Linh mục Nhạc sĩ Hoài Đức
Bài viết của Hải Ánh
I- Vài nét về cuộc đời
Linh mục Nhạc sĩ Hoài Đức sinh ngày 01 tháng 07 năm 1923 (theo giấy khai sinh) tại xã Vỹ Nhuế, phủ Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định (ngày nay là xã Yên Đồng, tỉnh Nam Định). Xã Vỹ Nhuế cũng là nơi giáo quyền xây dựng Giáo xứ Kẻ Nấp. Năm 1938, chú bé Hoài Đức tốt nghiệp Sơ Học Pháp Việt và vào Tiểu Chủng viện Hoàng Nguyên cũng năm này. Sau 6 năm theo học, thầy Hoài Đức được cử về giúp xứ Bút Đông. Ngày 01 tháng 09 năm 1945, nhập Đại Chủng viện Xuân Bích Hà Nội. Mới chưa qua một tháng, nhân biến cố Quân đội Nhật tiến đánh Đông Dương, Quân đội Trung Hoa chiếm Đại Chủng viện, các thầy được lệnh tản cư. Tháng 09 năm 1946, Đại Chủng viện mở cửa lại, thầy Hoài Đức cùng các thầy trở về tiếp tục tu học. Lúc bấy giờ, Cha Bề trên và các Cha giáo đều là người Pháp. Công việc học hành chỉ được 03 tháng thì phong trào toàn quốc kháng chiến chống Pháp bùng nổ. Các linh mục người Pháp bị câu lưu. Các thầy được lệnh sơ tán về các địa phương xa Hà Nội. Thầy Hoài Đức trở về lại Bút Đông, giúp cha Trần Tiến Đức. Thời gian này mới có bút hiệu là Hoài Đức, theo thầy kể thì bút hiệu này là để tỏ lòng mến thương cha Trần Tiến Đức…
Thời gian tản cư kéo dài từ tháng 12 năm 1946 tới tháng 10 năm 1948, sau đó thầy Hoài Đức trở về Đại Chủng viện Xuân Bích để tiếp tục học 04 năm (Triết học và Thần học). Vì mới tản cư về, thầy Hoài Đức cần phải có căn cước, nên lấy tên là Lê Đức Triệu, cũng nhân đó khai luôn bút hiệu Hoài Đức vào tờ căn cước. Không biết khi mới sinh ra, cha mẹ thầy đặt cho thầy tên gì. Người viết nghe đâu tên thầy là Lê Danh Hích (?).
Sau 04 năm học ở Đại Chủng viện, thầy Hoài Đức đã lãnh nhận 04 “chức nhỏ”. Và vì bệnh suy tim nên Đức Cha Trịnh Như Khuê đã chỉ định thầy đi giúp các xứ Kẻ Noi, rồi Sở Kiện… Vì tình hình chiến sự, thầy Hoài Đức từ Sở Kiện tìm cách về lại Hà Nội. Niên học năm 1952, thầy được bổ nhiệm là giáo sư Tiểu Chủng viện Piô XII (ở Quần Ngựa), lúc ấy Cha Nguyễn Huy Mai đang là Hiệu trưởng Trường Dũng Lạc, được bề trên chuyển lên làm Giám Đốc Chủng Viện.
Biến cố “chia đôi đất nước” 20-07-1954 xảy đến. Và ngày 18-07-1954, toàn bộ Tiểu Chủng viện Piô XII lên tàu thủy vào Nam, trong đó có thầy Hoài Đức. Địa chỉ sau cùng của Chủng viện Piô XII là 223 Nguyễn Tri Phương, Chợ Lớn. Thầy Hoài Đức là giáo sư ở đây (thầy giáo nhạc là chính) cho tới đầu niên học 1957, thầy về lại Đại Chủng viện Xuân Bích tọa lạc tại Thị Nghè (trong chuyến tàu di tản vào miền Nam có cả Đại Chủng viện này). Sau khi hoàn tất chương trình “đào tạo linh mục”, thầy được chuyển trở lại Chủng viện Piô XII dạy học. Và ngày 06 tháng 06 năm 1960 (?) thầy được thụ phong Linh mục, vẫn tiếp tục làm cha giáo kiêm giám luật tại Chủng viện Piô XII.
Năm 1966, Chủng viện Piô XII chấm dứt hoạt động theo lệnh Tòa Thánh, cha Hoài Đức được thuyên chuyển lên Giáo phận Kontum làm cha giáo tại Tiểu Chủng viện Thừa Sai, năm sau được bổ nhiệm Phó bề trên kiêm quản lý Chủng viện. Hết niên học 1967-1968, Cha được chuyển về Saigon đảm nhận chức vụ Thư Ký Thường Trực Ủy Ban Thánh Nhạc Toàn Quốc do đề nghị của Đức Cha Phạm Văn Thiên đặc trách Phụng Vụ và Thánh Nhạc. Tháng 07 năm 1969, cha đã từ nhiệm chức vụ này và được thuyên chuyển lên Ban Mê Thuột làm quản lý tài sản Nhà Chung Ban Mê Thuột, lúc ấy Đức Cha Nguyễn Huy Mai đang cai quản Giáo phận này. Ở đây cha Hoài Đức kiêm nhiệm Giám đốc Cơ quan Từ thiện Caritas, Chủ tịch phong trào Công lý và Hòa bình. Với những trách vụ kể trên, cha Hoài Đức đã cố gắng xây dựng các cơ sở giáo phận như tu viện, tập viện, nhà dưỡng lão, quán cơm xã hội, khai thác đồn điền cà phê, phân phối các phẩm vật cứu trợ…
Tháng 03 năm 1975, chiến sự xảy ra tại Ban Mê Thuột, Đức Cha Mai và Cha Hoài Đức đã ở lại, không di tản. Thời gian này cả hai vị gặp rất nhiều khó khăn… Và ngày 14 tháng 01 năm 1977, cha Hoài Đức khăn gói lên đường vào trại cải tạo Mê Val Đắc Lắc. Ở trại này được vài tháng, cha được chuyển trại CT3, Tân Kỳ, Hà Tĩnh. Rồi trại Phú Sơn, Bắc Thái. Sau nhiều lần chuyển từ trại này qua trại khác, năm 1979 Cha Hoài Đức cùng một số cha khác (khoảng 20 vị) “định cư” tại trại Thanh Cẩm, Thanh Hóa. Tại trại này, cha Hoài Đức bị “tai biến mạch máu não”, nhờ một bạn tù người Hoa chữa trị, bệnh thuyên giảm, nhưng sức khoẻ từ đó kém đi rất nhiều.
Tháng 11 năm 1987, cha Hoài Đức được thả về cùng với khoảng 50 bạn tù. Cha đi thăm bà con, một số các đấng bậc trong giáo quyền miền Bắc. Sau cùng, Cha ở lại nhà người em họ tại số 491/74A Lê Văn Sĩ, Phường 12, Quận 3, Tp.HCM. Đây là nơi Cha được chỉ định cư trú theo lệnh chính quyền. Nơi đây, trong thời gian này, các anh em nhạc đoàn đã liên lạc với cha, kể cả một số anh em nhạc sĩ trẻ có cảm tình với nhạc đoàn xưa nay. Và Cung Thánh 17 đã được chuẩn bị trong “thầm lặng”… Vào khoảng năm 1997, bệnh cũ lại bộc phát, cha bị á khẩu, toàn thân dần dần tê liệt và cha được chuyển về Nhà Hưu Dưỡng Hà Nội (116/3 Hùng Vương, P.9, Q.5, Tp.HCM).
