GIÁO PHẬN HẢI PHÒNG
THƯỜNG HUẤN LINH MỤC
Tháng 2 năm thánh 2025
Đề tài 1:
TRUYỀN GIÁO DƯỚI ÁNH SÁNG LỜI CHÚA
Đức Cha Vinh sơn Nguyễn Văn Bản
I/ BỐI CẢNH CỦA SỨ MỆNH TRUYỀN GIÁO TRONG TIN MỪNG
1/ Sứ mệnh truyền giáo
"Truyền giáo dưới ánh sáng Lời Chúa" là một khái niệm quan trọng trong đời sống và sứ vụ của người Kitô hữu, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Lời Chúa (Kinh Thánh) như kim chỉ nam trong việc rao giảng Tin Mừng. Là những người môn đệ của Đức Kitô, chúng ta không chỉ nhận lệnh từ Ngài, nhưng còn phải hành động theo ý muốn của Ngài nữa. Nếu không, chúng ta sẽ rao truyền Tin Mừng của Ngài theo cách và theo ý muốn của con người chúng ta (như nói rằng: Tin Mừng tôi rao giảng…). Kinh nghiệm trong lịch sử Loan Báo Tin Mừng của Giáo Hội qua các thời đại và các châu lục minh chứng cho điều đó. Đồng ý rằng trong mỗi hoàn cảnh, người môn đệ có thể có những cảm nhận, hay cách hiểu về Lời Chúa, hay cảm thấy bị thôi thúc phải làm một điều gì đó cho Chúa Giêsu. Nhưng người đó cần phải biết đặt mình trong sự phân định của Thánh Thần, vì lợi ích chung của dân Chúa, vì Giáo Hội, để hiểu là Chúa muốn mình làm gì trong lúc này. Vì thế, để hiểu được sứ mệnh truyền giáo, tái truyền giáo ngày hôm nay, chúng ta cần tìm hiểu qua nội dung của các lệnh truyền về truyền giáo trong Tân Ước, xem bối cảnh lệnh truyền được đón nhận, để hiểu rõ về nội dung, cách thực hành của mệnh lệnh này, rồi từ đó, chúng ta có thể áp dụng cho việc thi hành sứ vụ của chúng ta ngày hôm nay…
2/ Nội dung của sứ điệp truyền giáo trong các Tin Mừng
Chúng ta thử nhìn xem mệnh lệnh truyền giáo của Chúa Giêsu Phục Sinh qua lời chứng của các thánh sử theo thứ tự thời gian biên soạn các sách Tin Mừng.
+ Mc 16, 15: “Người nói với các ông: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo.”
+ Lc 24, 47-48: “Phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giêrusalem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội. Chính anh em là chứng nhân về những điều này”.
+ Mt 28, 19-20: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
Theo thứ tự thời gian, có lẽ Tin Mừng Mc (50-67) được viết ra sớm hơn Lc (75-80) và Mt (80). Chúng ta thấy có sự khác biệt được nhắm đến nơi mỗi tác giả Tin Mừng.
3/ Những điểm nhấn của từng tác giả
a/ Mc nhấn mạnh đến việc “loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo”. Từ “Tin Mừng” theo Mc chính là “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa” (Mc 1, 1). Ngài là nội dung của lời rao giảng. Truyền giáo là kể lại và làm chứng về những điều mà Chúa Giêsu đã nói, đã sống và hành động như là Đấng được xức dầu, Con Thiên Chúa. Trong truyện “Quo vadis”, tác giả trình bày lời chứng của Phêrô về Chúa Giêsu như là một lời kể chuyện về Thầy của mình đã làm gì, đã sống như thế nào.
b/ Lc nhấn mạnh đến hành động “rao giảng” nhân danh Người, có nghĩa là người môn đệ chỉ là người đại diện để nói Lời của “Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa”. Có lẽ trong kinh nghiệm truyền giáo của Hội Thánh sơ khai, lời chứng có tính cách chủ quan của một số vị truyền giáo đã gây nên sự chia rẽ trong cộng đoàn, như chúng ta thấy xảy ra ở cộng đoàn Corintho (1 Co 1, 10-13), và những cộng đoàn khác mà các thư của Phaolô đề cập đến. Vì thế, tác giả nhấn mạnh đến việc rao giảng nhân danh Chúa Giêsu Phục Sinh qua lời chứng của các Tông Đồ, chứ không thể tùy tiện vào sự hiểu biết chủ quan của mỗi người.
