TẢN MẠN VỀ VIỆC NÊN THÁNH
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Hằng năm cứ tháng 11 lại về Mẹ Hội Thánh dẫn đoàn con sống mầu nhiệm hiệp thông. Đây là một tín điều trong bản tuyên xưng đức tin Công giáo: “Tôi tin các thánh thông công”. Các tín hữu đã qua đời trong ơn nghĩa Chúa và các tín hữu đang còn lữ thứ trần gian luôn hiệp thông với nhau trong cùng một sự sống thần linh và có thể chuyển thông công nghiệp cho nhau. Trong số các tín hữu đã qua đời trong ơn nghĩa Chúa, có một số đông các vị đã được Hội Thánh tuyên phong hiển thánh. Là tín hữu, chúng ta buộc nhìn nhận các Ngài đã được hưởng kiến nhan thánh Chúa cách trọn hảo, nghĩa là đã được hưởng hạnh phúc viên mãn “trên trời”.
Trong Cựu ước, từ “thánh” được dùng để chỉ những người được tuyển chọn, được tách riêng ra để thi hành sứ mạng Chúa giao phó. Trong Tân ước, từ ngữ này được dùng để chỉ các Kitô hữu (x.Cv 9,13; 31-41; 1Cr 1,1; Rm 16,2). Các Kitô hữu được gọi là các thánh vì họ được Thiên Chúa tuyển chọn. Nhờ ân sủng Chúa Thánh Thần, họ được tham dự vào chính sự thánh thiện của Thiên Chúa, làm nên dân tộc thánh thiện. Họ được mời gọi dùng chính bản thân con người và đời sống mình làm thành hy lễ thánh thiện hiến dâng Thiên Chúa (x.Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh hạn từ “Các Thánh”). Dần dà về sau, Kitô hữu nhận thấy sự thật này là dù đã được chết đi cho con người cũ và sống lại với Chúa Kitô trong sự sống mới thì cuộc sống của họ dường như ít đổi thay và cũng có không ít người chưa vượt qua được chước cám dỗ “ngựa quen đường cũ”. Thế là hai từ các thánh thường dành riêng cho những người có lối sống trổi vượt về đức hạnh. Trong số những người có đời sống đạo hạnh thì càng về sau người ta lại chỉ dành chữ “thánh” cho những ai đã qua đời. Đã một thời Hội Thánh lại thận trọng tuyên phong hiển thánh cho một ai đó khi mà những người đương thời với vị ấy đang còn sống. Phải chăng chuyện “nhân bất thập toàn” là một rào cản tâm lý?
Tâm lý muốn được “phong thánh”: một ước mong chính đáng.
Là người, là Kitô hữu, sự thường ai cũng có cám dỗ muốn được người khác nhìn nhận phẩm giá của mình. Một chước cám dỗ tự nó không phải là xấu. Xuất hiện ở đời này, theo năm tháng khi trí khôn phát triển, con người dần khám phá bản thân và tự ý thức về sự hiện hữu của mình. Khi biết được đây là tôi, thì tôi lại muốn tha nhân nhìn nhận đây chính là tôi. Khi người khác nhìn nhận đây là tôi thì vẫn chưa đủ. Tôi còn muốn tha nhân công nhận tôi là thế này, tôi là thế kia theo những tiêu chí mà xã hội mỗi thời trân trọng. Có lẽ thuở sơ khai thì con người thích chứng tỏ mình “mạnh” hơn. Mình mạnh hơn nghĩa là mình xứng đáng có quyền làm đầu với sức mạnh của cơ bắp. Xã hội phát triển dần lên thì con người muốn chứng tỏ mình là có tài hơn, khôn ngoan hơn. Lúc này con người muốn đứng trên kẻ khác bằng tài năng, bằng trí khôn của mình. Cám dỗ muốn chứng tỏ mình đạo đức hơn xem ra tinh tế và đáp ứng được khát vọng của nhiều người hơn. Dù tôi không được khôn ngoan, dù tôi kém tài hay yếu sức nhưng tôi rất có thể sống đàng hoàng, đức hạnh hơn ai đó. Và thế là cũng có cái để hơn người. Quả thật, người ta thường nể sợ những người mạnh sức, thông minh, lắm tài nhưng người ta lại mến mộ người đạo hạnh cho dù họ ở cương vị nào, thân phận ra sao. Mong ước được phong thánh nghĩa là muốn được nhìn nhận phẩm hạnh của mình là một ước mong chính đáng và tốt đẹp. Đây là một trong những nét trổi vượt của con người so với các loài thọ tạo hữu hình khác.
Sợ phải làm thánh: chuyện bình thường kiếp người
Trong khi vẫn muốn sống tốt hơn, đạo đức hơn thì con người lại bị một sức ì, một lực cản cầm giữ. Thánh Phaolô cảm nghiệm nơi bản thân Ngài: “Những điều tôi muốn thì tôi không làm, còn những điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,15). Truyền thống gọi tình trạng này là hậu quả của nguyên tội. Nói đến nguyên tội, Kitô hữu trước đây rất dễ đón nhận nội dung giáo lý, đặc biệt được thánh Augustinô triển khai cách tượng hình. Với sự tiến bộ của các ngành khoa học lẫn thần học Thánh kinh thì cách trình bày nội dung tội nguyên tổ trước đây hình như thiếu tính thuyết phục. Tuy nhiên chúng ta thật khó chối bỏ một hiện thực trong kiếp người như thánh Phaolô thú nhận: “Tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể của tôi” (Rm 7,21-23).
Xu hướng vị kỷ một cách nào đó đã và đang tồn tại trong mỗi người chúng ta. Dù biểu lộ dưới nhiều hình thức, nhưng thảy đều có điểm chung là “có lợi cho mình”. Xét theo khía cạnh tiêu cực thì càng ít điều thiệt cho mình thì càng tốt. Bên cạnh đó hầu như ai cũng ngại hy sinh, sợ gặp sự khó, gặp điều không hay, sự chẳng may. Xu hướng vị kỷ này còn cám dỗ chúng ta muốn sống yên phận. Người ta sao thì mình vậy. Sống khác người làm chi cho thiệt thân. An thân, giữ phận trong đám đông là một cách thế khôn ngoan kiểu thế gian. Môn đệ Chúa Kitô, dù không thuộc về thế gian nhưng vẫn còn ở giữa thế gian. Là Giám mục, miễn sao như chư huynh anh em là được. Là linh mục, cứ bình bình như “các cha” là ổn. Là tu sĩ nam nữ, thật hiếm thấy nhiều người dám lội dòng nước ngược như Phanxicô thành Assisii, như Gioan Thánh Giá…, hay gần đây như mẹ Têrêxa thành Calcuttta. Là tín hữu giáo dân, miễn sao được lãnh nhận các Bí tích là đủ rồi. Cái lý do thường được viện dẫn quả có tình có lý. Mình có hơn gì ai. Một con én không làm nên mùa xuân. Không nên làm nổi, chơi trội, khác người. Nếu không được gì hoặc giả có sơ suất nào thì tiếng tăm khó mà che được.
Tuy nhiên, rà soát sâu xa tận đáy lòng thì chúng ta có thể nhận ra chước cám dỗ này đó là ta ngại phải sống tốt hơn. Muốn được phong thánh thì cũng muốn mà lại sợ phải sống thánh thiện hơn, vì phải bỏ mình hơn, quảng đại hơn. Chỉ cần vào được thiên đàng là đủ hay ít ra có một chỗ trong luyện ngục là chắc ăn. Đến đây thì ta mới thấy cái xu hướng vị kỷ hiện rõ mặt thật. Có người còn khôn khéo viện dẫn lời của Pascal để biện bạch: “con người không phải là súc vật cũng không phải là thiên thần. Khi nó muốn trở nên thiên thần thì sẽ rơi xuống hàng súc vật”. Phải chăng, vì quá viễn vông trở thành thánh mà chúng ta bị thần dữ dẫn xuống địa ngục? Điều ấy cũng có thể xảy ra. Ma quỷ tinh ranh khôn xiết. Cám dỗ một ai đó để họ tưởng rằng mình phải là thánh là chước cám dỗ xảo quyệt nhất. Tổ tiên loài người đã không từng ngã gục trước chước cám dỗ đó sao. Không gì hơn, hãy biết “khiêm nhu” bằng lòng với lối sống chung chung của thiên hạ. Vấn nạn thật nan giải! Nhưng chúng ta đừng quên Chúa Giêsu đã từng mời gọi mọi chúng ta: “Các con hãy nên trọn lành như Cha các con trên trời là Đấng trọn lành” (Mt 5,48). Không dám giải quyết vấn nạn cách kín lẽ và đầy đủ lý, nhưng để tiếp cận vấn đề thì không gì hơn, chúng ta cần nhìn lại chân dung của những người mà Hội Thánh đã tuyên phong hiển thánh.
Các thánh là những ai?
Câu hỏi này không muốn được trả lời bằng bảng liệt kê chuỗi danh sách tên tuổi những người đã được hiển thánh, nhưng muốn chúng ta truy tìm chân dung các vị ấy. Dựa vào gợi ý của Hội Thánh qua các bài đọc trong Thánh Lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ (ngày 01-11), chúng ta thử sơ phác diện mạo các Ngài.
- Các thánh là một tập hợp “rất rất nhiều người”, đếm không xuể.
Tác giả sách Khải Huyền trong thị kiến đã thấy “đoàn người thật đông không tài nào đếm được, thuộc mọi nước, mọi dân, mọi chi tộc, mọi ngôn ngữ” (Kh 7,9). Riêng số con dân Israel thì cũng đã là vô số. Ngài đưa ra con số biểu trưng: 144.000 người. Tức là cả ngàn lần của bình phương số 12 (12 x 12 x 1000 = 144.000). Số người đông không đếm xuể mà tác giả sách Khải Huyền đưa ra chắc hẳn không chỉ là lời động viên mà còn là lời xác nhận rằng ai cũng có thể làm thánh được. Không phải tôi muốn làm thánh là khác người nhưng trong khi có vô số người đã làm thánh, còn tôi thì ngại làm thánh mới là khác người.
- Các thánh vốn là những tội nhân.
“Họ là những người từ đau khổ lớn lao mà đến, họ giặt và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên” (c.14). Chiếc áo tâm hồn nhuốm bẩn nghĩa là đã nhiễm tội. Họ không chỉ giặt mà còn phải tẩy chiếc áo tâm hồn trong máu Đấng Cứu Độ nghĩa là tâm hồn các Ngài không chỉ bẩn sơ sơ mà thực sự quá nhơ nhớp. “Không một thánh nhân nào mà không có một quá khứ, vì thế không có tội nhân nào lại không có một tương lai” (Têrêxa). Làm thánh không có nghĩa là không có tội. Thánh nhân cũng là những người yếu đuối và nhiều lầm lỗi như chúng ta. Nhìn lên thập giá để nhớ lại năm xưa trên đỉnh đồi Canvê, người tử tội bị treo bên phải Chúa Giêsu, chính anh ta đã tự thú nhận tội lỗi anh ta xứng đáng với cái án hình nhục nhã là thập giá, thế mà anh ta đã là một trong những thánh nhân, một thánh nhân được đích thân Chúa Giêsu tuyên phong. Yếu đuối, lỗi lầm không phải là những yếu tố ngăn cản ta, không cho ta nên thánh.
- Chính Máu châu báu của Đức Kitô làm cho ta nên thanh sạch, nên thánh.
“Này là Máu Thầy, Máu giao ước mới, giao ước vĩnh cửu, đổ ra cho anh em và nhiều người được tha tội” (x.Mt 26,28). Quả thật “trong Thánh Tử, nhờ Máu Thánh Tử đổ ra, chúng ta được cứu độ, được thứ tha tội lỗi” (Ep 1,7). Chính tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ rõ nét qua Trái Tim bị đâm thâu của Đức Kitô mới làm cho chúng ta nên thanh sạch, nên thánh thiện, vô tì tích. Tuy nhiên Thánh giáo phụ Augustinô khẳng định: “Thiên Chúa có thể dựng nên tôi, không cần có tôi. Nhưng Người không thể cứu tôi mà không có tôi”. Đối với Thiên Chúa thì không có sự gì là không thể (Mc 10, 27). Thiên Chúa có thể làm được mọi sự, nhưng Người đã ban cho loài người một trong những hồng ân cao cả là sự tự do. Chính vì thế để cứu độ con người, Thiên Chúa cần đến sự cộng tác, sự đáp trả của con người. Thánh Gioan Tông đồ trong thư thứ nhất hé mở cho chúng ta về sự đáp trả ấy. “Phàm ai đặt hy vọng vào Đức Kitô thì làm cho mình nên thanh sạch như Người là Đấng thanh sạch” (1Ga 3,3).
- Con đường nên thánh: tin cậy vào Đức Kitô.
Đến thế gian, Chúa Kitô thường mời gọi những nguời muốn nhận ơn lành của Người hãy tin vào Người. “Đức tin của con đã cứu chữa con; Bà tin sao thì được vậy; Anh có tin không ?...” Đã quen thuộc những kiểu nói này của Chúa Giêsu, chúng ta phải khẳng định rằng cách bình thường thì đó là một điều kiện ắt có để đón nhận ơn lành của Người. Thánh Phaolô Tông đồ trong hai thư gửi giáo đoàn Rôma và Galata đã nỗ lực minh chứng rằng chúng ta được nên công chính là nhờ tin vào Đức Kitô chứ không do bởi công nghiệp chúng ta. Được làm con cái Thiên Chúa, được hưởng gia tài là hạnh phúc vĩnh hằng tiên vàn là ân ban của Thiên Chúa chứ không phải là kết quả của công nghiệp chúng ta. Hơn nữa giả như làm bản so sánh giữa công và tội thì được mấy ai có phần công nghiệp lớn hơn tội lỗi mà mình đã phạm. Tuy nhiên, đặt sự hy vọng hay niềm tin cậy vào Đức Kitô không phải là một tình cảm, cũng không chỉ là một quyết định một lần nhưng là một quá trình dõi theo con đường Đức Kitô đã đi, đó là con đường sống đức ái. Tình yêu phủ lấp muôn vàn tội lỗi (x.1Pr 4,8). Và sống Đức Ái là chu toàn mọi lề luật (x. Rm 13,10).
- Những nẻo đường nên thánh: theo chân Đức Kitô sống Đức Ái bằng “Tám mối phúc thật”.
Trong Thánh Lễ trọng kính Các Thánh Nam Nữ, Hội Thánh cho chúng ta nghe bài Tin Mừng tường thuật việc Chúa Giêsu long trọng tuyên bố bản hiến chương Nước Trời là tám mối phúc thật. Tám mối phúc thật đã từng được diễn giải như là những điều kiện để được hưởng phúc vĩnh tồn. Tin Mừng Luca khi tường thuật những lời giảng dạy này của Chúa Giêsu thì được xem là sát với hoàn cảnh thực tế hơn so với Tin Mừng thánh Matthêu vốn đã công thức hóa. Qua ngòi bút của thánh sử Luca chúng ta nhận ra sứ điệp của Chúa Giêsu đặt trọng tâm vào các vế sau nghĩa là thế nào là được phúc thật. Đó là tình trạng được Nước Trời làm gia nghiệp, được Thiên Chúa làm cho thỏa lòng, được Chúa ủi an, được nhìn thấy Thiên Chúa, được Chúa ân thưởng… (x.Lc 6,20-23; Mt 5,1-12). Các vế đầu nói lên các hoàn cảnh của con người, dù cho trong đó có một vài cảnh tình theo cái nhìn của nhân loại là “vô phúc” nhưng vẫn được Thiên Chúa đoái thương trao ban ân lộc vô giá là Nước Trời. Thiên Chúa là Cha nhân hậu. Người không muốn bất cứ ai phải bị hư mất nhưng muốn tất cả đều được sống hạnh phúc đời đời. Vấn đề còn lại thái động thái tiếp nhận của mỗi người chúng ta. Cách thế đón nhận là theo sát chân Đấng Cứu Độ, Giêsu Kitô, vì không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Người (x.Ga 14,6).
Tám mối phúc thực ra đó là những nẻo đường Đức Kitô đã đi khi Người nhập thể, nhập thế. Khó nghèo, hiền lành, khát khao sự công chính, xây dựng hoà bình… là những nẻo đường sống đức ái, đức trọn lành. Để được làm công dân Nước Trời, nghĩa là để được làm thánh thì không thể không đi những nẻo đường Đức Kitô đã đi. Thế nhưng thử hỏi được có mấy ai đã đi qua đủ những nẻo đường ấy. Nhìn vào các Thánh mà Hội Thánh đã tuyên phong thì mỗi thánh mỗi vẻ, mỗi thánh mỗi con đường theo chân Giêsu. Cuộc đời của các thánh cho ta thấy các Ngài đã chọn một nẻo đường nào đó đặc biệt hơn để theo Đức Kitô. Thánh Phanxicô khó khăn chọn con đường khó nghèo để theo Thầy chí thánh. Thánh Vinh Sơn đệ Phaolô thì chọn con đường “biết xót thương người”. Các thánh tử đạo thì chọn con đường bị bách hại vì lẽ công chính. Và rồi cũng có những vị thánh mà cuộc sống không rõ nét là nẻo đường nào. Phải chăng ngoài tám nẻo đường chính thì vẫn có đó những con đường nhỏ tạm gọi là đường mòn, lối đi tắt?
Theo cái nhìn của Kinh Dịch: Thái Cực sinh Lưỡng Nghi (Âm – Dương); Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng (Thái Âm, Thiếu Âm; Thái Dương, Thiếu Dương); Tứ Tượng sinh Bát Quái (Kiền, Khôn, Ly, Khảm, Chấn, Đoái, Tốn, Cấn); Và Bát Quái sinh muôn vật. Phải chăng sự giao thoa giữa Bát Phúc sẽ làm nên nhiều nhiều cái phúc khác? Như thế, để theo chân Giêsu thì có muôn vạn nẻo đường? Nhìn lên thập giá, nhớ lại đồi Canvê năm xưa, hướng nhìn lên người tử tội bên phải Chúa Giêsu, chúng ta thử hỏi rằng anh ta đã chọn con đường nào để vào Nước Trời? Anh đã đến đích ngay hôm ấy. “Tôi bảo thật với anh: ngay hôm nay, anh sẽ ở trên Thiên đàng với Tôi” (Lc 23,43).
Những tiêu chí để kiểm nghiệm hướng đến của các con đường.
Tuy nhiên, đường này hay nẻo kia, để kiểm nghiệm xem có thực chúng hướng đến lối đi của Đấng cứu độ hay không thì cần có tiêu chí xem xét. Có thể có nhiều tiêu chí, nhưng xin đề ra hai tiêu chí mà Tin Mừng hay lặp đi lặp lại. Trước hết là sự bỏ mình. Đường vào thiên quốc là “con đường hẹp” (Mt 7,13-14), là con đường “vác thập giá mình” (Mc 8,34-38). Thứ đến là một tấm lòng hướng tha, biết nghĩ đến thiện ích của người khác. Hãy về và làm như “người Samaritanô nhân hậu” thì sẽ được sự sống đời đời. (x.Lc 10,25-37). Dụ ngôn ngày cánh chung trong Mt 25 làm rõ tiêu chí này. Người tử tội bị treo bên phải Chúa Giêsu năm xưa khi tự nhận lỗi mình đã phạm thì anh ta cũng đã bỏ mình cách nào đó và anh ta cũng đã có chút tình với Chúa Giêsu khi anh ta trách sửa người đồng phạm: “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng vì xứng với việc đã làm. Còn Ngài đây đâu có làm điều gì sai trái” (Lc 23,41).
Với ân sủng Chúa ban, thì đường nên thánh quả là đã ở trong tầm tay của mỗi người. Vấn đề còn lại là ở chúng ta. Mong sao chúng ta biết bỏ mình đi một chút để hướng về thiện ích của tha nhân. Sống thánh là thế đó. Quả thật, vừa dễ lại vừa khó. Để kết thúc những chia sẻ này, xin mượn lời người xưa: “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, nhưng khó vì lòng người ngại núi, e sông” (Nguyễn Bá Học). Làm thánh không khó, nhưng bạn, tôi, dường như chúng ta vẫn đang ngại làm thánh!
LỄ CÁC THÁNH (Mt. 5:1-12a)
Lm. Lã Mộng Thường
Một ông kia tuy nhà nghèo nhưng nuôi được con trâu cui rất mạnh khoẻ để cày ruộng và cày thuê cho những người trong làng làm nghề nông. Một buổi sáng sau khi sửa soạn phần cơm trưa và vác cày ra đến chuồng trâu thì con trâu đã biến mất. Qua cả tuần lễ đi đây đó tìm trâu mà không thấy ông tin chắc trâu đã bị mất trộm bởi nghĩ rằng “Lạc đàng theo chó, lạc ngõ theo trâu”, cho dù nó bỏ đi theo con trâu cái nào đó thì cũng nhớ đường về chuồng. Vừa tiếc trâu vừa lâm vào cảnh túng quẫn bởi không còn cách nào kiếm tiền chi tiêu trong gia đình, ông chỉ còn cách trình làng may ra cụ tiên chỉ và ban chỉ đạo làng giúp thêm ý kiến nào chăng. Tuy nhiên, khi gặp cụ tiên chỉ định nhờ cụ chỉ bảo phải trình báo theo thủ tục ra sao, vừa dợm tỏ bày nỗi đau xót mất trâu thì cụ tiên chỉ nói một câu khiến ông chưng hửng, “Thì từ nay bác sẽ không bị phiền vì mất trâu nữa”.
Bình thường nếu có ai trình bày về một vấn đề nào đó khác với lối nhận thức của những người đồng thời, chúng ta đều cho rằng người đó nói ngang hoặc coi rẻ những điều họ phát biểu. Thời kỳ Mỹ dự định phóng phi thuyền lên mặt trăng đã có những người mới nghe tin tức đã kết luận dự án đó chứng minh con người đòi cướp quyền của Thiên Chúa! Ngày xưa, Galileo sau khi đã tìm tòi, thí nghiệm, để rồi công bố thành quả nghiên cứu của ông đó là trái đất quay quanh mặt trời! và lời tuyên bố của ông không những đã bị bác bỏ mà ông còn bị cưỡng ép phải nói lên những lời phủ nhận thành quả nghiên cứu của mình. Suy đi, nghĩ lại, chúng ta hình như có đồng một tính chất giống như thánh Phaolô trước khi bị quật ngã ngựa trên đường Damascus. Bất cứ điều gì không phù hợp với quan niệm đã ăn sâu nơi tâm não, chúng ta đều đóng tai, bịt mắt không chấp nhận! trong khi quên rằng nếu không chịu mở rộng lòng để suy tư, nhận định những gì khác với quan niệm của mình thì ánh sáng chân lý dù chói lọi đến mấy chúng ta cũng không thể nào nhìn thấy.
Bài Phúc Âm được gọi là “Bài Giảng Trên Núi” đã hai ngàn năm qua vẫn bị coi thường, dẫu khi được nhắc đến, bất cứ ai cũng đều tỏ lòng thán phục theo kiểu a dua. A dua bởi thấy sách vở ca tụng, bởi mọi người ca tụng, và bởi không ca tụng thì e sợ có kẻ cho rằng mình không hiểu, không tin vào Lời Chúa, không tin vào Đức Giêsu, không tin nơi lời dạy dỗ của Ngài. Nói cho đúng, Bài Giảng Trên Núi nghịch lại với tất cả mọi lối sống, nghịch lại với tất cả những suy luận cũng như tâm lý thông thái bình thường của bất cứ ai. Nếu nói rằng chúng ta ca tụng Bài Giảng Trên Núi để học theo hay mơ ước học theo, lẽ tất nhiên chúng ta đã không theo, vì nếu đã áp dụng trong cuộc sống, chúng ta không cần phải ca tụng bởi chẳng lẽ sống theo Phúc Âm chúng ta lại áp dụng lối “Mèo khen mèo dài đuôi” dẫu rằng mèo có đuôi dài!
Cho dù nơi đầu mỗi câu đều được viết “Phúc cho kẻ!” nhưng bất cứ thực thể lối sống nào được đề nghị nơi Bài Giảng Trên Núi đều ngược lại với mong muốn bình thường của mọi người nếu chúng ta chỉ nghe sao biết vậy hoặc hiểu Lời Chúa theo nghĩa đen.
1/ Dùng tâm lý để suy luận mối phúc thật thứ nhất, “Những ai có tinh thần nghèo khó vì Nước Trời là của họ.” Nếu hiểu theo nghĩa đen, ai không ham tiền? Dẫu cho ai đó đã khá giả nhưng, “Nhà giầu ham việc, thất nghiệp ham ăn.” Và lẽ dĩ nhiên, càng nghèo càng ham tiền! do nào ai lạ gì, “Có tiền mua tiên cũng được.” Thế nên, người có tinh thần nghèo khó phải là kẻ giầu có nứt đố đổ vách bởi chúng ta chỉ mơ ước những gì chưa có hoặc có chưa đủ! Người giầu phải đối diện với quá nhiều sự phiền hà của sự giàu có nên mới có thể mơ ước niềm vui đơn thuần của người nghèo. Tuy nhiên, Phúc Âm dùng chữ nghèo để chỉ những ai theo đuổi cuộc sống tâm linh. Kinh nghiệm cuộc sống minh chứng, chỉ những người được sinh ra để giầu có mới có thể giầu có. Những ai, dù giầu hay nghèo nơi cuộc sống vật chất nhưng chú tâm suy nghiệm ý nghĩa, giá trị, và mục đích cuộc đời một người đều được gọi là người có tinh thần nghèo khó bởi chẳng kíp thì chầy học sẽ nhận ra được thực thể Nước Trời.
2/ Người nào nhận được thực thể Nước Trời sẽ nhận biết và nghiệm chứng được chính Thiên Chúa đang ngự trị và hoạt động nơi mọi người, mọi tạo vật. Vì vậy, đối xử với người, sử dụng tạo vật, họ đang trực tiếp đối diện với Thiên Chúa do đó tâm họ chất chứa đầy sự kính ngưỡng tạo nên thái độ hiền lành, khiêm nhu.
3/ Những ai đã nhận chân được sự hiện hữu của Thiên Chúa nơi mình, nơi mọi người đều cảm thấy đau lòng bởi sự vô minh đang đày ải con người. Tuy nhiên, sẽ đến thời điểm Tin Mừng Nước Trời được Thần Khí bày tỏ nơi mọi tâm hồn, khi ngày đó đến, những ai đã sớm thức ngộ sẽ được hưởng niền ủi an, vì ước mơ thánh thiện của họ đã thành đạt.
4/ Tất nhiên, nơi cuộc đời tranh sống, người công chính thường bị đau khổ khi đối diện với những nỗi bất công, nhưng vì nhận thực được bất cứ thành quả nào cũng phải trả giá, những nỗi bất công lại trở thành cơ may cho những ai sống đời công chính. Không có những cơ may là những điều bất công này, cuộc sống công chính của họ sẽ cũng không mang giá trị nào đáng kể.
5/ Bất cứ ai đã thức ngộ, lòng thương xót sẽ là điều khổ ải lớn lao đối với họ vì muốn không nghĩ tới cũng không được mà thực hiện giúp người khác nhận chân Tin Mừng Nước Trời sẽ bị phản kháng. Con người vô minh chạy theo thế tục làm tổn thương hành trình tâm linh, hành trình đức tin của họ nhưng muốn nói cho họ nhận biết, họ chẳng những không để ý mà còn nhạo cười vì những điều nên nhận thức đều chống nghịch lại tham vọng thế tục, hoặc những quan niệm nhận thức về Phúc Âm theo lối thị dục đã ám ảnh người đời quá nặng nề chẳng khác gì chiếc bì cũ bao bọc nhận thức của con người khiến tâm trí khó lòng vượt thoát. Nỗi đau của người thức ngộ khi nhận thấy con người vẫn còn chìm đắm nơi nhận thức hữu vi nhưng không cách nào giúp họ, được gọi là lòng thương xót.
6/ Chỉ những người nhận chân được thực thể Tin Mừng Nước Trời mới có thể có được lòng trong sạch bởi họ nhận biết được quyền lực của ý định, ước muốn, ước mơ chính là quyền lực của Thiên Chúa đang hoạt động! quyền lực đức tin. Nhận thức được Thiên Chúa ngự trị nơi mọi vật, mọi loài được gọi là nhìn thấy Thiên Chúa nơi tạo vật.
7/ Cũng thế, vì chúng ta đang đối diện với quyền lực hiện hữu tối thượng là chính Thiên Chúa nơi mọi vật, mọi loài nên sự ăn ở thuận hòa là lẽ tất nhiên cho những ai nghiệm chứng được thực thể Tin Mừng Nước Trời.
8/ Bất cứ ai đã nhận thức được thực thể Tin Mừng, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt. 1:23), cuộc đời hữu hình chẳng những là cơ hội cho họ thăng tiến nơi hành trình đức tin mà đồng thời cũng là công cuộc bách hại trường kỳ đối với họ. Dĩ nhiên, con người thì lầm lỗi do tinh thần thì sáng suốt nhưng thân xác lại nặng nề. Nhà tù thân xác không những giam hãm linh hồn mà luôn là cớ vấp phạm cho linh hồn.
9/ Đức Giêsu đã là đích điểm cho người ta ghen ghét vì đã không nói thuận chiều với ham muốn thị dục của con người. Chính chúng ta cũng không dễ chi nhận thức được những lời Ngài giảng dạy nơi Phúc Âm. Kinh nghiệm minh chứng, bất cứ ai dám chuyên chăm nghiệm chứng về Phúc Âm đều bị những tôn giáo lấy Phúc Âm làm chuẩn chẳng sớm thì chầy lên án. Điều này có thể minh chứng tại sao Phúc Âm có những câu khuyên răn lạ kỳ, “Hãy ở khôn như con rắn và đơn thuần như chim câu,” hoặc “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi,” dẫu Phúc Âm đã nêu lên câu nói nghịch thường, “Ai có tai thì nghe.”
Tóm lại, ai muốn nghiệm chứng Bài Giảng Trên Núi nên nhập tâm và cần kiên trì thực hành lời khuyên của thánh Phaolô như kết quả thực chứng của ngài, “Đừng dập tắt thần khí. Đừng khinh thị các ơn tiên tri. Hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy. Hãy kỵ điều dữ dưới mọi hình thức” (1Thes. 5:19-21), và rõ ràng hơn, ngài nhắc nhở, “Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian chứ không theo Đức Kitô” (Col. 2:8). Có điều, dẫu nơi Kitô giáo không ai có công trạng và nhận thức nghiệm chứng hơn Phaolô, nếu ai thực sự cố theo Đức Giêsu áp dụng phương pháp thực chứng Phaolô đề nghị để được thức ngộ nhờ Phúc Âm, người đó chắc chắn sẽ đạt tới lời khẳng định Đức Giêsu đã công bố, và đó là, sẽ bị khốn khổ vì theo Ngài. Phaolô bị bắt bớ đâu phải vì người vô thần nhưng do chính những người tuyên xưng tin vào Chúa, tin vào Đức Giêsu đã kết án ngài! chẳng khác gì Đức Kitô đã bị kết án bởi những người nhân danh Thiên Chúa! Amen.
LỄ CÁC THÁNH NAM NỮ (01/11)
Kh 7,2-4.9-14 ; 1 Ga 3,1-3 ; Mt 5,1-12 a
LM ĐAN VINH - HHTM
NÊN THÁNH GIỮA ĐỜI THƯỜNG
1. TIN MỪNG: Mt 5,1-12a
(1) Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. (2) Người mở miệng dạy họ rằng: (3) "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. (4) Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp. (5) Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an. (6) Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng. (7) Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương. (8) Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa. (9) Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. (10) Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.(11) Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa. (12) Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.
2. SUY NIỆM:
- Chỉ có một Giáo Hội duy nhất, nhưng gồm ba tình trạng: Một là những tín hữu đang sống trên trần gian đang đi trên đường về quê trời gọi là Hội Thánh Lữ Hành; Hai là các thánh nam nữ đang được hưởng phúc thiên đàng với Thiên Chúa gọi là Hội Thánh Chiến Thắng; Ba là các linh hồn đã qua đời trong tình thương của Thiên Chúa, nhưng vẫn còn mang vết nhơ tội lỗi hay chưa đền bù xong các món nợ với Chúa và với tha nhân, nên cần tiếp tục được thanh luyện trong chốn luyên hình gọi là Hội Thánh Đau Khổ (x. GLTYGHCG số 195).
- Hằng năm Hội thánh dành thời gian suốt tháng 11 để tưởng nhớ những người đã qua đơi. Ngoài những vị hiển thánh được Hội Thánh tôn kính đặc biệt trong niên lịch phụng vụ, còn rất nhiều tín hữu đã sống một đời sống tốt lành thánh thiện theo gương Đức Giê-su và khi qua đời đã được hưởng hạnh phúc với Chúa trên thiên đàng, được mừng chung trong ngày 01 tháng 11 hằng năm và gọi là lễ kính Các Thánh Nam Nữ.
1) Nên thánh là gì?
- Nên thánh là một đòi hỏi của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en là con dân của Ngài, như Ngài đã truyền dạy cho họ: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta, Đức Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Đấng Thánh” (Lv 19, 2).
- Nên thánh là sự biến đổi nên thiện hảo noi gương Thiên Chúa như Đức Giê-su đã dạy các môn đệ: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48).
- Nên thánh chính là biến đổi nên giống Đức Giê-su là Đấng Thánh của Thiên Chúa, từ cách suy nghĩ nói năng đến hành động, luôn làm theo gương mẫu và lời dạy của Người, như Chúa Cha đã giới thiệu: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người” (Mt 3, 17).
- Nên thánh là để được gia nhập vào Nước Trời do Đức Giê-su thiết lập là Hội Thánh hôm nay và Thiên đàng mai sau. Nước Trời này chỉ dành cho những ai có đủ điều kiện như Tám Mối Phúc Thật đòi hỏi là: Phải có tinh thần nghèo khó, ăn ở hiền lành, đang bị ưu sầu đau khổ, ước mong được nên công chính, có lòng thương xót, có tâm hồn trong sạch, luôn ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì sống công chính…
2) Nên thánh hôm nay là gì?
Nên thánh hôm nay chính là đi con đường thánh giá của Đức Giê-su. Đây là đường hẹp, leo dốc và ít người muốn đi. Là con đường bỏ đi ý riêng để vâng theo ý Chúa, là loại bỏ các thói hư tội lỗi bằng việc tập luyện các nhân đức, là kiên trì vác thập giá là chu toàn việc bổn phận của mình hằng ngày mà bước theo sau Đức Giê-su. Là chấp nhận cùng chịu đau khổ, cùng chết với Người để được phục sinh với Ngươi như Người đã nói: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy”. Và “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9, 22-23).
3) Chiến đấu với ba thù:
Cuộc sống luôn có rất nhiều cám dỗ của ma quỉ, của thế gian và sự yếu đuối của xác thịt mình. Cám dỗ tìm sự dễ dãi theo tính tham lam và dục vọng… Ma quỷ luôn tìm cách cám dỗ chúng ta phạm tội chống lại Thiên Chúa và bị mất ơn cứu độ. Nhưng chúng cũng không thể làm gì được nếu chúng ta biết cậy nhờ ơn Chúa giúp qua lời cầu nguyện như Tông đồ Phê-rô đã kêu cầu Thầy khi sắp bị chìm xuông biển: “Thưa ngài, xin cứu con với” (Mt 14, 30). Chúa sẽ đưa tay ra nắm lấy tay chúng ta và cho chúng ta lên thuyền bình an. Với điều kiện chúng ta phải xa lánh dịp tội và năng suy niêm Lời Chúa, cầu xin ơn Thánh Thần trợ giúp. Chính nhờ sức mạnh đức Tin và nhờ quyền năng của Thánh Thần mà chúng ta hy vọng sẽ có thể đứng vững và chiến thắng ma quỷ trong trận chiến cam go này, như lời thánh Phê-rô đã viết: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em , như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức Tin mà chống cự” (1 Pr 5, 8-9).
4) Chiều rộng của Ơn Cứu Độ:
- Ngày lễ hôm nay là lễ tưởng nhớ, vui mừng hiệp thông với các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ, tất cả những người thân đã ra đi trước chúng ta và đã được về trời hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa.
- Mọi cuộc đời, mọi con người đều có thể nên thánh. Có những vị thánh không có tên trong lịch, nhưng vẫn được gần Chúa. Có những vị thánh nông dân chân lấm tay bùn, vất vả nuôi con. Có những vị thánh nội trợ âm thầm, quét nhà nấu bếp mà lòng lúc nào cũng vui. Có những vị thánh là những người con ngoan trong gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, yêu thương quảng đại đối với anh chị em. Có những vị thánh là nữ tu, là tu sĩ, là linh mục, là giám mục. Có những vị thánh là những con người đam mê chân lý, như những nhà khoa học, những triết gia. Có những vị thánh là những nghệ sĩ làm đẹp cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau, mang lại niềm vui cho mọi người.
- Mừng lễ Các Thánh Nam Nữ, chúng ta hân hoan chúc tụng Các Thánh là bạn của chúng ta và xin các Ngài cầu thay nguyện giúp, để chúng ta nhận ra mình cũng được Chúa mời gọi nên thánh như các Ngài, và quyết tâm sống thánh giữa đời noi gương các Ngài.
- Chúng ta hãy cầu xin các Thánh giúp chúng ta tập sống thánh thiện trên đường trọn lành như lời Chúa Giê-su: “các con hãy nên Thánh như Cha trên trời là Đấng Thánh”. Thánh Au-gút-ti-nô đã nói: “Ông nọ bà kia nên thánh được, còn tôi tại sao lại không được?”
5. LỜI CẦU:
Lạy Thiên Chúa Cha từ bi nhân ái. Chúng con xin tạ ơn Cha vì quyền năng và tình thương của Cha đã tác động trên các thánh. Nhờ lời chuyển cầu của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a và toàn thể các thánh nam nữ, chúng con xin Cha ban cho chúng con cũng được dồi dào ân sủng như các thánh hôm nay chúng con mừng kính. Hầu mai ngày, chúng con được cùng các ngài xum họp trên trời để tôn vinh và chúc tụng tình thương của Cha đến muôn đời. Amen.
MỪNG LỄ CÁC THÁNH - SUY NIỆM VỀ VIỆC NÊN THÁNH
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Tiến Sĩ Bàn Giấy – Kẻ Thù của Việc Nên Thánh: (1) Họ cầm tù người khác trong các tư tưởng của họ; đo lường sự hoàn thiện bằng tri thức, hiểu biết, nhưng bỏ quên đức ái. (2) Họ không quan tâm đến tha nhân, nên họ thiếu khả năng chạm đến những đau khổ của Đức Kitô nơi những người khác. (3) Họ giảm trừ giáo huấn của Đức Giêsu thành một luận lý khắc nghiệt, lạnh lùng. (4) Họ là những tiên tri giả, sử dụng tôn giáo để quảng bá tri thức như: thay thế Thiên Chúa Ba Ngôi và Nhập Thể bằng Đơn Nhất Tính. (5) Họ tự cho mình là thánh, là tốt lành hơn những đám đông dốt nát.
Tiến Sĩ Bàn Tay – Kẻ Thù của Việc Nên Thánh: (1) Họ chỉ tin tưởng vào sức mạnh của mình và cảm thấy mình cao hơn người khác khi tuân giữ một số quy tắc, luật lệ. (2) Họ coi ý chí là toàn năng, ân sủng chỉ là cái được bổ sung vào. (3) Họ tự nên thánh bằng những việc làm, và những cố gắng của riêng mình, mà không cần ân sủng của Chúa. (4) Họ nghĩ mình có quyền đòi hỏi, và cũng có thể mua được ân sủng thần linh bằng những nỗ lực của mình. (5) Họ tự mãn, kiêu hãnh về khả năng xử lý những vấn đề thực tiễn, những chương trình tự lực, và thành tựu cá nhân.
Hội Thánh không ngừng dạy rằng: chúng ta nên thánh không phải bởi những việc làm hay những cố gắng của riêng mình, nhưng là bởi ân sủng của Chúa, Đấng luôn luôn đi bước trước. Ngay cả khát vọng được thanh tẩy cũng đến với chúng ta nhờ sự tuôn đổ và hoạt động của Chúa Thánh Thần. Chúng ta được nên thánh cách nhưng không, bởi vì, không có gì đi trước việc nên thánh, không phải đức tin cũng không phải việc làm, mà chính là do ân sủng. Ân sủng Chúa trao ban thì vượt quá năng lực của trí năng và ý chí của chúng ta.
Được trở nên nghĩa thiết và bạn hữu của Thiên Chúa là một điều gì đó muôn trùng siêu vượt trên chúng ta. Chúng ta không thể mua nó bằng những việc làm của mình. Đó chỉ có thể là một quà tặng, do sáng kiến tình yêu của Thiên Chúa. Điều này mời gọi chúng ta hân hoan sống tâm tình biết ơn về ân ban mà mình hoàn toàn bất xứng này, bởi vì, khi chúng ta nhận được ân sủng, thì ân sủng đã nhận được đó, không phải do chúng ta xứng đáng. Ngày cuối đời, chúng ta sẽ ra trình diện trước mặt Chúa với đôi bàn tay trắng, tất cả những việc làm, mà chúng ta tưởng là thánh thiện, thì đều nhiễm uế trước mắt Chúa.
Chúng ta trở nên thánh thiện là hoàn toàn do bởi Chúa. Điều này được diễn tả rõ ràng trong Lời Chúa đến nỗi không thể nào bị chất vấn. Chân lý này phải tác động đến cách sống của chúng ta, bởi vì, nó tuôn chảy từ cốt lõi của Tin Mừng và đòi buộc chúng ta không chỉ chấp nhận nó trong trí năng, mà còn phải biến nó thành một nguồn vui lan tỏa. Chúng ta chỉ có thể mừng quà tặng nhưng không này, khi chúng ta nhận ra những khả năng tự nhiên của mình đều là ân ban của Chúa. Điều này thật không dễ trong một thế giới vốn nghĩ rằng mọi sự đều do tự nó, và do sáng kiến của nó.
BÁT PHÚC – NHỮNG NẺO ĐƯỜNG NÊN THÁNH
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Nếu có ai hỏi: “Chúng ta phải làm gì để trở nên thánh thiện?”, thì câu trả lời thật rõ ràng: Chúng ta phải làm theo những gì Đức Giêsu dạy trong Bài Giảng Trên Núi. Trong Các Mối Phúc, chúng ta gặp thấy Thầy Chí Thánh, và chúng ta được mời gọi phản chiếu chân dung của Thầy trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Mặc dù những lời của Đức Giêsu rõ ràng đi ngược với cách người ta sống trong thế giới hôm nay. Ngay cả, dù chúng ta nhận thấy sứ điệp của Đức Giêsu đầy lôi cuốn, thì thế giới vẫn đẩy chúng ta về một lối sống khác. Tuy nhiên, các Mối Phúc không hề lỗi thời, hay có tính nhượng bộ và thỏa hiệp, ngược lại, chúng vẫn quyết liệt và thách đố sự dấn thân của chúng ta. Tiến trình nên thánh chỉ có thể được thực hiện bằng các Mối Phúc, và tiến trình này chỉ có thể được thành toàn viên mãn nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Người sẽ đổ đầy trong chúng ta sức mạnh của Người, và giải phóng chúng ta khỏi sự yếu hèn, ích kỷ, tự mãn và kiêu ngạo.
1. Tinh thần nghèo khó thì gắn liền với thái độ “bình tâm”, nghĩa là: đứng ngay ở giữa như bàn cân, Chúa bên nào, ta nghiêng về bên đó: giữa giàu có và nghèo khó, giữa vinh dự và ô nhục, khỏe mạnh và bệnh tật… Chúa muốn sao cũng được. Hội Thánh của Đức Kitô là một Hội Thánh nghèo và vì người nghèo, xin cho chúng ta biết đồng cảm và chia sẻ với những người nghèo túng nhất, để chúng ta được nên đồng hình đồng dạng với Đấng: tuy giàu có, nhưng đã tự nguyện trở nên nghèo khó vì chúng ta.
2. Hiền lành là cách diễn tả sự nghèo khó bên trong, của những ai đặt hết tin tưởng vào chỉ một mình Chúa mà thôi. Hiền lành luôn là điều tốt, vì những khát vọng sâu xa nhất của chúng ta sẽ được lấp đầy: chúng ta “sẽ được đất làm cơ nghiệp”, và chúng ta sẽ nhìn thấy lời hứa của Chúa, được thực hiện trong đời sống chúng ta. Trong cuộc sống hằng, nếu có người nào đó làm phiền chúng ta, thì xin cho chúng ta biết sửa lỗi họ, với một tinh thần hiền lành, ngay cả khi, chúng ta bảo vệ đức tin và những niềm xác tín của mình, thì chúng ta cũng phải thể hiện điều đó với một thái độ hiền lành và khiêm nhường trong lòng.
3. Phúc cho những ai đang khóc lóc, nhưng, thế gian nói với chúng ta điều hoàn toàn ngược lại: giải trí, thú vui, tiêu khiển thì mới là phúc. Thế gian không muốn than khóc; nó không quan tâm đến những hoàn cảnh đau thương, và tìm cách che giấu các hoàn cảnh ấy. Người ta tiêu tốn nhiều năng lực để trốn tránh đau khổ với niềm tin rằng: họ có thể che lấp được thực tế, nhưng, thập giá chẳng bao giờ vắng bóng. Ước gì chúng ta biết nhìn sự vật đúng như sự thật của chúng, và biết thấu cảm những nỗi buồn đau, để chúng ta có thể chạm đến những chiều sâu của đời sống và tìm thấy hạnh phúc chân thực. Ước gì vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những người đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của chúng ta.
4. Đói và khát là những kinh nghiệm nhức nhói, vì chúng liên quan tới các nhu cầu căn bản và bản năng sống còn của con người. Có những người mong mỏi công lý và khát khao sự chính trực với cùng cường độ như vậy. Đức Giêsu đem lại một nền công lý, khác với thứ công lý của thế gian, là thứ vốn thường bị phá hỏng, bởi những lợi ích tầm thường và bị làm méo mó bằng nhiều cách. Chúng ta phải đấu tranh cho công lý và hòa bình, bởi vì, biết bao người phải chịu sự bất công, bị gạt ra bên lề, trong khi, những kẻ khác thâu tóm hết những lợi tức béo bở của cuộc sống này. Hội Thánh phải đứng về phía những người thấp cổ bé miệng, đấu tranh cho công lý đích thực và không thỏa hiệp với những kẻ nắm quyền ưu thế.
5. Lòng thương xót có hai phương diện: thứ nhất liên quan đến việc chia sẻ, giúp đỡ người khác, và thứ hai là tha thứ, cảm thông cho nhau. Thánh Mátthêu đúc kết trong một quy tắc vàng: “Những gì muốn người khác làm cho mình, thì hãy làm cho người khác như vậy”. Khi chúng ta trao hiến và thứ tha là lúc chúng ta đang tiến trên con đường hoàn thiện, đang trở nên giống Thiên Chúa, Đấng trao hiến và tha thứ vô ngần vô lượng cho chúng ta. Vì thế, thay vì bảo chúng ta “hãy nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48), thánh Luca lại mời gọi: “Hãy thương xót, như Cha anh em là Đấng thương xót” (Lc 6,36).
6. Phúc cho ai có con tim trong sạch. Chắc chắn, không thể có yêu thương, nếu không có những việc làm của yêu thương, nhưng, những việc làm của yêu thương phải xuất phát từ tấm lòng, từ trái tim trong sạch của chúng ta. Chính ý hướng trong trái tim là nguồn gốc của những khao khát và những quyết định thâm sâu dẫn tới các hành động của chúng ta. Một trái tim yêu mến Chúa và tha nhân cách chân thành là một trái tim trong sạch: có thể nhìn thấy Chúa, mà hiện nay chúng ta chỉ nhìn thấy lờ mờ như trong gương, nhưng khi sự thật và tình yêu khải thắng, chúng ta sẽ có thể nhìn thấy “diện đối diện” như lời Chúa hứa: ai có quả tim trong sạch sẽ được nhìn thấy Chúa.
7. Thật không dễ kiến tạo hòa bình: không loại trừ ai, đón nhận ngay cả những người kỳ cục, những người gây phiền hay khó tính, những người khắt khe, lập dị, những người chúng ta không ưa. Xây dựng hòa bình thật là một việc khó, bởi vì, nó đòi chúng ta phải có tâm trí thật cởi mở, vì đây không phải là chuyện tạo ra một sự đồng thuận trên giấy tờ, hay một sự dàn hòa tạm bợ cho một thiểu số hài lòng. Đây cũng không thể là chuyện cố gắng phớt lờ, hay coi nhẹ sự xung đột; trái lại, chúng ta phải thẳng thắn đối diện xung đột, giải quyết nó, bằng sự bình tâm, sáng tạo, nhạy cảm và khéo léo, để biến nó thành một mắt xích của một tiến trình mới.
8. Bị bách hại: Chính Đức Giêsu cảnh báo rằng: con đường mà Người đề nghị thì phải đi ngược dòng: vô số người đã và đang bị bách hại, chỉ vì họ đấu tranh cho công lý, vì họ nghiêm túc dấn thân cho Thiên Chúa và cho tha nhân. Ước gì chúng ta không chấp nhận tình trạng xoàng xĩnh vật vờ, mong muốn một đời sống dễ dãi, vì “ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất”. Để sống đúng những giá trị của Tin Mừng, chúng ta không thể kỳ vọng rằng: mọi sự sẽ dễ dàng, vì sự ham hố quyền lực và những lợi ích thế gian thường cản lối chúng ta. Trong một thế giới tục hóa như hiện nay, chính trị, truyền thông, các cơ chế kinh tế, văn hóa và ngay cả tôn giáo trở nên quá rối loạn, đến nỗi hóa thành: một cản ngại cho sự phát triển xã hội và nhân văn đích thực. Ngày nay, chúng ta không dễ dàng sống các Mối Phúc, và mọi cố gắng sống như vậy sẽ bị nghi ngờ và bị chế giễu, nhưng đừng nản lòng, bởi vì, thập giá vẫn là nguồn tăng triển và thánh hóa của chúng ta.
Chúng ta hãy lắng nghe lời Đức Giêsu dạy về các Mối Phúc, với tất cả lòng yêu mến và kính trọng. Chúng ta hãy để cho những lời của Người làm xáo trộn chúng ta, thách đố chúng ta, và đòi hỏi chúng ta có một sự thay đổi thật sự trong lối sống của mình. Nếu chẳng vậy, thì những gì chúng ta thường hay khuyến khích nhau: “cố gắng nên thánh mỗi ngày”, sẽ vẫn… không gì khác hơn là… những lời nói sáo rỗng, những cụm từ rỗng không. Xin Chúa Thánh Thần soi sáng, và thêm sức mạnh để chúng ta dám sống theo sự thúc đẩy của Người, trên hành trình lội ngược dòng này.