Ở nước ngoài, hai lần về thăm cha, năm 1998, tôi gặp cha trong tình trạng không nói được, nhưng vẫn viết được. Năm 2000, hai vợ chồng chúng tôi về thăm cha. Cha hoàn toàn không nói cũng chẳng viết được nữa, chỉ gật hoặc lắc đầu. Trong những lần tiếp xúc ấy chỉ là nước mắt và nước mắt. Nước mắt của cha và nước mắt của chúng tôi! Ngài vẫn nhận biết và hiểu chúng tôi muốn nói gì. Điều làm cho những người thân “thương cảm” là cha không phải là “người thực vật” mà vẫn là con người nghe được, hiểu được nhưng chỉ trả lời bằng những dòng lệ. Người lau khô những dòng lệ này chính là cô cháu gái của cha, ngày đêm bên cạnh cha… Tạm biệt cha ra về, cô cháu tiễn chúng tôi tới cửa: “…Cô chú nhớ cầu nguyện cho cha…”. Có những tiếng nấc nghẹn ngào!!! Chân bước, nhưng lòng như trống vắng. Tới trước hang đá phía sau nhà thờ Ngã Sáu Chợ Lớn (ngay cổng vào khu nhà hưu dưỡng), nhìn lên tượng Đức Mẹ, tôi chợt nhớ tới câu kết của bài hát Dâng Mẹ. Cha Hoài Đức viết: “Mẹ chính là Nữ Vương, là Trạng Sư, là Mẹ con.” Tôi gục đầu xuống. Vợ tôi quỳ bên cạnh. Hai người im lặng, đầy ắp những suy tư: Những ngày cuối của một người thầy, người anh, người bạn?! Thân phận một linh mục tài ba?! Và “Mẹ là Trạng Sư…?!”
Cha ở đây cho đến ngày nay, vẫn chưa có quyền công dân, chưa có hộ khẩu! Và cha đang” chuẩn bị cho cuộc hành trình cuối cùng của cuộc đời trong bàn tay Đấng Toàn Ái Vô Biên”! Rất hy vọng cha sớm được trả lại “Quyền Công Dân Nước Trời” và “Hộ Khẩu Thường Trú” trên nơi Thiên Quốc!!!
II- Tác Phẩm:
Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh được thành lập từ năm 1945. Cha Hoài Đức tham gia nhạc đoàn này vào tháng 09 năm 1946. Nhạc sĩ Hùng Lân là Đoàn Trưởng. Sau khi thầy Hoài Đức làm linh mục (1960), anh Hùng Lân nhường lại chức vụ Đoàn Trưởng nhạc đoàn cho ngài. Về sáng tác, cha Hoài Đức đã bắt đầu viết từ năm 1945. Trong toàn bộ tác phẩm của cha, 87 bài Thánh Ca, có thể tạm chia ra như sau:
a) Những sáng tác theo “ngẫu hứng” và những sáng tác theo “nhu cầu Phụng vụ”:
Đây là những tác phẩm từ năm 1945 tới 1975. Về ngẫu hứng, có khá nhiều bài ca mang tính “phổ thông, đại chúng”, nét nhạc gần gũi với tâm tình người Việt, mặc dầu không mang âm hưởng nét dân ca nào rõ rệt. Thí dụ: Cao Cung Lên, Mùa Đông Năm Ấy, Dâng Mẹ, Cung Chúc Trinh Vương… Về đề tài nhu cầu phụng vụ, là những tác phẩm viết theo các “Ý lễ”, thí dụ: Tôi Tin (Kinh Tin Kính), Thánh Tâm Giê-Su Vua, Này Con Là Đá… Ngoài ra, trong “luồng nhạc” thời kỳ này, cha Hoài Đức đã thành công khi đưa âm hưởng “bình ca” vào lời Việt: Tôi Sẽ Tiến Lên, Bí tích Nhiệm mầu…
Kể từ biến cố “30 tháng 4 năm 1975”, Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ngưng hoạt động. Và các trại “Cải Tạo” được mở ra trên toàn quốc. Linh mục Hoài Đức cũng như một số thành viên nhạc đoàn có dính dáng tới “chế độ cũ” đều được “ưu ái” giáo dục tại các trại này… Kẻ “tiến bộ” trước, người tiến bộ sau, lần lượt được thả về. Cha Hoài Đức là người có lẽ về sau cùng (1987), trong số các anh em nhạc đoàn. Khi trở về, chức vụ Đoàn Trưởng Nhạc Đoàn anh em vẫn tín cẩn dành cho cha, mặc dầu cha rất e ngại vì nhiều lý do… và miễn cưỡng chấp nhận. Kể từ đó, nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh sinh hoạt trở lại trong “âm thầm”!!!
b) Những tác phẩm mang tích cách “bài bản”:
Cũng xin nói cho rõ, ở đây, tôi “nhìn” theo khía cạnh kỹ thuật dàn dựng một bản nhạc và lời ca mà bản nhạc chuyển tải. Gồm những tác phẩm từ năm 1977 tới năm 1990. Được hân hạnh làm việc với ngài khi chuẩn bị cho Cung Thánh 17, vì thế, tôi biết rất rõ về những tác phẩm trong giai đoạn này. Hầu hết cha Hoài Đức viết trong thời gian ở tù (1977-1987) và tới năm 1990 mới hoàn chỉnh, nhất là phần hòa âm, sau khi được anh Thiên Quang nhuận sắc phần này. Trong tất cả các tác phẩm Cha viết từ năm 1945 tới 1975, hình như không bài nào có quá 2 bè. Phần lời ca, cũng rất ít lấy ý từ các thánh vịnh, thánh thi. Ngược lại, giai đoạn 1977-1990, tác phẩm mang tính “kinh điển” với phần nhạc nhiều bè, hòa âm rất “chặt chẽ”. Lời ca hầu hết lấy từ thánh vịnh, thánh thi. Thí dụ: Bài Ca Hiệp Nhất (Tv 132), Có Chúa Chăn Dắt (Tv 22)… Chính vì những yếu tố vừa kể: nhạc – lời ca, chúng tôi xin gọi những tác phẩm trong thời gian này là “những tác phẩm mang tính cách bài bản”.
III– Thay Lời Kết
Một ước vọng chân thành: những ai đọc tới các dòng trên đây, những bà con thân thuộc, bạn bè xa gần, nhất là những “học trò cũ”, xin hãy chia sẻ với Linh mục Nhạc sĩ Hoài Đức. Chia sẻ bằng lời cầu nguyện, bằng những nâng đỡ… để những ngày tháng “đền tội” này (có thể là “tội” của chính ngài, nhưng cũng có thể là “tội” của những người khác mà Chúa muốn ngài “đền thay”!) bớt nặng nề và nhất là “thời gian”, xin Chúa và Mẹ “rút bớt lại”!!!
Hải Ánh
Tháng 09 năm 2003
Và ngày 08 tháng 07 năm 2007, người viết nhận được một thông báo của Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh như sau:
“…Cha Giuse Hoài Đức đã tạ thế lúc 22 giờ 20 phút ngày 07/07/2007 tại Nhà Hưu Dưỡng Hà Nội…”
Như thế, cha Hoài Đức đã có 84 tuổi thọ. Tám mươi tư năm trên dương thế, những mất mát cha Hoài Đức đã trải qua: 10 năm “cải tạo”. 10 năm “liệt giường”!
Ghi lại những dòng này, lòng tôi như bớt nặng nề… Kể từ 22 giờ 20 phút ngày 07/07/07 “thời gian” Chúa và Mẹ đã “rút bớt lại”. Và cha Hoài Đức đã trở về Nhà Cha nơi an nghỉ trong vòng tay Đấng Toàn Ái Vô Biên và sum vầy với Mẹ Maria cùng các Thánh.
Với Niềm Tin và Hy Vọng, Xin tạ ơn Thiên Chúa và Mẹ Maria!
NS. Hải Ánh
10/07/2007
VIDEO ĐÓN TRO CỐT CỐ NHẠC SĨ HOÀI ĐỨC VỀ QUÊ HƯƠNG