c/ Mt diễn giải lệnh truyền rao giảng thành những việc làm cụ thể: “làm cho muôn dân trở thành môn đệ”, “làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần”, “dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”. Làm cho một người trở thành môn đệ, không chỉ đơn giản là làm cho họ có cảm tình, hay yêu thích đường hướng của Chúa Giêsu, nhưng còn là đưa họ vào trong con đường mà Chúa Giêsu đã đi nữa (Lc 9, 23). Với những mệnh lệnh rõ nét như thế này, chúng ta thấy mối ưu tư của Mt về một Giáo Hội đang được tổ chức một cách có hệ thống, với cử hành phụng vụ Phép Rửa, với việc dạy giáo lý một cách có hệ thống, và không còn phân biệt do thái với dân ngoại.
4/ Giải thích những điểm nhấn của từng tác giả Tin Mừng
a/ Nơi Mc, Tin Mừng tập trung kể lại những điều Chúa Giêsu làm, những điều Ngài giảng dạy, những tranh luận để làm cho hoàn thiện Lề Luật, cuộc khổ hình và Phục sinh. Nhìn vào dàn bài của Tin Mừng Mc, chúng ta thấy rõ điều này. Đây là bản tóm tắt về cuộc đời của Chúa Giêsu qua lời rao giảng của các Tông Đồ. Tại sao Mc lại nhấn mạnh về điểm này?
Theo Pheme BERKINS [L’Evangélisation dans le monde d’aujourd’hui (Concilium 134 Avril 1978)], Câu hỏi căn bản của cộng đoàn kitô hữu tiên khởi là: Nếu Chúa Giêsu là Đấng Kitô, tại sao Israel lại chối bỏ Ngài? Nếu những tham chiếu vào Cựu Ước về việc Israel chối bỏ các tiên tri có thể giải thích về việc này, thì cũng không dể để hiểu được. Hình ảnh Đấng Thiên sai trong Cựu Ước hứa hẹn một thời đại mà dân Israel toàn tâm trở về với Chúa và ơn cứu rỗi được hoàn thành một cách chắc chắn. Sự chối bỏ này nằm trong dự phóng thiên sai. Sự vâng lời mẫu mực của Israel vào những ngày cuối cùng có thể đưa những người dân ngoại đến thờ lạy Chúa (Is 49, 16; 55, 5). Thay vào đó, Israel chối bỏ Đấng được xức dầu, trong khi những người dân ngoại lại đi theo Ngài. Việc họ gia nhập vào các cộng đoàn tín hữu kéo theo những hệ lụy khác. Trên phương diện thực hành, kitô giáo có phải là một nhánh của do thái giáo? Những người dân ngoại trở lại có giống như những người dự tòng của do thái giáo? Nếu câu trả lời là tiêu cực, kitô giáo bị buộc phải vượt qua do thái giáo. Nếu những người dân ngoại trở thành kitô hữu mà không cần phải trở thành người do thái, cần phải tạo nên sứ điệp kitô giáo bằng những từ ngữ và những biểu tượng không phải của do thái. Vì thế, sứ điệp của Tin Mừng phải tập trung vào chính Chúa Giêsu Kitô, Đấng được Thiên Chúa xức dầu làm Đấng Messie, không chỉ cho dân do thái mà là cho tất cả mọi dân tộc.
b/ Là môn đệ của Phaolô, Luca hiểu được những khó khăn của một Giáo Hội sơ khai, với những nét khai phá mới mẻ đầy mạo hiểm, nhưng vẫn cố gắng để duy trì phát triển trong sự hiệp nhất.
Thánh Phaolô là một nhà truyền giáo vĩ đại và là người đã đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Tuy nhiên, trong hành trình truyền giáo của mình, ngài cũng gặp nhiều khó khăn và có những lúc không thể duy trì hoàn toàn sự hiệp nhất trong các cộng đoàn. Dưới đây là một số trường hợp điển hình:
+ Mâu thuẫn với Barnaba về Mác-cô (Cv 15,36-41)
Trong hành trình truyền giáo thứ hai, Phaolô và Barnaba xảy ra bất đồng nghiêm trọng về việc có nên mang theo Máccô (Gioan Máccô) hay không. Phaolô không muốn đưa Máccô đi cùng vì trước đó ông này đã rời bỏ đoàn truyền giáo. Cuối cùng, họ chia rẽ: Barnaba dẫn Máccô đi Síp, còn Phaolô chọn Silas để tiếp tục hành trình.
+ Xung đột trong cộng đoàn Côrintô (1Cr 1,10-17)
Giáo đoàn Côrintô bị chia rẽ thành nhiều nhóm, mỗi nhóm theo một vị giảng dạy khác nhau: "Tôi thuộc về Phaolô", "Tôi thuộc về Apôlô", "Tôi thuộc về Kêpha", "Tôi thuộc về Đức Kitô" (1Cr 1,12). Dù Phaolô ra sức kêu gọi sự hiệp nhất, nhưng rõ ràng sự chia rẽ đã tồn tại và gây khó khăn trong việc duy trì một cộng đoàn vững mạnh.
+ Mâu thuẫn với Phêrô tại Antiôkia (Gl 2,11-14)
Tại Antiôkia, Phaolô đã công khai khiển trách Phêrô vì thái độ không nhất quán của ông đối với dân ngoại. Phêrô ban đầu dùng bữa với dân ngoại, nhưng khi có người từ phía nhóm bảo thủ Do Thái đến, ông lại xa lánh họ. Phaolô coi đây là hành vi giả hình và mạnh mẽ lên án, cho thấy có sự căng thẳng ngay trong hàng ngũ lãnh đạo Hội Thánh.
+ Vấn đề giữa các tín hữu Do Thái và dân ngoại (Cv 15; Rm 14)
Một trong những thách thức lớn nhất của Phaolô là làm thế nào để dung hòa hai nhóm tín hữu: người Do Thái giữ Luật Môsê và dân ngoại không theo luật đó. Một số tín hữu Do Thái muốn áp đặt lề luật lên dân ngoại, dẫn đến tranh cãi gay gắt. Dù Công đồng Giêrusalem (Cv 15) đã có giải pháp, nhưng mâu thuẫn này vẫn tồn tại trong nhiều cộng đoàn và gây ra chia rẽ.
+ Tình trạng chia rẽ trong các cộng đoàn khác
Cộng đoàn Galát: Một số người Do Thái giáo muốn áp đặt lề luật lên Kitô hữu, khiến Phaolô phải viết thư mạnh mẽ cảnh báo (Gl 1,6-9).
Cộng đoàn Thêxalônica: Một số người quá nhiệt thành mong đợi ngày Chúa đến, không chịu làm việc, gây rối loạn (2Tx 3,6-12).
Dù Phaolô là một nhà truyền giáo vĩ đại, nhưng ngài không phải lúc nào cũng thành công trong việc duy trì sự hiệp nhất trong các cộng đoàn. Ngài đã nỗ lực hết mình để giải quyết các vấn đề, sử dụng thư tín để khuyên nhủ, sửa dạy và khích lệ. Những khó khăn này không làm giảm giá trị sứ vụ của Phaolô, mà còn cho thấy sự kiên trì và lòng yêu thương của Ngài dành cho các cộng đoàn Kitô hữu sơ khai.
Chúng ta thấy trong lời khuyên của Phaolô, hình ảnh mẫu mực về đức tin thay đổi dần từ “tôi”, đến “chúng tôi”, rồi đến chính Chúa Giêsu Kitô: Ơn gọi của Phaolô (Gl 1, 11-24; 4, 12-20); ngài như là mẫu gương của người môn đệ (1 Co 11, 1); về sự khiêm nhường (Pl 2, 1-11). Vì thế, Luca nhấn mạnh đến việc rao giảng nhân danh Chúa Giêsu Kitô, Tin Mừng của Chúa Giê-su Kitô, chứ không phải Tin Mừng của một ai khác.
c/ Được viết ra vào thời điểm muộn màng hơn, sau biến cố thành Giêrusalem bị phá hủy, đền thờ cũng không còn, Mt muốn trình bày Tin Mừng Chúa Giêsu cho người do thái rằng: Ngài là Đấng được sai đến trần gian để hoàn thành lời các ngôn sứ, để hoàn thiện Lề Luật. Ngài chính là Lề Luật, là Đền Thờ đích thực. Vì thế, trong cách trình bày của Mt, việc giải thích lời của các ngôn sứ, sự ứng nghiệm của Kinh Thánh nơi con người của Chúa Giêsu là một yếu tố rất quan trọng. Hơn nữa, vào thời điểm này, Giáo Hội đã bước sang một trang sử mới. Những giao tiếp với nền văn minh hy-la giúp cho cách tổ chức của Giáo Hội được sắp xếp có hệ thống và ý nghĩa hơn. Đời sống phụng vụ đã chính thức tách khỏi phụng vụ hội đường do thái.
Vào năm 80, một nhóm kinh sư do thái họp nhau tại Jamnia (Yavneh), một thành phố ở vùng Galilê hoặc gần bờ biển Địa Trung Hải, với mục đích: tổ chức lại đời sống tôn giáo, xác định lại quy điển các sách Kinh Thánh do thái, chống lại ảnh hưởng Kitô giáo. Họ không công nhận một số sách Kinh Thánh của bản văn hy lạp (các sách thuộc quy điển thứ), vì chỉ công nhận những bản văn được viết từ ngôn ngữ gốc là tiếng do thái là được linh hứng, và xem những người kitô hữu là bội giáo, bị nguyền rủa và trục xuất ra khỏi hội đường. Thêm vào 18 lời cầu nguyện xin Chúa chúc phúc vào ngày thứ bảy trong các buổi cầu nguyện tại hội đường, họ thêm lời cầu nguyện thứ 19: xin Chúa chúc dữ cho những kẻ dám kêu cầu danh Giêsu (x. Ga 9, 22).
Trước quyết định này của những người lãnh đạo do thái, Mt cố gắng trình bày tính hợp pháp của niềm tin kitô giáo: Tin Mừng của Chúa Giêsu như là một sự thay thế hợp pháp Lề Luật của dân Israel, và Giáo Hội như là một dân Israel mới.
Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu xuất hiện như là một Moisen mới, và là người ban bố “Hiến Chương Nước Trời” (5, 1-13). Ngài kiện toàn Luật Moisen bằng cách phân biệt điều Luật dạy và những điều mà các kinh sư giải thích về Luật. Luật là Lời Thiên Chúa. Lời giải thích về Luật là sự hiểu biết chủ quan về Lề Luật, và đôi khi pha trộn những động cơ thuần túy cá nhân, phe nhóm (Mt 15, 1-9), như lời Chúa Giêsu nói: “Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” Những trích dẫn Lời Chúa trong Cựu Ước được trích dẫn từ bản văn hy lạp là bản văn thông dụng vào thời các Tông Đồ.
Hơn nữa, chúng ta nhớ rằng từ khi được thành lập cho đến khi bị loại ra khỏi hội đường, người kitô hữu vẫn sinh hoạt chung với phụng vụ của cộng đoàn do thái (Cv 2, 46). Vì bị loại trừ ra khỏi hội đường và bị coi như là nhóm lạc giáo, nên Giáo Hội cần phải được kiện toàn trong đời sống phụng vụ, cũng như nền tảng giáo lý.
II/ SỨ MỆNH TRUYỀN GIÁO VÀ TÁI TRUYỀN GIÁO CỦA CHÚNG TA HÔM NAY
1/ Bối cảnh của Giáo phận Hải Phòng
Theo như cha giáo Phaolô Vũ Đình Viết trình bày về “Đời sống đức tin của người Công giáo Giáo phận Hải Phòng và những ảnh hưởng của các hệ giá trị” trong ngày thường huấn tháng 11/2024, chúng ta thấy được là người tín hữu trong giáo phận phải chịu rất nhiều áp lực về đời sống đức tin của mình, khi phải đối diện với những lập luận khích bác đời sống tôn giáo, tấn công vào những thực hành đời sống đức tin của Giáo Hội, và ngay cả những cái nhìn thiếu thiện chí của những người không công giáo sống chung quanh. Hơn nữa, qua nhiều năm không được chăm sóc mục vụ đầy đủ, thiếu sự giáo dục về đời sống đức tin, nên nhiều người đã được rửa tội hoặc là con cái của những người có đạo cũng không còn giữ đạo nữa. Đây là một thực trạng mà anh em linh mục trong giáo phận của chúng ta cần phải quan tâm cách đặc biệt trong công việc mục vụ của mình.
