ngày 03/12/1552, được Đức Giáo Hoàng Grê-gô-ri-ô XV tuyên thánh cùng với thánh I-nha-xi-ô vào năm 1622 và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo.
Nhìn vào tấm gương của nhà truyền giáo tài ba lỗi lạc này có nhiều nét giống với vị thánh tông đồ dân ngoại Phao-lô: Phan-xi-cô có tấm lòng nhiệt huyết dồi dào. Một ngọn lửa truyền giáo lúc nào cũng bừng cháy trong lòng, thôi thúc thánh nhân đem ánh sáng đức tin loan truyền cho mọi người bằng việc rao giảng Tin Mừng. Dù gặp vô vàn khó khăn thử thách về cách thức ăn ở tại vùng đất xa lạ, khác biệt ngôn ngữ, khác về văn hóa… Nhưng trên tất cả, ngài luôn sẵn lòng đón nhận và quyết tâm vượt qua, “Miễn là Đức Ki-tô được rao giảng” (Pl 1, 18).
Chúng ta hãy xin Chúa đốt lên trong lòng chúng con ngọn lửa tông đồ truyền giáo để noi gương thánh Phan-xi-xô, can đảm ra khỏi ranh giới an toàn, mang hạt giống Lời Chúa đến gieo vào lòng mọi người chung quanh bằng việc đi bước trước để làm quen, bằng những hành động yêu thương cụ thể, bằng việc rao giảng Lời Chúa kèm theo lời cầu nguyện chân thành cho mọi người mà chúng ta có dịp gặp gỡ tiếp xúc.
2) HY SINH CẦU NGUYỆN NHƯ THÁNH NỮ TÊ-RÊ-XA HÀI ĐỒNG GIÊ-SU:
Tê-rê-xa sinh ngày 02 tháng 01 năm 1873 tại Alecon, Normandie, Pháp. “Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su” là tên nhận khi khấn Dòng. Tê-rê-xa mồ côi mẹ từ năm bốn tuổi, được cha là ông Louis Martin săn sóc và giáo dục chu đáo. Dù ở tuổi vị thành niên chưa được phép tu Dòng, nhưng Tê-rê-xa năm 15 tuổi đã được Ðức Giáo Hoàng Lêô 13 đặc cách cho vào tu trong Dòng kín Carmêlô thành Lisieux, nước Pháp.
Tê-rê-xa chỉ là một nữ tu hèn mọn quanh năm suốt tháng đóng khung trong bốn bức tường tu kín cho đến khi lìa trần ngày 30-9-1897 và thời gian tu mới được 9 năm. Vậy mà chỉ 28 năm sau, năm 1925, Tê-rê-xa đã được Ðức Giáo Hoàng Piô XI tôn phong lên bậc Hiển Thánh. Hai năm sau, lại được đặt làm Quan Thày các Nhà Truyền Giáo và các Xứ Truyền Giáo, cùng với thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Gần đây Thánh Giáo Hoàng Gio-an Phao-lô II còn nâng Tê-rê-xa lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh vào năm 1997.
Thánh nữ Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su chỉ là một thiếu nữ hèn mọn, làm các việc tầm thường trong môi trường tu viện khép kín, không lập được thành tích nào nổi bật về truyền giáo. Nhưng “đằng sau những việc nhỏ bé hằng ngày ấy lại ẩn chứa một tình yêu cao cả”: Yêu mến Chúa, rồi từ Chúa, yêu thương các nhà truyền giáo và các xứ truyền giáo. Chị đã làm việc loan báo Tin Mừng bằng lời cầu nguyện, bằng những hy sinh hãm mình, giống như “những bông hồng nhỏ” dâng lên Chúa Hài Ðồng để cầu xin cho lương dân sớm được ơn nhận biết tin yêu Chúa.
Thánh Tê-rê-xa Hài Ðồng Giê-su, được tôn phong là Tiến Sĩ Hội Thánh, Bổn Mạng các Xứ Truyền Giáo chính nhằm nêu gương sáng về cách thức truyền giáo cho con người thời đại hôm nay. Đó là truyền giáo bằng một cuộc sống tin yêu giống như “Con thơ phó thác” trong bàn tay quan phòng của Thiên Chúa.
3) SỐNG BÁC ÁI PHỤC VỤ NHƯ MẸ TÊ-RÊ-SA CAN-QUÝT-TA:
Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta đã nêu gương truyền giáo bằng việc chia sẻ ngọn lửa yêu thương cụ thể. Mẹ không giảng Tin Mừng bằng lời nói, nhưng bằng tình yêu kèm theo cử chỉ thân ái với những người nghèo đói bệnh tật và bị bỏ rơi. Mẹ cũng không chủ trương yêu mọi người chung chung, nhưng là yêu từng con người cụ thể gặp được trong cuộc sống. Mẹ nói: “Đối với chúng tôi, điều quan trọng là yêu thương từng người một. Để thương yêu một người thì trước tiên phải đến gần người ấy… Tôi chủ trương một người đến với một người vì mỗi người đều là hiện thân của Đức Ki-tô… Người đó phải là con người duy nhất trên thế gian trong giây phút đó.” Với tâm tình này, Mẹ Tê-rê-xa đã nhận được sự cảm phục của nhiều người trên thế giới. Ngày nay, công việc truyền giáo của Dòng Thừa Sai Bác Ái của mẹ Tê-rê-sa được phân thành nhiều phương diện phục vụ như sau:
- Việc rao giảng Tin Mừng: qua những lớp Giáo Lý, học hỏi Kinh Thánh, nhóm hoạt động Công Giáo, và thăm viếng bệnh nhân, người già và các tù nhân.
- Chăm Sóc Y Tế: qua các nhà thương, bệnh viện người cùi, những em bị tật nguyền tâm lý và thể lý, những người hấp hối và tuyệt vọng, người bị bệnh AIDS và ho lao, những trung tâm suy dinh dưỡng và những bệnh xá lưu động.
- Việc Giáo Dục: qua các trường tiểu học trong các khu nhà nghèo, lớp dạy may cắt, lớp thương mại, lớp cho người tàn tật, lớp mẫu giáo ở làng, và những chương trình giữ trẻ.
- Dịch Vụ Xã Hội: qua chương trình an sinh và giáo dục trẻ em; nhà cho người vô gia cư, giúp con nghiện cai rượu và thuốc lá; nhà cho những người mẹ không chồng; nơi tạm cư ban đêm; trung tâm hướng dẫn phương pháp điều hoà sinh sản.
- Dịch Vụ Cứu Tế: qua những nhà chia sẻ thực phẩm và phân phát quần áo cho những người nghèo đói…
3. THẢO LUẬN: Theo các cách truyền giáo của thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su, thánh nữ Tê-rê-xa Can-quýt-ta… Bạn thích cách truyền giáo của vị thánh nào nhất? Tại sao?
4. SUY NIỆM:
1) SỨ VỤ TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG:
a) Chúa Giê-su đã truyền cho các môn đệ trước khi lên trời: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28, 19). Đây là một sứ vụ đẹp lòng Thiên Chúa như ngôn sứ I-sai-a đã thốt lên: "Đẹp thay, những bước chân đi truyền rao Tin Mừng ơn cứu độ". Thánh Phao-lô Tông đồ dân ngoại cũng viết: “Làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ tin Đấng họ không được nghe? Làm sao mà nghe, nếu không có ai rao giảng? Làm sao rao giảng, nếu không được sai đi ?” (Rm 10, 14-15). Nơi khác, ngài còn khẳng định: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9, 16).
b) Các tông đồ phải rao truyền mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Chúa Giê-su: Người là Đấng Cứu Thế Con Thiên Chúa, đã từ trời xuống thế làm người, để dạy đường lên trời cho nhân loại là ”Qua đau khổ vào trong vinh quang”. Tông đồ Phao-lô cũng viết: “Trước hết, tôi truyền lại cho anh em điều mà chính tôi đã lãnh nhận, đó là: Đức Ki-tô đã chết vì tội lỗi chúng ta, đúng như Lời Kinh Thánh, rồi Người đã được mai táng, và ngày thứ ba đã trỗi dậy, đúng như Lời Kinh Thánh” (1 Cr 15, 3-4).
2) PHẢI TRUYỀN GIẢNG TIN MỪNG THEO CÁCH NÀO?
a) Cách truyền giảng của thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su:
- Thánh nữ Tê-rê-xa đã truyền giáo bằng lời cầu nguyện và các việc bác ái hãm mình: Tê-rê-xa không giảng bằng lời nói nhưng bằng lòng ước ao của một con tim cháy lửa yêu mến Chúa, bằng cách làm các việc bổn phận thường ngày bằng một cách thức phi thường, nghĩa là nhằm để làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn.
- Mỗi người chúng ta hôm nay cần noi gương thánh Tê-rê-xa: năng dâng những lời nguyện tắt kèm theo nhưng việc bác ái hãm mình để cầu cho việc truyền giáo: “Lạy Chúa, con xin làm việc hãm mình này để cầu cho một người lương sớm nhận biết tin yêu Chúa và hy vọng sẽ được hưởng ơn cứu độ của Chúa giống như con”.
b) Cách truyền giảng của Mẹ Tê-rê-xa Can-quýt-ta:
- Thánh TÊ-RÊ-XA CAN-QUÝT-TA đã âm thầm loan báo Tin Mừng bằng những cử chỉ nhân ái với những người bệnh tật cùng khổ và bị bỏ rơi. Mẹ đã đi nhiều nơi trên thế giới để thành lập nhiều cộng đoàn tu viện theo lý tưởng thừa sai bác ái của Mẹ, lập ra nhiều nhà mở để tiếp đón các bệnh nhân gần chết đang bị bỏ rơi, không phân biệt tôn giáo mầu da tiếng nói… Việc bác ái từ thiện của Mẹ đã đánh động lương tâm của nhiều người trên thế giới, để cùng xây dựng Trời Mới Đất Mới. không còn đau khổ bệnh tật thù hận chết chóc…
- Mỗi người chúng ta hôm nay cũng phải thể hiện lòng bác ái yêu thương ngay trong gia đình ruột thịt, khu xóm, xứ đạo và môi trường xã hội chung quanh. Không nhất thiết phải làm những việc lớn lao tốn phí nhiều tiền bạc, mà chỉ cần làm những việc nhỏ bé vừa tầm tay của mình như ân cần thăm hỏi, chia sẻ giúp đỡ vật chất tinh thần, phục vụ những người cụ thể bằng những gì mình đang có, hợp tác với những người thiện chí dù khác biệt về chính kiến, tôn giáo… để xây dựng thế giới mới an lành hạnh phúc.
c) Cách truyền giảng của thánh Phan-xi-cô Xaviê:
- Thánh PHAN-XI-CÔ XA-VI-Ê đi truyền giáo ở vùng Đông Á bên Ấn Độ. Trong suốt 10 năm truyền giáo ngài đã đi cả trăm ngàn cây số. Đã rửa tội cho hàng trăm ngàn tân tòng và gầy dựng nhiều cộng đoàn tín hữu khắp nơi. Cuối cùng ngài đã đến đảo Thượng Xuyên Trung quốc. Tại đây ngài ngã bệnh và qua đời ngày 3.12.1552, được phong thánh và được đặt làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Ngài là vị truyền giáo vĩ đại cho cuộc truyền giáo thời mới: Ngài hòa nhập vào dân mà ngài muốn mang Tin Mừng đến; sống nghèo với những người lao động. Ngài hoạt động thật năng nổ cho cuộc truyền đạo và kích thích được tinh thần này ở Âu Châu. Hàng nghìn người đã theo gương ngài để mang Tin Mừng đi muôn phương.
- Mỗi người chúng ta hôm nay cần trang bị cho mình vốn liếng Lời Chúa, nhờ Lời Chúa soi dẫn, chúng ta sẽ đi đến các vùng sâu vùng xa của đồng bào dân tộc, đến với các trại nuôi người già, trại cùi, cô nhi viện, v.v… để thi hành sứ vụ loan Tin Mừng của Chúa, noi gương thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê.
d) Cách truyền giảng của Chúa Giê-su và các Tông đồ:
- Giới thiệu Chúa cho người khác: An-rê sau khi gặp Thầy Giê-su đã dẫn em là Si-mon đến với Đức Giê-su; Phi-lip-phê đã đưa bạn là Na-tha-na-en đến với Đức Giê-su…
- Đi bước trước tiếp cận người lương: Đức Giê-su đã mở lời trước xin người phụ nữ Sa-ma-ri cho uống nước và từ đó đã nói với chị về Nước Hằng Sống. Rồi người phụ nữ này đã về làng đưa dân làng ra gặp Đức Giê-su và mời Người vào giảng Tin Mừng cho cả làng.
- Cần xin ơn Thánh Thần trợ giúp: Noi gương các Tông đồ xưa đã hăng say loan báo Tin Mừng và đem lại nhiều thành quả tốt đẹp nhờ được Thánh Thần biến đổi trong ngày lễ Ngũ Tuần. Còn chúng ta hôm nay cũng cần được ơn Thánh Thần thôi thúc mới hy vọng chu toàn sứ vụ giới thiệu Chúa cho anh em lương dân chung quanh chúng ta.
3) CHU TOÀN SỨ VỤ TRUYỀN GIÁO HÔM NAY?
- Cần năng cầu nguyện bằng những lời nguyện tắt để được kết hiệp mật thiết với Chúa.
- Góp phần thánh hóa gia đình và xã hội mình đang sống ngày một tốt đẹp hơn: Nhờ biết sống tình bác ái yêu thương cụ thể, chúng ta sẽ làm cho môi trường sống ngày một an toàn sạch đẹp hơn, công bình nhân ái hơn. Cũng cần ý thức đưa đức tin thấm nhập vào phim ảnh, bài hát, kịch nghệ, văn chương, hội họa, điêu khắc… hầu giúp anh em lương dân nhận biết tin yêu Chúa.
- Mỗi ngày quyết tâm đọc kinh Hòa Bình của thánh Phan-xi-cô để xin Chúa biến đổi chúng ta nên khí cụ bình an của Chúa, thành chứng nhân tình yêu của Chúa trước mặt mọi người.
- Hằng tuần dành ít nhất hai giờ để đi thăm những trại mồ côi, nhà dưỡng lão để chia sẻ tình thương cụ thể cho họ, sẵn sàng dấn thân phục vụ những bệnh nhân liệt giường cô đơn, để làm chứng cho Chúa như lời Chúa dạy: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5, 6).
Ðức Phao-lô VI đã dạy: "Con người thời đại ngày nay thích nghe các chứng nhân hơn là những thầy dạy, và nếu họ có nghe thầy dạy thì cũng bởi vì những thầy dạy này là các chứng nhân".
5. LỜI CẦU:
Lạy Chúa Giê-su, Tình Yêu của con, nếu Hội Thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác nhau, thì hẳn Hội Thánh không thể thiếu một chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất là trái tim, một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm cho Hội Thánh hoạt động. Nếu trái tim Hội Thánh vắng bóng tình yêu, thì các tông đồ sẽ ngừng rao giảng, các vị tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu mình...
Lạy Chúa Giê-su, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của con trong lòng Hội Thánh: Nơi trái tim Hội Thánh con sẽ là tình yêu, và như thế con sẽ là tất cả. Vì tình yêu bao trùm mọi ơn gọi trong Hội Thánh. Lạy Chúa, với chỗ đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con chắc chắn sẽ được thực hiện.
(Dựa theo lời cầu nguyện của thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su).
THẬT ĐÁNG THƯƠNG!
(Chúa Nhật XXX TN C) - Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Giêsu Nagiaret quả là một tôn sư không chỉ to gan mà còn quá bạo phổi. Pharisiêu, một nhóm người được xem là đạo hạnh, đáng trọng kính theo cái nhìn của người đương thời, thế mà bị đem ra để đối trọng với thế bại trận trước phường thu thuế đáng khinh, đáng phỉ nhổ. Dụ ngôn hai người lên đền thờ cầu nguyện (một người thuộc nhóm Pharisiêu và người kia thì làm nghề thu thuế) mà Chúa Giêsu kể chắc hẳn khiến nhiều người lúc bấy giờ tức anh ách.
Người ta thường khuyên nhau rằng viết thì phải lách, dạy thì phải dỗ, nghĩa là nhẹ nhàng, từ tốn thì sẽ đạt hiệu quả, còn cứ nói, cứ viết trực diện theo kiểu thẳng tàu ruột ngựa thì khó mà đạt kết quả như ý mà nhiều khi còn chuốc lấy thất bại. Thế nhưng, tư tưởng của Thiên Chúa thì vượt quá tư tưởng nhân loại chúng ta, đường lối của Người cũng hoàn toàn khác xa đường lối của chúng ta. Bỏ trời cao, xuống thế gian này “để làm chứng cho sự thật”, Chúa Kitô không ngại ngần tỏ bày những chân lý thoạt nghe qua rất đỗi “chối tai”. Một chân lý được tỏ bày khi mà người nói đã sẵn sàng đón nhận mọi hậu quả xấu xa hay tồi tệ xảy đến cho mình thì chân lý ấy quả là quan trọng và cần thiết biết bao cho người nghe. Và cái chân lý của câu chuyện dụ ngôn “hai người lên đền thờ cầu nguyện” đã được thánh sử Luca nói rõ: “Khi ấy, Chúa Giêsu kể dụ ngôn sau đây với một số người tự hào cho mình là người công chính mà khinh chê kẻ khác” (Lc 18, 9). Và người số người này sẽ không được nên công chính (x.Lc 18, 14). Xin cùng xét xem đôi nét “đáng thương” của ngài biệt phái trong câu chuyện dụ ngôn.
Trước hết chúng ta cần khẳng định rằng “công trạng” hay có thể nói là “đức độ” của vị biệt phái quả là đáng khâm phục, vì vượt xa đức độ cũng như công trạng của nhiều người. Giữ mình khỏi những hành vi xấu xa như trộm cắp, ngoại tình và những việc bất chính cũng đã là một nỗ lực rất đáng khen. Vị biệt phái này còn ăn chay mỗi tuần hai lần trong khi luật Do Thái chỉ buộc ăn chay một ngày trong năm đó là ngày Lễ chuộc tội. Vị này cũng đã dâng một phần mười tất cả các khoản thu nhập để tỏ lòng kính sợ Chúa, tạ ơn Chúa (x.Đnl 14, 22-23), để nuôi hàng Tư tế, các thầy Lêvi, những người ngoại kiều, cô nhi quả phụ (x.Đnl 14, 28-29; 26, 10-11). Và việc thưa trình với Thiên Chúa những gì mình đã làm cũng là chính đáng và hợp luật (x.Đnl 26, 12-15). Dù không quá đáng ghét, nhưng vị biệt phái “đạo đức” này vẫn là “kẻ đáng thương” như thánh sử Luca nói từ đầu câu chuyện dụ ngôn.
- “Kẻ đáng thương!”: Với thế dáng đứng thẳng của vị biệt phái mà câu chuyện dụ ngôn kể nói lên sự lầm tưởng của ông ta. Khi vị biệt phái tự hào cho mình là người công chính thì ông lầm tưởng rằng những gì ông đạt được là do bởi công sức và đức độ của mình. Phận bình sành, lọ đất mà dám lên mặt với người thợ gốm sao? Vị Pharisiêu này đứng thẳng mà không nhìn lên Thiên Chúa, Đấng đã dựng nên ông ta từ cõi hư vô. Ông lại còn nhìn ngang nhìn ngửa, nhìn trước nhìn sau để chứng tỏ công trạng của mình. Ông đã dùng người anh em thu thuế đứng đằng sau làm tấm bình phong để tự tôn mình lên.
Biết bao lần chúng ta đã đặt mình vào tình trạng “kẻ đáng thương” hay “đồ đáng thương” vì lầm tưởng về các khả năng hay công trạng mình đang có. Vì cái lầm này khiến chúng ta quên đi chân lý nền tảng đó là ngay sự hiện hữu của chúng ta ở đời này là do lãnh nhận. Quả thật chẳng có một ai trong nhân loại đã bỏ ra chút công sức hay của tiền để được làm người, để được chào đời. Nếu ý thức và chân nhận sự sống, sự hiện hữu của mình là do lãnh nhận thì chúng ta sẽ chẳng có lý do gì để tự cao, tự đại về những thành quả hay thành công đạt được cách này cách khác, mặt này, mặt kia. Thánh Phaolô khẳng định: “Bạn có gì mà bạn đã không nhận lãnh? (1Cr 4, 7). Nếu Chúa không nâng đỡ thì không ai có thể tồn tại và phát triển. Không có ơn Chúa thì chúng ta sẽ chẳng làm được sự gì tốt đẹp (x.Ga 15, 5). Sự lầm lẫn khiến người biệt phái đã xa rời sự thật nền tảng này.
- “Người được xót thương”: Dữ kiện người thu thuế không dám tiến gần chính điện, cũng không dám ngước mặt lên trời muốn khẳng định thái độ khiêm nhu nhìn nhận sự bất xứng, bất toàn của anh. Anh lại còn đấm ngực thú nhận thân phận tội lỗi của chính mình. Với thái độ khiêm nhu, người thu thuế đã sống trong sự thật. Và sự thật đã giải thoát anh (x.Ga 8, 32). Anh ra về và được nên công chính, nghĩa là đã được Chúa xót thương.
Có phải Thiên Chúa không thương xót người biệt phái chăng? Có thể trả lời cách không sợ sai lầm rằng Thiên Chúa xót thương hết thảy mọi người. Vị biệt phái không nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa chỉ vì ông ta không thấy mình cần được xót thương. Nước mưa từ trời tuôn đổ xuống nhưng cái nắp chai không được mở ra thì chai vẫn mãi rỗng không. Khi khiêm hạ nhìn nhận sự thật của mình, người thu thuế đã mở rộng tấm lòng và ông đã đón nhận được tình xót thương của Thiên Chúa.
Tác giả Thánh Vịnh khẳng định rằng Thiên Chúa nhậm lời kẻ nghèo hèn khẩn xin (x.Tv 33). Những tâm hồn tan nát khiêm cung là những người biết nhìn nhận sự thật. Chẳng phải họ có công trạng gì hơn người khác nhưng hoàn cảnh bi đát đau thương là một điều kiện thuận lợi để họ sống trong sự thật, đó là loài người tuy cao cả nhưng lại mong manh và bất toàn. Trái lại, một khi chúng ta thành công hoặc đạt được những kết quả mặt này mặt kia thì chúng ta dễ bị cám dỗ sinh tự mãn, tự kiêu. Người tự kiêu, tự mãn không chỉ lên mặt coi thường tha nhân mà vô tình hay hữu ý còn bất cần cả Thiên Chúa.
Giúp nhau nhìn nhận sự thật: “chúng ta là loài được dựng nên; sự sống, các khả năng của chúng ta là do lãnh nhận”, và giúp nhau can đảm sống trong sự thật: “chúng ta vốn mỏng manh và bất toàn”, chính là một phương thế tuyệt hảo đưa nhau ra khỏi tình cảnh “kẻ đáng thương” để trở thành “người được xót thương”. Nói như Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đó là sống bác ái trong chân lý bằng việc nói lời sự thật trong tình thương. Thiết nghĩa rằng đây là một phương thế truyền giáo đẹp lòng Chúa Kitô, vì chúng ta dõi theo chân Người, Đấng đã từng khẳng định trước Philatô rằng mình bỏ trời xuống thế gian là để làm chứng cho sự thật và chỉ có sự thật mới giải thoát nhân loại chúng ta (x.Ga 18, 37).
Chúa nhật thứ 30 thường niên -C
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Bài kết thúc Tin Mừng Đức Giêsu Kitô theo Thánh Marcô (Mc 16, 15-20).
Khi ấy, Chúa Giêsu hiện ra với mười một môn đệ và phán: “Các con hãy đi khắp thế gian, rao giảng Tin mừng cho mọi tạo vật. Ai tin và chịu phép rửa, thì sẽ được cứu độ; ai không tin, sẽ bị luận phạt. Và đây là những phép lạ đi theo những người đã tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ quỷ, nói các thứ tiếng mới lạ, cầm rắn trong tay, và nếu uống phải chất độc, thì cũng không bị hại; họ đặt tay trên những người bệnh, và bệnh nhân sẽ được lành mạnh”.
Vậy sau khi nói với các môn đệ, Chúa Giêsu lên trời, và ngự bên hữu Thiên Chúa. Phần các ông, các ông đi rao giảng khắp mọi nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố lời giảng dạy bằng những phép lạ kèm theo.
Suy niệm
Khi nhắc đến việc truyền giáo, bất cứ người tín hữu Kitô nào cũng thấy bổn phận của mình còn dang dở, chưa thực sự quan tâm và thao thức. Và hôm nay, Mẹ Giáo hội lại gợi nhắc cho mỗi người về bổn phận đó trong thánh lễ Chúa nhật thứ 30 thường niên, đồng thời, mời gọi toàn thể giáo hội cầu xin với chủ ruộng, sai thợ gặp đi gặt lúa của Ngài trên mọi cánh đồng truyền giáo. Từ đây, mỗi người được nghe lại những bài đọc trong phụng vụ Lời Chúa, được nghe nhắc lại lời sai đi của chính mình, lời sai đi loan báo tin mừng cứu độ cho muôn dân, cho mọi loài thụ tạo trên thế giới. Việc truyền giáo không chỉ là trách vụ của một số người nhưng là bổn phận của những ai được gọi là Kitô hữu, bổn phận của những ai đã được rửa tội trong nước và Thánh Thần.
Trước một viễn cảnh không mấy vui tươi của một dân tộc được gọi là dân riêng của Thiên Chúa, tiên tri Isaia đã khắc họa những nét tươi vui của niềm hy vọng, một niềm vui dành cho những ai nhận biết và tin vào một Thiên Chúa độc nhất, đang hiện diện và chăm sóc cũng như bảo vệ họ mỗi ngày: “Ðứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Ðức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Ðức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi”. Đã đến lúc Thiên Chúa ghé thăm dân Người, đem niềm vui cứu độ và tình yêu tha thứ cho mọi người. Để có thể nhận ra niềm vui và hy vọng đó, đòi hỏi phải có niềm tin, phải biết chọn lựa, đồng thời phải biết nhận ra những dấu chỉ của tình yêu qua các biến cố, để rồi biết cộng tác, biết chia sẻ và biết đồng hành với nhau trong sự hướng dẫn của Thiên Chúa tình yêu.
Thánh Phaolô đã mạnh dạn thay đổi chính con người của mình để được nhận lãnh ơn cứu độ và tình yêu từ Đấng phục sinh. Với kinh nghiệm của một người đã được yêu và đang được yêu, thánh nhân khuyên bảo người học trò của mình, hãy biết gạn đục khơi trong giữa cuộc sống, để thấy được đâu là giá trị của một con người đã được Con Thiên Chúa làm người, là Đức Giêsu Kitô, chết thay và đền tội cho, thánh nhân còn đề nghị với người học trò hãy nói cho mọi người biết tình yêu đó là một hồng ân, một món quà Thiên Chúa tặng ban cho con người, vì thế, con người hãy vững niềm tin vào Ngài: “Vì chỉ có một Thiên Chúa và cũng chỉ có một Ðấng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại: một người, là Ðức Yêsu, Ðấng đã thí mình làm giá chuộc thay cho mọi người; chứng đã tuyên ra vào chính thời chính buổi, mà tôi đã được đặt làm lệnh sứ, làm tông đồ -và tôi nói thật, chứ không nói dối- làm tấn sĩ dân ngoại, trong đức tin, trong sự thật”. Con người là một tạo vật, một tội nhân, thánh Phaolô đã chân nhận điều đó từ chính bản thân ngài, nếu không có tình yêu của Thiên Chúa, làm sao thánh nhân được gọi là môn đệ của Đấng phục sinh. Vì thế, thánh nhân khuyên bảo mọi người hãy khám phá tình yêu đó khởi đi từ niềm tin, để rồi kể lại cho mọi người biết rằng, có một Thiên Chúa đã cúi xuống với con người, đã yêu con người và đã chết cho con người.
Chỉ hiện diện ở thế gian trong một thời gian ngắn ngủi, Đức Giêsu đã chứng kiến những nỗi đau của con người khi phải làm nô lệ cho tội lỗi và sự chết, Ngài đã phá bỏ mọi ranh giới của lề luật, của truyền thống, để đưa con người tới tình trạng tự do. Sứ mạng của Ngài là cứu độ tất cả mọi người, vì thế, trước khi về trời, Ngài mời con người tiếp tục sứ mạng của Ngài là đem tin mừng cứu độ cho thế giới qua mọi thời. Ngài không muốn bất cứ ai phải chết, bất cứ ai phải xa rời tình yêu Thiên Chúa: “Khi ấy, Ðức Giêsu nói với các môn đệ: “Hãy đi khắp cả thiên hạ rao giảng tin mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin cùng chịu thanh tẩy thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị luận tội. Những dấu lạ này sẽ tháp tùng kẻ tin: nhân danh Ta, chúng sẽ trừ quỉ, nói các thứ tiếng, Chúng sẽ cầm rắn trong tay, và dẫu có uống nhằm thuốc độc, thuốc độc cũng chẳng hại được chúng; chúng sẽ đặt tay cho kẻ liệt lào và họ sẽ được an lành mạnh khỏe”. Được trao trọng trách lớn lao cùng với những dấu lạ đi kèm, con người tiếp tục công cuộc loan báo tin vui cứu độ đó bằng khả năng, điều kiện và tùy vào hoàn cảnh của mỗi người. Mỗi người tín hữu Kitô, phải luôn ý thức trọng trách đó, hãy biết dành ưu tiên cho Tin mừng, cho ơn cứu độ của Thiên Chúa được nối dài, đừng thờ ơ, đừng vô cảm và cũng đừng khước từ cộng tác, bởi đó là chương trình của Thiên Chúa, Ngài sẽ thưởng công cho những ai biết khiêm tốn đáp lời cộng tác, Ngài sẽ hướng dẫn cho những ai thành tâm thiện chí vì phần rỗi các linh hồn, Ngài sẽ đồng hành với những ai biết yêu mến tha nhân và phần rỗi của họ.
Trước hết, để việc truyền giáo được thuận lợi và thu lượm nhiều hoa trái, cần có những lời cầu nguyện chân thành từ những người tin vào Thiên Chúa. Đồng lúa của Thiên Chúa Cha đang chín vàng, Ngài tuyển chọn ai làm thợ gặt, Ngài tuyển chọn ai làm người quản lý kho thóc và Ngài tuyển chọn ai cộng tác với Ngài sắp xếp công việc thu gom lúa về. Tất cả đều do Ngài, vì thế, Đức Giêsu đã hướng dẫn Giáo hội hãy cầu xin chủ ruộng sai thợ đi gặt lúa của Ngài. Cầu nguyện còn là nguồn dưỡng chất, giúp cho những người thợ gặt sống quảng đại hơn với những ơn gọi đặc biệt được lãnh nhận, cầu nguyện cho công việc gặt lúa được thuận lợi hơn và cầu nguyện cho mùa màng bội thu. Cầu nguyện còn giúp cho những người anh chị em chưa nhận biết Thiên Chúa, sẽ nhận ra khuôn mặt của Ngài nơi Giáo hội, nơi các Kitô hữu và nơi các cộng đoàn xứ đạo. Chính gương sáng nơi các môn đệ Đức Kitô, góp phần lớn vào việc truyền giáo của Giáo hội hôm nay.
Thứ đến, chắc phải tái truyền giáo cho các tín hữu Kitô trong hoàn cảnh hiện tại. Người tín hữu hôm nay rất thiếu kiến thức về Kinh thánh, về Giáo lý, vì thế, họ thấy ngại ngùng khi giới thiệu về một Thiên Chúa, về ơn cứu độ của Ngài cho tha nhân. Bản thân họ rất lúng túng khi đối diện với những thắc mắc về Kinh thánh, về giáo lý của Giáo hội, mỗi khi các anh em tôn giáo bạn có những vấn nạn về tôn giáo, về luân lý, về Kinh thánh muốn được giải đáp và chia sẻ. Chính vì những yếu kém đó, người tín hữu dễ bị mua chuộc, dễ bị dụ dỗ để trở thành những giáo phái chống lại Kitô giáo. Họ đã lợi dụng sức mạnh của vật chất, của tình người, tình huynh đệ cộng đoàn, để lôi kéo những người môn đệ của Đức Giêsu về phía họ. Bởi thế, việc học hỏi Kinh thánh, trau dồi giáo lý của Giáo hội cho các tín hữu Kitô, là một công việc khẩn thiết khởi đầu cho việc truyền giáo. Nếu người tín hữu không biết Kinh thánh, không học hỏi giáo lý, họ sẽ khó giữ được linh hồn, giữ được sự sống đời đời của bản thân, chứ chưa nói đến việc truyền giáo hay chia sẻ với những anh em không cùng niềm tin.
Tiếp theo là đời sống cộng đoàn, đời sống tại các xứ đạo. Đức tin của người tín hữu được nuôi dưỡng, được lớn lên và trưởng thành, phần lớn từ nhờ cộng đoàn xứ đạo. Từ một cậu thiếu nhi, các em được dạy dỗ giáo lý, được tham gia mọi sinh hoạt tôn giáo, được hướng dẫn trong đời sống thờ phượng và thực hành niềm tin, từng ngày các em lớn dần về niềm tin, xác tín về cách sống đạo của mình. Sự bổ trợ giữa các thành phần trong cộng đoàn xứ đạo góp phần nâng đỡ niềm tin và tinh thần tôn giáo cho nhau. Gặp những biến cố, những thất bại, người tín hữu được giúp đỡ, được chia sẻ và ủi an trong sự ấm áp của tình người, tình cộng đoàn. Có những niềm vui của gia đình hay bản thân, họ được cộng đoàn cùng chúc mừng và chia vui. Cũng từ nơi cộng đoàn xứ đạo, họ được tham gia nhiều sinh hoạt tôn giáo khác nhau, tất cả tạo nên một vườn hoa sống đạo phong phú và nhiều sắc màu. Tất cả những sinh hoạt, những công việc đó, hun đúc cho niềm tin mỗi cá nhân vững bền hơn, xác tín hơn, để rồi khi đối diện với những cám dỗ, những lời dụ dỗ và cả những nghịch cảnh, người tín hữu không dễ dàng buông xuôi hay rời bỏ Giáo hội, đi theo những lời dụ dỗ từ các giáo phái khác.
Truyền giáo vẫn mãi là một ơn gọi và cũng là một bổn phận đối với mọi thành phần dân Chúa. Trong một xã hội nhiễu nhương như hôm nay, việc truyền giáo lại còn gặp nhiều thách đố từ xã hội, từ quyền con người, từ những xu hướng của thời đại và cả những quan niệm về nhân sinh quan mới lạ, vì thế, nếu không có những lời cầu nguyện liên lỉ trong niềm tin, việc truyền giáo có thể tiếp tục và có nhiều niềm vui được chăng? Nếu người tín hữu Kitô không chịu khó trau dồi Kinh thánh, học hỏi Giáo lý của Giáo hội, liệu họ có đủ năng lượng thiêng liêng để bảo vệ Giáo hội và giới thiệu Thiên Chúa cho thế giới nữa không? Sống trong các cộng đoàn xứ đạo, người tín hữu có nên tham gia cách tích cực mọi sinh hoạt, có nên cộng tác với Giáo hội địa phương, để giáo dục cho các thế hệ trẻ, để nâng đỡ người trưởng thành và để chia sẻ với những người đau khổ, bất hạnh, để tất cả đều được yêu thương và được cứu độ không?
Lạy Chúa Giêsu, thao thức của Chúa trước khi về trời là muốn mọi người được cứu độ, xin cho chúng con luôn cộng tác với Chúa Thánh Thần, để tiếp tục công việc loan báo tin mừng cứu độ cho mọi người. Chúa dạy chúng con hãy cầu nguyện mọi lúc, mọi nơi và trong mọi công việc, xin cho chúng con biết cầu nguyện thật nhiều cho việc truyền giáo của bản thân và của Giáo hội, để ơn cứu độ được lan tỏa tới mọi nhà, mọi người. Xin Chúa mở trái tim và khối óc của chúng con, để mỗi người cố gắng học hỏi Lời Chúa, học hỏi giáo lý, làm hành trang cho việc truyền giáo nên hữu hiệu hơn mỗi ngày trong sự hướng dẫn của Thiên Chúa Ngôi Ba. Amen.