Mt 10,6-15
NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN!
“Dọc đường hãy rao giảng rằng Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại.” (Mt 10,7-8)
Suy niệm: “Nước Trời đã đến gần!” Đó là sứ điệp Đức Giê-su muốn các môn đệ loan báo. Nước Trời không hệ tại ở những chuyện vật chất thuần túy, nhưng nơi các giá trị thiêng liêng con người nhận được như hoán cải, được lành bệnh, xua trừ khỏi ma quỉ, được cho sống lại… Tất cả dấu chỉ ấy cho thấy sự hiện diện rất gần của Nước Trời giữa nhân loại này. Khi loan báo về Nước Trời, các môn đệ được mời gọi sống như cung cách Thầy mình dạy: khó nghèo, biết khước từ những gì không phù hợp với Tin Mừng, để chỉ chuyên tâm lo việc rao giảng mà thôi. Sự khó nghèo ấy của người môn đệ là bằng chứng hùng hồn cho thế gian thấy Nước Trời đã đến gần.
Mời Bạn: ĐTC Phanxicô nói: “Các con đừng sợ đi ngược dòng đời, khi mà những giá trị được bày ra cho chúng ta là những giá trị xấu, muốn cướp mất hy vọng của chúng ta.” Bạn có sợ phải lội ngược dòng đời khi sống các giá trị Tin Mừng như nghèo khó, đơn sơ, phó thác? Theo bạn, sống và loan báo các giá trị Tin Mừng có nhất thiết phải đầy đủ phương tiện mới có thể thực hiện? Bạn sẽ trả lời sao cho hợp ý Chúa Giê-su?
Sống Lời Chúa: Hôm nay tôi sống nghèo khó và bác ái với người khác như một cách thức cho thấy Nước Trời đang hiện diện.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê–su, xin cho con ý thức sứ vụ loan báo Nước Trời là sứ vụ hàng đầu. Xin cho đời sống chân thành, bác ái, đơn sơ, khó nghèo của chúng con như dấu chỉ cho thấy Nước Trời đã đến gần. Amen.
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
THỨ NĂM TUẦN 14 THƯỜNG NIÊN
Ca nhập lễ
Lạy Chúa, chúng tôi tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong đền thánh Chúa. Lạy Chúa, cũng như thánh danh Chúa, lời khen ngợi Chúa sẽ vang đến tận cùng trái đất; tay hữu Chúa đầy đức công minh.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, nhờ con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên, xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: (Năm I) St 44, 18-21. 23b-29; 45, 1-5
“Ðể cứu sống anh em mà Thiên Chúa đã sai em xuống Ai-cập trước anh em”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Giuđa lại gần mà nói thật thà với Giuse rằng: “Thưa ngài, xin ngài nghe tôi tớ của ngài nói đôi lời, xin ngài đừng phẫn nộ với tôi tớ của ngài, vì sau vua Pharaon ngài là chủ của tôi. Trước đây ngài đã hỏi các tôi tớ ngài rằng: “Các ngươi còn cha, còn đứa em nào nữa chăng?” Chúng tôi đã trả lời với ngài rằng: Chúng tôi còn cha già, và một đứa em út sinh ra lúc cha chúng tôi đã già. Anh áp út đã chết rồi: mẹ nó chỉ còn lại một mình nó, cha chúng tôi thương nó lắm. Vậy mà ngài đã bảo các tôi tớ ngài: “Hãy đem nó tới đây cho ta xem thấy nó”. Chúng tôi đã thưa với ngài rằng: “Ðứa nhỏ không thể bỏ cha nó được”. Nhưng ngài đã nói dứt khoát với các tôi tớ ngài rằng: “Nếu em út các ngươi không tới với các ngươi, thì các ngươi sẽ không thấy mặt ta nữa”. Vậy khi chúng tôi trở về cùng tôi tớ của ngài là cha chúng tôi, chúng tôi đã thuật lại hết mọi điều ngài đã nói. Cha chúng tôi bảo rằng: “Các con hãy trở lại mua thêm ít lúa thóc nữa”. Chúng tôi trả lời với người rằng: “Chúng con không thể đi được. Nếu em út đi với chúng con, thì chúng con cùng đi chung với nhau. Nếu em út không đi với chúng con, thì chúng con không dám đến trước mặt người”. Cha chúng tôi nói: “Các con biết rằng bạn ta chỉ sinh ra cho ta hai đứa con trai, một đứa đã ra đi và các con đã nói nó phải thú dữ ăn thịt, và cho đến nay chưa thấy nó trở về; các con lại đem thằng này đi nữa, nếu dọc đường có gì rủi ro xảy đến cho nó, thì các con đưa cha già đầu bạc sầu não này xuống suối vàng cho rồi”.
Khi ấy Giuse không thể cầm lòng nổi trước mặt mọi người đang đứng đấy, nên truyền cho mọi người ra ngoài, và không còn người nào khác ở đó lúc ông tỏ cho anh em biết mình, ông khóc lớn tiếng: những người Ai-cập và cả nhà vua đều nghe biết. Giuse nói với các anh em rằng: “Tôi là Giuse đây, cha còn sống không?” Các anh em sợ hãi quá nên không dám trả lời. Giuse nói với anh em cách nhân từ rằng: “Hãy đến gần tôi”. Khi họ đến gần, ông lại nói: “Tôi là Giuse em các anh mà các anh đã bán sang Ai-cập. Các anh chớ khiếp sợ, và đừng ân hận vì đã bán tôi sang đất này, vì chưng để cứu sống các anh em mà Thiên Chúa đã sai tôi sang Ai-cập trước anh em”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 104, 16-17. 18-19. 20-21
Ðáp: Các ngươi hãy nhớ lại những điều kỳ diệu Chúa đã làm
Xướng: Chúa đã gọi cảnh cơ hàn về trên đất nước, và rút đi mọi sự nâng đỡ bằng cơm bánh. Ngài đã sai một người đi trước họ: Giuse đã bị bán để làm nô lệ.
Xướng: Thiên hạ đã lấy xiềng để trói chân người, và cổ người bị cột bằng xích sắt, cho tới khi ứng nghiệm lời tiên đoán của người, lời của Chúa đã biện minh cho người.
Xướng: Vua đã sai cởi trói cho người, Chúa của chư dân cũng đã giải phóng người. Vua đã tôn người làm chủ của mình, và làm chúa trên toàn diện lãnh thổ.
Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 11, 1b, 3-4, 8c-9
“Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi”.
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Thiên Chúa phán: “Lúc Israel còn niên thiếu, Ta đã yêu thương nó, và Ta đã gọi con Ta ra khỏi Ai-cập.
“Ta đã dưỡng nuôi Ephraim, Ta đã bồng chúng trên cánh tay Ta mà chúng không biết Ta chăm sóc chúng. Ta đã dùng dây êm ái và mối yêu thương mà tập (cho) chúng đi; Ta đối xử với chúng như người dưỡng nuôi trẻ thơ, Ta đã ấp yêu chúng vào má. Ta nghiêng mình trên chúng và đút cho chúng ăn.
Quả tim Ta thổn thức trong Ta và ruột gan Ta bồi hồi. Ta sẽ không buông thả theo cơn giận của Ta. Ta sẽ không huỷ diệt Ephraim, vì Ta là Thiên Chúa chứ không phải người phàm; Ta là Ðấng Thánh ở giữa ngươi, Ta không thích tiêu diệt”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 79, 2ac và 3b. 15-16
Ðáp: Lạy Chúa, xin tỏ thiên nhan hiền từ Chúa ra, hầu cho chúng con được ơn cứu sống (c. 4b).
Xướng: Lạy Ðấng chăn dắt Israel, xin hãy lắng tai! Chúa ngự trên các vệ binh thần, xin hiện ra trong sáng láng. Xin tỉnh thức quyền năng của Chúa.
Xướng: Lạy Chúa thiên binh, xin thương trở lại; tự trời cao xin nhìn coi và thăm viếng vườn nho này. Xin bảo vệ vườn nho mà tay hữu Ngài đã cấy; bảo vệ ngành nho mà tay Ngài đã củng cố cho mình.
Alleluia: Tv 94, 8ab
Alleluia, alleluia! – Ước gì hôm nay các bạn nghe tiếng Chúa, và đừng cứng lòng. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 7-15
“Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho nhưng không”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Các con hãy đi rao giảng rằng “Nước Trời đã gần đến”. Hãy chữa những bệnh nhân, hãy làm cho kẻ chết sống lại, hãy làm cho những kẻ phong cùi được sạch và hãy trừ quỷ. Các con đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Các con chớ mang vàng bạc, tiền nong trong đai lưng, chớ mang bị đi đường, chớ đem theo hai áo choàng, chớ mang giày dép và gậy gộc, vì thợ thì đáng được nuôi ăn.
“Khi các con vào thành hay làng nào, hãy hỏi ở đó ai là người xứng đáng, thì ở lại đó cho tới lúc ra đi. Khi vào nhà nào, các con hãy chào rằng: “Bình an cho nhà này”. Nếu nhà ấy xứng đáng thì sự bình an của các con sẽ đến với nhà ấy. Nhưng nếu ai không tiếp rước các con và không nghe lời các con, thì hãy ra khỏi nhà hay thành ấy và giũ bụi chân các con lại. Thật, Thầy bảo các con: Trong ngày phán xét, đất Sôđôma và Gômôra sẽ được xét xử khoan dung hơn thành ấy”.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin Chúa dùng của lễ chúng con dâng tiến để thanh tẩy và hướng dẫn chúng con, cho chúng con ngày càng biết sống chân tình với Chúa. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; Phúc cho ai tìm nương tựa ở nơi Chúa.
Hoặc đọc:
Chúa phán: “Hỡi tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ mang đỡ bổ sức cho các ngươi”.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa chúng con vừa lãnh nhận hồng ân cao cả; xin cho chúng con được hưởng ơn cứu độ dồi dào và không ngừng chúc tụng tạ ơn Chúa. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
CĂN TÍNH CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ (Mt 10, 7-15)
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP
Đức Giêsu đã trao truyền cho các môn đệ sứ mạng và sự nghiệp của chính Ngài.
Thật vậy, hôm nay, như một người thầy nhắn nhủ các môn sinh của mình trước lúc lên đường, Đức Giêsu trao cho các ông quyền trên mọi thần ô uế, để các ông chữa lành, và củng cố lời giảng của mình, hầu cho lời giảng có giá trị và thuyết phục, đồng thời để lời nói và hành động không bị mâu thuẫn.
Sau đó, Đức Giêsu đã căn dặn các ông về căn tính của người môn đệ:
Trước tiên là nhiệm vụ của người ra đi: người được sai đi là để loan báo Tin Mừng chứ không phải là loan báo tin buồn, đồng thời sai đi để chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền chứ không phải gieo rắc đau thương.
Thứ hai là tinh thần của người ra đi: người được sai đi sẽ gặp không ít khó khăn, nên cần phải tin tưởng, trao phó mọi sự nơi Chúa. Ra đi trong tinh thần thanh thoát, không cần phải cồng kềnh và quá lo lắng cho ngày mai. Hãy là người tôi tớ phục vụ, bởi vì : “Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”.
Thứ ba là thái độ của người ra đi: người môn đệ muốn được thành công thì phải mặc lấy thái độ của hạt lúa, tức là tự hủy ra không, phải nhân từ để “ngửi thấy mùi chiên” và “mang mùi chiên nơi mình”. Không ngại khổ, ngại khó và cần phải hy sinh. Luôn quan tâm đến người khác hơn là nghĩ về mình.
Thứ tư là lập trường của người ra đi: sống trong một xã hội chủ chương vô thần, muốn loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi tư tưởng, nhận thức của con người. Lập trường của họ là không có Thiên Chúa, cũng chẳng có niềm tin… Vì thế, họ không ngần ngại uốn nắn và tìm đủ mọi cách dưới nhiều hình thức tinh vi để gây nên những hoang mang, thất vọng. Bên cạnh đó là những trào lưu tục hóa, những văn hóa phẩm đồi trụy… nhằm gieo rắc những chân lý nửa vời và làm cho con người lấn sâu trong tội mà không biết! Và cũng những con người đó, họ muốn loại bỏ người môn đệ của Chúa, vì thế, cái chết là kết cục cuối cùng của người môn đệ. Số phận của người môn đệ là: như chiên đi vào giữa bầy sói.
Tuy nhiên, lập trường của người môn đệ, trong mọi hoàn cảnh, không bao giờ và không có cách nào được phép đồng lõa, thỏa hiệp để chỉ vì mục đích “rẻ tiền” nhằm được yên thân. Lập trường của người môn đệ còn là hiện diện và sống những giá trị Tin Mừng cách thực tế chứ không chỉ lo cái gọi là bề ngoài cho thật “hoành tráng” theo thói đời, nhưng bên trong thì rỗng tuếch.
Thứ năm là chiến lược của người môn đệ: được mời gọi hiện hữu giữa thế gian nhưng không bị thế gian điều khiển và đẩy đưa để dẫn đến cái gọi là: dùng phương tiện xấu để biện minh cho mục đích tốt. Phải khôn như rắn để xây dựng, bảo vệ sự hiệp nhất của Giáo Hội, và phải hiền lành, đơn sơ như chim bồ cầu trong tinh thần huynh đệ.
Cuối cùng, lời chào của người ra đi là lời chúc bình an của Chúa chứ không phải là những gợi ý, mong muốn để được nâng đỡ cách này hay cách khác mang tính phàm tục.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con được trở nên môn đệ đích thực của Chúa như lòng Chúa mong ước. Amen.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn