ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH
Ga 1, 1-18
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH - LỄ ĐÊM
Ca nhập lễ
Chúa phán bảo tôi rằng: “ Con là Con của Cha, ngày hôm nay, Cha đã sinh ra Con”.
Hoặc:
Tất cả chúng ta hãy vui mừng trong Chúa, vì Đấng Cứu Độ chúng ta đã sinh xuống gian trần. Hôm nay từ cõi trời cao thẳm, bình an đích thực đến giữa chúng ta.
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Đêm nay là “đêm thánh vô cùng”, cả hoàn vũ, từ đông sang tây, long trọng mừng biến cố lịch sử: Chúa Cứu Thế giáng sinh trong thinh lặng một đêm đông. Cả trái đất hãy hướng về đêm độc nhất này. Muôn vật được tạo dựng hãy lên tiếng! Hãy lên tiếng bằng ngôn ngữ loài người. Cùng với loài người, sứ thần Thiên Chúa lên tiếng “Vinh danh Thiên Chúa trên trời”. Sứ thần nói với các mục đồng trong làng Belem “đây Ta mang cho các ngươi một Tin Mừng trọng đại”. Loài người và sứ thần Thiên Chúa lên tiếng về cùng một thực tại và chỉ về cùng một địa điểm: Chúa hạ sinh tại Belem. Trong tâm tình tràn ngập niềm hân hoan cử hành Mầu Nhiệm Thánh, chúng ta cùng thành tâm hối lỗi. .
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã sai Con Một Chúa là nguồn ánh sáng thật đến soi chiếu trần gian làm cho đêm cực thánh này bừng lên rực rỡ. Xin cho chúng con ngày nay ở dưới thế được mầu nhiệm Giáng Sinh soi dẫn, mai sau cũng được cùng Con Một Chúa hưởng vinh phúc trên trời. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Is 9, 2-4. 6-7 (Hr 1-3. 5-6)
“Chúa ban Con của Người cho chúng ta”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Dân tộc bước đi trong u tối, đã nhìn thấy sự sáng chứa chan. Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết. Chúa đã làm cho dân tộc nên vĩ đại, há chẳng làm vĩ đại niềm vui? Họ sẽ vui mừng trước nhan Chúa, như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt lúa, như những người thắng trận hân hoan vì chiến lợi phẩm, khi đem của chiếm được về phân chia. Vì cái ách nặng nề trên người nó, cái gông nằm trên vai nó, cái vương trượng quyền của kẻ áp bức. Chúa sẽ nghiền nát ra, như trong ngày chiến thắng Mađian. [Bởi lẽ mọi chiếc giày đi lộp cộp của kẻ chiến thắng, mọi chiếc áo nhuộm thắm máu đào sẽ bị đốt đi và trở nên mồi nuôi lửa.]
Bởi lẽ một hài nhi đã sinh ra cho chúng ta, và một người con đã được ban tặng chúng ta. Người đã gánh nhận vương quyền trên vai, và thiên hạ sẽ gọi tên Người là “Cố Vấn Kỳ Diệu, Thiên Chúa Huy Hoàng, Người Cha Muôn Thuở, Ông Vua Thái Bình”. Người sẽ mở rộng vương quyền, và cảnh thái bình sẽ vô tận; Người sẽ ngự trên ngai vàng của Ðavít, và trong vương quốc Người, để củng cố và tăng cường, trong sự công minh chính trực, ngay tự bây giờ và cho đến muôn đời. Lòng ghen yêu của Chúa thiên binh sẽ thực thi điều đó.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 95, 1-2a. 2b-3. 11-12. 13
Ðáp: Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta, Người là Ðức Kitô, Chúa chúng ta
Xướng: Hãy ca mừng Thiên Chúa bài ca mới, hãy ca mừng Thiên Chúa đi, toàn thể địa cầu. Hãy ca mừng Thiên Chúa, hãy chúc tụng danh Người..
Xướng: Ngày ngày hãy loan truyền ơn Người cứu độ. Hãy tường thuật vinh quang Chúa giữa chư dân, và phép lạ Người ở nơi vạn quốc..
Xướng: Trời xanh hãy vui mừng và địa cầu hãy hân hoan. Biển khơi và muôn vật trong đó hãy reo lên. Ðồng nội và muôn loài trong đó hãy mừng vui. Các rừng cây hãy vui tươi hớn hở.
Xướng: Trước nhan Thiên Chúa: vì Người ngự tới, vì Người ngự tới cai quản địa cầu. Người sẽ cai quản địa cầu cách công minh và chư dân cách chân thành..
Bài Ðọc II: Tt 2, 11-14
“Ân sủng của Chúa đã đến với mọi người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Ân sủng của Thiên Chúa, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, đã xuất hiện cho mọi người, dạy chúng ta từ bỏ gian tà và những dục vọng trần tục, để sống tiết độ, công minh và đạo đức ở đời này, khi trông đợi niềm hy vọng hạnh phúc và cuộc xuất hiện sự vinh quang của Ðức Giêsu Kitô là Thiên Chúa cao cả và là Ðấng Cứu Ðộ chúng ta. Người đã hiến thân cho chúng ta để cứu chuộc chúng ta khỏi mọi điều gian ác, luyện sạch chúng ta thành một dân tộc xứng đáng của Người, một dân tộc nhiệt tâm làm việc thiện.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2, 10-11
Alleluia, alleluia! – Ta báo cho anh em một tin mừng: Hôm nay Ðấng Cứu Thế, là Chúa Kitô, đã giáng sinh cho chúng ta. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 1-14
“Hôm nay Ðấng Cứu Thế đã giáng sinh cho chúng ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Ngày ấy, có lệnh của hoàng đế Cêsarê Augustô ban ra, truyền cho khắp nơi phải làm sổ kiểm tra. Ðây là cuộc kiểm tra đầu tiên, thực hiện thời Quirinô làm thủ hiến xứ Syria. Mọi người đều lên đường trở về quê quán mình. Giuse cũng rời thị trấn Nadarét, trong xứ Galilêa, trở về quê quán của Ðavít, gọi là Bêlem, vì Giuse thuộc hoàng gia và là tôn thất dòng Ðavít, để khai kiểm tra cùng với Maria, bạn người, đang có thai.
Sự việc xảy ra trong lúc ông bà đang ở đó, là Maria đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa, và bà đã hạ sinh con trai đầu lòng. Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong hàng quán.
Bấy giờ trong miền đó có những mục tử đang ở ngoài đồng và thức đêm để canh giữ đoàn vật mình. Bỗng có thiên thần Chúa hiện ra đứng gần bên họ, và ánh quang của Thiên Chúa bao toả chung quanh họ, khiến họ hết sức kinh sợ. Nhưng thiên thần Chúa đã bảo họ rằng: “Các ngươi đừng sợ, đây ta mang đến cho các ngươi một tin mừng đặc biệt, đó cũng là tin mừng cho cả toàn dân: Hôm nay Chúa Kitô, Ðấng Cứu Thế, đã giáng sinh cho các ngươi trong thành của Ðavít. Và đây là dấu hiệu để các ngươi nhận biết Người: Các ngươi sẽ thấy một hài nhi mới sinh, bọc trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ”.
Và bỗng chốc, cùng với các thiên thần, có một số đông thuộc đạo binh thiên quốc đồng thanh hát khen Chúa rằng: “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm”.
Ðó là lời Chúa.
Ðọc kinh Tin Kính đến câu: “Bởi phép Chúa Thánh Thần” thì bái gối.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Chúa Giáng Sinh là một tin vui cho toàn dân. Vì Người đến mang lại bình an cho các tâm hồn, bình an cho thế giới. Vậy chúng ta hãy góp phần kiến tạo bình an bằng những lời nguyện xin:
1. “Sự sáng đã bừng lên trên những người cư ngụ miền thâm u sự chết”.- Xin cho Đức Giáo Hoàng, các Giám mục, các Linh mục được hướng dẫn bằng ánh sáng thần linh Chúa, để các ngài nhiệt thành rao giảng Tin Mừng về Con Thiên Chúa đã nhập thể và giáng sinh tới tận cùng trái đất.
2. “Luyện sạch chúng ta thành một dân tộc nhiệt tâm và làm việc thiện“.- Xin cho các tín hữu khi sống niềm vui ngày lễ Giáng Sinh, biết trung thành với ơn thánh và tích cực sống đời bác ái hoàn hảo, để họ trở thành những thiên thần loan báo sứ điệp tình thương của Chúa.
3. “Bình an dưới thế cho người thiện tâm” Xin cho những ai đang có manh tâm dối Chúa, và lừa nhau về mọi phương diện, nhận ra được sự hiện diện của Chúa chỉ ở nơi những tâm hồn ngay lành, để đêm nay đáng được Chúa Hài Đồng đem sự bình an đến cho tâm hồn mình và toàn thế giới..
4. “Bà bọc con trẻ trong khăn vải và đặt nằm trong máng cỏ” Xin cho mọi người trong giáo xứ chúng ta biết đặt Chúa Hài Nhi trong tâm hồn để chiêm ngắm, để biết sống phó thác cho tình yêu Thiên Chúa.
Chủ tế: Lạy Chúa Hài Đồng, Chúa đã tước bỏ vị thế của Thiên Chúa để trở nên một người ở giữa chúng con. Xin cho chúng con luôn biết đáp trả tình yêu Chúa, bằng việc từ khước bản thân với mọi ham muốn hư hèn, để biến tâm hồn chúng con thành nệm ấm chăn êm cho Chúa ngự trị. Chúa hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin thương nhận của lễ chúng con cùng dâng tiến trong đêm Giáng Sinh này. Và nhờ cuộc trao đổi kỳ diệu trong mầu nhiệm Nhập Thể, xin cho chúng con được nên giống Ðức Giêsu là Ðấng đã phối hợp nhân tính của chúng con với thiên tính của Chúa trong chính bản thân Người. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời tiền tụng Giáng Sinh
Ca hiệp lễ
Ngôi Lời đã làm người thế, chúng ta được nhìn thấy vinh quang Người.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, cộng đoàn chúng con vừa được vui mừng cử hành lễ Sinh Nhật Ðấng cứu độ trần gian; xin cho chúng con biết đem cả cuộc đời hiện tại làm chứng rằng Người đã đến, hầu mai sau được cùng Người hưởng phúc vinh quang. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Suy niệm
Ánh sáng nào soi chiếu trong ta? (Ga 1,1-18)
Bài mở đầu Phúc Âm thánh Gioan phong phú đến nỗi đã làm đề tài cho không biết bao sách vở dày cộm. Nếu đọc với sự chăm chú và niềm kính trọng như khi người ta bước qua ngưỡng cửa một người mời mình vào nhà, thì người ta hô hấp ngay cái bầu không khí của toàn cuốn Phúc Âm thánh Gioan. Ở đây ta thấy sự đối nghịch giữa ánh sáng và bóng tối, ta gặp đề tài chứng tá và sự rao giảng về việc con người được nâng lên hàng làm con Thiên Chúa nhờ Con Một Người đã đến và ngự giữa chúng ta. Danh từ ánh sáng lặp đi lặp lại nhiều nhất. Tương tự như ánh sáng đối với sinh vật, Thiên Chúa là nguồn chân lý và sự sống cho con người. Người là ánh sáng ở một trình độ cao hơn ánh sáng tự nhiên bội phần. Ánh sáng này cũng là một hồng ân Chúa ban cho vũ trụ vật chất, trở nên dấu hiệu của cái thực tại thiêng liêng cao trọng là làm cho con người đạt tới một trình độ ở đó nó có thể nói tới Chân Lý sung mãn, đến sự sống vĩnh cửu. Lễ Giáng Sinh khởi đầu một tấn bi kịch. Tấn bi kịch ấy đặc biệt là của dân Do Thái, song còn tiếp tục diễn ra nơi mỗi người. Ánh sáng đã đến nơi người nhà của mình, nhưng nhiều người đã không tiếp nhận ánh sáng. Bóng tối đã không thể và hiện không thể nào thắng được nó nhưng bóng tối vẫn là một mối đe dọa đáng sợ giữa lòng nhân loại. Ánh sáng Đức Kitô đến tiêu diệt tối tăm như thế nào?
1) Đức Kitô đánh tan mê muội.
Tự mình chúng ta hầu như không biết gì về Thiên Chúa. Đấng Con Một ngự trong lòng Chúa Cha, chính Ngài đã mặc khải Thiên Chúa . Không có Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ sống trong một sự vô minh dày đặc. Không trực giác nào về Chúa, dù đẹp đẽ nhất, đã có thể vượt qua ranh giới của con người, bởi vì cái cốt yếu nằm bên kia ranh giới ấy. Trí khôn nhân loại nào đã dám nói đến việc trở nên con cái Thiên Chúa như Phúc Âm bao giờ đâu? Một câu hỏi: chúng ta có tỉnh táo để không cho bóng tối che mờ ánh sáng chăng? Đâu là những điều thu hút tư tưởng và khả năng yêu thương của ta? Người Kitô hữu ngày nay khám phá lại được tầm quan trọng của cái thực tại trần thế. Nhưng họ có lưu tâm đủ về đòi hỏi tôn giáo sâu xa mà chỉ trong Đức Kitô mới tìm được giải đáp hay không? Thời đại ta, hay đúng hơn Giáo Hội chúng ta cần phải nhớ rằng không có Đức Kitô, mà ta phải tìm kiếm như một cùng đích, thì mê muội như một màn sương mù sẽ lại phủ xuống trên thế gian. Ánh sáng tiếp tục chạm trán với tối tăm và cái giá trị vẫn còn sống động trong Giáo Hội, và trong đời sống mỗi người chúng ta, ấy là giá trị chiêm niệm.
2) Đức Kitô soi sáng cho ta biết đánh giá con người.
Khi tuyên bố mọi người đều được gọi làm con Thiên Chúa, Đức Kitô mở ra cái bề sâu của những tương quan liên kết con người với nhau. Những tương quan ấy có một định luật là bác ái, là tình yêu. Tình yêu anh em giữa người và người làm nên sợi dây đỏ rực, tỏa sáng nếu được đặt dưới luồng điện của tình yêu Thiên Chúa. Ai yêu anh em, kẻ ấy ở trong ánh sáng (lGa 2,10). Một tình yêu đích thật giữa người Kitô hữu với nhau và của người Kitô hữu với mọi người, đó phải là ánh sáng mà họ có sứ mệnh mang đến cho thế gian hôm nay. Trong mức độ mà nó tinh tuyền, nó sẽ gặp phải sức chống đối của tối tăm, nhưng kẻ nào đón nhận nó, sẽ đi trên con đường trở nên con cái Chúa.
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ ĐÊM GIÁNG SINH ABC
Is 9, 1-6; Tt 2, 11-14; Lc 2, 1-14.
LM ĐAN VINH - HHTM
TIN MỪNG CHO TOÀN DÂN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 2, 1-14.
(1) Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. (2) Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri-a. (3) Ai nấy phải về nguyên quán mà khai tên tuổi. (4) Bởi thế, ông Giu-se từ thành Na-da-rét miền Ga-li-lê, lên thành Bê-lem miền Giu-đê, là thành vua Đa-vít, vì ông thuộc về nhà và gia tộc vua Đa-vít. (5) Ông lên đó khai tên cùng với người đã đính hôn với ông là bà Ma-ri-a, lúc ấy đang có thai. (6) Khi hai người đang ở đó thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. (7) Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. (8) Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. (9) Và kìa sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu tỏa chung quanh, khiến họ kinh khiếp hãi hùng. (10) Nhưng sứ thần bảo họ: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: (11) “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa. (12) Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ. (13) Bỗng có muôn vàn thiên binh hợp với sứ thần cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa rằng: (14) “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
2. Ý CHÍNH:
Bài tin mừng hôm nay nhằm trình bày việc Chúa Giê-su giáng sinh là một tin vui cho nhân loại. Ta có thể chia làm 2 phần chính như sau:
- Phần thứ nhất (1-7): Cuộc kê khai nhân khẩu là nguyên nhân khiến hai ông bà Giu-se Ma-ri-a phải lên đường trở về Giê-ru-sa-lem là quê hương của vua Đa-vít. Tại đây bà Ma-ri-a tới ngày sinh. Bà đã phải sinh con trong cảnh nghèo khó tột cùng vì hai ông bà quá nghèo không tìm được chỗ nơi nhà trọ.
- Phần thứ hai (c. 8-14): Một sứ thần của Chúa đã hiện đến báo tin vui cho các mục đồng ở ngoại ô Bê-lem. Sứ thần cũng cho biết dấu chỉ để họ nhận ra Đấng Thiên Sai là “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Rồi có rất nhiều thiên thần đến hợp lời ngợi khen Thiên Chúa.
3. CHÚ THÍCH:
- C 1: + Hoàng đế Au-gút-tô: Hoàng đế Rôma cai trị từ năm 29 trước Công nguyên (CN), đến năm 14 sau CN).
- C 2: + “thành vua Đa-vít”: Khi gán tước hiệu “thành Vua Đa-vít” cho Bêlem (x. Mt 2, 6), Tin Mừng dựa vào lời sấm của ngôn sứ Mi-kha về quê hương của Đấng Cứu Thế (x. Mk 5,1).
- C 5: + “Người đã đính hôn với ông Giu-se là bà Ma-ri-a đang có thai”: Câu này nhắc lại việc sứ thần Gáp-ri-en đến truyền tin cho Trinh Nữ Ma-ri-a (x. Lc 1,27).
- C 7: + Bà sinh con trai đầu lòng: Sinh “Con đầu lòng” chỉ có nghĩa là sinh “đứa con đầu tiên hay con thứ nhất”, không nhất thiết sẽ phải sinh thêm con kế tiếp. Sở dĩ Luca đề cập đến “con trai đầu lòng” ở đây là muốn nhắc đến điều luật Môsê qui định phải dâng “các con đầu lòng cho Chúa” (x. Xh 13,2), và cách cha mẹ phải làm để chuộc lại con, sắp được hai ông bà Giu-se Ma-ri-a thực hiện cho Hài Nhi Giê-su (x. Lc 2, 23). + Không tìm được chỗ trong nhà trọ: Các chủ quán từ chối không cho ở trọ phần vì dáng vẻ quê mùa nghèo khó của hai ông bà Giu-se Ma-ri-a, phần vì họ sợ đón phụ nữ mang bầu vào nhà sẽ mang lại xui xẻo cho việc kinh doanh của họ!
- C 11: + Đấng Ki-tô Đức Chúa: Đức Giê-su là Đấng Mê-si-a. Quyền Chúa Tể và Vương Đế của Người được chính Thiên Chúa trao ban (x. Cv 2, 36).
- C 14: + Bình an dưới thế”: Lời của các sứ thần ca ngợi chúc tụng Thiên Chúa cho thấy sứ mệnh của Hài Nhi Cứu Thế là làm vinh danh cho Thiên Chúa và thiết lập một nền hòa bình vĩnh cửu (x. Is 9, 5-6; Mk 5,4).
4. HỎI ĐÁP:
HỎI: Phải chăng bà Ma-ri-a chỉ đồng trinh trước khi thụ thai Đấng Cứu Thế (x. Is 7,14), rồi sau khi đã sinh “con trai đầu lòng” (x. Lc 2, 6) thì sống đời vợ chồng bình thường với ông Giu-se, và từ đó đã sinh thêm nhiều con trai con gái khác (x. Mt 13,55-56)?
ĐÁP: Thực ra không phải như vậy. Vấn đề ở đây là ý nghĩa thực sự của từ “cho đến khi” và “anh em và chị em của Đức Giê-su” như thế nào?
+ “Cho đến khi”: Câu Mt 1,24-25 nên được diễn giải như sau: Khi tỉnh giấc, ông Giu-se đã thi hành 3 lệnh truyền của sứ thần trong giấc mộng: Một là ông “tổ chức lễ cưới chính thức để rước cô dâu Ma-ri-a” về nhà mình; Hai là ông “không ăn ở với Ma-ri-a như vợ chồng” vì Ma-ri-a đã được thánh hiến dâng mình phục vụ Thiên Chúa như một nữ tu khấn trọn; Ba là “cho đến khi” Ma-ri-a sinh con thì ông “đặt tên cho con trẻ là Giê-su” như lời sứ thần truyền để nhìn nhận trẻ Giê-su là con chính thức của mình về luật pháp (x. Lc 3,23). Tin Mừng không viết: hai ông bà đã không ăn ở cho đến khi Ma-ri-a sinh con thì lại ăn ở với nhau, như có người lầm tưởng!
+“anh em và chị em của Chúa Giê-su”: Trong Tin Mừng Mát-thêu, các từ “anh em ông”, “chị em ông” (x. Mt 13,55-56) hay “mẹ và anh em của Người” (x. Mt 12, 46-47) chỉ là các anh chị em bà con mà thôi. Vì Chúa Giê-su là “con trai đầu lòng”, là người con thứ nhất, nên nếu Đức Ma-ri-a có thêm các người con khác thì họ phải được gọi là “các em trai” và “các em gái” thay vì được gọi chung chung là “anh em” và “chị em” như ở đây. Hơn nữa, bằng chứng quan trọng nhất cho thấy Đức Ma-ri-a chỉ có một con trai duy nhất là: Chúa Giê-su đã trối Mẹ Người làm mẹ của môn đệ Gio-an và “Kể từ giờ đó, người môn đệ đã rước bà về nhà mình” (Ga 19, 26-27). Chắc Đức Giê-su sẽ không trối Mẹ Ma-ri-a cho môn đệ Gio-an rước về nhà mà phụng dưỡng sau khi Người chết nếu Mẹ Ma-ri-a còn có nhiều người con khác ngoài Người.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành Vua Đa-vít. Người là Đấng Ki-tô Đức Chúa” (Lc 2, 10-11).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CHÚA CỨU THẾ ĐÃ GIÁNG SINH CHO CHÚNG TA:
Ở nước Nga thời trung cổ, có một hoàng tử tên là A-lếch-xích (Alexis) rất yêu quí những người nghèo khổ bệnh tật. Mỗi ngày chàng ta bỏ nhiều thời giờ đến nhà thăm họ và sẵn sàng giúp đỡ những ai cần được trợ giúp. Có điều là hoàng tử thấy dân chúng vẫn dửng dưng thờ ơ khi chàng đến với họ. Rồi hoàng tử để tâm tìm hiểu lý do thì được biết sở dĩ dân chúng không mấy phấn khởi khi gặp gỡ chàng vì chàng không đáp ứng được các nhu cầu thực tế của họ. Từ đó hoàng tử A-lếch-xích âm thầm học hỏi chuẩn bị giúp dân một cách thiết thực hơn.
Sau một thời gian, một hôm dân chúng lại thấy một người ăn mặc đơn sơ đến thăm họ. Anh ta thuê một túp lều trong hẻm sâu làm nơi trú ngụ. Hàng ngày anh đến từng nhà và khám bệnh bốc thuốc miễn phí chữa bệnh cho các người nghèo. Chẳng bao lâu sau, anh ta gây được thiện cảm của mọi người chung quanh. Uy tín của anh ngày một gia tăng khiến nhiều người nghe tiếng tìm đến nhờ anh giúp đỡ giải quyết những khó khăn họ đang gặp phải. Hôm nay anh dàn xếp được một cuộc tranh chấp đất đai giữa hai gia đình. Hôm sau, anh lại làm cho một đôi vợ chồng sắp ly hôn làm hòa với nhau và yêu thương nhau như trước. Anh động viên mọi người tương trợ lẫn nhau và nhờ đó ai cũng mến anh vì anh đã hy sinh giúp đỡ cho họ.
Thật ra ông thầy lang ấy chính là hoàng tử A-lếch-xít. Hoàng tử đã rời bỏ cung điện phú quí, đến sống giữa đám dân nghèo đói dốt nát, và sống hòa mình với họ. Về sau khi biết thầy lang chính là hòang tử A-lếch-xít thì dân chúng lại càng quý trọng hòang tử hơn rất nhiều.
Hoàng tử A-lếch-xít trong câu chuyện trên là hình ảnh của Đức Giê-su Đấng Cứu Thế. Người đã giáng sinh trong cảnh nghèo hèn để chia sẻ cảnh nghèo khó với loài người chúng ta. Người đã yêu thương chúng ta và tình nguyện xuống trần gian để ban cho chúng ta sự sống đời đời.
2) NGƯỜI VỐN VÔ TỘI NHƯNG ĐÃ TRỞ THÀNH TỘI NHÂN VÌ CHÚNG TA:
Một vị quan lớn gửi thiệp mời các người thân quen đến dự tiệc mừng sinh nhật thất tuần của ông. Tất cả quan khách đến dự buổi liên hoan đều ăn mặc sang trọng và có xe hơi đưa đón. Một vị quan cao tuổi là bạn chí thân của chủ tiệc cũng đến dự. Do già yếu nên khi bước xuống xe, ông bị trượt chân té xuống một vũng nước dơ khiến các gia nhân gần đó cười ồ lên. Trước tình trạng quần áo bị hoen ố nước dơ, vị quan cảm thấy xấu hổ trước trăm con mắt nhạo cười và quyết định lên xe ra về. Các gia nhân hiện diện đã năn nỉ hết cách mà vị quan kia nhất định không vào nhà dự tiệc. Bấy giờ chủ nhà được gia nhân cấp báo liền vội vàng chạy tới. Khi ngang qua vũng nước, ông lại cố tình té ngã vào vũng nước và quần áo ông cũng vấy bẩn không khác vị quan khách kia bao nhiêu. Lần này bọn gia nhân không ai dám cười nữa. Sau đó chủ nhà đã nắm tay vị khách quý kia mời vào phòng dự tiệc, và ông này không còn viện lý do gì để từ chối nữa.
Việc làm của chủ nhà trong câu chuyện trên là một hành động tế nhị và đầy tình người, khiến chúng ta hiểu được phần nào lý do tại sao Đức Giê-su vốn là Con Thiên Chúa mà lại hạ mình xuống làm một người phàm. Người muốn trở nên giống như loài người chúng ta để ban ơn cứu độ cho chúng ta.
3) THĂM HANG ĐÁ:
Vào một dịp lễ Giáng Sinh, người ta thấy có một đoàn người đến viếng thăm Hang đá trong nhà thờ Đức bà Paris. Đây là một ngôi Nhà thờ cổ kính và rất nổi tiếng tọa lạc ngay giữa thủ đô. Hòa trong đoàn người kính viếng hang đá năm ấy, người ta thấy có nhiều người khôn ngoan tài giỏi cũng cùng đi viếng hang đá.
Đầu tiên là một hoạ sĩ chuyên về mầu sắc: Đứng trước máng cỏ của Chúa Giê-su, ông nhìn ngắm và lắc đầu tỏ ý như những màu sắc trang hoàng trong hang đá không mấy hài hòa theo con mắt thẩm mỹ của ông. Một vài phứt sau, ông đi ra chỗ khác. Tiếp đến là một kiến trúc sư chuyên việc xây dựng. Người ta thấy ông cũng nhìn ngắm rồi ông cũng lại lắc đầu bỏ đi, có lẽ cách kết cấu hang đá đã không theo đúng kỹ thuật khoa kiến trúc. Sau đó ông cũng lặng lẽ đi ra.
Tiếp theo đó là nhà điêu khắc chuyên tạc đắp tượng. Tượng Chúa Giêsu, Đức Mẹ và thánh Giu-se trong hang cũng là do những người làm nghề điêu khắc làm. Nhà điêu khắc này đứng ngắm hang đá lâu hơn hai người trước. Hình như ông thấy các bức tượng nơi hang đá có vấn đề. Sao nó không đúng với thực tế mấy: Chúa thì to mà con bò con chiên thì lại quá nhỏ, thiếu sự cân đối hài hòa. Rồi người ta cũng lại thấy ông lắc đầu bỏ ra chỗ khác.
Sau cùng người ta thấy một bà cụ già dắt theo một em bé gái khoảng 5 tuổi. Em bé mặc bộ đầm trắng toát như tuyết. Vai em còn mang thêm một chiếc khăn quàng cũng màu trắng. Hai bà cháu đứng ngắm nhìn hang đá một hồi lâu. Bỗng người ta thấy em bé mon men tìm đường leo lên hang đá, đến tận chỗ người ta đặt tượng Chúa Giê-su Hài đồng.
Em bé ngắm nhìn Chúa Giê-su và xúc động. Em nghĩ: giữa cảnh đêm đông giá lạnh như thế này mà Hài nhi Giê-su lại không có được một chiếc mền để đắp cho ấm... Rồi em cởi chiếc áo len trắng em đang mặc đắp lên máng cỏ che ấm cho Chúa Hài đồng.
Sau đó hai bà cháu cùng nhau ra về, nhưng họ thấy tràn ngập niềm vui trong tâm hồn vì được gặp gỡ Chúa và đã được Chúa yêu thương.
Trong những ngày này, ước chi mỗi chúng ta cũng có được niềm vui hạnh phúc, nhờ biết cảm thông và sẵn sàng chia sẻ cơm áo cụ thể cho những người nghèo đói noi gương em bé trong câu chuyện trên.
3. SUY NIỆM:
1) ĐÊM THÁNH VÔ CÙNG:
Vào dịp lễ Giáng Sinh, chúng ta lại được nghe những bài hát du dương thánh thót có khả năng đánh động lòng người, nhất là bài SAI-LÂN NAI, HÔ-LI NAI (Silent Night, Holy Night), lời Việt là “Đêm Thánh vô cùng, giây phút tưng bừng”. Quả thực, đêm Giáng Sinh thật là một Đêm thiêng liêng, vì là giờ phút thiêng liêng, đất trời hòa hợp nhờ việc Con Thiên Chúa giáng sinh làm người. Mùa Vọng là thời gian trông mong Đấng Cứu Thế mau đến. Hôm nay, Thiên Chúa đã đáp lại sự mong mỏi của loài người bằng việc sai Con Một Ngài xuống thế làm người, đầu thai trong lòng Trinh Nữ Ma-ri-a, trở thành một người giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ không có tội.
Làm sao hiểu được chuyện đó? Làm sao Thiên Chúa lại trở thành một phàm nhân yếu đuối nghèo nàn? Làm sao Đấng Vô Cùng lại có thể trở thành một con người hữu hạn? Làm sao Đấng siêu thời gian lại đi vào trong thời gian và chịu sự chi phối của thời gian? Làm sao Đấng Tạo Hóa hằng sống lại phải trở thành một loài thụ tạo hay chết? Tóm lại: Tại sao Thiên Chúa lại giáng sinh làm người? Chúng ta chỉ có thể trả lời rằng: Tất cả là do TÌNH THƯƠNG.
Vì yêu thương loài người chúng ta và vì muốn cứu độ chúng ta, Con Thiên Chúa đã xuống thế để ở cùng chúng ta, để dạy loài người chúng ta nhận biết Đấng tạo dựng nên mình và mở ra cho loài người một con đường sống, để về trời hưởng hạnh phúc với Chúa Cha. Chúa Giê-su đã thể hiện tình thương của Thiên Chúa bằng việc thiết lập một Nước Trời là Hội Thánh, và đã chịu chết trên cây thập giá để đền tội thay cho loài người, rồi sống lại để trả lại sự sống cho loài người. Tóm lại đêm nay kỷ niệm “Con Thiên Chúa giáng trần làm con loài người, để con loài người được nên Con Thiên Chúa”.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của tình thương. Tin mừng trong ngày lễ Giáng Sinh hôm nay công bố sứ điệp: Thiên Chúa yêu thương loài người nên đã sai Con Một xuống thế để công bố cho loài người biết tình thương bao la của Thiên Chúa. Người muốn chúng ta đáp lại tình thương của Ngài bằng việc yêu mến Ngài và yêu thương nhau.
2) NGHÈO KHÓ CHÍNH LÀ DẤU CHỈ CỦA ĐẤNG CỨU THẾ:
Chúa Giáng Sinh là một Tin mừng cho mọi người thiện tâm trên trần gian. Các mục đồng sau khi được thiên thần báo tin đã lập tức lên đường tìm kiếm Hài Nhi và cuối cùng đã gặp được Người. Rồi họ lại đi loan Tin mừng cho kẻ khác. Đấng Cứu Thế đã chọn mang thân phận nghèo hèn đến với nhân loại, để chia sớt nỗi khổ đau với những người nghèo. Dấu chỉ giúp các mục đồng nhận ra Người: “Một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ”. Trước dấu chỉ nghèo khó này, các chủ quán ở Bê-lem đã xua đuổi hai ông bà Giu-se Ma-ri-a khỏi nhà trọ, đang khi các mục đồng nghèo khó lại vui mừng đón nghe Tin mừng về sự giáng sinh của Người.
Ngày nay Chúa Giê-su vẫn tiếp tục đến với chúng ta qua những dấu chỉ khiêm tốn và nghèo hèn. Người trở thành một tấm bánh với vẻ bề ngoài tầm thường, Người hiện thân trong những kẻ tàn tật què quặt đui mù, Người đến trong những người nghèo khó bị người đời hắt hủi bỏ rơi. Đây là lúc chúng ta phải xác định lập trường, để biết mình thuộc hàng người nào:
- Là chủ quán giàu có khi thiếu lòng từ tâm xua đuổi người nghèo?
- Hay là các mục đồng tuy nghèo khó, nhưng sẵn sàng đón nhận Tin mừng Chúa Giáng Sinh và quyết tâm đi tìm kiếm Chúa để đón nhận niềm vui ơn cứu độ?
4. THẢO LUẬN:
Tặng quà là một hình thức biểu lộ tình thương cụ thể, vậy trong mùa Giáng Sinh này bạn sẽ tặng gì cho những người thân trong gia đình, những bè bạn, những người làm ơn cho bạn suốt trong năm qua, và hết những ai nghèo khổ cô đơn, những bệnh nhân liệt giường không tiền thuốc thang chữa trị… là hiện thân của Chúa Giê-su?
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU, Hôm nay bắt đầu một mùa Giáng Sinh nữa. Trần gian rực sáng, cờ xí giăng đầy, người người nô nức mừng Chúa giáng sinh trong những bữa tiệc vui vẻ sang trọng, rượu thịt ê hề. Nhưng những người lữ hành năm xưa vẫn còn đang lỡ bước và đang tiếp tục bị xua đuổi ra đầu đường xó chợ trong đêm nay, vì các chủ quán ngày này năm xưa vẫn còn đó: Những ai đi xe hơi và ăn mặc bảnh bao sẽ được chủ quán ân cần đón tiếp vào nhà, còn những người nghèo khó cũng lại bị đuổi ra hầm cầu qua đêm! Xin cho chúng con biết luôn nhìn thấy Chúa đang hiện thân trong những người nghèo khó, những cụ già neo đơn không ai chăm sóc, những trẻ em mồ côi bụi đời… để chúng con ân cần thăm hỏi và sẵn sàng khiêm nhường phục vụ như phục vụ chính Chúa. Nhờ đó chúng con sẽ trở nên những môn đệ đích thực của Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Bài học từ Hài Nhi nằm trong máng cỏ
Lễ đêm giáng sinh 2022
Giuse hạt bụi tro
Đêm hôm nay, bầu khí giáng sinh đang tràn ngập khắp nơi. Từ các phố phường cho đến thôn làng, đâu đâu cũng vang lên những bài thánh ca mừng Chúa giáng sinh. Các khu phố, trung tâm thương mại, quán xá, nhà thờ, nhà dân đều thi nhau trang hoàng giáng sinh thật rực rỡ lung linh. Bất chấp thời tiết những ngày này gió lạnh rít lên từng cơn, con người vẫn xích lại gần nhau để đón mừng Chúa giáng sinh. Nhìn khuôn mặt ai ai cũng rực lên một niềm vui rộn ràng, tâm trạng khác hẳn mọi ngày khác trong năm.
Trời đêm gió lạnh, dần về khuya, tại sao mọi người vẫn còn ở đây? Già trẻ lớn bé, cả nhà đều ở đây, nơi thánh đường thân yêu này. Bình thường vào giờ này nhiều người đã đi vào giấc ngủ. Đâu là lý do giải thích cho cuộc tụ họp hân hoan này?
Câu trả lời nằm trong lời loan báo của các thiên thần với các mục đồng năm xưa: Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là niềm vui cho toàn dân. Hôm nay một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em. Người là Đấng Kitô, là Đức Chúa. À, thế ra hôm nay là sinh nhật của Chúa Kitô, Đấng cứu thế của chúng ta. Ngài chính là lý do của buổi lễ hôm nay.
Chúa Giêsu là món quà lớn lao nhất mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Ngài là đứa con của lời hứa trong Kinh thánh, là Đấng mà biết bao ngôn sứ đã loan báo trong Cựu ước, Đấng mà Gioan tẩy giả mở đường giới thiệu, Đấng mà chúng ta mong đợi ngóng trông trong suốt Mùa Vọng vừa qua. Nay, Ngài đã đến ở giữa chúng ta.
Chúng ta thấy gì trong đêm cực thánh này. Con Thiên Chúa đã trở nên một Hài Nhi bé nhỏ nằm trong máng cỏ hang lừa. Giờ đây, cùng với nhau, chúng ta hãy chiêm ngắm Hài Nhi Giêsu, dang đôi tay chúc lành, mỉm cười nằm trong máng cỏ. Hình ảnh ấy bày tỏ rất nhiều ý nghĩa.
1. Con Thiên Chúa trở nên yếu đuối. Chúa Giêsu là vua của vũ trụ này, quyền uy bất tận, thế mà nay, đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang Thiên Chúa, để trở nên một Hài Nhi bé nhỏ, yếu đuối, không thể tự chăm sóc mình. Ngài là trưởng tử của mọi loài thụ tạo, nhưng nay cần phải có cha có mẹ để chăm sóc mình; thông biết mọi sự, nhưng nay lại cần có thầy có cô để dạy dỗ, phải học hành để biết đọc biết viết, học nghề để có thể tự nuôi sống bản thân và gia đình. Ngài là tất cả, nhưng nay lại phụ thuộc tất cả để có thể tồn tại. Ngài có trăm phương ngàn cách để cứu độ con người, nhưng lại chọn cách làm người, sống như con người. Như thế, Con Thiên Chúa đã trở nên yếu đuối vì yêu chúng ta. Một sự yếu đuối mà Ngài đã tự ý chọn lựa.
2. Con Thiên Chúa trở nên nghèo khó. Không có chỗ trong thế giới loài người, nên Chúa Giêsu đã sinh hạ trong nơi dành cho súc vật. Ngài là Con Thiên Chúa toàn năng, nhưng không chọn sinh nơi lầu son gác tía, mà trong cảnh thiếu thốn của một người nghèo, nghèo khó đến tột cùng: không nhà, không cửa, không chăn ấm nệm êm. Ngài sinh ra trên đường, sống một cuộc sống trôi nổi, nay đây mai đó trên đường. Từ Bêlem trốn sang Ai Cập, từ Ai Cập trở về Nadarét, từ Nadarét bôn ba đây đó để loan báo tin mừng, và rồi cuối cùng, Ngài chết nhục nhã ở một ngã ba đường, trong thân phận của một kẻ bị kết án tử hình trên thập giá. Trần trụi. Đau thương. Thậm chí, một ngôi mộ để an táng cũng không có, phải “chôn ké” trong mộ của người khác. Như thế, từ lúc sinh ra cho khi đến chết đi, Con Thiên Chúa đã trở nên nghèo khó đến tột cùng vì yêu chúng ta.
3. Một Thiên Chúa của Tình Yêu. Khi yêu một ai đó, chúng ta luôn thương luôn nhớ và muốn ở bên cạnh người đó. Nhiêu đó vẫn chưa đủ, chúng ta còn muốn đồng hóa mình với họ, để trở nên giống như họ, nên một với họ. Con Thiên Chúa cũng thế, vì quá yêu chúng ta nên Ngài cũng muốn giống như chúng ta, sống như chúng ta, nói bằng ngôn ngữ của chúng ta. Ngài không muốn yêu chúng ta ở xa xa, hoặc như một vị thần thoát ẩn thoát hiện, nhưng đã đồng hóa mình với chúng ta, bằng cách trở nên một con người, giống như chúng ta.
Như thế nào là đồng hóa? Xin lấy một ví dụ cho dễ hiểu: Khi chăm sóc các em bé còn bập bẹ bi bô, đang tập nói, chúng ta nói với các em bằng tiếng của người lớn thì các em vẫn hiểu được. Tuy nhiên, trong thực tế, chúng ta thấy các bà mẹ không nói bằng thứ tiếng mà người lớn vẫn nói với nhau, nhưng nói bằng thứ tiếng của các em, bập bẹ bi bô như các em... Lúc này, người mẹ, có thể nói được là, không còn là chính mình nữa, bà chấp nhận đánh mất chính mình, để đồng hóa với con của mình, nên giống như con của mình. Đó là tình yêu. Đó là ngôn ngữ của tình yêu.
Thiên Chúa cũng vậy. Thiên Chúa là tình yêu nên Người cũng nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Con Thiên Chúa đã dùng chính ngôn ngữ ấy để nói với chúng ta, những người mà Chúa yêu thương nhất. Ngài chấp nhận đánh mất địa vị Thiên Chúa để trở nên một con người, y như chúng ta. Chúng ta chính là lý do để Con Thiên Chúa phải sinh ra đời.
Hài Nhi nằm trong máng cỏ dạy cho chúng ta ba bài học
1. Con Thiên Chúa đã trở nên yếu đuối để dạy chúng ta dám trở nên yếu đuối. Yếu đuối để không cậy dựa vào bản thân mình. Mình khỏe, mình giàu, mình làm được hết mọi thứ mình muốn, mà chẳng cần Thiên Chúa. Không có đâu! Một cơn gió thoảng qua cũng đủ làm mọi thứ tan biến đi trong chốc lát. Yếu đuối để biết cậy dựa vào Chúa và chỉ Chúa mà thôi. Cây nghiêng bên nào thì ngã bên đó. Chúng ta nghiêng về bên Chúa thì sẽ được về với Chúa. Hãy yếu đuối nơi thế gian để được mạnh mẽ khi vào Nước Chúa.
2. Con Thiên Chúa đã trở nên nghèo khó để dạy chúng ta dám trở nên nghèo khó, vì Nước Trời là của những ai có tâm hồn nghèo khó. Nghèo khó để không bám víu vào của cải vật chất thế gian, sức khỏe, danh vọng, quyền lực. Những thứ đó bảo đảm hạnh phúc nơi trần gian, nhưng chúng chỉ là tạm bợ, chóng qua. Khi còn sống, chúng ta thu góp và nắm giữ cho thật nhiều, thật chặt. Tuy nhiên, đừng quên rằng, khi nhắm mắt lìa đời, tay chúng ta phải buông bỏ hết mọi thứ ở thế gian, để có thể nắm lấy tiền của Nước Trời, tức là tiền của mà chúng ta đã cho đi khi còn sống. Hãy tự hỏi mình có bao nhiêu tiền trong ngân hàng Nước Trời? Nếu số dư hãy còn quá ít ỏi, thì hãy tích góp bằng cách cho đi, để có một kho tàng giàu có ở Nước Trời.
3. Con Thiên Chúa không muốn điều gì khác nơi chúng ta ngoài tình yêu của chúng ta. Thật ra, chẳng có gì xứng đáng cho Chúa, chẳng có gì cao trọng đủ để tiếp rước Chúa. Đó là lý do Con Thiên Chúa đã chọn sinh ra ở hang lừa, một nơi không có gì hết, bởi vì ở đó Chúa sẽ là tất cả. Chúa thích ngự đến nơi nào mà ở đó Chúa là tất cả. Yếu đuối cũng được, nghèo khó cũng được, xấu xí cũng được... miễn là chúng ta xem Chúa là tất cả của chúng ta. Khi ấy chúng ta sẽ có được hạnh phúc thực sự, là thứ hạnh phúc mà những người tu (cha, thầy, sơ) vẫn tìm kiếm và cảm nhận được.
Đêm nay, đêm của niềm vui mừng Chúa giáng sinh. Chúng ta hãy tạ ơn Thiên Chúa vì đã tự đặt mình vào trong vòng tay chúng ta, trong hình dạng của một Hài Nhi bé nhỏ. Cùng với nhau chúng ta hãy hát lên bài ca mà cả triều thần thiên quốc đã hát lên để ca mừng Con Chúa giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”
SỨ ĐIỆP GIÁNG SINH: CHÚA LÀM NGƯỜI
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột (Noel 2022)
Trong đêm cực thánh này, đêm Noel, đêm mà hầu như toàn thể nhân loại đều hướng đến ngày sinh nhật của Đấng Cứu Thế, cách riêng theo cái nhìn đức tin của người Kitô hữu. Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định niềm tin của mình: “Thánh Tử là hình ảnh của Đấng vô hình, là trưởng tử sinh ra trước mọi loài thọ tạo, vì trong Người, muôn vật được tạo thành trên trời cùng dưới đất, hữu hình và vô hình” (Cl 1, 15-16). Để sống mầu nhiệm Giáng Sinh cho hữu hiệu, thiển nghĩ rằng cần thấu hiểu mục đích của việc Con Thiên Chúa giáng trần. Xin cũng ngẫm suy đôi điều về một trong những mục đích của sứ điệp Giáng Sinh đó là “Con Thiên Chúa giáng trần để làm người”. Trong thời gian rao giảng Tin Mừng, chính Chúa Giêsu thường tự xưng mình với danh hiệu “Con Người” (x.Mc 10, 45; Lc 19, 10).
Là trưởng tử giữa các loại thọ sinh, Con Thiên Chúa giáng trần để soi sáng cho con người biết cách thế làm người đúng với thánh ý Đấng Tối Cao khi tạo dựng nên loài người, loài cao trọng nhất trong các loài hữu hình, là hình ảnh và là họa ảnh của Đấng Sáng Tạo (x.St 1, 27). Đấng bỏ trời cao xuống thế làm người là để tỏ bày chân lý. Chúa Giêsu đã khẳng định điều này trước mặt Philatô (x.Ga 18.37). Một chân lý nền tảng mà Người ngỏ với nhân loại đó là tạo vật thì phải hiện hữu và vận hành đúng quy luật của Đấng Sáng Tạo. Chiếc bình sành chỉ thực sự là nó khi biết uốn mình theo bàn tay của người thợ gốm (x. Gr 18,1-6). Và ngay khi chào đời Hài Nhi Giêsu đã thực sự sống chân lý căn bản này.
Hài Nhi Giêsu với đôi bàn tay bé bỏng mở ra muốn nói với nhân trần chúng ta rằng việc làm người của bất cứ ai trên cõi trần này đều cần đến tình thương của Đấng Tối Cao, cần đến nghĩa tình của mẹ cha, ông bà, cần đến sự đỡ nâng và sẻ chia của rất nhiều người, cần đến sự góp phần của loài vật bậc thấp và cả giới tự nhiên. Sự hiện hữu, tồn tại và phát triển của một con người có đó sự góp phần của bao nghĩa tình và công sức bên ngoài và nhất là bên trên. Đây cũng là lý do để bất cứ ai đã là người thì phải biết sống cùng, sống cho Thiên Chúa, cho tha nhân và cho mọi loài thụ tạo khác. Chân lý nền tảng này đã được những trang đầu Sách Thánh khẳng định: “con người ở một mình không tốt” (x.St 2, 18). Bàn tay Hài Nhi Giêsu mở ra không chỉ là để khiêm nhu đón nhận ân tình mà còn là dấu chỉ của sự sẵn sàng chia sẻ, trao ban trong tình hiệp thông, liên đới với nhân trần.
Biết sống với, sống cùng và sống cho tha nhân chính là cách thế sống đúng phận con người. Hài Nhi Giêsu được đặt nằm trong máng cỏ là dấu chỉ cho nguồn sống và sự sống của muôn loài, cách riêng của loài người. Khi đi rao giảng Tin Mừng chính Người đã khẳng định mình “là Bánh Hằng Sống từ trời xuống cho muôn người” (x.Ga 6, 51). Không ai là một hòn đảo. Để làm người cách có ý nghĩa thì cuộc đời của chúng ta phải hữu ích cho những ai đó trong tình yêu liên đới.
Sứ điệp Giáng Sinh đã tỏ bày: Chúng ta phải khiêm nhu nhìn nhận sự hiện hữu, tồn tại và phát triển, nhất là để được hạnh phúc đích thực, chúng ta cần nhờ đến tình yêu của Thiên Chúa và nghĩa tình của biết bao người. Và hiện thực này thúc bách chúng ta phải biết sống hữu ích trong tình quảng đại cống hiến cho Danh Thiên Chúa và hạnh phúc của tha nhân. Một nhận định đáng cho chúng ta phản tỉnh đó là con người hôm nay với sự phát triển nhiều mặt của khoa học kỹ thuật đã làm được rất nhiều sự lớn lao về các mặt kinh tế văn hóa… mà xem ra còn hạn chế về lãnh vực làm người.
Một vài động thái làm biến dạng chân dung con người mà chúng ta cần cẩn trọng đề phòng đó là sự độc tôn, độc đoán, độc quyền. Những hình thái này nói lên sự bất cần sự góp sức, góp phần của tha nhân. Và thái độ sống ích kỷ, dửng dưng, vô tâm cũng là kiểu sống làm chân dung con người bị biến dạng. Chính vì thế mà sứ điệp Con Thiên Chúa xuống thế làm người mãi vẫn là sứ điệp luôn mang tính thời sự. Chính khi chúng ta thực sự làm người đúng nghĩa thì Danh Thiên Chúa được cả sáng, vì con người là hình ảnh của Đấng Tối Cao. Và chúng ta có thể nói rằng “Vinh Danh Thiên Chúa trên các tầng trời” là khi mỗi người chúng ta đã và đang thực sự là người như Đấng đã bỏ trời cao xuống thế để làm người.
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH - LỄ RẠNG ĐÔNG
Ca nhập lễ
Hôm nay ánh sáng huy hoàng rực rỡ, sẽ bừng lên chiếu rọi muôn người, vì Chúa đã giáng sinh để cứu độ chúng ta. Người sẽ được gọi là Thiên Chúa, Đấng kỳ diệu, vị Thủ Lãnh kiến tạo hòa bình, người Cha của thế giới tương lai, vương quyền Người sẽ vô cùng vô tận.
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Khi Đức Giêsu đến trong trần gian này, Người không được các nhà lãnh đạo chào mừng, cũng không được con cái trong nhà tiếp nhận. Người được đón tiếp bởi các mục đồng thuộc giai cấp thấp hèn, nên lời chứng của họ không được coi là giá trị. Thế nhưng đó là vì Người muốn đồng hóa mình với người nghèo, với người đau khổ, với người tội lỗi. Chúng ta có cảm thấy đó là niềm hạnh phúc không? Hãy cùng những người nghèo, người đau khổ, người tội lỗi dâng lên Chúa Hài Đồng lời tri ân sâu xa trong Thánh Lễ hôm nay. Nhưng để xứng đáng cử hành Mầu Nhiệm Thánh chúng ta cùng thành tâm hối lỗi.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, ánh sáng mới của Ngôi Lời nhập thể đã tràn ngập chúng con, và chiếu giãi niềm tin vào tận tâm hồn. Giờ đây, xin Chúa cũng làm cho ánh sáng ấy rực lên trong mọi sinh hoạt của chúng con. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: Is 62, 11-12
“Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðây Chúa làm cho nghe thấy tận cùng cõi trái đất rằng: Hãy nói với thiếu nữ Sion: Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 96, 1 và 6. 11-12
Ðáp: Hôm nay sự sáng chiếu giãi trên chúng ta, và Chúa đã giáng sinh cho chúng ta.
Xướng: Chúa hiển trị, địa cầu hãy nhảy mừng, hải đảo muôn ngàn, hãy mừng vui! Trời xanh loan truyền sự công minh Chúa, và chư dân được thấy vinh hiển của Người.
Xướng: Sáng sủa bừng lên cho người hiền đức, và niềm hoan hỉ cho kẻ lòng ngay. Người hiền đức, hãy mừng vui trong Chúa, và hãy ca tụng thánh danh Người!
Bài Ðọc II: Tt 3, 4-7
“Chúa đã cứu độ chúng ta theo lượng từ bi Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi cho Titô.
Khi Ðấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không phải do những việc công chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người, mà Người đã cứu độ chúng ta, bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần, Ðấng mà Người đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta qua Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta, để một khi được công chính hoá bởi ân sủng của Ngài, trong hy vọng, chúng ta được thừa kế sự sống đời đời, trong Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Lc 2, 14
Alleluia, alleluia! – Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, và bình an dưới thế cho người thiện tâm. – Alleluia.
Phúc Âm: Lc 2, 15-20
“Các mục tử đã gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết”. Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Ðó là lời Chúa.
Ðọc kinh Tin Kính đến câu: “Bởi phép Chúa Thánh Thần” thì bái gối.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Ngôi Lời là ánh sáng thế gian đến để hướng dẫn nhân lọai tìm về nguồn cội và được hưởng ơn cứu độ. Vậy chúng ta cùng dâng lời nguyện xin :
1. “Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quí chuộng“.- Xin cho các vị lãnh đạo dân Chúa được tràn đầy sức mạnh của Chúa Thánh Thần, để không cảm thấy mệt mỏi trên bước đường loan báo Tin Mừng .
2. “Trong hy vọng, chúng ta được thừa kế sự sống đời đời”. Xin cho mọi tầm hồn Kitô hữu cảm thấy mình thực sự có niềm vui ơn cứu độ, để hăng hái đem Tin Vui đó đến cho mọi người.
3. “Họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh” Xin cho những người nghèo, những người đau khổ, những người tội lỗi, biết tiếp nhận ánh sáng của Đức Kitô, để biến cuộc đời mình thành ánh sáng cho người khác.
4. “Họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy”.- Xin cho mọi người trong giáo xứ chúng ta, biết nhìn thấy hình ảnh Chúa Hài Đồng nơi những người cùng khổ để chúng ta rộng tay giúp đỡ.
Chủ tế: Lạy Chúa Hài Đồng, hôm nay chúng con đón mừng mầu nhiệm Chúa đến trần gian trong hình hài trẻ thơ, thì chúng con cũng biết hăm hở chuẩn bị đón Chúa đến với từng người chúng con qua cương vị một thẩm phán, Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, ước gì của lễ chúng con dâng được tương xứng với mầu nhiệm Giáng Sinh ngày hôm nay chúng con mừng kính. Chính trong mầu nhiệm này, Chúa đã soi sáng cho chúng con biết nhìn nhận Hài Nhi là một vì Thiên Chúa. Xin cũng làm cho bánh rượu này là hoa màu ruộng đất trở thành bí tích đem lại cho chúng con nguồn sinh lực của Chúa. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng Giáng Sinh
Ca hiệp lễ
Này thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiêu nữ Giê-ru-sa-lem hãy ca hát tưng bừng! Kìa Vua ngươi đang ngự đến, Người là Đấng Thánh, Đấng cứu độ trần gian.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, hôm nay chúng con đã hoan hỷ mừng mầu nhiệm Con Chúa giáng sinh. xin cho chúng con được đức tin sâu sắc và lòng hăng hái nhiệt thành, để hiểu biết và mến yêu mầu nhiệm cao cả ấy. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
Con người – Lc 2,1-20
Ngày nay, con người là một vấn đề được chú ý nhiều nhất. Càng ngày những công trình bác ái càng được phát huy sâu rộng. Càng ngày người ta càng cảm thấy sự tôn trọng và thăng tiến con người là một yếu tố cần thiết làm nên văn minh, cũng như làm cho dân giàu nước mạnh. Lý tưởng mà con người mơ ước và theo đuổi mỗi ngày một cao đẹp và phong phú hơn. Từ đó, chúng ta đi vào mầu nhiệm giáng sinh.
Thực vậy, với mầu hiệm giáng sinh, thì yếu tố con người cũng là yếu tố hàng đầu. Bởi vì cái giá mà Thiên Chúa đã trả để giải quyết vấn đề con người chứng tỏ con người thực là quan trọng. Đúng thế, trong kinh Tin Kính chúng ta vốn hằng tuyên xưng: Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế.
Theo thánh Gioan diễn tả, thì Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể. Thiên Chúa đã xuống thế, mặc lấy thân phận con người, hoà mình vào những thực tại của kiếp người. Và để chia sẻ cuộc sống con người, Ngài đã trở nên giống chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Thiên Chúa đã bước xuống phận con người, để con người được tiến lên ngôi Thiên Chúa.
Ngài đã cùng với những người thành tâm thiện chí phấn đấu đẩy lùi những gì là xấu xa và phát huy những gì là tốt đẹp, xứng với phẩm giá con người.
Như thế, con người chính là đối tượng của mầu nhiệm giáng sinh, chính vì mỗi người chúng ta mà Ngài đã đến, đến để giúp chúng ta tìm được hạnh phúc ở đời này và đời sau. Hơn thế nữa, cũng chính vì con người mà Ngài đã đổ ra cho đến giọt máu cuối cùng trên thập giá, để cứu chuộc chúng ta, tha thứ cho chúng ta, trả lại cho chúng ta địa vị làm con cái Chúa, đã mất đi vì tội lỗi và cho chúng ta được thừa hưởng phần sản nghiệp Nước Trời.
Mỗi khi chúng ta giúp đỡ người khác, nhất là những người ngheo túng và khổ đau, thì đó là chúng ta đã cộng tác với Chúa, hay nói một cách mạnh mẽ hơn, thì đó là chúng ta đã giúp đỡ cho chính Chúa vậy.
Cái nhìn lạc quan trên đây giúp chúng ta phấn khởi để cùng nhau tích cực góp phần giải quyết vấn đề con người hôm nay, nhất là những kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Nếu chúng ta biết rằng vấn đề con người là quan trọng đến nỗi chính Thiên Chúa đã phải dấn thân, đã phải nhập cuộc để giải quyết, thì bất cứ ai thiện chí góp phần vào đều đáng được kể là cộng tác với Thiên Chúa, dù người đó không cùng một quan điểm, không cùng một niềm tin với chúng ta.
Suy niệm
Vinh danh Thiên Chúa trên trời – Lc 2,1-14
(Suy niệm của ĐTGM. Ngô quang Kiệt)
Đêm nay, tại các nhà thờ trên khắp thế giới vang lên lời ca của các thiên thần trong đêm Giáng Sinh năm xưa:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Lời hát của các thiên thần chính là sứ điệp của Chúa từ trời cao gửi xuống. Lời hát này nối kết đất với trời. Lời hát này ràng buộc Thiên Chúa với con người.
Tại sao “”Vinh danh Thiên Chúa trên trời” phải đi liền với “Bình an dưới thế cho người Chúa thương”? Thưa vì Thiên Chúa yêu thương con người. Thiên Chúa tự ràng buộc mình với con người.
Vì yêu thương nhân loại, Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện trở nên một trẻ thơ yếu ớt. Vì yêu thương nhân loại, Ngài tự nguyện làm con của loài người, sinh ra bởi một người phụ nữ. Vì yêu thương nhân loại, Ngài đã muốn trở nên một thành viên trong gia đình nhân loại, có một gia đình như những người khác.
Thiên Chúa đã tự nguyện làm một người như chúng ta, Thiên Chúa tự đồng hóa với con người đến nỗi từ nay ai khinh miệt một con người là khinh miệt chính Chúa, ai bạc đãi một con người là bạc đãi chính Chúa, ai hà hiếp một con người là hà hiếp chính Chúa. Ai xúc phạm đến con người là xúc phạm đến Chúa.
Hang đá Bêlem là một lời mời gọi tha thiết và cấp thiết cho tương lai nhân loại. Thiên Chúa hóa thân làm một trẻ sơ sinh để mời gọi ta hãy biết tôn trọng sự sống. Thiên Chúa sinh ra làm một trẻ thơ yếu ớt để mời gọi ta hãy biết yêu thương những người bé nhỏ, yếu hèn. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh nghèo nàn để mời gọi ta hãy biết nâng đỡ những người nghèo khổ. Thiên Chúa sinh làm con Đức Mẹ Maria để mời gọi ta hãy biết kính trọng phụ nữ. Thiên Chúa sinh ra trong một gia đình để mời gọi ta hãy biết bảo vệ những truyền thống tốt đẹp đem lại hạnh phúc cho gia đình.
Lời mời gọi này có tính chất quyết định không những cho hạnh phúc chóng qua mà còn cho hạnh phúc vĩnh cửu của con người.
Vì ai tôn trọng con người là tôn trọng chính Chúa. Ai phục vụ con người là phục vụ chính Chúa. Như lời Chúa dạy: mỗi lần ta cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho kẻ rách rưới ăn mặc, viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc, là ta làm cho chính Chúa (x. Mt 25).
Như thế, lễ Chúa Giáng Sinh là lễ của phẩm giá con người. Chúa xuống trần để nâng cao phẩm giá con người. Chúa làm người để con người được kính trọng. Con người cao quý vì đã được nâng lên làm con Thiên Chúa.
Như thế, lễ Giáng Sinh là lễ của niềm vui. Vui vì con người được Thiên Chúa yêu thương. Vui vì con người được nâng lên địa vị cao trọng. Hôm nay khi đọc Kinh Tin Kính đến câu: “Vì loài người chúng tôi và để cứu rỗi chúng tôi, Người đã từ trời xuống thế”, ta hãy quỳ gối trước tình yêu thương cao cả của Chúa dành cho ta. Quỳ gối để suy niệm sự cao cả của con người vì được Chúa yêu thương.
Vì thế, để mừng lễ Chúa Giáng Sinh cho đúng ý nghĩa, tôn thờ Thiên Chúa vẫn chưa đủ, ta còn phải yêu thương kính trọng con người. Dịp lễ Giáng Sinh, chỉ đến viếng hang đá thôi chưa đủ, ta còn phải đến viếng những nhà tranh vách đất, giúp dựng lại những túp lều xiêu vẹo. Chỉ đến viếng Chúa Giêsu bé thơ thôi chưa đủ. Ta còn phải đến viếng những trẻ em bị bỏ rơi, vực dậy những tuổi thơ bất hạnh. Chỉ cảm thương Thánh Gia trong hang đá nghèo nàn thôi chưa đủ. Ta còn phải cảm thương những anh chị em nghèo khổ, thiếu may mắn ở quanh ta.
Chỉ khi nào tất cả mọi người được yêu thương, ta mới có thể mừng lễ Giáng Sinh thật sự vui tươi. Chỉ khi nào tất cả mọi người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo hèn được kính trọng, ta mới có thể hát vang lời ca:
“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người Chúa thương”
Trong tâm tình yêu mến và kính trọng, tôi xin gửi tới tất cả anh chị em lời cầu chúc đầy bình an và ân sủng của Chúa Hài Nhi Giáng Sinh. Amen.
GỢI Ý CHIA SẺ
1) Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho người Chúa thương. Khi hát câu này bạn có ý thức mối liên hệ chặt chẽ giữa Thiên Chúa với con người không?
2) Tại sao Chúa Giêsu đòi buộc ta phải yêu mến con người nếu ta thực sự yêu mến Chúa?
3) Lễ Giáng Sinh này, bạn sẽ làm việc cụ thể nào để thực sự mừng đón Chúa đến?
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ GIÁNG SINH – LỄ RẠNG ĐÔNG ABC
Is 62, 11-12; Tt 2, 4-7; Lc 2, 15-20.
LM ĐAN VINH - HHTM
GÓP PHẦN CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 2, 15-20
(15) Khi các thiên sứ từ biệt mấy người chăn chiên để về trời, những người này bảo nhau: “Nào chúng ta sang Bê-lem, để xem sự việc đã xảy ra, như Chúa đã tỏ cho ta biết”. (16) Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. (17) Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này. (18) Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. (19) Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng. (20) Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
2. Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng lễ Rạng Đông nối tiếp Tin Mừng lễ Nửa Đêm mừng Giáng Sinh. Nội dung ghi lại thái độ của các mục đồng sau khi được sứ thần hiện đến loan báo tin vui về sự ra đời của Đấng Cứu Thế. Họ đã tích cực đáp trả bằng cách vội vã rủ nhau lên đường đi sang thành Bê-lem, để coi xem sự việc xảy ra mà Chúa mới cho biết. Theo lời sứ thần hướng dẫn, họ đã sớm tìm thấy Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ và hai ông bà Giu-se Ma-ri-a đứng bên. Rồi họ thuật lại mọi sự từ khi được sứ thần loan báo tới việc tìm thấy Hài Nhi, đúng với những điều họ đã nghe biết. Cuối cùng họ vui vẻ về nhà, vừa đi vừa ca tụng tôn vinh Thiên Chúa, đã ban Đấng Cứu Thế cho loài người.
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Họ liền hối hả ra đi. Đến nơi, họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ. Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hai Nhi này” (Lc 2, 16-17).
2. CÂU CHUYỆN:
1) CHÚA ĐẾN BAN HÒA BÌNH CHO NHÂN LOẠI:
Vào ngày lễ vọng Giáng sinh năm 1914, những quân lính Đức và Anh đối đầu với nhau, tại các hào chứa đầy bùn lầy và chuột cống. Tại các hào của quân Anh, những lá thư và tấm thiệp được gửi đến từ gia đình, và anh em binh lính khá vui vẻ. Đến nửa đêm, một số người trong bọn họ bắt đầu ca hát. Thế rồi đột nhiên, một người lính gác la lên một cách đầy phấn khích: “Anh em hãy lắng nghe đi!”. Họ lắng nghe, và nhận thấy những quân lính Đức cũng đang ca hát. Một lúc sau, hai người lính can đảm, do mỗi phe cử một người, đến gặp nhau tại bãi đất trống. Thêm nhiều quân lính khác đi theo họ. Theo quan điểm quân đội, điều này không có ý nghĩa gì cả. Với tư cách là những người lính, người ta cho rằng họ đến đánh nhau. Đột nhiên ngừng lại và trở nên bạn bè không tạo nên ý nghĩa. Nhưng trong đêm hôm đó, có sức mạnh còn lớn lao hơn cả quân đội tại nơi chiến trường.
Khi ngày lễ Giáng sinh bắt đầu ló rạng, với gương mặt tươi cười, các binh lính đi dạo chung quanh vùng Đất Không Người. Người ta không nhìn thấy một dấu vết nào của sự hận thù. Họ trao đổi với nhau lương thực, đồ kỷ niệm và thuốc lá. Khoảng giữa trưa, khi tình thân thiện đang gia tăng, thì lại có một trận đấu bóng đá giữa hai phe. Nhưng trận đấu này không kéo dài lâu. Tin này đã lan tới tai các vị tướng đôi bên, và họ đã ban bố những mệnh lệnh gay gắt phải chấm dứt ngay mọi chuyện. Các sĩ quan dồn binh lính trở lại vào chiến hào. Tất cả mọi chuyện đều kết thúc. Sau lễ Giáng Sinh, cuộc giao chiến lại bắt đầu trở lại.
Khi Đức Giê-su sinh ra, các thiên sứ hát rằng “Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người Chúa thương”. Đây là một câu, trong số những lời nói đầy yêu thương nhất ở Tin Mừng. Bạn sẽ làm gì để đem sự bình an cho gia đình và nơi bạn đang sống?
2) “LỄ NO-EN THỜI THƠ ẤU”:
- Trong quyển tự thuật “Đứa Trẻ Duy Nhất”, một nhà văn Ai-len tên là PHĂNG Ô CON-NO (Frank O’ Connor) đã tự thuật câu chuyện về lễ No-en trong đời ông như sau:
Khi còn bé, vào một ngày trước lễ Giáng Sinh, Ô CON-NO được ông già No-en tặng cho một món đồ chơi chạy bằng giây cót. Thế rồi vào chiều ngày lễ hôm ấy, cậu bé Con-no theo mẹ đi đến một tu viện ở gần nhà. Cậu bé mang theo món quà duy nhất mới nhận được để khoe với mấy nữ tu thân thiết với gia đình cậu.
Một nữ tu dẫn cậu đến viếng máng cỏ được dựng trong nhà nguyện của tu viện. Nhìn vào hang đá, cậu bé suy nghĩ khi thấy Chúa Hài Đồng nằm trong máng cỏ mà không có món quà nào bên cạnh cả. Cậu nghĩ có lẽ bé Giê-su sẽ rất buồn vì không được ai tặng quà cho. Cậu quay lại hỏi vị nữ tu tại sao Chúa Hài Đồng lại không có món quà nào cả? Bấy giờ nữ tu kia trả lời: “Vì quá nghèo, nên Mẹ Ma-ri-a không có tiền mua quà cho con trẻ mới sinh”. Câu trả lời ấy tuy giải tỏa phần nào thắc mắc của cậu, nhưng cậu vẫn suy nghĩ: “Mẹ của mình cũng nghèo như thế, mà tại sao Mùa Giáng Sinh nào mẹ cũng dành được tiền mua quà tặng cho mình?” Món quà có khi là một hộp bút chì màu, khi khác là một chiếc cặp da… Rồi lòng quảng đại chợt dâng lên trong lòng, cậu bé liền cầm lấy món đồ chơi mang theo, leo rào vào bên trong hang đá rồi đặt món quà kia vào giữa đôi tay đang mở rộng của trẻ Giê-su. Cậu còn hướng dẫn cách lên giây cót, sợ rằng trẻ Giê-su còn quá nhỏ không biết cách sử dụng thành thạo món quà cậu mới trao tặng.
- Câu chuyện trên cho thấy lễ Giáng Sinh là một cơ hội để mỗi người chúng ta bày tỏ sự quan tâm đối với tha nhân. Đây là điều chính Thiên Chúa đã làm gương bằng cách ban Con Một mình cho nhân loại chúng ta. Con Thiên Chúa không đến trong quyền lực và giàu sang phú quí, nhưng trong sự yếu đuối nghèo khó cùng cực. Người đến trong vẻ yếu đuối để giúp chúng ta thêm tự tin vào các tài năng Chúa ban và sử dụng chúng theo Thánh Ý Chúa muốn. Người đến trong sự nghèo khó để an ủi chúng ta và mời gọi chúng ta quảng đại chia sẻ cho những kẻ nghèo đang sống chung quanh chúng ta.
3. SUY NIỆM:
1) CON THIÊN CHÚA ĐÃ LÀM NGƯỜI ĐỂ CON LOÀI NGƯỜI NÊN CON THIÊN CHÚA:
Chúa Giê-su Đấng Cứu Thế đã yêu thương nhân loại chúng ta và đã từ trời cao xuống thế làm một người phàm. Người được sinh ra trong thân phận nghèo khó, sống một cuộc đời lao động vất vả tại Na-da-rét như bao dân làng. Người đã trở thành EM-MA-NU-EN nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Quả thật: “Con Thiên Chúa đã trở nên loài người, để làm cho con loài người trở nên Con Thiên Chúa”.
2) LỊCH SỬ HANG ĐÁ BE-LEM:
- Trong Mùa Giáng Sinh này, chúng ta thường thấy nhiều hang đá tại nhà thờ hay tư gia. Trong hang có Hài Nhi Giê-su đang nằm trong máng cỏ, bên cạnh là Mẹ Ma-ri-a và thánh cả Giu-se quì thờ lạy. Cũng có mấy con bò và lừa đang quì gần bên thở hơi ấm cho Hài Nhi mới sinh.
- Việc dựng các hang đá như trên đã có từ thế kỷ thế 13. Vào năm 1223, thánh Phan-xi-cô khó khăn, lúc đó đang là bề trên một tu viện bên Ý. Ngài cho dọn một hang đá trong vườn cây ở gần Gờ-réc-xi-ô. Bên trong hang đá, ngài đặt tượng Hài Nhi Giê-su nằm trên máng cỏ, bên cạnh là một con bò và một con lừa. Vào đêm khuya hôm lễ Giáng Sinh, thánh Phan-xi-cô cùng các tu sĩ và dân chúng lân cận kéo nhau đến đứng chung quanh hang đá. Bên cạnh hang có đặt một bàn thờ, và thánh lễ đã được cử hành trang nghiêm. Từ đó, việc trưng bày hang đá tại nhà thờ và tư gia càng ngày càng phổ biến trở thành tập tục chung của cả thế giới.
3) GIÁNG SINH LÀ MẦU NHIỆM TÌNH THƯƠNG VÔ CÙNG CỦA TH CHÚA:
Mầu Nhiệm Giáng Sinh là cách Thiên Chúa diễn tả tình thương lớn lao nhất đối với nhân loại. Thiên Chúa đã sai Con Một xuống thế làm người, trở nên giống như chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không có tội. Người đã yêu thương chúng ta đến cùng, và biểu lộ tình yêu bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời, làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế, lựa chọn và huấn luyện các tông đồ, lập các Bí Tích và cuối cùng sẵn lòng chịu chết nhục nhã trên cây thập giá để đền tội thay cho chúng ta, và sống lại để ban lại sự sống cho chúng ta. Người đã mở ra con đường lên trời cho chúng ta. Đó là con đường yêu thương, quên mình và phục vụ, là chấp nhận “Qua đau khổ tử nạn để vào vinh quang phục sinh”. Người mời gọi mọi người muốn được ơn cứu độ thì “hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hàng ngày mà đi theo Người”. Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ được sống lại với Người, và sau này sẽ cùng được hưởng hạnh phúc vĩnh viễn trên thiên đàng với Người.
4) CHIA SẺ NIỀM VUI ƠN CỨU ĐỘ VỚI THA NHÂN:
Trong mùa Giáng Sinh tại nhiều nước truyền thống Ki-tô giáo, có thói tục tặng quà cho người thân và cho người nghèo. Chúa sinh ra trong cảnh nghèo hèn để mời gọi các tín hữu chúng ta biết nghĩ đến tha nhân, cảm thông và chia sẻ giúp đỡ những người bất hạnh với hết khả năng của chúng ta. Mỗi chúng ta phải trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, sẵn sàng trao tặng cho tha nhân một nụ cười thân ái, một lời nói động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Mỗi người chúng ta hãy đi thăm những người đau khổ để chia sẻ tình thương của Chúa cho họ, là những món quà vật chất, là lời nói chân thành động viên những ai đang bị bệnh tật, đau khổ… phấn đấu vượt qua những khó khăn gặp phải, cùng hợp tác với nhau để biến đổi gia đình, khu phố, nhà thờ, nơi làm việc của mình trở thành một thiên đàng trần gian yêu thương hòa bình, vui tươi và hạnh phúc, đúng như những lời chúc mừng luôn được ghi trên các cánh thiệp Giáng Sinh và đầu Năm Mới: “Chúc mừng Giáng Sinh vui vẻ và Năm Mới hạnh phúc”.
4. THẢO LUẬN:
Sau khi được sứ thần loan báo tin vui, các mục đồng đã vội vã lên đường đi Bê-lem để tìm Hài Nhi Cứu Thế. Rồi sau đó họ đã thuật lại những gì mắt thấy tai nghe về Hài Nhi này. Trong Mùa Giáng Sinh, mỗi người chúng ta cần làm gì để loan báo Tin Mừng Chúa Giáng Sinh cho các bạn bè và những anh em lương dân chưa nhận biết Chúa.
5. LỜI CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con trở thành những ông già No-en đầy lòng nhân ái, luôn sẵn sàng trao tặng cho tha nhân một nụ cười thân ái, một lời nói động viên an ủi, một món quà chứa đựng tình người. Xin cho chúng con biết đến thăm những người bất bạnh để chia sẻ tình thương của Chúa cho họ. Ước gì niềm vui trong ngày lễ Giáng Sinh không dừng lại ở những của cải vật chất bên ngoài, nhưng ở tình người được nhân lên mãi, được nối lại thành vòng tay lớn, hầu cùng nhau chung lo xây dựng một thế giới mới đầy niềm vui, bình an và hạnh phúc.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
Suy niệm
Lễ Giáng sinh (lễ Rạng đông)
Lm. Phêrô Trần Bảo Ninh
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca. (Lc 2, 15-20)
Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết”. Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ.
Còn Maria thì ghi nhớ tất cả những sự việc đó, và suy niệm trong lòng. Những mục tử trở về, họ tung hô ca ngợi Chúa về tất cả mọi điều họ đã nghe và xem thấy, đúng như lời đã báo cho họ.
Suy niệm
Toàn thể nhân loại cùng hòa chung với các Thiên Thần, cất cao tiếng hát đón mừng Con Thiên Chúa làm người, Ngài chính thức đi vào ngôi nhà nhân loại, đi vào từng con đường góc phố của con người, đến tận nhà và dừng lại nơi cánh cửa tâm hồn mỗi người, để cùng với con người, Con Thiên Chúa dẫn lối đi tới một ngày mai đầy niềm vui và hy vọng của tình yêu cứu độ. Phụng vụ Lời Chúa Thánh lễ rạng đông mời con người ngụp lặn trong niềm vui và hạnh phúc khi bên cạnh mỗi người, có sự hiện diện của Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian. Còn niềm vui nào cho bằng từ hôm nay, nhân loại nhận được món quà từ trời cao, đó là lời hứa cứu độ mà Thiên Chúa đã hứa, ngày con người quay lưng lại với tình yêu của Ngài.
Để chuẩn bị cho Đấng Cứu Thế vào đời, Thiên Chúa Cha đã gởi các tiên tri tới trước, để loan tin vui, để dọn đường nơi mỗi tâm hồn của con người, hầu tất cả có thể nhận ra đã đến lúc Thiên Chúa thực hiện lời hứa cứu độ, đồng thời, chuẩn bị đón Đấng Cứu Thế một cách xứng đáng, bởi Ngài đến, như lời tiên tri Isaia trong bài đọc 1, mang theo món quà lớn từ trời cao đến cho con người: “Hãy nói với thiếu nữ Sion: Này đây Ðấng Cứu Ðộ ngươi đến. Người đem theo phần thưởng với Người và sự nghiệp trước mặt Người. Những người được Chúa cứu chuộc, người ta sẽ gọi họ là dân thánh. Còn ngươi, ngươi sẽ được gọi là thành quý chuộng, thành không bị bỏ rơi”. Phần thưởng của Thiên Chúa là chính người Con của Ngài, người Con đó đem tình yêu cứu độ đến cho con người, mở đường cho con người trở về với quê hương đích thực của mình, trở về ngôi nhà người Cha nhân lành đã chuẩn bị trên trời. Từ đây, sự nghiệp và tương lai của con người sẽ đổi thay, là một tội nhân, một tạo vật đã quay lưng với Thiên Chúa, nay được gọi Ngài là Cha, có tên gọi mới là nghĩa tử của Thiên Chúa.
Cảm nghiệm từ bản thân được Thiên Chúa yêu thương và cứu vớt khi đang rơi vào hoàn cảnh khác thường, thánh Phaolô đã nhắc nhở người học trò, luôn ý thức về ơn gọi và trách nhiệm của mình khi được cộng tác với Thánh Thần, đem ơn cứu độ đến cho muôn dân: “Khi Ðấng Cứu Thế, Chúa chúng ta, đã tỏ lòng từ tâm và nhân ái của Người, thì không phải do những việc công chính chúng ta thực hiện, nhưng do lòng từ bi của Người, mà Người đã cứu độ chúng ta, bằng phép rửa tái sinh và sự canh tân của Thánh Thần, Ðấng mà Người đã đổ xuống tràn đầy trên chúng ta qua Ðức Giêsu Kitô, Ðấng Cứu Ðộ chúng ta”. Ơn cứu độ Con Thiên Chúa đem đến trần gian không do công trạng hay tài năng của con người, nhưng đến từ tình thương yêu của Thiên Chúa. Mỗi người được nhận ân sủng đó cách nhưng không, thì hãy cho đi cách nhưng không, hầu mọi người đều được chung hưởng niềm hạnh phúc Nước Trời trong ngày cánh chung.
Câu chuyện giáng sinh vẫn mãi là một câu chuyện vui nhưng khá bí ẩn, bởi sự xuất hiện của một hài nhi trong một gia đình nhỏ, đã làm náo loạn cả bầu trời, muôn tinh tú đổi thay, trên mặt đất càng có nhiều dấu lạ, dân thành Giê-ru-sa-lem không quan tâm tới biến cố đó, các nhà lãnh đạo tôn giáo thờ ơ trước câu chuyện giáng sinh, dù họ biết rõ và cũng đã nghe các tiên tri loan báo, đặc biệt Kinh thánh đã ghi lại những lời tiên báo qua nhiều thế hệ. Còn những mục đồng, những người nghèo của Giavê, họ đã nhận ra nhiều dấu chỉ, nhận ra sự hiện diện của Đấng Cứu Thế nhờ các thiên thần loan báo, họ tìm đến thờ lạy. Xa hơn là các nhà chiêm tinh, các đạo sĩ, theo sự chuyển vần của đất trời, họ biết có Đấng làm chủ vũ trụ xuất hiện ở vùng trời nào, họ đã tìm đến và thờ lạy Ngài: “Khi các thiên thần biến đi, thì các mục tử nói với nhau rằng: “Chúng ta sang Bêlem và coi xem sự việc đã xảy ra mà Chúa đã cho chúng ta được biết”. Rồi họ hối hả tới nơi và gặp thấy Maria, Giuse và Hài Nhi mới sinh nằm trong máng cỏ. Khi thấy thế, họ đã hiểu ngay lời đã báo về Hài Nhi này. Và tất cả những người nghe, đều ngạc nhiên về điều các mục tử thuật lại cho họ”.
Tiếng hát của các thiên thần trên bầu trời Bê-lem năm xưa vẫn vang mãi cho đến hôm nay: vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm. Lời bài hát cho chúng ta thấy Đấng Cứu Thế đem đến cho nhân loại món quà từ trời cao là sự bình an đích thực. Sự bình an đó chỉ đến với những ai có cái tâm thiện, có cái tâm sáng, có cái tâm rộng mở và quảng đại. Người nào ăn ở theo đường công chính, sống theo sự thật lẽ ngay, người đó đang từng ngày chìm ngập trong sự bình an đích thực, sự bình an đến từ Thiên Chúa. Đó là một sự bình an đến từ niềm tin, lòng tín thác và mến yêu Thiên Chúa. Cuộc đời họ thuộc trọn về Thiên Chúa, cả con người họ như là một khí cụ dành riêng cho Thiên Chúa dùng trong kế hoạch của Ngài.
Có được sự bình an đích thực, con người đang từng ngày giới thiệu về sự hiện diện của Thiên Chúa, đang giới thiệu về uy quyền của Đấng Tối Cao trên tất cả mọi sự và mọi người. Đó là lúc con người đang làm vinh danh Thiên Chúa. Thế nhưng, thế giới hôm nay chưa một ngày hết tiếng đạn bom, chưa một ngày toàn thể nhân loại không thấy chiến tranh, hận thù, bao nhiêu người còn đói khổ, bao nhiêu người mất nhà mất cửa, mất người thân chỉ vì chiến tranh huynh đệ tương tàn. Bao nhiêu người còn lang thang trên mọi nẻo đường vì không còn gia đình, không còn chỗ tá túc qua đêm. Bao nhiêu người còn là nạn nhân của dịch bệnh, của lòng tham con người, của hận thù và ghen ghét, thế thì làm sao nhân loại có được cái tâm thiện, có được cái tâm sáng và có được cái tâm vị tha để thế giới được bình an, nhân loại sống trong niềm hạnh phúc đích thực của một con người, của một gia đình Thiên Chúa.
Vua Hòa bình đã giáng sinh, Thiên Chúa tình yêu đã nhập thể, thế thì tại sao nhân loại cứ mãi bị giam cầm trong cái vòng luẩn quẩn của tội lỗi và khổ đau, tất cả chỉ vì tính tự mãn và kiêu căng của con người, họ chưa chấp nhận người bên cạnh mình là anh chị em, là con cái cùng một Cha trên trời, họ còn bị tham – sân – si của thế gian thống trị tâm hồn. Nhân loại chưa dám mạnh dạn sám hối tâm hồn và thay đổi nhận thức của mình, để có thể gặp được một Thiên Chúa làm người có tên gọi là Em-ma-nu-en. Nhân loại chưa nhận ra được chiều sâu của phẩm giá con người, đó là một chiều sâu thánh thiêng, bởi con người là họa ảnh của Thiên Chúa, mang trong mình sức sống của Ngài và mặc lấy mầm sống đời đời trong tâm hồn, khi từng ngày đón nhận Thánh Thể tình yêu. Mỗi ngày bóng tối vẫn hoành hành và tìm cách đẩy lùi sự sáng ra khỏi tâm hồn con người, Thiên Chúa luôn sẵn sàng cùng với con người đi vào vùng trời tự do của sự sáng khi can đảm cộng tác với Thiên Chúa và đồng hành với Ngài trên con đường Đấng Cứu Thế đã giới thiệu, đó là con đường của hy sinh, của tự hiến và của phục vụ và yêu thương như Thiên Chúa đã yêu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa vào đời trong phận người mong manh, trần trụi và yếu đuối, cho chúng con thấy được chính mình cũng trần trụi, cũng mong manh và cũng yếu đuối như thế, để biết tin thờ vào một Thiên Chúa, để tìm đến ơn cứu độ từ Thiên Chúa và để biết phó thác cuộc đời trong sự quan phòng của Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết dừng lại bên hang đá, biết quỳ gối trước một Thiên Chúa làm người nơi Hài Nhi Giêsu, để chúng con học được bài học tự hiến của Con Thiên Chúa. Con Thiên Chúa làm người để con người được làm Con Thiên Chúa, xin giúp chúng con mở đôi mắt đức tin để thấy sự kỳ diệu của tình yêu đích thực, là cho đi không tính toán, là hy sinh không tìm lợi ích, là phục vụ không tìm vinh quang cho mình, nhưng tất cả cho Thiên Chúa, vì Thiên Chúa và trong Thiên Chúa. Amen.
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
ĐẠI LỄ CHÚA GIÁNG SINH - LỄ BAN NGÀY
Ca nhập lễ
Một trẻ thơ chào đời để cứu ta, một người con được ban cho nhân loại, Người mang quyền bính ở trên vai, danh hiệu Người là Cố Vấn kỳ tài.
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Hôm nay, mọi chú ý của chúng ta đều tập trung vào Hài Nhi Giêsu trong máng cỏ. Thế nhưng, ngày này năm xưa những người đầu tiên đến chia sẻ với Đức Maria và Thánh Giuse ở vùng đất khiêm tốn ấy, lại là những dân quê mộc mạc, những kẻ bên lề xã hội. Sự hiện diện của họ bên máng cỏ nói lên rằng: Đức Kitô sinh ra cho những người bình dân, trong những công việc đời thường. Đón mừng lễ Giáng Sinh năm nay không phải chỉ là nhớ lại những biến cố đã xẩy ra ở Belem năm nào, nhưng là dịp nhắc nhở từng người ý thức rằng, Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến nỗi sai Con Một đến sống giữa chúng ta, để cứu thoát chúng ta, tha thứ mọi tội lụy và chỉ cho chúng ta con đường về quê trời. Hòa với niềm hân hoan của Đức Maria, Thánh cả Giuse và các mục đồng trước Chúa Hài Nhi, chúng ta cùng dâng Thánh Lễ tạ ơn, nhưng trước hết hãy tẩy rửa tâm hồn bằng lòng thống hối ăn năn.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã sáng tạo con người cách kỳ diệu, lại còn phục hồi phẩm giá con người cách kỳ diệu hơn nữa; xin ban cho chúng con được chia sẻ chức vị làm con Chúa với Ðức Kitô là Ðấng đã chia sẻ kiếp người với chúng con. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn thuở muôn đời.
Ðọc kinh Tin Kính đến câu: “Bởi phép Chúa Thánh Thần” thì bái gối.
Bài Ðọc I: Is 52, 7-10
“Khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Ðẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình, người rao tin mừng, người rao tin cứu độ, nói với Sion rằng: Thiên Chúa ngươi sẽ thống trị!
Tiếng của người canh gác của ngươi đã cất lên. Họ sẽ cùng nhau ca ngợi rằng: Chính mắt họ sẽ nhìn xem, khi Chúa đem Sion trở về. Hỡi Giêrusalem hoang tàn, hãy vui mừng, hãy cùng nhau ca ngợi! Vì Chúa đã an ủi dân Người, đã cứu chuộc Giêru-salem. Chúa đã chuẩn bị ra tay thánh thiện Người trước mặt chư dân; và khắp cùng bờ cõi trái đất sẽ nhìn xem ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 97, 1. 2-3ab. 3cd-4. 5-6
Ðáp: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta
Xướng: Hãy ca mừng Chúa một bài ca mới, vì Người đã làm nên những điều huyền diệu. Tay hữu Người đã tạo cho Người cuộc chiến thắng, cùng với cánh tay thánh thiện của Người.
Xướng: Chúa đã công bố ơn cứu độ của Người; trước mặt chư dân, Người tỏ rõ đức công minh. Người đã nhớ lại lòng nhân hậu và trung thành để sủng ái nhà Israel.
Xướng: Khắp nơi bờ cõi địa cầu đã nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta. Toàn thể địa cầu hãy reo mừng Chúa, hãy hoan hỉ, mừng vui và đàn ca!
Xướng: Hãy ca mừng Chúa với cây đàn cầm, với cây đàn cầm với điệu nhạc du dương, cùng với tiếng kèn râm ran, tiếng tù và rúc, hãy hoan hô trước thiên nhan Chúa là Vua.
Bài Ðọc II: Dt 1, 1-6
“Chúa đã phán dạy chúng ta qua người Con”.
Trích thư gửi tín hữu Do-thái.
Thuở xưa, nhiều lần và dưới nhiều hình thức, Thiên Chúa đã phán dạy cha ông chúng ta qua các tiên tri. Trong những ngày sau hết đây, Ngài đã phán dạy chúng ta qua Người Con mà Ngài đã đặt làm vị thừa kế vạn vật, và cũng do bởi Người Con mà Ngài đã tác thành vũ trụ. Nguyên vốn là phản ảnh sự vinh quang và là hình tượng bản thể Ngài, Người Con đó nâng giữ vạn vật bằng lời quyền năng của mình, quét sạch tội lỗi chúng ta, và ngự bên hữu Ðấng Oai Nghiêm trên cõi trời cao thẳm. Tên Người cao trọng hơn các thiên thần bao nhiêu, thì Người cũng vượt trên các thiên thần bấy nhiêu.
Phải, vì có bao giờ Thiên Chúa đã phán bảo với một vị nào trong các thiên thần rằng: “Con là thái tử của Cha, hôm nay Cha đã hạ sinh Con”? Rồi Chúa lại phán: “Ta sẽ là Cha Người, và Người sẽ là Con Ta”. Và khi ban Con Một mình cho thế gian, Chúa lại phán rằng: “Tất cả các thiên thần Chúa hãy thờ lạy Người!”
Ðó là lời Chúa.
Alleluia
Alleluia, alleluia! – Ngày thánh đã dọi ánh sáng trên chúng ta. Hỡi các dân, hãy tới thờ lạy Chúa, vì hôm nay ánh sáng chan hoà đã toả xuống trên địa cầu. – Alleluia.
Phúc Âm: Ga 1, 1-18 {hoặc 1-5. 9-14}
“Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng ta”.
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gioan. Ông đã đến nhằm việc chứng minh, để ông chứng minh về sự sáng, hầu cho mọi người nhờ ông mà tin. Chính ông không phải là sự sáng, nhưng đến để chứng minh về sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Gioan làm chứng về Người khi tuyên xưng rằng: “Ðây là Ðấng tôi tiên báo. Người đến sau tôi, nhưng xuất hiện trước tôi, vì Người có trước tôi”.
Chính do sự sung mãn Người mà chúng ta hết thảy tiếp nhận ơn này tới ơn khác. Bởi vì Chúa ban Lề luật qua Môsê, nhưng ơn thánh và chân lý thì ban qua Ðức Giêsu Kitô. Không ai nhìn thấy Thiên Chúa, nhưng chính Con Một Chúa, Ðấng ngự trong Chúa Cha, sẽ mạc khải cho chúng ta.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn này: Ga 1, 1-5. 9-14
“Ngôi Lời đã làm Người và ở cùng chúng ta”
Bắt đầu Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa. Người vẫn ở với Thiên Chúa ngay từ nguyên thủy.
Mọi vật đều do Người làm nên, và không có Người, thì chẳng vật chi đã được tác thành trong mọi cái đã được tác thành. Ở nơi Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại; sự sáng chiếu soi trong u tối, và u tối đã không tiếp nhận sự sáng.
Vẫn có sự sáng thực, sự sáng soi tỏ cho hết mọi người sinh vào thế gian này. Người vẫn ở trong thế gian, và thế gian đã do Người tác tạo, và thế gian đã không nhận biết Người. Người đã đến nhà các gia nhân Người, và các gia nhân Người đã không tiếp nhận Người. Nhưng phàm bao nhiêu kẻ đã tiếp nhận Người, thì Người cho họ được quyền trở nên con Thiên Chúa, tức là cho những ai tin vào danh Người. Những người này không do khí huyết, không do ý muốn xác thịt, cũng không do ý muốn của đàn ông, nhưng do Thiên Chúa mà sinh ra.
Và Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, và Người đã cư ngụ giữa chúng tôi, và chúng tôi đã nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang Người nhận được bởi Chúa Cha, như của người Con Một đầy ân sủng và chân lý.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến! Trong Thánh Lễ hôm nay và suốt Mùa Giáng Sinh này, chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau, để tình yêu chúng ta dâng lên Chúa và dành cho nhau, luôn được cụ thể hóa qua những ước mong chân thành :
1. “Đẹp thay chân người rao tin trên núi, người rao tin thái bình” – Xin cho các vị lãnh đạo dân Chúa được trung thành với lời thề hứa của ngày thụ phong, và biết chia sẻ những hồng ân đã được lãnh nhận bằng đời sông gương mẫu, để nhiều người nhận biết Chúa.
2. “Tên Người là Emmanuel nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” – Xin cho các Kitô hữu nồng cháy tình yêu Chúa, để tâm hồn họ trở nên nơi cư ngụ ấm êm cho Chúa Hài Nhi hằng luôn ở cùng.
3. “Người vẫn có sự sống, và sự sống là sự sáng của nhân loại”.- Xin cho những người chưa tin Chúa được nhận ra Ngài vẫn hiện diện trong sức sống điều hòa của vũ trụ, để tích cực tìm gặp Ngài và đón nhận Ngài là ánh sáng và lẽ sống đời mình.
4. “Chính do sự sung mãn của Người mà chúng ta tiếp nhận hết ơn này tới ơn khác”.- Xin cho những người đang đi trong bóng tối sự chết, được ánh sáng trường tồn bất biến chiếu soi, mà mau tìm về với Ngài, để được hưởng những hồng ân Chúa qua Đức Kitô.
Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, vì thương yêu chúng con nên Chúa đã xuống thế làm người, ở giữa chúng con, cho chúng con nên một trong nguồn sống vĩnh phúc của Chúa, xin cho chúng con cảm nghiệm được tình yêu chan hòa vô tận của Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, đây là lễ vật chúng con dâng trong ngày đại lễ này, để tôn thờ Chúa cho phải đạo. Xin Chúa thương chấp nhận và làm cho mọi người được ơn hoà giải và bình an. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng Giáng Sinh
Ca hiệp lễ
Toàn cõi đất này được xem thấy, ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa từ bi nhân hậu, hôm nay Chúa đã cho Vị Cứu Tinh ra đời để chúng con được tái sinh làm con Chúa. Ước chi Người cũng cho chúng con được hưởng phúc trường sinh. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Suy niệm
“Ngôi Lời đã làm người”
+ TGM Giuse Vũ Văn Thiên
Suy niệm Lễ Giáng Sinh
Có lần, khi dẫn các vị khách không cùng tôn giáo đi thăm hang đá Giáng Sinh, có vị đã hỏi ý nghĩa của dòng chữ ghi trên hang đá “Ngôi Lời đã làm người”, tôi thấy thật khó để giải thích một điều cốt lõi của Đức tin Kitô giáo. Quả vậy, mầu nhiệm Nhập thể không thể diễn đạt trong vài câu từ. Ngay cả đối với các Kitô hữu, tín điều này là một huyền nhiệm mà lý trí hữu hạn của con người phải im lặng cung kính tôn thờ trước quyền năng cao cả và tình thương vô bờ của Thiên Chúa Tối cao.
“Ngôi Lời đã làm người”, Tác giả Tin Mừng thứ bốn khẳng định với chúng ta như thế. Ông đã khởi đầu tác phẩm của mình bằng cách đi tìm nguồn gốc của Ngôi Lời thiên linh. Ngôi Lời ấy đã hiện hữu từ muôn thuở. Ngôi Lời vừa giống Chúa Cha, lại vừa khác với Ngài. Ngôi Lời giống Chúa Cha vì Ngôi Lời là Thiên Chúa, Ngôi Lời khác với Chúa Cha vì “Người vẫn hướng về Thiên Chúa”. Sự tương tự và khác biệt chỉ có thể hiện hữu do quyền năng của Thiên Chúa. Thánh Gioan muốn chứng minh: Đức Giêsu Kitô thành Nagiarét là Thiên Chúa thật, và cũng là người thật. Như trên đã nói, lý trí con người hữu hạn, suy bao nhiêu cũng không thể hiểu được mầu nhiệm Nhập Thể, tức là sự kiện Thiên Chúa và con người nên một nơi Đức Giêsu. Trong kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng: Đức Giêsu đồng bản thể với Đức Chúa Cha. Lời tuyên xưng ấy nói lên sự tương tự huyền nhiệm này.
“Ngôi Lời đã làm người”, để làm gì? Thưa, để chiếu sáng thế gian. Đức Giêsu là ánh sáng trần gian. Chính Người đã khẳng định: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8,12). Sứ mạng của Đức Giêsu là soi sáng trần gian, giúp con người nhận ra Chân lý, và nhờ đó họ được sống đời đời. Ánh sáng của Chúa Giêsu là cuộc đời và giáo huấn của Người. Ai đến với Người, thì không còn phải đau khổ, vì họ được an ủi và tìm thấy bình an. Lịch sử Kitô giáo hai ngàn năm qua đã chứng minh điều đó. Bất cứ ai đến với Đức Giêsu, đều được Người đón nhận. Sự kiện lễ Giáng sinh được cử hành vào nửa đêm theo truyền thống từ xa xưa, cũng nhằm khẳng định Đức Giêsu là ánh sáng bừng lên trong đêm tối cuộc đời.
“Ngôi Lời đã làm người” trong hoàn cảnh nào? Tác giả Tin Mừng thứ bốn viết: “Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,11). Thánh Gioan muốn nói đến những người khước từ Chúa Giêsu. Sự khước từ ấy thể hiện qua việc Thánh Giuse và Đức Trinh nữ Maria gõ cửa nhiều quán trọ, mà không tìm được một chốn trú ngụ qua đêm. Những chủ quán thời đó có thể khước từ vì thấy hai ông bà nghèo nàn, mà bà thì lại sắp sinh con. Chính vì sự khước từ này mà Ngôi Lời đã phải khởi đầu hành trình trần thế trong khung cảnh nghèo nàn tột bậc. Đó là hang đá, nơi dùng cho chiên bò trú ngụ qua đêm để tránh sương lạnh mùa đông buốt giá. Trải dài suốt lịch sử, có rất nhiều người đón nhận Chúa Giêsu và thực thi giáo huấn của Người. Tuy vậy, cũng có nhiều người khước từ Chúa. Những người đón tiếp Chúa vì đã nhận ra nơi Người con đường Chân lý và ý nghĩa cuộc đời. Những người khước từ Người vì thấy nơi Người những ràng buộc kìm hãm mọi đam mê của họ. Theo Đức Giêsu phải chấp nhận bỏ mình. Bởi lẽ, Đức Giêsu đã đi trên con đường thập giá và đã chết trên thập giá. Kitô hữu là người nên giống Chúa Kitô trong cuộc sống, thì cũng phải nên giống Người trong mầu nhiệm thập giá. Cũng tác giả Tin Mừng thứ bốn đã khẳng định: “Những ai đón nhận, tức là tin vào Danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (c 12).
“Ngôi Lời đã làm người” dạy ta điều gì? Thiên Chúa cao cả đã hạ mình trở nên Hài Nhi bé nhỏ, sinh ra bởi một người phụ nữ. Đó là sự khiêm nhường của Thiên Chúa. Mầu nhiệm nhập thể dạy chúng ta, muốn nên thánh, trước hết phải là con người theo đúng nghĩa, tức là con người với đầy đủ những đức tính nhân bản. Có những người chưa làm người đã đòi làm thánh, vì vậy họ sống trong ảo tưởng, lang thang vô định mà chẳng thấy bình an. Noi gương Đức Giêsu, chúng ta sống khiêm nhường trước mặt Chúa và đối với anh chị em mình, vì “ai hạ mình xuống sẽ được Chúa nâng lên”.
“Ngôi Lời đã làm người”, và hôm nay Người đang ở giữa chúng ta. Hang đá máng cỏ chỉ là phác hoạ sự kiện lịch sử cách đây hơn hai ngàn năm. Khi mừng lễ Giáng sinh, mỗi tín hữu hãy nhận ra sự hiện diện đầy yêu thương ấy. Và, cũng như Gioan Tiền hô, mỗi chúng ta cũng hãy trở nên nhân chứng của Ánh Sáng ngàn đời, đêm Chúa đến với anh chị em chúng ta, những người đang khát khao Chân lý và đang tìm ý nghĩa cuộc đời.
HIỆP SỐNG TIN MỪNG
LỄ BAN NGÀY GIÁNG SINH ABC
Is 52, 7-10; Dt 1, 1-6; Ga 1, 1-18
LM ĐAN VINH - HHTM
HÃY THẮP LÊN NGỌN LỬA YÊU THƯƠNG NƠI THA NHÂN
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga 1, 1-18
1 Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa. 2 Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa. 3 Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành. 4 ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. 5 Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng. 6 Có một người được Thiên Chúa sai đến, tên là Gio-an. 7 Ông đến để làm chứng, và làm chứng về ánh sáng, để mọi người nhờ ông mà tin. 8 Ông không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng về ánh sáng. 9 Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người. 10 Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. 11 Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận. 12 Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người, thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa. 13 Họ được sinh ra, không phải do khí huyết, cũng chẳng do ước muốn của nhục thể, hoặc do ước muốn của người đàn ông, nhưng do bởi Thiên Chúa. 14 Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật. 15 Ông Gio-an làm chứng về Người, ông tuyên bố: "Đây là Đấng mà tôi đã nói: Người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi." 16 Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác. 17 Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có. 18 Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết.
2. CÂU CHUYỆN VÀ SUY NIỆM:
1) TẠI SAO THIÊN CHÚA PHẢI NHẬP THỂ TRỞ THÀNH EM-MA-NU-EN?
- Xưa kia một ông vua đã chọn một ông quan thông thái và thánh thiện tên là The Vizier để luôn đi theo làm bầu bạn và giải đáp các thắc mắc của nhà vua. Một hôm trên đường đi hành hương thánh địa Pa-lét-tin, The Vizier đã bị xúc động mãnh liệt khi được nghe biết câu chuyện của Chúa Giê-su Đấng Cứu Thế: Tuy là Thiên Chúa, nhưng vì yêu thương nhân loại tội lỗi, nên đã nhập thể làm người để ban ơn cứu chuộc cho loài người. Sau đó ông ta đã xin theo đạo Công giáo. Khi trở về triều, nhà vua thắc mắc hỏi quan The Vizier rằng: “Nếu trẫm muốn làm bất cứ điều gì, trẫm sẽ không cần đích thân làm, mà chỉ cần ra lệnh cho quần thần là việc đó sẽ lập tức được thi hành. Vậy tại sao Chúa Giê-su là vua các vua, là Thiên Chúa quyền năng, có thể cứu rỗi nhân loại chỉ bằng một lệnh truyền, nhưng người lại phải nhập thể làm người, trở thành Đấng “Em-ma-nu-en - Thiên Chúa ở cùng chúng ta” như vậy làm chi?” Bấy giờ quan cố vấn The Vizier xin nhà vua cho thời gian suy nghĩ một ngày trước khi trả lời cho nhà vua. Ngay sau đó, ông ta cho người nhờ một người thợ mộc tài giỏi trong nước làm gấp một con búp bê và cho mặc quần áo giống y như hoàng tử một tuổi con trai của nhà vua. Ông cũng căn dặn hôm sau phải mang búp bê đó đến cho ông.
Sáng hôm sau, khi vua và quan cố vấn đang chèo thuyền dong chơi trong hồ lớn bên trong hoàng cung, vua đã yêu cầu quan cố vấn hãy trả lời cho câu hỏi của vua hôm trước. Bấy giờ quan cố vấn ra hiệu cho người thợ mộc đang có mặt ở bờ hồ, trên tay bế con búp bê giống hệt hoàng tử một tuổi là con trai của nhà vua. Nhà vua trông thấy hoàng tử con trai của mình trên tay người lạ thì tưởng là thích khách. Nhất là khi thấy tên thích khách kia ném hoàng tử xuống hồ nước, nhà vua liền nhảy xuống hồ bơi nhanh đến để kịp thời cứu hoàng tử sắp bị chết chìm, mà không ra lệnh cho quần thần chung quanh. Sau khi quan quân đưa được nhà vua và hình nộm búp bê hoàng tử kia lên thuyền, quan cố vấn liền hỏi: “Tâu đức vua, thần nghĩ là đức vua không cần phải nhẩy xuống hồ nước, mà chỉ cần ra lệnh cho quần thần làm việc ấy không được hay sao? Tại sao chính đức vua lại phải nhẩy xuống hồ để cứu hình nộm hoàng tử vậy?” Nhà Vua suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Trẫm nghĩ có lẽ việc trẫm vừa làm là câu trả lời của khanh muốn nói cho trẫm biết lý do tại sao, để cứu nhân loại khỏi chết, Thiên Chúa toàn năng lại phải đích thân nhập thể làm người, thay vì ra lệnh cho ai khác làm điều đó”.
- Hôm nay chúng ta cử hành biến cố vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại: “Chúa Giê-su là Ngôi Lời Nhập Thể đã xuống thế làm người”. Người là Con Một của Chúa Cha, vì yêu thương nhân loại, đã từ trời cao xuống đầu thai thành một người phàm, “nên giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ không phạm tội” (Dt 4,15). Tin mừng Gio-an đã diễn tả mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập thể trong lời tựa mở đầu sách Tin Mừng Thứ Tư như sau: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta. Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14).
2) THẮP LÊN NGỌN LỬA TIN YÊU BẰNG SỰ THĂM VIẾNG VÀ PHỤC VỤ:
Một ngày kia, tại MEO-BƠN (Melbourne) nước Úc, mẹ Tê-rê-sa đến thăm một người đàn ông lớn tuổi nghèo khó và cô độc, đang sống dưới tầng hầm của một chung cư. Căn phòng của ông tối tăm và bề bộn, và ít khi ông bước ra khỏi phòng. Thái độ của ông không mấy phấn khởi khi thấy có người đến thăm. Sau mấy lời chào hỏi, mẹ Tê-rê-sa bắt đầu đi thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Lúc đầu, ông ta tỏ ý không muốn qua câu nói: “Bà cứ để mọi sự như cũ cho tôi. Tôi đã quen với cảnh này rồi”. Mặc dù thế, mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc của mình. Mẹ vừa dọn dẹp, vừa nói chuyện với ông ta ngồi trên nệm kê ở góc phòng. Dưới một đống rác cạnh tường, mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm, liền lấy ra lau chùi. Nhận thấy cây đèn khá đẹp, mẹ liền nói với ông ta: “Ông có một cây đèn dầu rất đẹp, vậy ông có thường thắp sáng nó lên hay không?” Ông ta đáp: “Tôi có thường thắp sáng cây đèn đó lên hay không ư? Có ai đến thăm tôi đâu!” Mẹ nói: “Thế ông có bằng lòng cho chúng tôi thường xuyên đến thăm ông để ông có dịp thắp sáng cây đèn này lên hay không?” Ông ta trả lời: “Vâng, nếu tôi nghe thấy một giọng nói của người nào, thì tôi sẽ thắp đèn lên”.
Từ ngày đó hai nữ tu dòng của mẹ Tê-rê-xa đã thường xuyên đến thăm viếng ông lão. Mọi sự đã dần dần được cải thiện. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, ông ta đều thắp sáng cây đèn lên. Thế rồi một ngày nọ, ông đã nói với các nữ tu: “Thưa các sơ, kể từ bây giờ, tôi đã có thể tự xoay xở mọi việc được rồi. Xin các sơ nói với mẹ bề trên đã đến thăm tôi cách đây ít lâu là: ánh sáng mà bà đã thắp sáng trong tôi từ đó đến nay vẫn tiếp tục cháy sáng trong tôi”.
Chính lòng nhân ái thể hiện qua hành động thăm viếng và thái độ đầy tình người của mẹ Tê-rê-xa và các chị em nữ tu dòng Thừa Sai Bác Ái đã thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu trong tâm hồn người đàn ông nghèo khó cô đơn nói trên.
3. LỜI CẦU:
Lạy Chúa. Mầu nhiệm Chúa giáng sinh hôm nay mời gọi mỗi người chúng con biết nghĩ đến những người chung quanh, nhất là những người đau khổ, bệnh tật, nghèo đói, cô độc và những đôi vợ chồng bất hạnh. Xin cho chúng con ý thức Chúa đang hiện thân nơi họ để mời gọi chúng con thăm viếng, động viên an ủi, sẻ chia tinh thần vật chất, để thắp sáng lên ngọn lửa tin yêu vẫn đang còn âm ỉ trong tâm hồn họ. Xin Chúa cũng giúp chúng con biết nhìn thấy Chúa nơi những người thân trong gia đình chúng con như: chồng vợ, cha mẹ, anh chị em trong cùng một mái nhà, để cảm thông, tha thứ và sẵn sàng chia sẻ lời chúc bình an hạnh phúc cho họ. Nhờ đó, Chúa là tình thương sẽ có thể hiện diện nơi bản thân, gia đình, khu xóm và nơi làm việc của chúng con.- AMEN.