Để có thể thực hiện được việc tái truyền giáo trong cộng đồng những người tín hữu không còn thực hành đời sống đức tin trong Giáo Hội, rất cần đến những thành viên của các hội đoàn tông đồ dấn thân vào việc tái truyền giáo đến tiếp xúc với họ. Chúng ta có thể làm những việc sau đây:
a/ Tiếp cận để giúp họ hiểu đúng về lịch sử và Giáo hội (phương pháp giải độc)
+ Trình bày sự thật lịch sử về vai trò của Giáo hội Công giáo trong xã hội, bao gồm những đóng góp về giáo dục, y tế, văn hóa và nhân đạo.
+ Giúp họ nhận ra rằng tuyên truyền tiêu cực về Công giáo thường xuất phát từ động cơ chính trị, không phản ánh đúng bản chất của Giáo hội.
b/ Giúp họ nhận ra giá trị bản thân trong ánh sáng Tin Mừng (khẳng định về ơn gọi làm con Chúa)
+ Nhắc nhở họ rằng họ là con cái của Thiên Chúa, có phẩm giá cao quý, không ai có thể hạ thấp giá trị ấy.
+ Dùng Lời Chúa để củng cố niềm tin: "Anh em đừng sợ, vì anh em có giá trị hơn muôn vàn chim sẻ" (Lc 12,7).
+ Hướng họ đến sự tha thứ và bình an nội tâm thay vì cay đắng hay oán hận.
c/ Tạo ra môi trường nâng đỡ trong cộng đoàn
+ Khuyến khích họ tham gia các sinh hoạt đạo đức, học hỏi Giáo lý, chia sẻ đức tin với nhau để tăng cường sự hiệp thông và lòng tự tin.
+ Xây dựng các nhóm hỗ trợ tinh thần để họ có nơi bày tỏ tâm tư, được an ủi và khích lệ.
d/ Khéo léo đối thoại và sống chứng tá
+ Khi đối diện với những định kiến, không tranh cãi gay gắt nhưng dùng tình yêu và sự thật để đối thoại.
+ Khuyến khích họ sống đức tin cách trung tín, yêu thương và phục vụ tha nhân, để chính đời sống chứng tá giúp xóa bỏ những hiểu lầm.
e/ Giúp họ có tư duy tích cực và hy vọng
+ Nhấn mạnh rằng thử thách cũng là cơ hội để họ trở nên mạnh mẽ hơn trong đức tin.
+ Cổ vũ họ nhìn về tương lai với niềm hy vọng, tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa.
Trong giai đoạn này, rất cần đến điều mà Macco nhấn mạnh: “Loan báo Tin Mừng cho mọi thụ tạo”.
2/ Đào tạo nhân sự cho công cuộc tái truyền giáo trong giáo phận
Việc tái truyền giáo không chỉ là trách nhiệm của các linh mục, tu sĩ mà còn cần đến sự dấn thân của mọi thành phần dân Chúa. Để thực hiện tốt công cuộc này, giáo phận cần có chương trình đào tạo nhân sự phù hợp với từng vai trò và bối cảnh cụ thể.
a/ Cần có những lớp, hay những hình thức cổ võ ơn gọi nơi các bạn thanh thiếu niên. Các linh mục và tu sĩ là những nhân tố thiết yếu trong công việc đào tạo đức tin cho dân Chúa, tái truyền giáo và làm chứng về niềm vui Tin Mừng. Ngày nay có nhiều giáo xứ cần đến sự hiện diện của các tu sĩ để giáo dục đức tin cho các em, nhưng các hội dòng trong giáo phận không đủ nhân sự đáp ứng được nhu cầu trên. Hơn nữa, các ơn gọi của các hội dòng trong giáo phận còn khá khiêm tốn. Cần có sự hổ trợ của các linh mục trong giáo phận qua việc cổ võ và nâng đỡ ơn gọi.
b/ Cần mở những lớp huấn luyện cho những anh chị em dấn thân trong những phong trào tông đồ giáo dân, để họ có khả năng tiếp xúc với những anh chị em giáo dân không thực hành đời sống đạo. Cụ thể, có thể huấn luyện cho các anh chị em Legio, Huynh đoàn Đa-minh, Phạt Tạ Thánh Tâm…
c/ Mở những khóa đào tạo Giáo lý viên. Nên chọn những anh chị em đã có gia đình ổn định trong giáo xứ, mời gọi họ tham gia vào trong việc dạy giáo lý. Mỗi tuần, cha xứ có thể dạy cho họ một buổi tối. Lên trình độ cao hơn thì có những khóa học của Ban giáo lý giáo hạt hay giáo phận.
d/ Cần quan tâm đến việc dạy giáo lý cho các em thiếu nhi. Đây là lớp người kế thừa đức tin của chúng ta. Bao nhiêu năm qua, giáo phận chúng ta không có đủ người và phương tiện để chăm sóc cho các em. Bây giờ là lúc Chúa cho chúng ta những điều kiện để bù đắp những thiếu sót trong quá khứ. Đây là cơ hội vàng cho chúng ta.
Kết luận
Là những người con trong giáo phận, chúng ta được thừa hưởng những công lao, những ân huệ của các bậc tiền nhân đã gieo trồng trên mảnh đất này. Chúng ta cũng là những người có nhiệm vụ chữa lành những vết thương mà lịch sử đã để lại trên thân thể mầu nhiệm của Chúa Kitô, cũng như trong tâm hồn của từng người tín hữu. Sửa chữa một chiếc xe cũ để vận hành cho tốt thì mất thời gian và công sức hơn là mua một chiếc xe mới. Thân mình của Đức Kitô, với từng chi thể trong thân thể mầu nhiệm này, đã được Chúa Giêsu cứu chuộc bằng giá máu của Ngài, không thể bị bỏ qua một bên hay gạt ra ngoài, nhưng phải được tìm kiếm và đưa về sum họp với đàn chiên. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi các vị mục tử, gồm các giám mục và linh mục, đi ra khỏi ngôi nhà của mình, từ bỏ sự an toàn giả tạo, để đến vùng ngoại biên, chia sẻ sự thánh thiện mà mình đã lãnh nhận qua bí tích Truyền Chức thánh.
Những lời dạy của Chúa Giêsu về cuộc sống của người mục tử nhân lành (Ga 10, 1-18) không chỉ nhấn mạnh đến việc “hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên”, nhưng còn là: “Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử” (10, 16). Chúng ta cũng không quên những dụ ngôn về con chiên lạc (Lc 15, 4-7), đồng tiền bị mất (c. 8-10), hay người cha nhân hậu (c. 11-32).
Hoàn cảnh truyền giáo hay tái truyền giáo trong giáo phận mời gọi chúng ta sống lại kinh nghiệm của Giáo Hội sơ khai, vừa phải “loan báo Tin Mừng cho mọi thọ tạo”, vừa phải bảo vệ sự hiệp nhất trong việc rao giảng “nhân Danh Chúa cho muôn dân”, vừa phải củng cố niềm tin có hệ thống dưới ánh sáng Tin Mừng khi “làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em”.
Chúng ta sống tinh thần tái truyền giáo trong Năm Thánh Hy Vọng vì Chúa hứa: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”.
+ Vinh sơn Nguyễn Văn Bản
Giám mục Giáo phận Hải Phòng
CÂU HỎI HỘI THẢO
1. Xin anh em góp ý về việc làm thế nào tăng thêm ơn gọi nam nữ trong giáo phận. Theo anh em, chúng ta có thể thực hiện những chương trình nào để giúp cho cha mẹ, cũng như các bạn trẻ khao khát sống cuộc đời dâng hiến?
2. Làm thế nào để cổ võ những người tham gia vào các hội đoàn tông đồ tham dự những lớp học bồi dưỡng giáo lý và nhiệt tình tông đồ?
Nguồn: gphaiphong.org
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn