Từ ngày 18.01. 2014 đến ngày 18.01. 2015, Tỉnh Dòng Tên Việt Nam cử hành Năm Thánh kỷ niệm 400 năm ngày các Giêsu hữu[1] đầu tiên đặt chân đến đất Việt. Đây là dịp để các anh em Giêsu hữu và các thân hữu ôn cố tri tân, đọc lại quá khứ huy hoàng của các bậc cha anh đi trước nhằm rút ra những bài học thiết thực cho việc loan báo Tin Mừng trên nước Việt ngày nay. Từ trước tới nay, quá khứ huy hoàng đó thường được biết đến cách điển hình qua con người và các công trình – mục vụ cũng như ngôn ngữ, văn chương – của cha Đắc Lộ (Alexandre de Rhodes), người vẫn được xem là có công lớn trong việc truyền giáo, hội nhập văn hoá và nhất là trong việc hình thành và phổ biến chữ Quốc Ngữ hiện đại (viết bằng các ký tự Latinh, xin gọi tắt là chữ Quốc Ngữ)[2]. Tuy nhiên, còn nhiều vị Giêsu hữu khác cũng đã góp phần khá quan trọng trong việc truyền giảng Tin Mừng cũng như trong việc hội nhập văn hoá nhưng chưa được biết đến cách rộng rãi[3].
Sự xuất hiện và phổ biến của chữ Quốc Ngữ chắc hẳn đã được đa số người Việt Nam trân trọng và tán dương, vì nó giúp việc ghi lại tiếng nói dân tộc trở nên đơn giản, dễ dàng và phổ cập hơn. Tuy nhiên, cũng không có gì ngạc nhiên khi có những ngườinặng lòng với lịch sử và truyền thống dân tộc, tuy trân trọng việc tạo ra cách viết mới cho tiếng nói dân tộc, vẫn tiếc thay cho việc những áng văn thơ cổ viết bằng chữ Hán và chữ Nôm lùi dần vào quên lãng và mất tích trong tâm thức người Việt. Đối với một số người, chính chữ Quốc Ngữ là “thủ phạm” của hiện tượng đáng tiếc này, vì nó cắt đứt tâm thức người Việt khỏi dòng “truy cập” tới những áng văn cổ viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Cứ theo quan điểm này mà xét thì các Giêsu hữu phải giật mình, nhận ra mình cũng “bị vạ lây” và “mang tội lớn” đối với nền văn học cổ của dân tộc.
Tuy nhiên, ngay cả khi bỏ qua vấn đề còn đang trong vòng tranh luận rằng liệu việc hình thành và phổ biến chữ Quốc Ngữ có thực sự là nguyên nhân chính cho việc chữ Nôm bị mai một hay không, thì các Giêsu hữu vẫn có thể an tâm trước các “cáo tội”, nếu có, về trách nhiệm đối với ngôn ngữ và văn học cổ của dân tộc. Bởi vì, các Giêsu hữu đầu tiên trên đất Việt không chỉ sáng tạo và lưu truyền chữ Quốc Ngữ hiện đại, mà họ còn để lại các tác phẩm văn xuôi bằng chữ Quốc Ngữ thời đó, tức chữ Nôm, nữa.
Nhân dịp Năm Thánh này, chúng tôi xin trình bày sơ lược một khuôn mặt khác, ít quen thuộc hơn cha Đắc Lộ, mà vai trò của ngài trong lịch sử truyền giáo cũng như trong lịch sử ngôn ngữ và văn học Việt Nam đang ngày càng được nhìn nhận rõ hơn, nhờ việc khám phá ra các tác phẩm Nôm mà ngài để lại. Đó là cha Girolamo Maiorica (1591-1656).
Trong bài viết này, sau khi giới thiệu sơ lược về con người, công việc và tầm ảnh hưởng của cha Girolamo Maiorica, chúng tôi sẽ đi sâu vào tác phẩm Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông[4](TCTGKM) để tìm hiểu các phương cách thích ứng và hội nhập văn hoá của ngài trong khi trình bày giáo lý đức tin chân truyền cho người Việt.
Trước hết phải nói, theo suy đoán của tác giả Brian Eugene Ostrowski, rằng có lẽ một trong những lý do khiến cha Girolamo Maiorica không được biết đến chính là đức tính khiêm nhường, âm thầm, không muốn được ai khen của ngài. Ngài ít xuất bản các bản tường trình như các thừa sai khác đã làm, các tác phẩm ngài để lại đa số đều là bản viết tay, bằng ngôn ngữ bản địa. Các thừa sai như Đắc Lộ, Giovanni Filippo de Marini, Cristoforo Borri và Joseph Tissanier xuất bản các tài liệu bằng các ngôn ngữ châu Âu và vì thế được giới học giả biết đến nhiều hơn, dù không có ai trong số họ sống trên đất Việt lâu như ngài[6].
Sự âm thầm của cha Girolamo Maiorica làm cho việc viết tiểu sử ngài gặp một số khó khăn. Ngay cả tên của ngài viết thế nào, các học giả cũng chưa thống nhất được với nhau. Xin kể ra đây một vài điển hình: cha Đỗ Quang Chính viết tên ngài là Girolamo Majorica, tiến sĩ Brian E. Ostrowski viết là Geronimo Maiorica, tiến sĩ Nguyễn Thị Tú Mai viết là Jeronimo Maiorica. Riêng tác giả Roland Jacques viết rằng tên ngài bằng tiếng Ý là Girolamo Maiorica, bằng tiếng Bồ Đào Nha là Jerônimo Majorica[7]. Chúng tôi xin chọn viết tên ngài là Girolamo Maiorica[8].
Theo cha Đỗ Quang Chính, cha Girolamo Maiorica sinh năm 1591 tại Napoli (Ý)[9]. Cứ theo số liệu này thì ngài gia nhập Dòng Tên năm lên 14 tuổi, vào ngày 19.05.1605. Theo những gì được ghi lại trong cuốn Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông thì ngài được chính Đức Hồng Y Roberto Bellarmino (cũng là tu sĩ Dòng Tên) truyền chức linh mục cho khi ghé qua Rôma để từ đó đi truyền giáo ở Viễn Đông[10]. Mà ngài khởi hành từ Lisboã hướng về Viễn Đông năm 1619, vậy ngài chịu chức linh mục vào khoảng năm 28 tuổi.
Mục đích ban đầu của các bề trên là gởi ngài đi truyền giáo ở Nhật, nhưng vì không đến Nhật được do cuộc bách đạo gay gắt, ngài “phải” thay đổi chương trình, chuyển đến Đàng Trong vào cuối tháng 12.1624 (hoặc tháng 02.1625) cùng với 6 Giêsu hữu khác, trong đó có cha Đắc Lộ[11].
Chúng ta chỉ thực sự thấy rõ vai trò quan trọng của cha Girolamo Maiorica trong công cuộc truyền giảng Tin Mừng và trong lịch sử ngôn ngữ văn học Việt Nam khi xét đến các tác phẩm bằng chữ Nôm do ngài sáng tác hoặc tổ chức biên soạn.
Sử liệu của tác giả đồng thời với cha Girolamo Maiorica ghi lại rằng bình sinh, ngài đã có công biên soạn tới 48 cuốn sách đạo[22]. Suốt từ thế kỷ XVII cho tới thế kỷ XX, giới học giả Tây Phương truyền cho nhau thông tin này và một số chủ đề của các sách đó, nhưng không biết mặt mũi những cuốn sách đó như thế nào[23]. Họ cũng không chắc là những sách đó còn hiện hữu đâu đó hay là đã bị thất lạc và bị thời gian, chiến tranh, loạn lạc tiêu huỷ mất rồi. Cha Philiphê Bỉnh (1759-1833), học trò của các cha Dòng Tên, người đã viết nhiều sách bằng chữ quốc ngữ vào đầu thế kỷ XIX, cũng viết về các sách của cha Girolamo Maiorica. Cha Bỉnh đề cập đến một số tựa đề sách của cha Girolamo Maiorica và còn thêm rằng, vào thời ngài, một số sách đã thất lạc. Các mô tả của cha Bỉnh rất hữu ích để xác định các tác phẩm thường bị coi là vô danh, vô chủ nhưng thực chất là phát xuất từ cha Girolamo Maiorica. Vì theo cha Bỉnh, từ những năm 1660, khi Dòng Tên không còn một mình lăn lộn trên đất Việt nữa, mà đã có Hội Thừa Sai Paris và các dòng khác vào góp sức, thì các tác phẩm của cha Girolamo Maiorica vẫn được chép lại và sử dụng rộng rãi, nhưng tên của ngài trên các sách đó đã được cố ý xoá đi vì nhiều lý do[24].
Tình trạng “hữu danh vô thực”, chỉ biết đến tên mà chưa thấy sách bao giờ, kéo dài mãi đến đầu những năm 1950, khi mà tác giả Hoàng Xuân Hãn tình cờ tìm thấy các thủ bản bằng chữ Nôm, được đóng mộc của Hội Thừa Sai Paris, trong kho lưu trữ của Thư Viện Quốc Gia Pháp (Bibliothèque Nationale de France). Khi nghiên cứu nội dung, rồi dựa vào các tên sách và các chủ đề mà các tác giả Tây Phương và cha Bỉnh ghi lại, tác giả Hoàng Xuân Hãn quyết đoán các thủ bản này chính là các tác phẩm của cha Girolamo Maiorica. Việc này đã khuấy lên một bầu khí háo hức nơi các học giả chuyên về lịch sử, ngôn ngữ và văn chương Việt nam.
Gần đây, trong luận án tiến sĩ của mình vào năm 2006, tác giả Brian E. Ostrowski đã dùng các phương pháp phê bình văn bản, phân tích từ vựng và phân tích chữ Nôm để xác định và đã đưa ra kết luận rằng có tất cả 16 tập văn bản là các tác phẩm còn tồn tại của cha Girolamo Maiorica[25]. Ngoài ra, tác giả còn phân tích và xác định tựa đề hoặc chủ đề của 22 sách khác, có thể là của ngài nhưng không còn tồn tại hoặc còn nằm đâu đó trong các văn khố cổ ở châu Âu mà chưa được tìm thấy[26].
Xin kể tên một vài tác phẩm còn tồn tại được Brian E. Ostrowski xác định là của cha Girolamo Maiorica: Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông, Đức Chúa Giê-su (Chi-Thu, Chi-Su), Dọn Mình Trước Chịu Cô-mô-nhong, Thiên Chúa Thánh Giáo Hối Tội Kinh, Qua-da-giê-si-ma Mùa Ăn Chay Cả, Những Điều Ngắm Trong Những Ngày Lễ Trọng Quyển Chi Nhất, Ông Thánh I-na-xu Truyện, v. v. [27]. Và một số chủ đề và tựa đề các tác phẩm của cha Girolamo Maiorica nhưng chưa được tìm thấy: Kịch về cuộc đời thánh Alêxù, suy gẫm về tình yêu Đức Kitô, về các tội của lưỡi, về đức khiết tịnh, về tử đạo, Sách Gương Phúc Gương Tội, Kinh Đọc Sớm Tối, v. v. [28]
Tác giả Brian E. Ostrowski cũng bình luận thêm rằng các tác phẩm Nôm của cha Girolamo Maiorica đã cung cấp khá đầy đủ các hướng dẫn về phụng vụ và giáo lý bằng tiếng Việt cho giáo dân Việt Nam vào thế kỷ XVII. Các sách của ngàiliên quan tới mọi lãnh vực của đời sống đạo: Thánh Kinh, phụng vụ, giáo lý, sách kinh, hạnh các thánh và các sách đạo đức khác. Các sách này là công cụ tuyệt vời giúp các thầy giảng người Việt hướng dẫn giáo dân sống đạo và học giáo lý[29].
Cha Girolamo Maiorica bắt đầu viết sách từ rất sớm, ngay từ khi đang còn học tiếng Việt ở Đàng Trong (1625-1628), ngài đã cố gắng bắt đầu hình thành những bản văn chữ Nôm, tóm lược các điểm giáo lý cơ bản[30]. Rồi các tác phẩm đầu tiên ra đời từ trước năm 1634, ngay từ những ngày đầu tới Kẻ Rum, Nghệ An[31]. Những sách cuối cùng ngài viết vào khoảng đầu những năm 1640, như đã nói ở trên. So sánh với thời điểm xuất bản cuốn Phép Giảng TámNgày (1651) của cha Đắc Lộ, và ngay cả khi giả sử cuốn này đã được viết sau năm 1636 và được hoàn thành vào năm 1645[32], thì chúng ta thấy rõ một số tác phẩm của cha Girolamo Maiorica đã có trước cuốn này, và vì thế, thấy rõ tầm quan trọng và ảnh hưởng của các sách của ngài.
Như đã đề cập ở trên, có học giả cho rằng đây rất có thể là cuốn sách đầu tay của cha Girolamo Maiorica, hoàn thành vào khoảng trước năm 1634[41].
Phần dẫn nhập nói rõ sách này được soạn dựa trên tác phẩm của thánh Rôbertô Bellarminô (TCTGKM,13). Việc đọc đối chiếu cho thấy sách này theo khá sát cấu trúc (Tin Xin Giữ Chịu), hình thức (hỏi thưa) và nội dung của sách Giáo Lý Ngắnmà thánh Rôbertô Bellarminô viết, theo lệnh của Đức Giáo Hoàng Clêmentê VIII, vào năm 1597-1598 cho giới bình dân và trẻ em[42].
Tuy nhiên, cha Girolamo Maiorica đã thêm nhiều điều vào các câu hỏi đáp vốn rất súc tích của Giáo Lý Ngắn, trong đó có các giải thích lấy từ cuốn Giáo Lý Công Đồng Trentô[43], một số giải thích “theo ý thói An Nam” (TCTGKM, 14) phù hợp với tâm thức, não trạng và đời sống người Việt ở thế kỷ XVII, và các câu truyện đông tây kim cổ khác.
Bản văn duy nhất còn tồn tại của cuốn sách mà chúng ta có ngày nay là bản chữ Nôm viết tay, có xuất xứ vào khoảng năm 1666, hiện tại đang được lưu trữ tại Thư Viện Quốc Gia Pháp[44]. Đây có thể là một trong các tài liệu được cha François Deydier sai người chép lại, gởi về Paris qua ngả Thái Lan, lưu trữ trong văn khố của Hội Thừa Sai Paris và rồi, sau cuộc Cách Mạng Pháp, được đưa vào Thư Viện Quốc Gia Pháp[45].
Hiện tại, chúng tôi được biết có hai bản phiên âm TCTGKM ra chữ Quốc Ngữ, một là bản lưu hành nội bộ, không đề tên tác giả, in năm 2003 (mà rất có thể là công lao của cụ Võ Long Tê); hai là bản phiên âm trong phụ lục của luận án tiến sĩ Chữ Nôm và Tiếng Việt Thế Kỉ XVII qua Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông của Jeronimo Maiorica của tác giả Nguyễn Thị Tú Mai, hoàn thành năm 2012 tại trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội. Hai bản phiên âm của một vài khác biệt nho nhỏ mà chúng tôi xin không đề cập đến ở đây. Trong bài viết này, chúng tôi sử dụng bản phiên âm lưu hành nội bộ.
Hiển nhiên, mọi cách phân chia hay hệ thống hoá chỉ mang tính cách tương đối, nhằm giúp người đọc dễ nhớ các điều phải học và mối liên hệ giữa các điều ấy. Cách phân chia này không nhất thiết loại trừ cách phân chia khác. Như thế, các công thức dạng này chỉ mang tính cách gợi ý hoặc đôi khi góp phần làm sáng tỏ các chân lý đức tin khi đặt các chân lý đó trong mối tương quan hệ thống với nhau.
2) Ngoài việc công thức hoá nội dung, cha Girolamo Maiorica còn sáng tạo và sử dụng các “công thức” giáo lý súc tích, có vần điệu trong tiếng Việt (có tính chất công thức về mặt hình thức). Quả thực, những câu văn mang vần điệu cũng có tác dụng như một công thức, đễ đọc, dễ học và đi vào trí nhớ người đọc, người nghe cách lâu dài. Một số câu văn đó còn tồn tại trong ngôn ngữ nhà đạo cho tới ngày nay chứng tỏ tính hiệu quả của việc dạy giáo lý bằng công thức. Chúng tôi xin đơn cử một số thí dụ:
Ở TCTGKM, 19-20, 36, khi nói về mầu nhiệm Ba Ngôi, cha Girolamo Maiorica hay dùng công thức “một tính ở Ba Ngôi” hay công thức “Ba Ngôi có một tính, một ý, một phép”. Ngoài việc phân biệt và sử dụng nhất quán các khái niệm tính và ngôi để diễn tả công thức tín lý về Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi (điều mà cha Girolamo Maiorica có thể đã học từ sự phân biệt giữa tính hoặc thể với vị của các thừa sai Dòng Tên bên Trung Hoa), thì việc tóm tắt giáo lý về Ba Ngôi trong một câu văn mang tính công thức là một sáng kiến khá độc đáo. Sáng kiến này giúp cha Girolamo Maiorica có thể truyền tải khá trọn vẹn ý nghĩa của mầu nhiệm Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà không cần đề cập đến các khái niệm essenza, natura, procedere (sau này chúng ta dịch là yếu tính, bản tính, nhiệm xuất) như trong cuốn giáo lý của thánh Bêllarminô[57].
Ở TCTGKM, 32-33, khi giải thích ý nghĩa của danh xưng Kitô, cha Girolamo Maiorica viết: “Ki-ri-xi-tô là chức, có hai nghĩa, một là thầy cả trên hết [các] thầy, hai là vua [cả] trên hết các vua”. Đây là một lối nói vắn tắt rất khéo, nói lên chức vụ tư tế và vương đế đích thực và trổi vượt của Đức Kitô Giêsu. Chỉ cần dùng các từ “thầy cả” hay “vua cả” là cha Girolamo Maiorica không cần phải giải thích dài dòng, như trong sách giáo lý của công đồng Trentô, về việc các loại người thường chịu xức dầu trong Cựu Ước (tư tế, vua, ngôn sứ) là hình ảnh của Đức Kitô Giêsu, Đấng được xức dầu đích thực bằng Thần Khí[58]. Công thức trên đã đi vào các kinh nguyện tiếng Việt và được đọc cho tới ngày nay.
Ở TCTGKM, 112, cha Girolamo Maiorica viết về Đức Chúa Trời ở cùng Đức Mẹ, luôn phù hộ Mẹ thì Mẹ chẳng “phạm tội gì, dù mà lòng lo miệng nói cùng việc làm”. Đây cũng là một dạng công thức liệt kê các dạng thức hay các loại tội, cũng đã trở nên phổ biến trong các kinh đọc và còn tồn tại trong Kinh Cáo Mình cho tới ngày nay.
3) Ngoài ra, trước những câu hỏi ngây ngô, bình dân nhưng rất hóc búa, cha Girolamo Maiorica còn đưa ra một số giải pháp độc đáo cũng mang tính công thức, làm thính giả hay độc giả chấp nhận ngay và nhớ ngay.
Chẳng hạn, trước câu hỏi “Khi sống lại [người ta] có mấy tuổi? Cùng bao lớn?”, cha Girolamo Maiorica đã có một giải pháp rất độc đáo, thoạt đầu tưởng chừng ngây ngô và vô lý, nhưng thực sự có ý nghĩa thần học sâu xa: “Các người ta khi sống lại thì có tuổi bằng ba mươi ba như Đức Chúa Giê-su sống lại xưa” (TCTGKM, 87). Ở đây, cha Girolamo Maiorica đã lồng đặc tính quy Kitô vào trong giáo lý cánh chung một cách rất đơn sơ nhưng tài tình và độc đáo. Chúng ta nghe trong câu này phảng phất ý nghĩa của lời thánh Phaolô: “Người. . . sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,21) hoặc “. . . chúng ta cũng sẽ được mang hình ảnh Đấng từ trời mà đến” (1Cr 15,49).
Tương tự, khi trả lời câu hỏi “Nhân sao Đức Chúa Giê-su chẳng sống lại chóng mà đợi ba ngày làm chi?”, cha Girolamo Maiorica viết: “Ấy vậy như Đức Chúa Giê-su ở trong kẻ sống ba mươi ba năm, thì cũng ở cùng kẻ chết ba mươi ba giờ nước người” (TCTGKM, 53). Không rõ cách tính giờ của cha Girolamo Maiorica có chính xác không, tuy nhiên, khi đặt cái chết của Chúa Giêsu trong tương quan song song với đời sống của Người, cha Girolamo Maiorica đã nhìn cái chết và cuộc đời Chúa Giêsu trong một thể thống nhất và liên tục, và đây là một công việc thần học đúng đắn.
Như vậy, khi dùng con số ba mươi ba – tuổi đời của Chúa Giêsu – như tiêu chuẩn giải đáp các thắc mắc vốn rất khó trả lời liên quan tới thời gian trong thế giới thiêng liêng siêu hình, cha Girolamo Maiorica đã tạo ra một công thức đơn sơ nhưng diễn tả ý nghĩa thần học đúng đắn. Dĩ nhiên, công thức này không nên được hiểu theo nghĩa chữ (ba mươi ba năm hoặc giờ theo nghĩa vật lý), nhưng nó gợi ý một phương pháp đúng đắn cần được áp dụng trong suy tư thần học.
Bận tâm thứ hai, liên quan tới việc sống đạo còn được thể hiện mạnh mẽ hơn nữa qua một công cụ văn chương khác – các câu chuyện – vốn xuất hiện với tần suất cao trong TCTGKM.
Đây cũng là nét độc đáo của TCTGKM: cha Girolamo Maiorica dùng các kinh nghiệm, thói tục hay nếp sống địa phương thay vì các khái niệm triết học để giúp độc giả hiểu các mầu nhiệm đức tin.
Phương pháp này đưa độc giả trở về với những sự vật, sự kiện, kinh nghiệm quen thuộc trong đời sống thường nhật của họ; bất ngờ làm cho họ ý thức về điều họ vẫn biết, tức mở rộng ý thức của họ đi vào chiều sâu của thực tại quen thuộc; rồi liên hệ điều đã được ý thức đó với mầu nhiệm đức tin, để độc giả thấy rằng mầu nhiệm đức tin không lạ lẫm hay vô lý, nhưng rất phù hợp với kinh nghiệm nhân sinh ở bề sâu của nó. Đây là phương cách TCTGKMđưa mầu nhiệm về gần với đời thường bằng cách làm cho độc giả ý thức rằng cuộc sống chứa đựng sẵn các mầu nhiệm và luôn mở ra với mầu nhiệm. Các thí dụ trong cuốn TCTGKM, đôi khi được gọi rõ là thí dụ, nhưng nhiều khi chỉ được dẫn vào bằng chữ “như”,thường thuộc vào các loại sau:
Các thí dụ liên quan tới nghề nghiệp, như nghề nông (x. TCTGKM, 38), nghề mộc (x. TCTGKM,38), nghề làm nhà (x. TCTGKM,16), v. v. Chẳng hạn, thí dụ “thợ mộc làm nên nhà thì chẳng được gọi là cha nhà” (TCTGKM, 38) được dùng để giải thích tại sao Chúa Thánh Thần không được gọi là Cha của Chúa Giêsu.
Các thí dụ liên quan tới đời sống hằng ngày, như việc soi gương (x. TCTGKM,31), mặc áo (x. TCTGKM,40, 59, 91), uống thuốc (x. TCTGKM, 132) và vật dụng hàng ngày như vò nước (x. TCTGKM, 111), v. v. Chẳng hạn, thí dụ soi gương được dùng để giải thích Chúa Cha sinh ra Chúa Con đồng thời với Mình, hoàn toàn giống Mình, cùng bản tính với Mình như thế nào (x. TCTGKM, 31).
Các thí dụ liên quan tới tương quan xã hội, giữa người với người (x. TCTGKM,20, 67), vua chúa với quan (x. TCTGKM,59, 109), tướng, quan với dân (x. TCTGKM,29, 45), chủ nợ với con nợ (x. TCTGKM,47-48, 104-105), anh em trong nhà (x. TCTGKM,91), v. v. Chẳng hạn, thí dụ áo vua ngồi trên ngai thì cao hơn quan văn võ ở dưới, chẳng phải vì vải trọng hơn người, nhưng vì áo vua làm một cùng vua (x. TCTGKM, 59) được dùng để giải thích nhân tính Chúa Giêsu kết hợp làm một với Ngôi Hai Thiên Chúa cao cả thế nào.
Các thí dụ về tự nhiên, liên quan tới cơ thể con người (x. TCTGKM,30, 77), sông ngòi (x. TCTGKM, 66), cây cối (x. TCTGKM, 78, 113), v. v. Chẳng hạn, thí dụ miệng ăn xác lành (x. TCTGKM, 77) được dùng để giải thích mầu nhiệm thông công giữa mọi thành phần trong Giáo Hội; hoặc thí dụ trái tốt là do cây tốt (x. TCTGKM, 113) được dùng để giải thích lời khen Chúa Giêsu có phúc cũng là khen Đức Mẹ có phúc.
Trên đây chúng ta đã thấy các điểm độc đáo của TCTGKMtrong đó có việc sử dụng ba hình thức hay công cụ văn chương có tính biểu trưng[62]. Trong phần này của bài viết, chúng tôi tập trung suy tư và phân tích ba công cụ văn chương đó như được sử dụng trong TCTGKM, sau khi lướt qua những khám phá về ý nghĩa và tầm quan trọng của ngôn ngữ biểu trưng trong đời sống,ngôn ngữ con người nói chung và trong thần học, được hiểu như là diễn từ của kinh nghiệm về Thiên Chúa, nói riêng.
Khi không ngần ngại dùng ngay những kinh nghiệm đời thường để giải thích giáo lý, cha Girolamo Maiorica đã không coi những thí dụ bình dân là bất xứng với các giáo lý cao siêu, không quá e ngại việc có thể gây hiểu sai các khái niệm thần học. Đa số các thí dụ đều mang tính minh hoạ, giải thích một khía cạnh của một khoản giáo lý đặc thù, chứ không nhằm thay thế hay trình bày toàn bộ các khía cạnh liên quan tới khoản giáo lý đó. Cha Girolamo Maiorica biết đâu là điểm khúc mắc mà thính/độc giả gặp phải liên quan tới một chân lý đức tin nào đó và đưa thí dụ để nhằm giải thích chính khúc mắc đó mà thôi, chứ không nhằm trình bày một lý thuyết mới hay khái niệm tương đương. Vì thế, vẻ “khập khiễng” là đặc tính bình thường và không nên được xem là khiếm khuyếtcủa thí dụ.
Các thí dụ cho phép cha Girolamo Maiorica không cần phải trình bày các khái niệm mang tính triết học xa lạ với não trạng người Việt, hoặc quá “cao vời” (mà, đối với ngài, cũng có nghĩa là không cần thiết) đối với người bình dân. Lý do gì đã khiến cha Girolamo Maiorica mạnh dạn dùng các thí dụ thay vì phải nại đến các khái niệm chính xác? Những điều trình bày ở trên về ẩn dụ soi sáng cho ta hiểu lý do của việc này. Các thí dụ, vốn rõ ràng mang đặc tính ẩn dụ, cung cấp một cái hiểu trực quan về điều được so sánh, điều mà lý luận hay ngôn ngữ khái niệm không phải lúc nào cũng làm được. Bằng cách này, cha Girolamo Maiorica đã có thể hoàn thành công việc thông truyền giáo lý đức tin mà không phải đi qua trung gian của việc giảng dạy các khái niệm hay một hệ thống triết học đặc thù nào.
Việc sử dụng các thí dụ không có nghĩa là cha Girolamo Maiorica phớt lờ hay xem nhẹ các lý giải thần học mang tính khái niệm. Thực ra, sâu xa bên dưới, việc hiểu các chân lý đức tin vẫn được xây dựng trên các khái niệm và hệ thống tư tưởng thần học đương thời (tức thần học Kinh Viện thời cha Girolamo Maiorica). Chính hệ tư tưởng thần học quy định và hướng dẫn cách thức mà thí dụ được chọn lựa và áp dụng để minh hoạ hay giải thích một chân lý đức tin. Như vậy, sự sáng tạo của việc sử dụng các thí dụ đặt nền trên việc nắm chắc chân lý đức tin, ngay cả ở cấp độ diễn tả thần học của nó; được thai nghén bằng việc nắm bắt não trạng của thính/độc giả, tìm ra đâu là khúc mắc mà họ gặp phải liên quan tới chân lý đức tin đó; rồi được thực hiện bằng việc chọn lựa và liên kết một kinh nghiệm đời thường với một khía cạnh của chân lý đức tin. Chúng ta thử đi vào phân tích một thí dụ để thấy rõ các đặc tính và năng động này của các thí dụ trong việc minh hoạ và truyền tải giáo lý đức tin.
Ở TCTGKM, 31, thí dụ soi gương được dùng để giải thích Chúa Cha sinh ra Chúa Con đồng thời với Mình, hoàn toàn giống Mình, cùng bản tính với Mình như thế nào. Giải thích của cha Girolamo Maiorica dựa trên giáo lý của công đồng Trentô, vốn lại dựa vào cách giải thích của thánh Tôma Aquinô[77]. Giáo lý của công đồng Trentô cho rằng để làm sáng tỏ khái niệm “nhiệm sinh vĩnh cửu” thì so sánh sau là hiệu quảnhất: khi tâm trí nhìn vào chính mình và hiểu mình thì hình thành một hình ảnh về chính mình; tương tự như thế, khi Thiên Chúa hiểu chính Mình (điều luôn xảy ra từ vĩnh cửu và một cách tuyệt đối) thì Ngài sinh ra Ngôi Lời vĩnh cửu[78].
Khi giải thích mối tương quan giữa Chúa Cha và Chúa Con, bận tâm của cha Girolamo Maiorica là thính/độc giả có thể hiểu lầm rằng Cha sinh ra Con như người thế gian, như các câu chuyện huyền thoại dân gian về thần thánh. Vì thế, ngài mới phải nại đến cách giải thích của thần học Kinh Viện. Nhưng sự sáng tạo của cha Girolamo Maiorica nằm ở chỗ ngài không cần đề cập đến chính khái niệm nhiệm sinh cũng như thí dụ mà thánh Tôma và công đồng Trentô đưa ra, vốn cũng rất trừu tượng đối với não trạng người dân Việt[79]. Thay vì phải nại đến khái niệm Ý Thức Thuần Tuý Vô Biênđầy tính trừu tượng hay đến việc trí khôn suy nghĩ về và hiểu chính nó, cha Girolamo Maiorica đã dùng hình ảnh “soi gương” rất đời thường nhưng cũng khá tương đồng với thí dụ mà thánh Tôma và công đồng Trentô dùng.
Việc soi gương tạo ra ngay tức khắc một hình bóng hoàn toàn giống y như chủ thể, cả về cử điệu. Nhưng làm sao có được sự đồng nhất về bản thể giữa bóng và người thật, điều mà khái niệm Ý Thức Thuần Tuý có thể diễn tả được? Cha Girolamo Maiorica giải quyết đơn giản bằng một khẳng định rằng Thiên Chúa khác những gì ta kinh nghiệm trong thế giới này: “Đức Chúa Trời cho bóng ấy tính Mình, là sự ta làm chẳng được”; hơn nữa, “Đức Chúa Cha hằng soi mình, thì hằng có sinh ra Con làm vậy” (TCTGKM, 32).
Như thế, thí dụ soi gương diễn tả được các khía cạnh sau của mối tương quan giữa Ngôi Cha và Ngôi Con: Cha Con giống nhau, bằng nhau, cùng vĩnh cửu như nhau. Não trạng người Việt không đặt vấn đề về bản thể, không thắc mắc tại sao Cha có thể ban tính Mình cho bóng của Mình trong gương được (điều mà Ý Thức Thuần Tuý giải thích được). Có lẽ họ chỉ cần giải đáp những vấn nạn: Cha sinh ra Con mà không giống người thế gian là thế nào? Làm thế nào mà Cha và Con giống nhau và bằng nhau? Làm thế nào mà Cha sinh ra Con, mà Con vẫn hằng có cùng với Cha từ vĩnh cửu?Thí dụ soi gương có thể giải đáp các vấn nạn này.
Năm Thánh này là năm để anh em Giêsu hữu và các thân hữu “uống nước nhớ nguồn”, tìm về cội nguồn đức tin của mình để tri ân Thiên Chúa và các bậc tiền nhân đã gieo vãi hạt giống Tin Mừng trên đất Việt. Nhưng quả thật “vô tri bất khả mộ”, nhiều bậc thừa sai vĩ đại, cụ thể là cha Girolamo Maiorica, chưa được biết đến cách rộng rãi cũng như chưa được mộ mến và biết ơn. Qua việc sưu tầm tìm hiểu về cha Girolamo Maiorica, bài viết này góp phần nhỏ bé vào việc đưa ra ánh sáng nhân cách và công trình của một vị tiền nhân âm thầm nhưng đã có công lớn trong việc gầy dựng nền tảng vững chắc và lâu bền cho Giáo Hội Việt Nam.
Qua việcphân tích các điểm độc đáo của tác phẩm đầu tay của cha Girolamo Maiorica, đặc biệt là thử tìm hiểu ý nghĩa và giá trị của ba công cụ văn chương có tính biểu trưng, bài viết này thử trình bày những nguyên nhân sâu xa giải thích cho sự thành công của cha Girolamo Maiorica nói chung và của TCTGKM nói riêng trong việc truyền giảng Tin Mừng cho người Việt bình dân. Ngoài ra, việc trình bày này cũng gợi mở những phương cách cụ thể, đơn giản nhưng không kém phần đòi hỏi về mặt hội nhập, thích nghi và sáng tạo.
Tài Liệu Tham Khảo Chính COOK, Michael L. Christology as Narrative Quest. Collegeville, Minnesota: the Liturgical Press, 1997. ĐỖ Quanh Chính. Dòng Tên trong Xã Hội Đại Việt 1615-1773. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2008. NGUYỄN Thị Tú Mai. Chữ Nôm và Tiếng Việt Thế Kỉ XVII qua Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông của Jeronimo Maiorica. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2012. OSTROWSKI, Brian Eugene. The Nôm Works of Geronimo Maiorica, S. J. (1589-1656) and their Christology. Luận án Tiến sĩ, Cornell University, 2006.
PHỤ LỤC Một số tài liệu viết về cha Girolamo Maiorica và các tác phẩm của ngài HOÀNG Xuân Hãn. “Girolamo Maiorica: Ses oeuvres en langue vietnamienne conservées à la Bibliothèque Nationale de Paris”. Trong Archivum Historicum Societatis Iesu XXII (1953): 203-214. LÃ Minh Hằng. “Nguồn tư liệu từ vựng thế kỷ 17 – qua khảo sát truyện ông thánh Inaxu”. Trong Thông Báo Hán Nôm Học. Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, 2013. NGUYỄN Quốc Dũng. Ngôn ngữ trong “Truyện các thánh” của tác giả Maiorica – khía cạnh từ vựng và ngữ pháp. Khóa luận tốt nghiệp ngành Ngôn ngữ, Trường Đại học Sư phạm Huế, 2009. NGUYỄN Thị Tú Mai. Chữ Nôm và Tiếng Việt Thế Kỉ XVII qua Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông của Jeronimo Maiorica. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2012. NGUYỄN Văn Ngoạn. Khảo cứu văn bản Nôm Kinh những lễ mùa phục sinh của Maiorica. Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, 2012. SOMMERVOGEL, Carlos. “Maiorica, Jérôme”. Trong Bibliothèque de la Compagnie de Jésus. Bibliographie, Tome V, 360-361. Bruxelles: Oscar Schepens, 1894. SOTVELLO, Nathanaele. “Hieronymvs Maiorica”. Trong Bibliotheca Scriptorvm Societatis Iesv, 343-344. Rome: Iacobi Antonij de Lazzaris Varesij, 1676. Một số tài liệu có đề cập đến cha Girolamo Maiorica và các tác phẩm của ngài CAO Thế Dung. Việt Nam công giáo sử tân biên (1533-2000). Gretna, LA: Cơ sở Truyền thông Dân Chúa, 2002. TRẦN Tuyết Nhung. Vietnamese Women at the Crossroads: Gender and Society in Early Modern Dai Viet. Luận án tiến sĩ, University of California at Los Angeles, 2004. NGUYỄN Thế Thoại. Công giáo trên quê hương Việt Nam. Lưu hành nội bộ, 2001. Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 86 (Tháng 1 & 2 năm 2015) WHĐ (04.7.2021)
[1]Giêsu hữu là từ quen dùng (trong nội bộ Dòng) để gọi các tu sĩ Dòng Tên cách súc tích nhưng đầy ý nghĩa. Giêsu hữu có thể được hiểu là người bạn đồng hành với Chúa Giêsu, là người mang Chúa Giêsu trong mình. Đây là một cách Việt hoá từ Jésuite trong tiếng Pháp và Jesuit trong tiếng Anh.
[2]Xin mạn phép nói thêm rằng chữ viết là yếu tố quan trọng trong việc lưu lại, không chỉ tiếng nói mà còn cả não trạng, suy nghĩ, tập tục, văn hoá của dân tộc qua dòng lịch sử. Suốt thời Hán thuộc, tiếng nói của dân ta không được ghi lại (vì không có chữ viết, hoặc chữ viết cổ đã bị mai một), mà chỉ được truyền miệng qua các thế hệ. Cho tới khoảng thế kỷ XIII tiếng nói của ta mới bắt đầu được ghi lại bằng chữ Nôm (x. Nguyễn Quang Hồng, “Khái Lược về Văn Học Chữ Nôm ở Việt Nam”, Nhịp Sống 12 (2007), bản điện tử, được truy cập từ http://www.ivce.org/magazinedetail.php?magazinedetailid=MD00000272, ngày 22. 01. 2014), là dạng chữ ban đầu vay mượn từ các chữ Hán, cho nên cũng khó học tương đương với chữ Hán, đôi khi còn phức tạp hơn chữ Hán, và chỉ một số ít người biết đọc chữ này.
[3] Thí dụ, nếu chỉ xét riêng vấn đề ai là cha đẻ thực sự của chữ Quốc Ngữ thôi, thì chúng ta cũng đã có bằng chứng rằng ngay từ năm 1632, chữ Quốc Ngữ của cha Gaspar d’Amaral rõ ràng hơn chữ Quốc Ngữ mà cha Đắc Lộ viết vào năm 1636 (x. Đỗ Quang Chính, Lịch Sử Chữ Quốc Ngữ, tr. 88, 92).
[4] Girolamo Maiorica, Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông, do Võ Long Tê phiên âm và chú thích (lưu hành nội bộ, 2003).
[5] Chúng tôi không có điều kiện tiếp cận và nghiên cứu các bản viết tay, các tài liệu gốc hoặc các tài liệu chuyên biệt về sử học; hơn nữa, sử học cũng như văn bản học không phải là chuyên môn của chúng tôi. Do đó, chúng tôi xin tự giới hạn vào việc sưu tầm và tóm tắt lại các nghiên cứu có sẵn của một vài ấn phẩm và luận án tiến sĩ mới xuất hiện gần đây liên quan tới cha Girolamo Maiorica.
[6]X. Brian E. Ostrowski, The Nôm Works, xiii-xiv.
[7] X. Roland Jacques,Portuguese Pioneers of Vietnamese Linguistics (Bangkok: Orchid Press, 2002), 53.
[8] Chúng tôi chọn cách viết này (tuy rằng các sách Nôm của ngài có ghi rõ tên ngài được phát âm ở Đàng Ngoài theo kiểu Bồ Đào Nha là Giê-rô-ni-mô) là vì ngài là người Ý, mà trong tiếng Ý thì dạng Girolamo phổ biến hơn dạng Geronimo, và trong tiếng Ý không có ký tự j. Hơn nữa, theo trang mạng WorldCat thì ở cuối bản tường trình bằng tiếng Ý Relatione del Giappone dell’anno M. DC. XXI (Tường trình về Nhật Bản năm 1621) thì tên ngài được ký là “Maiorica Girolamo” (x. https://www.worldcat.org/title/relatione-del-giappone-dellanno-m-dc-xxi/oclc/661273647, truy cập ngày 23. 01. 2014).
[9] Các thông tin trong phần tiểu sử này phần lớn dựa vào nghiên cứu của cha Đỗ Quang Chính, trong Dòng Tên, 158-162, và của Brian E. Ostrowski, trong The Nôm Works, 7-23. Bình thường, trong phần tiểu sử này, chúng tôi sẽ không chú thích tham chiếu nữa, trừ một số những thông tin đặc biệt.
[23]Các thông tin từ đây trở đi liên quan tới quá trình phát hiện thủ bản các sách của cha Girolamo Maiorica, chúng tôi dựa vào Brian E. Ostrowski, The Nôm Works, 24-38.
[24] X. Brian E. Ostrowski, The Nôm Works, 31-32. Tác giả dựa vào các cuốn Orationes ou Orações da Missa; Truyện Nước Annam Đàng Ngoài chí Đàng Traơ, Quyển thứ nhất – Nói sự Đàng Ngoài; Sách sổ sang chép các việc của cha Philiphê Bỉnh.
[37] X. Lại Nguyên Ân, “Truyện Nôm, vài khía cạnh văn học sử”, trong Sđd.
[38] Ví dụ, Nguyễn Quốc Dũng, Ngôn ngữ trong “Truyện các thánh” của tác giả Maiorica – khía cạnh từ vựng và ngữ pháp(Khóa luận tốt nghiệp ngành Ngôn ngữ, Trường Đại học Sư phạm Huế, 2009). Nguyễn Văn Ngoạn, Khảo cứu văn bản Nôm Kinh những lễ mùa phục sinh của Maiorica(Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội, 2012). Nguyễn Thị Tú Mai, Chữ Nôm và Tiếng Việt Thế Kỉ XVII qua Thiên Chúa Thánh Giáo Khải Mông của Jeronimo Maiorica (Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2012). Lã Minh Hằng, “Nguồn tư liệu từ vựng thế kỷ 17 – qua khảo sát truyện ông thánh Inaxu”, trong Thông Báo Hán Nôm Học (Viện Nghiên Cứu Hán Nôm, 2013), bản điện tử, truy cập từ http://xuandienhannom. blogspot. com/2013/12/nguon-tu-lieu-tu-vung-ky-17-qua-khao. html, ngày 26. 01. 2014.
[50] Như trong cuốn The Little Catholick Catechism nói đến ở trên, hoặc trong cuốn A Summe of Christian Doctrine, xuất bản năm 1622, là bản dịch của John Heigham từ tác phẩm cùng tên bằng tiếng Latinh của thánh Phêrô Canisiô.
[51] Điều này là bằng chứng cho thấy những thói quen, công thức và ngôn từ nhà đạo còn tồn tại tới ngày nay là do các cha Giêsu hữu thừa sai tiên khởi (trong đó có cha Girolamo Maiorica) sáng tác, biên dịch, giảng dạy, và truyền lại cho ta, đặc biệt là qua các tác phẩm chữ Nôm của cha Girolamo Maiorica.
[52] Thí dụ: TCTGKM, 111,116 dùng cả Chúa Dêu lẫn Đức Chúa Trời; TCTGKM, 77,110 dùng cả San-ta lẫn thánh; TCTGKM, 155 dùng cả thánh an-giô lẫn thiên thần. TCTGKM, 74 nói về “ba ơn” liên kết với mầu nhiệm Giáo Hội: phép tha tội, xác người ta sống lại và phúc thiên đàng; đây quả là các đặc tính của ga-ra-sa theo như cha Girolamo Maiorica giải thích khi nói về Đức Mẹ đầy ga-ra-sa và Nước ga-ra-sa của Thiên Chúa. Ở TCTGKM, 99, cha Girolamo Maiorica viết: “Nước ga-ra-sa là phép trị linh hồn kẻ giữ đạo và cho làm được mọi việc cho nên và ngày sau cho rỗi linh hồn”. Xin cũng xem TCTGKM, 110-111 khi cha Girolamo Maiorica viết ga-ra-sa làm cho linh hồn ghét tội, nên tốt và có sức làm được việc lành; và TCTGKM,102 khi ngài viết “Của về linh hồn là cực trọng Cô-mô-nhong hay nuôi sống linh hồn là ga-ra-sa. . . ”. Vậy chúng ta có thể kết luận rằng cha Girolamo Maiorica hay nói về các bí tích như là ga-ra-sa, và đã tìm được từ ơn để dịch từ ga-ra-sa mà vẫn giữ lại và dùng song song từ đó.
[59]X. Georg Schwaiger, “Baroque. I. Historical Survey”, trong Karl Rahner and col. , eds. , Sacramentum Mundi – An Encyclopedia of Theology, Vol. 1 (New York: Herder and Herder; London: Burns & Oates, 1968) [bản tiếng Anh được soạn thảo bởi Cornelius Ernst, O. P. , Fergus Kerr, O. P. và Kevin Smyth], 148-150. Tuy bài viết của tác giả mang một cái nhìn tiêu cực về văn hoá Baroque, nhưng những mô tả tổng lược về các đặc tính của văn hoá và thần học Baroque cũng khá hữu ích.
[79]Để thấy rõ tính phức tạp và trừu tượng của thí dụ đó, chúng ta thử quảng diễn cách thần học Kinh Viện áp dụng nó vào mối tương quan giữa Ngôi Cha và Ngôi Con như sau: Bản chất của Ngôi Cha (bản chất TC) là thuần ý, mà Cha không thể nghĩ về gì thấp hơn chính Mình, nên chỉ có một đối tượng xứng đáng với Ý Thức Thuần Tuý của Cha là chính Ngôi Cha. Nhưng khi “nghĩ” về Mình, Ý Thức đó có một Hình Ảnh về chính Mình, phân biệt với chính Mình, nhưng giống y chang như chính Mình. Hình Ảnh đó là Ngôi Con. Ý Thức của Ngôi Cha – vốn đồng nhất với chính bản tính Ngài – là thuần tuý, nên ý thức về Mình như chính Mình là, không hề có sai sót, khác biệt. Tức Ý Thức đó và Hình Ảnh mà Ý Thức đó có về chính Mình là y như nhau về bản thể, tuy khác biệt nhau, v. v. Lý giải này thật trừu tượng và khó hiểu với người bình dân. Người VN chỉ quen với khái niệm về ai đó suy nghĩ chứ không quen với khái niệm về chính suy nghĩ. Bây giờ phải quan niệm Ngôi Cha như là Ý Thức Thuần Tuý thì thật là khó. Quý độc giả có thể tham khảo một tài liệu giải thích mầu nhiệm nhiệm sinh theo hướng này: Charles Belmonte, “The Three Divine Persons: Processions and Relations”, in Faith Seeking Understanding, vol. I, ed. Charles Belmonte (Manila: Studium Theologiae Foundation, Inc. , 2006), 178-187, đặc biệt các trang 179-181. https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/ngon-ngu-bieu-trung-trong-giao-ly-sach-giao-ly-cua-cha-girolamo-maiorica-va-sang-kien-hoi-nhap-van-hoa-42185