Tuần Tĩnh tâm Linh Mục đoàn tại Giáo phận Ban Mê Thuột (1)
Theo thông báo của TGM, Tuần Tĩnh tâm Linh Mục đoàn tại Giáo phận Ban Mê Thuột bắt đầu từ chiều ngày 07. 11. 2016 và kết thúc vào sáng ngày 11. 11. 2016.
Từ chiều ngày 07. 11, đã có 168 linh mục Triều và Dòng đang làm mục vụ tại giáo phân Ban Mê Thuột, quy tụ về TGM để tham dự tuần Tĩnh tâm Linh Mục do Đức cha Giuse Đặng Đức Ngân, Giám mục giáo phận Đà Nẵng thuyết giảng về đề tài : “Linh mục - NGƯỜI LÍNH CANH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT". Đây cũng là dịp để anh em linh mục trong giáo phận gặp gỡ, chia sẻ công việc mục vụ trong tình huynh đệ.
Sáng ngày 08. 11, trong phần mở đầu, Đức cha thuyết giảng dựa vào Bài đọc 2 kinh sách ngày 3/9, lễ thánh Gregorio Cả - thánh giáo hoàng giảng về sách Êdêkien như sau : “Hỡi con người, Ta đã đặt ngươi làm người canh gác cho nhà Ít-ra-en. Cần lưu ý rằng Chúa gọi kẻ Người sai đi rao giảng là người canh gác. Người canh gác luôn luôn phải đứng trên cao, để thấy được từ xa chuyện gì xảy tới. Và bất cứ ai được đặt làm người canh gác cho dân đều phải đứng trên cao nhờ cuộc sống của mình, để có thể đem lại lợi ích cho dân nhờ khả năng tiên liệu… Vậy tôi là ai và tôi thi hành nhiệm vụ canh gác như thế nào, nếu tôi không đứng trên núi cao là công việc phải làm, mà vẫn còn nằm bẹp dưới thung lũng là tính yếu đuối của tôi? Nhưng dù tôi bất xứng, thì Đấng tạo dựng và cứu chuộc loài người vẫn có khả năng ban cho tôi cả đời sống cao quý lẫn tài nói năng thuyết phục, bởi lẽ vì yêu mến Người mà tôi không quản ngại nói về Người.” (Bài mở đầu)
Đức cha giảng phòng chia sẻ : Nếu đọc bài giảng này trong bối cảnh cuộc sống của mình, trong mùa Vọng, mùa trông chờ Thiên Chúa ngự đến, chúng ta có thể thấy rằng, Giám mục và linh mục đang gánh vác trách nhiệm “người lính canh” và cũng đang mang lấy những khiếm khuyết trong phận vụ mà thánh giáo hoàng Grê-gô-ri-ô Cả nói đến…
Tuần tĩnh tâm năm nay của giáo phận BMT ở trong một thời điểm rất đặc biệt và mang nhiều ý nghĩa. Trước hết, chúng ta chuẩn bị kết thúc Năm thánh Lòng Thương Xót. Tuy vậy, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không bao giờ kết thúc. Lòng Thương Xót đó vẫn luôn tuôn tràn trên chúng ta trong mọi nơi mọi thời và mời gọi mỗi người liên lỉ tái khám phá Lòng Thương Xót nơi chính mình, cũng như làm cho những người khác khám phá ra Lòng Thương Xót trong cuộc đời mình. Do đó, Lòng Thương Xót sẽ luôn là điều được nhấn mạnh và xoay quanh trong các bài chia sẻ của tuần tĩnh tâm này.
Cho dù trong hoàn cảnh nào, thuận tiện hay không thuận tiện, người linh mục vẫn luôn là những người lính canh:
• Biết mình canh điều gì (biết mình phải như thế nào để có thể đáp ứng được những đòi buộc của trách vụ)
• Biết tiên liệu những thách đố, những khó khăn có thể gặp phải cho bản thân, cho những đối tượng tôi được sai tới
• Biết liên đới và cộng tác với mọi thành phần để hoàn thành sứ mạng được trao
Đề tài chia sẻ “Linh mục - NGƯỜI LÍNH CANH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT” sẽ được Đức cha thuyết giảng khai triển theo một tiến trình như sau:
Bài 1: Trở về (trở về với chính nguồn cội của mình - là chính Đức Giêsu)
Bài 2: Nhận diện các dấu chỉ (thời đại)
Bài 3: Giáo Hội - dấu chỉ Lòng Thương Xót của Chúa
Bài 4: Người Kitô hữu - dấu chỉ Lòng Thương Xót của Chúa
Bài 5: Linh Mục - dấu chỉ Lòng Thương Xót của Chúa
Bài 6: Theo gương Đức Mẹ Maria - Sống Lòng Thương Xót
Sau giờ giải lao, Đức cha thuyết giảng chủ đề “Linh mục - NGƯỜI LÍNH CANH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT” với Bài số 1. Trở về nguồn
- Đầu giờ chiều, Đức cha Giu-se Đặng Đức Ngân tiếp tục chủ đề với Bài 2 : Nhận diện các dấu chỉ.
Hai ĐGM và linh mục đoàn viếng mộ hai Đức cố giám mục Giu-se sau giờ chầu phép lành
Ban VHTT -BMT
Lúc 08g00 sáng ngày 09. 11. 2016, trong giờ "Hướng dẫn tĩnh tâm", Đức cha Giu-se Đặng Đức Ngân tiếp tục chủ đề “Linh mục - NGƯỜI LÍNH CANH CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT". Hôm nay ngài nói về " Giáo Hội - Dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa" :
Bài 3: GIÁO HỘI –
DẤU CHỈ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Tin mừng: (Mt 10:1-8)
Khi ấy, Đức Giê-su gọi mười hai môn đệ lại, để ban cho các ông quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền.
Sau đây là tên của mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, rồi đến ông An-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Dê-bê-đê và ông Gio-an, em của ông; ông Phi-líp-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế; ông Gia-cô-bê con ông An-phê và ông Ta-đê-ô; ông Si-môn thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, là chính kẻ nộp Người. Đức Giê-su sai mười hai ông ấy đi và chỉ thị rằng: “Tốt hơn là hãy đến với các con chiên lạc nhà Ít-ra-en. Dọc đường hãy rao giảng rằng: Nước Trời đã đến gần. Anh em hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong hủi được sạch bệnh, và khử trừ ma quỷ. Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy”.
Đức Giêsu – Dung mạo của Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Thiên Chúa giàu lòng thương xót
Suốt chiều dài lịch sử, dân Do Thái đã cảm nghiệm và ý thức rằng Đức Giavê – Đấng họ tôn thờ - là Thiên Chúa nhân hậu, giàu lòng thương xót và trung tín:
“Lòng Thương Xót của Ngài biểu lộ một cách cụ thể trong nhiều khoảnh khắc của lịch sử cứu độ, nơi đó, sự tốt lành của Ngài rốt cục đã chiến thắng hình phạt và sự hủy diệt. Các Thánh Vịnh đã diễn tả một cách đặc biệt về sự vĩ đại này trong hành động của Thiên Chúa. Ngài chính là “Đấng tha cho ngươi muôn ngàn tội lỗi, thương chữa lành các bệnh tật ngươi. Cứu ngươi khỏi chôn vùi đáy huyệt, bao bọc ngươi bằng ân nghĩa với lượng hải hà” (Tv 103:3-4). Với cách thức rõ ràng hơn, một Thánh Vịnh khác còn liệt kê ra những dấu chỉ của Lòng Thương Xót: “Xử công minh cho người bị áp bức, ban lương thực cho kẻ đói ăn. Chúa giải phóng những ai tù tội, Chúa mở mắt cho kẻ mù loà. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên, Chúa yêu chuộng những người công chính. Chúa phù trợ những khách ngoại kiều, Người nâng đỡ cô nhi quả phụ, nhưng phá vỡ mưu đồ bọn ác nhân” (Tv 146:7-9). Và để kết thúc, còn có một lời nữa của Vịnh Gia: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. […] Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen” (Tv 147:3.6). Tóm lại, chúng ta có thể nói, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa không phải là một ý tưởng trừu tượng, nhưng là một thực tại cụ thể, nhờ đó, Ngài mạc khải Tình Yêu của Ngài như là Tình Yêu của một người cha và của một người mẹ mà con cái của họ nằm sâu trong con tim của họ. Đó thực sự là một Tình Yêu mãnh liệt. Tình Yêu ấy đến từ tận nơi sâu kín nhất và thẳm sâu nhất, nhưng tất nhiên là được thúc đẩy bởi sự trìu mến và bởi sự cảm thông, bởi lòng khoan nhân và bởi sự tha thứ.” (Tông sắc năm thánh Lòng Thương Xót, số 6)
Thiên Chúa giàu lòng thương xót được tỏ lộ cách mới mẻ nơi ĐGK
Toàn bộ hành trình cuộc đời nơi dương thế của ĐG là một mạc khải về TC Cha. ĐG, trong mọi hành động, việc làm, đều tỏ cho chúng ta thấy về TC. Người nói: “Ai thấy Thầy là thấy Cha” (Ga 14:9). ĐG nói về “Cha” cho chúng ta theo hai nghĩa: “thứ nhất, TC là nguồn gốc thứ nhất và là Đấng uy quyền siêu việt trên hết mọi sự; đồng thời, là Đấng nhân hậu và yêu thương chăm sóc hết mọi con cái Ngài” (GLHTCG, số 239).
Không chỉ mạc khải Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót qua lời nói, ĐG còn mạc khải Cha qua chính những hành động đón nhận kẻ tội lỗi, cứu chữa bệnh tật, tha thứ và yêu thương (Lc 15: con chiên bị mất; đồng bạc bị thất lạc; người cha nhân hậu) trong tác động của Thần Khí. Nơi những hành động của ĐG, “chúng ta thấy được điều cốt lõi của Tin Mừng và của Đức Tin chúng ta, vì Lòng Thương Xót được giới thiệu như là sức mạnh vượt thắng tất cả, sức mạnh ấy lấp đầy con tim với niềm vui và sự ủi an thông qua sự tha thứ”. (Tông sắc năm Lòng Thương Xót, số 9). Cách đặc biệt, mầu nhiệm Thiên Chúa giàu lòng thương xót được ĐG thể hiện trong tác động của Thần Khí cách cụ thể và sinh động nơi cái chế nhuốc hổ trên thập giá và phục sinh vinh quang vì yêu con người.
Do đó, quan niệm về một Đấng Cứu Độ của Cựu Ước được thay đổi vì không còn phù hợp nơi ĐG. Bởi lẽ, Thiên Chúa giàu lòng thương xót thực thi lời hứa ban ơn cứu độ của Ngài không chỉ về phương diện chính trị, vật chất … nhưng giờ đây, lòng thương xót được thể hiện qua việc giải thoát con người khỏi tội lỗi và trả lại phẩm giá làm người, và được gọi TC là “Cha”. Vì vậy, tất cả những lời hứa nơi Cựu Ước được tìm thấy một cách hoàn toàn mới mẻ và trọn vẹn nơi ĐGK.
Cách riêng, như đoạn Tin Mừng theo thánh Mátthêu chúng ta vừa nghe, cùng với việc căn dặn các môn đệ rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu còn ra lệnh cho các ông phải “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” trong dân. Một sự quan tâm trọn vẹn đối với nhân loại. ĐG quan tâm con người một cách toàn vẹn: không chỉ nói cho con người sứ điệp vui mừng, nhưng còn phải làm cho họ thực sự mừng vui khi chữa lành tất cả mọi bệnh tật mà họ đang mang (không chỉ bệnh hoạn tật nguyền thể lý của kiếp nhân sinh, nhưng còn cả bệnh hoạn tật nguyền trong tâm hồn, những căn bệnh do sự tổn thương trong mối tương quan với Thiên Chúa và tha nhân), trả lại cho nhân loại một cuộc sống bình an, xứng với phẩm giá là hình ảnh, là con của Thiên Chúa.
Giáo Hội – dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa
Giáo Hội – dấu chỉ của lòng Thương Xót.
Lumen Gentium đã khẳng định như sau: “Giáo Hội ở trong Chúa Kitô như bí tích hoặc dấu chỉ và khí cụ của sự kết hợp mật thiết với Thiên Chúa và của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại” (LG, số 1). Vậy ta cũng có thể nói, Giáo Hội là dấu chỉ, khí cụ, là nơi cư ngụ của Lòng Thương Xót. Bởi chưng, chính ĐG là dung mạo Lòng Thương Xót của Chúa Cha; và bởi vì là thân thể của ĐK, Giáo Hội chắc chắn phải là nơi Lòng Thương Xót ngự trị, nơi Chúa Cha muốn quy tụ đoàn dân của Ngài: “Thực vậy, từ muôn thuở tất cả mọi người được tuyển chọn, Chúa Cha "đã biết trước và đã tiền định cho họ trở nên giống hình ảnh Con Chúa, hầu người Con đó được trở nên Trưởng Tử trong nhiều anh em" (Rm 8,29). Thế nên, Chúa Cha muốn qui tụ những ai tin kính Chúa Kitô vào trong Giáo Hội” (LG, số 2).
Quay trở lại với đoạn Tin Mừng chúng ta lắng nghe đầu giờ, chúng ta đọc thấy ĐG luôn quan tâm đến chúng ta, vì biết nhân loại cần đến sứ điệp Tin Mừng Cứu Độ, cần đến sự nâng đỡ, chữa lành cho kiếp nhân sinh, Người tuyển chọn và sai các môn đệ ra đi thi hành những điều đó. Bên cạnh đó, sứ điệp của lời rao giảng và hành vi chữa lành của các môn đệ không gì khác hơn là “NƯỚC TRỜI”. Hóa ra, Nước Trời không phải là một sứ điệp mông lung, không là những câu nói, lời rao giảng suông, nhưng còn là một thái độ và hành động của việc phục vụ cúi xuống và đụng chạm đến những những con người cùng khổ nhất, những nỗi đau ẩn kín nhất của con người. Đây chính là sứ mạng của Giáo Hội, dấu chỉ, công cụ của Lòng Thương Xót.
Chúng ta hãy đọc lại những lời giáo huấn của ĐTC Phanxico trong buổi họp toàn thể Hội Đồng Tòa Thánh về Thúc Đẩy Tân Phúc Âm Hóa tại Vatican vào chiều ngày 29.5.2015 như một lời mời gọi cho chúng ta ý thức về sứ vụ của Giáo Hội khi ngài nhắc nhớ chúng ta “phải nhận ra lòng thương xót và trao ban cho anh chị em”. ĐTC nói như sau: “Con người ngày nay mong đợi điều gì nơi Giáo Hội: đó là Giáo Hội đồng hành với họ, làm chứng về điều mình tin, sống tinh thần hiệp nhất đại đồng, đặc biệt liên đới với những người nghèo khổ, cô độc và bị loại trừ. Thế giới hôm nay có quá nhiều người nghèo! Nghèo vật chất. Nghèo tâm linh. Họ đang chờ Tin Mừng có sức mạnh giải thoát họ!”
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII khi khai mở Công Đồng Vatican II, ngài đã chỉ ra con đường phải theo: ‘Giờ đây Hiền Thê của Chúa Kitô muốn sử dụng dược phẩm lòng thương xót chứ không phải là vũ khí của sự hà khắc… Giáo Hội Công Giáo, khi giơ cao ngọn đuốc chân lý Công Giáo tại Công Đồng Đại kết này, muốn thể hiện mình là một người mẹ yêu thương mọi người; kiên nhẫn, dịu dàng, từ tâm và nhân hậu với những con cái đã xa đàn’.
Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI đã nói với cùng một mạch văn vào lúc bế mạc Công Đồng: “Chúng tôi muốn chỉ ra lòng bác ái đã là tính năng tôn giáo chủ yếu của Công Đồng này như thế nào… câu chuyện xưa về người Samaritanô nhân hậu đã là mô hình cho linh đạo của Công Đồng… một làn sóng tình cảm và ngưỡng mộ đã tuôn chảy từ Công Đồng trên thế giới hiện đại của nhân loại. Những sai lầm, cố nhiên, là bị lên án vì lòng bác ái đòi hỏi điều này không thua gì những đòi hỏi của sự thật, nhưng đối với chính những cá nhân chỉ có sự khuyên nhủ, lòng tôn trọng và tình yêu. Thay cho những chẩn đoán chán chường, là những phương dược khích lệ; thay cho những dự đoán kinh khủng, là những thông điệp của niềm tin được Công Đồng đưa ra cho thế giới ngày nay. Những giá trị của thế giới hiện đại không chỉ được tôn trọng nhưng được vinh danh, nỗ lực của thế giới được chấp nhận, nguyện vọng của nó được thanh tẩy và chúc lành… Một điểm khác nữa chúng ta phải nhấn mạnh là điều này: tất cả giáo huấn phong phú này được chuyển theo một hướng là sự phục vụ nhân loại, trong mọi điều kiện, trong mỗi nhược điểm và nhu cầu” (số 04).
ĐTCha Phanxico nhắc nhớ: “Lòng Thương Xót là nền tảng của đời sống Giáo Hội. Tất cả các hoạt động mục vụ của Giáo Hội phải được bao bọc trong sự dịu dàng mà Giáo Hội đưa ra với các tín hữu hiện diện; không có gì trong lời rao giảng của Giáo Hội và trong chứng tá của Giáo Hội với thế giới có thể thiếu vắng sự thương xót. Chính sự khả tín của Giáo Hội được nhìn thấy trong cách thức Giáo Hội thể hiện tình yêu thương xót và trắc ẩn. Giáo Hội “có một ước muốn bất tận để tỏ lòng thương xót… Tuy nhiên, thiếu vắng chứng tá cho lòng thương xót, cuộc sống trở thành vô ích và vô sinh, như thể bị cô lập trong một sa mạc cằn cỗi. Đã đến lúc Giáo Hội phải đón nhận lời mời gọi hân hoan để thương xót lần nữa” (số 10).
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II với tinh thần Giáo Hội cần rao giảng và sống và làm chứng tá cho lòng thương xót, Ngài còn thúc đẩy việc loan báo khẩn cấp hơn và đưa ra những chứng tá cho lòng thương xót trong thế giới đương đại: ‘Xuất phát từ tình yêu dành cho con người, cho tất cả những gì là nhân bản và những gì, theo trực giác của nhiều người đương thời với chúng ta, là đang bị đe dọa bởi một mối nguy hiểm lớn lao. Mầu nhiệm của Chúa Kitô.. . buộc tôi phải rao giảng lòng thương xót như tình yêu từ bi của Thiên Chúa, đã được mạc khải trong cùng một mầu nhiệm của Chúa Kitô. Mầu nhiệm ấy cũng buộc tôi phải trông cậy và khẩn cầu lòng xót thương trong giai đoạn khó khăn, và quan trọng này trong lịch sử Giáo Hội và thế giới’.
ĐứcTC Phanxicô viết: “Giáo Hội được ủy thác công bố lòng thương xót của Thiên Chúa, là trái tim đang đập của Tin Mừng, là điều phải tìm được cách thấm nhập trái tim và tâm trí của mỗi người. Hiền thê của Chúa Kitô phải rặp khuôn hành vi của mình như Con Thiên Chúa, Đấng đã vươn ra với mọi người không coi ai là ngoại lệ. Ngày nay, Giáo Hội đang gánh vác trọng nhiệm Tân Phúc Âm Hóa, chủ đề của lòng thương xót cần được tái đề xuất hết lần này đến lần khác với lòng nhiệt thành mới và các hoạt động mục vụ được canh tân. Tuyệt đối cần thiết cho Giáo Hội và cho sự khả tín của thông điệp Giáo Hội đưa ra là Giáo Hội phải sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và những cử chỉ của Giáo Hội phải chuyển tải lòng thương xót, để chạm vào con tim của tất cả mọi người và truyền cảm hứng cho họ một lần nữa để tìm ra con đường dẫn đến Chúa Cha.Chân lý đầu tiên của Giáo Hội là tình yêu của Chúa Kitô. Giáo Hội biến mình thành một người đầy tớ của tình yêu này và làm trung gian của tình yêu ấy cho tất cả mọi người: một tình yêu tha thứ và thể hiện bản thân nó như sự trao ban chính mình. Do đó,bất cứ nơi nào Giáo Hội hiện diện, lòng thương xót của Chúa Cha phải là hiển nhiên. Trong các giáo xứ, các cộng đồng, các hiệp hội và các phong trào, nói tắt một lời, là bất cứ nơi nào có những Kitô hữu, tất cả mọi người phải tìm được một ốc đảo của lòng thương xót”
Giáo Hội làm lan tỏa Lòng Thương Xót qua việc trở nên chứng tá về Lòng Thương Xót
Thông điệp Redemptor Hominis (số14) khẳng định rằng định mệnh của con người là được chọn, gọi, sinh ra và chết, được cứu độ hay hư mất đều liên hệ cách chặt chẽ và dứt khoát với Đức Kitô. Cho nên, Giáo Hội như khí cụ cứu rỗi cho mọi người và được sai đi khắp thế giới như ánh sáng trần gian và muối đất (x. LG 9 và 17). Ánh sáng cho trần gian và muối cho đất trong sứ vụ của Giáo Hội chính là phải làm lan tỏa, làm cho Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đi sâu, thấm đượm vào mọi ngóc ngách, mọi khía cạnh của trần gian, mọi lĩnh vực, và cách riêng là mỗi cá nhân.
Chúng ta xác tín rằng Giáo Hội phải tiến bước theo chân của ĐG trên mọi nẻo đường của thế giới để rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, vì “được Đức Giêsu gọi và quy tụ, và được Chúa Thánh Thần thúc đẩy” (AG 5). Như thế, mỗi chúng ta (các GM, LM), tế bào, chi thể của Giáo Hội, cũng phải mang nơi mình một món nợ đối với nhân loại, đó là món nợ ‘loan báo Lời cứu độ’ (x. VD 95). Đồng thời, chúng ta “cần phải hiểu rằng, thật rất cần có ánh sáng của Chúa Kitô chiếu soi mọi lãnh vực của nhân loại: gia đình, trường học, văn hoá, việc làm, việc giải trí và các lãnh vực khác của đời sống xã hội” (VD 93).
Tuy nhiên, ở đây, liên quan đến việc loan báo Tin Mừng, tôi xin được nhắc đến 2 điểm lưu ý quan trọng sau:
Thứ nhất, “sứ mạng riêng biệt mà Chúa Kitô đã ủy thác cho Giáo Hội Người không thuộc phạm vi chính trị, kinh tế hay xã hội: mục đích Người đã ấn định cho Giáo Hội thuộc phạm vi tôn giáo. Nhưng, bởi chính sứ mạng tôn giáo ấy, phát sinh bổn phận, ánh sáng và những sức mạnh có thể giúp thiết lập và củng cố cộng đoàn nhân loại theo Luật Lệ của Thiên Chúa; cũng thế, khi có nơi nào cần, chính Giáo Hội có thể và hơn nữa, phải phát động, tùy theo hoàn cảnh thời gian và nơi chốn, những công cuộc nhằm phục vụ mọi người, nhất là những người cùng khốn, thí dụ như các công cuộc từ thiện hoặc những tổ chức khác tương tự. […] Hơn nữa, bởi sứ mệnh và bản chất, Giáo Hội không cấu kết với một hình thức văn hóa nhân loại đặc thù nào, hoặc một chế độ chính trị, kinh tế hay xã hội nào. […] Vì vậy, Giáo Hội khuyến cáo các con cái mình và hết mọi người: hãy vượt qua mọi tranh chấp giữa các quốc gia, chủng tộc trong tinh thần gia đình con cái Thiên Chúa và củng cố các hiệp hội nhân loại chính đáng” (GP 42).
Thứ hai, “trách nhiệm của chúng ta không giới hạn vào việc đề nghị cho thế giới những giá trị chung nhưng phải đi đến chỗ minh nhiên loan báo Lời Thiên Chúa. Chỉ bằng cách đó, chúng ta mới trung thành với mệnh lệnh của Chúa Kitô [...]. Không có việc phúc âm hoá thực sự nếu thánh danh, giáo huấn, cuộc đời, các lời hứa, Vương Quốc và Mầu nhiệm Đức Giêsu Nadarét, Con Thiên Chúa, không được loan báo” (VD 98).
Tông Sắc năm thánh Lòng Thương Xót, ĐTC Phanxico đã đưa ra một hướng cho Giáo Hội ngày nay, trong việc công bố Lòng Thương Xót. Ngài khẳng định: “Chiếc trụ đỡ nâng đời sống Giáo Hội chính là Lòng Thương Xót. Toàn bộ hoạt động mục vụ của Giáo Hội nên được bao bọc bởi sự trìu mến mà với nó, Giáo Hội hướng về các tín hữu; việc loan báo Tin Mừng của Giáo Hội và chứng tá của Giáo Hội đối với thế giới sẽ không thể diễn ra mà không có Lòng Thương Xót. Tính đáng tin của Giáo Hội được xúc tiến trên con đường Tình Yêu nhân hậu và cảm thông. Giáo Hội “cảm thấy mình có một ước muốn vô hạn trong việc giới thiệu Lòng Thương Xót” […] Nếu như không có chứng tá về sự tha thứ thì chỉ còn lại một cuộc sống khô cằn và vô sinh, giống hệt như khi người ta sống trong một sa mạc thê lương. Đối với Giáo Hội, đã đến lúc tái dành thời gian để công bố một cách vui mừng về sự tha thứ. Đây chính là thời gian để tái trở về lại với những gì là căn bản và chính yếu, cũng như để đón nhận những người yếu đuối, những người đang gặp khó khăn nhất trong số những người anh chị em của chúng ta. Sự tha thứ chính là một sức mạnh làm cho tái sinh để trở thành một cuộc sống mới, cũng như trao tặng sự can đảm để hướng cái nhìn về tương lai một cách tràn đầy hy vọng” (số 10).
Tông sắc viết tiếp: “Giáo Hội có sứ mạng công bố về Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, công bố con tim đang sôi sục của Tin Mừng. Nhờ đó, Lòng Thương Xót sẽ đạt tới được con tim và khối óc của con người. Hiền thê của Chúa Kitô biến hành động của Con Thiên Chúa thành hành động của mình, và đi đến với tất cả mọi người cũng như không loại trừ bất cứ ai. Lời ĐTC Phanxico dạy bảo trong Tông Sắc cần phải được trở thành một ý lực sống cho mỗi chúng ta:“Một chặng mới của việc loan báo Tin Mừng càng ngày càng được mong chờ để được hoàn tất, giờ đây đã bắt đầu. Một trách vụ mới đối với tất cả các Kitô hữu chính là việc làm chứng cho Đức Tin của mình với niềm hăng hái được củng cố và với tất cả sức thuyết phục. Giáo Hội cảm thấy có trách nhiệm trong việc phải trở nên dấu chỉ sống động cho Tình Yêu của Thiên Chúa Cha ở giữa trần gian” (số 4). Dấu chỉ sống động đó được thể hiện cụ thể trong mối quan tâm đến con người nơi các giáo huấn và những hoạt động cụ thể của con cái mình. Những giáo huấn và hoạt động cụ thể đan dệt và trở nên một trong sứ mạng của Giáo Hội.
Lời khẳng định của Chân phước giáo hoàng Phaolo VI trong bài diễn văn bế mạc công đồng Vat II rằng tất cả những lời dạy bảo của Giáo Hội “đều có một mục đích duy nhất, và cụ thể đó là việc phục vụ con người. Quả thật, “trong khi đeo đuổi mục đích cứu rỗi cá biệt của mình, Giáo Hội không phải chỉ truyền thông sự sống Thiên Chúa cho con người, nhưng còn chiếu giãi ánh sáng của đời sống ấy cách nào đó trên toàn thế giới. Giáo Hội làm công việc này, trước hết bằng cách chữa trị và nâng cao phẩm giá nhân vị, củng cố cơ cấu của xã hội nhân loại và thấm nhuần cho hoạt động thường nhật của con người một chiều hướng và một ý nghĩ sâu xa hơn” (GP 40).
Chúng ta có thể trích dẫn ra đây một số ví dụ:
Nói đến phẩm giá và lương tâm con người, Giáo Hội khẳng định: “Phúc Âm loan báo và công bố sự tự do của con cái Thiên Chúa, phủ nhận mọi hình thức nô lệ vì mọi ách nô lệ rốt cuộc đều bởi tội lỗi mà ra. Phúc Âm tôn trọng triệt để phẩm giá và quyết định tự do của lương tâm, lại không ngừng nhắc nhở phát huy mọi tài năng để phụng sự Thiên Chúa và mưu ích cho mọi người” (GP 41).
Khi nói về Ðức tin và văn hóa, Giáo Hội dạy rằng: “khi cày cấy với hai bàn tay hoặc với phương tiện kỹ thuật để trái đất nẩy sinh hoa quả và trở thành nơi cư ngụ xứng đáng của toàn thể gia đình nhân loại, và khi tham dự cách ý thức vào tập thể xã hội, con người đã tuân theo ý định của Thiên Chúa được tỏ bày ngay từ thuở đầu là loài người phải chế ngự trái đất và hoàn tất công cuộc tạo dựng, đồng thời con người phát triển được chính bản thân; và cùng khi ấy con người tuân giữ giới răn quan trọng của Chúa Kitô là hiến thân phục vụ anh em” (GP 57).
“Các tín hữu phải sống liên kết hết sức chặt chẽ với những người đương thời và để tâm tìm hiểu tường tận lối suy tư và cảm nghĩ đã được diễn tả qua những tinh hoa văn hóa riêng của họ. Các tín hữu phải phối hợp những kiến thức khoa học và học thuyết mới cũng như những phát minh mới mẻ với nền luân lý và giáo lý Kitô giáo. Nhờ đó, đời sống đạo và tâm hồn chính trực của họ lớn lên song hành với kiến thức khoa học và kỹ thuật mỗi ngày một tiến bộ” (GP 62)
Hoặc khi bàn về vấn đề đối thoại, Giáo Hội dạy: “Chúng ta cần cổ võ ngay trong lòng Giáo Hội sự quí mến, tôn trọng và hòa thuận với nhau bằng sự chấp nhận mọi dị biệt chính đáng để luôn luôn có thể đối thoại hữu hiệu giữa những phần tử của một Dân Chúa duy nhất. Thật vậy, những gì liên kết giữa các tín hữu còn mạnh hơn những gì chia rẽ: hiệp nhất trong những gì chính yếu, tự do trong những gì nghi ngờ, bác ái trong hết mọi sự” (GP 92).
Đức Thánh Cha Phanxicô trong tông huấn Niềm vui của Tin Mừng có nói về tinh thần truyền giáo của Giáo Hội như sau: “Nếu toàn thể Hội Thánh thừa nhận động năng truyền giáo này, thì chúng ta phải đi đến với tất cả mọi người mà không trừ ai. Nhưng phải ưu tiên cho ai? Khi đọc Tin Mừng, chúng ta thấy một định hướng rõ ràng: không phải những bạn bè và láng giềng giàu có, nhưng trên hết là những người nghèo khổ và tật nguyền, những người thường bị khinh miệt và lãng quên, những người không có gì để trả lại cho anh em (x.Lc 14,14).
Hôm nay và mãi mãi, người nghèo là những người nhận được đặc quyền của Tin Mừng, và việc loan báo Tin Mừng một cách nhưng không cho họ là dấu chỉ của vương quốc mà Chúa Giê-su đã đến để thiết lập. Phải nói thẳng rằng, có một sự liên kết bất khả phân ly giữa Đức Tin và người nghèo. Chúng ta đừng bao giờ bỏ rơi họ” (số 48). “Tôi muốn có một Hội Thánh bị bầm dập, bị tổn thương và dơ bẩn vì đã ở ngoài đường, còn hơn một Hội Thánh bệnh hoạn vì đóng cửa và thanh nhàn bám víu vào sự an toàn riêng của mình. Tôi không muốn một Hội Thánh chỉ quan tâm đến việc nằm ở trung tâm và cuối cùng bị vướng vào một mạng lưới của những cố chấp và thủ tục” (số 49).
Rao giảng về lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó là trách nhiệm đầu tiên Giáo Hội cần làm. Giáo Hội cần rao giảng về lòng thương xót của Thiên Chúa ngay trong hoàn cảnh xã hội hiện nay, mà Thiên Chúa đang bị cho ra rìa, và nhiều người đang lờ đi không nhìn đến Thiên Chúa, hay nói khác đi nhiều người đang sống trong một tâm thức: Thiên Chúa đâu có giúp họ làm giàu và đâu có ảnh hưởng gì trong cuộc sống của con người. Thiên Chúa không còn cần thiết nữa. Quay mặt đi và không quan tâm đến Ngài là thượng sách. Rất nhiều người trẻ ở Tây Phương đang mang tâm thức này. Họ đang bị những khuynh hướng tục hoá tân thời lôi kéo ra xa khỏi Thiên Chúa. Ngay trong xã hội tục hoá tinh vi này, lòng thương xót của Thiên Chúa cần được rao giảng nhiều hơn bao giờ hết. Chính trong bối cảnh xã hội này, mà chúng ta cần lắng nghe lại lời của Thánh Phê-rô: “Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em” (1P 3,15).
Giữa một xã hội đầy xáo trộn và bất an, Giáo Hội công giáo phải làm gì? Đức Thánh Cha đã trả lời: phải loan truyền lòng thương xót của Chúa và phải thực thi lòng thương xót đối với nhau. Ngài ước mong Giáo Hội sẽ là nơi ẩn náu của những ai đang đi tìm lòng nhân hậu và sự bao dung thứ tha. “Trong các giáo xứ, các cộng đồng, các hiệp hội và phong trào, nói chung, ở đâu có các Kitô hữu hiện diện, thì ở đấy bất cứ ai cũng sẽ gặp thấy một tụ điểm chan hoà lòng thương xót” (Sđd, số 12). Như các “thành trú ẩn” của thời Cựu ước được nhắc tới trên đây, Giáo Hội của Chúa hôm nay phải là nơi trú ẩn cho các tội nhân, những người đang tìm một nơi ẩn nấp cuối cùng, khi họ bị xã hội xua đuổi và xa lánh. Nơi đó, con người gặp được lòng thương xót và nhân ái, giữa một xã hội dầy rẫy những bất công và hỗn loạn. Những cộng đoàn Đức tin ở các cấp độ khác nhau, phải là những nơi con người thời nay tìm đến để hưởng một môi trường tâm linh thánh thiện, cảm nhận rõ sự hiện diện của Đấng Tối cao.
Tất cả những giáo huấn của Giáo Hội không chỉ là những lý thuyết suông, nhưng là những quyết định, là lời cam kết, là chương trình sống và dấn thân cho nhân loại, làm cho nhân loại nhận ra được Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Thật vậy, các chi thể của Giáo Hội là “các Kitô hữu không thể tha thiết mong ước gì hơn là luôn được phục vụ con người trong thế giới ngày nay cách quảng đại và hữu hiệu hơn” (GP 93). Chính vì thế mà chúng ta thấy trong Giáo Hội có những cơ quan, những bộ chuyên biệt không phải chỉ để giữ kỹ luật của Giáo Hội nhưng đúng hơn là để cổ võ, thăng tiến toàn diện con người và thế giới.
Giáo Hội, người mẹ của chúng ta luôn khắc khoải trong mối bận tâm lo cho con cái mình. Chúng ta, những linh mục của Chúa, chúng ta có khắc khoải, bận tâm và có dám đưa ra và thực thi những kế hoạch, những quyết định nhằm hướng đến lợi ích của đoàn dân mà Chúa trao hay không?
- Đầu giờ chiều, Đức cha Giu-se Đặng Đức Ngân tiếp tục chủ đề với :
Bài 4 : Người Ki-tô hữu - Dấu chỉ lòng thương xót của Chúa
Hai Đức cha và linh mục đoàn chầu Thánh Thể sau một ngày tĩnh tâm
Sáng ngày thứ ba trong tuần tĩnh tâm, Đức Cha giảng phòng tiếp tục chia sẻ với các linh mục giáo phận Ban Mê Thuột về chủ đề "Linh mục - Người lính canh của Lòng Thương Xót" với bài LINH MỤC – DẤU CHỈ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA
Sau bài Tin Mừng (Mc 9:35-37.41) "Ðức Giêsu ngồi xuống, gọi Nhóm Mười Hai lại mà nói: "Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người." Kế đó, Người đem một em nhỏ đặt vào giữa các ông, rồi ôm lấy nó và nói:"Ai tiếp đón một em nhỏ như em này vì danh Thầy, là tiếp đón chính Thầy; và ai tiếp đón Thầy, thì không phải là tiếp đón Thầy, nhưng là tiếp đón Ðấng đã sai Thầy. Ai cho anh em uống một chén nước vì lẽ anh em thuộc về Ðấng Kitô, thì Thầy bảo thật anh em, người đó sẽ không mất phần thưởng đâu”.
Đức Cha giảng phòng chia sẻ :
Ai muốn làm đầu phải là người phục vụ:
Đây là một khẳng định đanh thép của Đức Giêsu dành cho nhóm Mười Hai khi các ông đang xầm xì bàn tán xem ai là người đứng đầu trong nhóm.
Sống trong cuộc đời, ai cũng muốn có một vị thế. Đó là một ước muốn chính đáng vì ai cũng muốn thể hiện, khẳng định bản thân và cũng muốn khẳng định sự hiện hữu của mình là hữu ích cho mọi người, cho xã hội. Ước muốn có được một vị thế sẽ trở nên cực đoan khi người ta muốn có vị thế để có thể “ở trên hay thống trị” người khác.
Trong đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy các tông đồ - những người theo Chúa, sống cạnh Chúa – cũng là những người không thoát khỏi sự ham muốn địa vị.
Thực tiễn cuộc sống cho thấy một tổ chức, đoàn thể, nhóm hay gia đình luôn phải có người đứng đầu, phải có người lãnh đạo. Người đứng đầu, lãnh đạo đó đóng vai trò kiến tạo sự hiệp nhất, sự cộng tác, điều khiển, định hướng đi, định hướng hành động cho những người mình phụ trách. Kinh Thánh đã cho thấy chính Thiên Chúa, Ngài cũng muốn dân Ngài cho người lãnh đạo khi Ngài tuyển chọn các tổ phụ, các thủ lãnh, các ngôn sứ … để đứng đầu, để lãnh đạo, để hướng dẫn dân chúng. Và trong chính tông đồ đoàn, Đức Giêsu cũng đã chọn Phêrô để thánh nhân trở nên tông đồ trưởng giữa anh em.
Tuy nhiên, người lãnh đạo theo Đức Giêsu là người hầu thiên hạ. Theo đó, lãnh đạo không còn là “đứng trên mọi người và chỉ tay năm ngón” nhưng phải phục vụ trong khiêm hạ. Người đứng đầu phải là người phục vụ cho sự hiệp nhất, là người nối kết sự cộng tác của mọi thành phần, là cầu nối – là chất xúc tác (là men) làm cho cộng đoàn bùng lên giá trị Tin Mừng. Đức Giêsu chính là mẫu gương đầu tiên như thế. Người đã tự hạ trở nên con người như mọi người; được gọi là Thầy, là Rabbi nhưng đến với những con người tội lỗi, bị loại ra ngoài cộng đoàn (con chiên lạc, bệnh tật, thu thuế, đĩ điếm); là Thầy, là Chúa nhưng đã rửa chân cho các môn đệ (hành vi của người nô lệ); …
Như thế, “hầu thiên hạ” có thể được gọi linh đạo, là con đường nên thánh của những người có vai trò lãnh đạo trong cộng đoàn. Bởi lẽ, lãnh đạo trong tinh thần này không chỉ là để thu phục lòng người nhưng còn là thu phục linh hồn; chức vụ là để phục vụ cho ơn cứu độ, cho sự hiệp nhất và hiệp thông trong cộng đoàn. Và khi chu toàn sứ vụ lãnh đạo trong sự khiêm nhường và tự hạ như Đức Giêsu mời gọi, chúng ta – những người có trách nhiệm phục vụ cộng đoàn – nên thánh.
Và đó chính là hình ảnh linh mục mà Thiên Chúa muốn.
Còn Giáo Hội – Dân Chúa mong muốn linh mục như thế nào?
Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng, mẫu linh mục mà Giáo Hội, Dân Chúa mong muốn không khác biệt với hình ảnh linh mục – người đứng đầu cộng đoàn - mà Đức Giêsu mời gọi. Hay nói khác đi, tất cả những yêu cầu, những đòi hỏi của Giáo Hội, của Dân Chúa đưa ra, đều là việc cụ thể hóa những tiêu chuẩn “phục vụ” nơi người lãnh đạo mà Đức Giêsu đề ra.
Đặc biệt, trong thời gian đặc biệt, thời gian ân sủng của những ngày tĩnh tâm năm này, chúng ta cùng nhau nhìn lại những đòi hỏi, những kỳ vọng của Giáo Hội và dân Chúa đối với Linh Mục ra rao.
Tông huấn Pastores Dabo Vobis (về việc đào tạo các LM hiện nay) nhắc đến những thao thức và ước muốn của Giáo Hội và dân Chúa về Linh mục rất cụ thể: “Chính người giáo dân mong ước, cảm nhận một cách mãnh liệt nhu cầu phải có những linh mục được đào tạo hẳn hoi, những linh mục thánh thiện” (số 3). Rõ ràng, hai khía cạnh mà dân Chúa mong chờ nơi linh mục: được đào tạo hẳn hoi và thánh thiện.
Lý giải cho hai khía cạnh đó, tông huấn nói rõ các linh mục tương lai phải “biết thánh hoá bản thân khi thi hành chức vụ và biết thường xuyên cập nhật hoá đường hướng dấn thân mục vụ của mình” (số 2) vì “lâu nay khi đang thi hành chức vụ của mình, họ dường như rơi vào một sự phân tán thái quá trong những hoạt động mục vụ ngày càng tăng” (số 3).
Thật vậy, nền tảng tri thức và đời sống thiêng liêng luôn là hai yếu tố quan trọng trong đời linh mục. Hai yếu tố này phải luôn là những yếu tố “động”. “Động” ở đây theo nghĩa là “phải thích nghi với mọi thời đại và với mọi môi trường sống… Chính vì thế, trong mức độ có thể, chúng ta phải nổ lực tiếp nhận ánh sáng tối thượng của Chúa Thánh Thần, hầu khám phá ra những phương hướng của xã hội đương thời, nhận ra những nhu cầu sâu xa nhất, xác định những bổn phận cụ thể quan trọng nhất, những phương pháp mục vụ phải chấp nhận, để có thể đáp lại cách xứng hợp nhất những mong chờ của nhân loại” (số 5). Tuy nhiên, yếu tố động này không làm mất đi “diện mạo cốt yếu, không thay đổi, của người linh mục: […] phải nên giống Chúa Kitô” (số 5).
Cụ thể hơn, chúng ta sẽ đọc lại văn kiện “Sắc lệnh đào tạo linh mục của Vat. II (Optatam Totius)” và lời nhắc nhớ về hình ảnh Linh Mục của ĐTC Phanxico.
Sắc lệnh đào tạo linh mục của Vat. II (Optatam Totius)
Trong sắc lệnh này, tôi xin được đề cập về đời sống Tu Đức cần phải huấn luyện cho chủng sinh mà một linh mục tương lai cần phải có. Đó cũng là những tiêu chuẩn mà giờ đây chúng ta cũng cần phải xem lại nơi chính mình.
Trước nhất, đó phải là người có đời sống thiêng liêng sâu sắc: “Do phép Truyền Chức Thánh họ phải là hiện thân của Chúa Kitô Linh Mục, lại nữa bởi cùng chia sẻ một cuộc sống của Người, nên họ phải quen sống kết hợp với Người như bạn hữu. Họ phải sống Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người thế nào để biết khai sáng Mầu nhiệm ấy cho đoàn chiên sẽ được giao phó. […] biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu Nhiệm chí thánh của Giáo Hội, nhất là Bí Tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ. […] biết tìm gặp Chúa Kitô trong Ðức Giám Mục, Ðấng sai họ đi và trong những người mà họ được sai đến, nhất là trong các kẻ nghèo khó, hèn mọn, đau yếu, tội lỗi và cả những kẻ vô tín ngưỡng. Họ phải lấy lòng tin cậy như con thảo mà tôn kính và yêu mến Ðức Trinh Nữ Maria Rất Thánh, Ðấng mà Chúa Kitô khi hấp hối trên Thánh Giá đã trối ban làm mẹ người môn đệ” (số 8).
Thứ hai là ý thức về Giáo Hội và đức vâng lời: “làm chứng sự hiệp nhất […] bằng cách thảo hiếu và khiêm tốn hiệp nhất với vị Ðại Diện Chúa Kitô, và một khi đã lãnh nhận chức Linh Mục, họ luôn liên kết với Giám Mục của mình như những cộng tác viên tín cẩn và tiếp tay cộng tác với các anh em Linh Mục khác; […] biết mở rộng tâm hồn tham gia cuộc sống của toàn thể Giáo Hội; […] cuộc đời họ không phải để thống trị hay được danh giá, nhưng để hết mình phụng sự Thiên Chúa và chu toàn bổn phận mục vụ (số 9).
Thứ ba, linh mục phải “thâm tín rằng: bậc độc thân linh mục đáng hân hoan đón nhận không phải chỉ như một mệnh lệnh do Giáo Luật, nhưng như là một ân huệ quý giá của Thiên Chúa mà họ phải khiêm tốn cầu xin, và phải mau mắn đáp ứng với tự do và quảng đại, nhờ ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy và giúp đỡ” (số 10).
Thứ tư là đức tự chủ. Các linh mục phải có một đức tính cương nghị, khả năng quyết định chín chắn và một óc phê phán xác đáng về con người và các biến cố (x. số 11).
Đức Thánh Cha Phanxico - Bài giáo lý ngày 12-11-2014
Trong bài giáo lý này, ĐTC Phanxico đã giải thích cho các thính giả về Tác Vụ Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế trong Hội Thánh, nói khác đi và vai trò của các thừa tác viên chức thánh. Trong bài giáo lý này, ĐTC đã khẳng định:
Trước tiên, “các thừa tác vụ là một hồng vô cùng to lớn của Thiên Chúa ban cho nhân loại, là dấu chỉ sống động về sự hiện diện và tình yêu của Ngài”.
Thứ hai, “những đức tính không thể bỏ qua được, vì chúng chính là sự sống - được liệt kê như những đức tính hoàn toàn nhân bản: hiếu khách, tiết kiệm, kiên nhẫn, hiền lành, đáng tin cậy, có lòng tốt. Đó là những chữ cái và văn phạm cơ bản của từng thừa tác vụ! Nó phải là văn phạm cơ bản của mỗi Giám Mục, linh mục và phó tế. Vâng, vì nếu không có thiên hướng xinh đẹp và thật sự này để gặp gỡ, hiểu biết, đối thoại, qúy mến và liên hệ với những anh em khác một cách tôn trọng và chân thành, thì họ không thể hiến tặng một việc phục vụ và chứng tá thực sự vui tươi và đáng tin cậy” (số 1).
Thứ ba, các thừa tác viên phải “ý thức rằng họ không là Giám Mục, linh mục hay phó tế bởi vì họ thông minh hơn, tài giỏi hơn và tốt lành hơn những người khác, nhưng chỉ vì nhờ một hồng ân, một hồng ân tình yêu mà Thiên Chúa ban cho họ trong quyền năng của Chúa Thánh Thần, vì lợi ích của dân Ngài. […] một mục tử ý thức được rằng tác vụ của mình chỉ đến từ lòng thương xót và con tim của Thiên Chúa sẽ không bao giờ có thái độ độc đoán, như thể tất cả mọi người đều ở dưới chân của mình, và cộng đoàn là tài sản của mình, là vương quốc cá nhân của mình (số 2).
Thứ tư, đó là sự hiệp thông và cộng tác: “Ý thức rằng mọi sự đều là hồng ân, mọi sự đều là ân sủng, cũng giúp cho một mục tử không rơi vào … những cám dỗ về hư danh, kiêu căng, tự phụ và ngạo mạn. Khốn cho một Giám Mục, một linh mục hay một phó tế khi nghĩ rằng mình biết hết mọi sự, rằng mình luôn luôn có câu trả lời đúng cho tất cả mọi sự và không cần bất kỳ ai. Ngược lại, ý thức rằng mình trước hết là đối tượng của lòng thương xót và lòng từ bi của Thiên Chúa phải đưa một mục tử của Hội Thánh đến một thái độ luôn luôn khiêm tốn và cảm thông với những người khác” (số 3).
Bài giảng về vai trò của các Thừa tác viên có chức thánh, cách riêng là linh mục, được nhắc nhớ, mời gọi rất tha thiết và cụ thể trong Tông sắc năm thánh Lòng Thương Xót. Chúng ta sẽ đọc lại Tông sắc này để mỗi chúng ta, không chỉ trong năm thánh Lòng Thương Xót nhưng là trong suốt cuộc đời trong tư cách là linh mục thừa tác, chúng ta trở nên dấu chỉ Lòng Thương Xót của Thiên Chúa.
Linh mục – Dấu chỉ Lòng Thương Xót (Tông sắc năm thánh Lòng Thương Xót)
Chức linh mục thừa tác được thể hiện cách thông thường và rõ nét qua bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải. Lời thẩm vấn của Đức Giám mục dành cho tiến chức trong ngày thụ phong linh mục nhắc nhớ chúng ta về điều này: “Con có muốn cử hành một cách đạo đức và trung tín các mầu nhiệm của Đức Kitô, để ngợi khen Thiên Chúa và thánh hóa dân Kitô hữu theo truyền thống của Hội Thánh, nhất là trong hy tế Tạ ơn, và bí tích Hòa giải không?”
Đặc biệt, trong năm thánh Lòng Thương Xót, việc cử hành cách đạo đức và trung tín các mầu nhiệm thánh được ĐTC Phanxico mời gọi các linh mục quan tâm cách đặc biệt trong bí tích Hòa Giải (ĐTC nhấn mạnh điều này trong số 17 của Tông sắc). Ngài viết: “Cha sẽ không hề mệt mỏi trong việc lập đi lập lại rằng, các Cha Giải Tội cần phải trở thành một dấu chỉ thực sự đối với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”.
Như thế, để cử hành cách đạo đức và trung tín, trở nên dấu chỉ thực sự đối với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa, linh mục trước tiên phải biết tìm kiếm ơn tha thứ cho sự thống hối của chính mình. Nói khác đi, chỉ khi nào bản thân linh mục nhìn nhận ra rằng mình là đối tượng của Lòng Thương Xót, mình cần đến Lòng Thương Xót, mình cũng là tội nhân, khi đó, linh mục giải tội mới có thể trở nên dấu chỉ thực sự của Lòng Thương Xót trong tác vụ của mình.
ĐTC nhắc nhớ chúng ta rằng, chúng ta không phải là chủ nhân của bí tích Hòa Giải, nhưng chúng ta chỉ là người quản lý, và phải là người quản lý trung tín của Thiên Chúa. Điều đó đòi buộc chúng ta phải cử hành Bí Tích này với Tình Yêu tha thứ và cứu độ của Thiên Chúa, một sứ vụ cao cả mà chúng ta được Thiên Chúa mời gọi thực hiện dù chúng ta bất xứng.
ĐTC viết: “Bất cứ vị Linh mục giải tội nào cũng cần phải đón nhận các tín hữu giống như người cha trong dụ ngôn đứa con hoang đàng: đó là một người cha đi đến với đứa con, bất chấp việc đứa con này đã phung phí tài sản của ông. Các Linh mục giải tội cần phải ôm vào lòng mình người con đang sám hối, tức người con trở về nhà, và phải diễn tả niềm vui của mình về điều đó rằng, họ đã tái tìm thấy người con. Họ cũng đừng bao giờ trở nên mệt mỏi trong việc đi đến với người con khác mà nó đang ở lại bên ngoài và không đạt tới được niềm vui. […] Họ đừng đặt ra những câu hỏi gây phiền phức, đúng hơn, họ hãy cắt ngang – như người cha trong dụ ngôn – bản tường trình đã được soạn sẵn của đứa con hoang đàng, vì họ hiểu để đọc ra tiếng kêu xin giúp đỡ và sự cần tới ơn tha thứ trong tâm hồn của một trong bất cứ hối nhân nào. Vì thế, các Linh mục giải tội được kêu gọi luôn luôn, khắp nơi, và trong mọi tình huống, bất luận đó là những tình huống nào, để trở nên dấu chỉ riêng của Lòng Thương Xót”.
Biểu lộ Lòng Thương Xót của Linh mục là “nhuốm mùi chiên !”
Hồi 9giờ30 sáng thứ Năm Tuần Thánh năm 2013 tại Đền thờ Thánh Phêrô - Rôma, ĐTC Phanxicô cử hành Thánh Lễ Làm Phép Dầu. Ngài ngỏ lời với các Linh mục trong bài chia sẻ: “Tôi yêu cầu anh em hãy là những mục tử mang nặng mùi con chiên của mình”. Đức Thánh Cha đã gợi lên một hình ảnh thật ấn tượng: mục tử phải có mùi của chiên. Người chăn chiên sống gần gũi, gắn bó với đàn chiên, lo lắng chăm sóc, bảo vệ đàn chiên của mình đến nỗi mùi của chiên đã ngấm vào không những áo quần mà cả da thịt mục tử. Linh mục, người chăn chiên về đàng thiêng liêng cũng phải như vậy.
Mục tử phải có mùi của chiên vì tính cách đồng hành của Linh mục sống dấn thân trọn vẹn cho cộng đoàn giáo xứ. Để có mùi chiên, mục tử phải chung sống với đàn chiên; đây là sự đồng hành chia sẻ; sự đồng hành này được Phúc Âm diễn tả: “Mục tử gọi tên từng con chiên và chiên nghe tiếng của mục tử, mục tử đi trước chiên và chiên đi theo mục tử”. Để có mùi chiên, mục tử phải hiện diện giữa đàn chiên để chăm sóc và bảo vệ chiên để chiên “được sống và sống dồi dào”; đây là sự đồng hành và phục vụ; phục vụ cho sự phát triển “vì tôi còn có những chiên hkác không thuộc về ràn này, tôi cũng phải đưa chúng về”, và phục vụ cho sự hiệp nhất của cả đoàn để “chỉ còn một đoàn chiên và một mục tử”. Để có mùi chiên, mục tử đồng hành và phục vụ đến mức độ sống chết vì đàn chiên; đây là đồng hành và tự hiến “Mục tử nhân lành hiến mạng sống mình vì đàn chiên”. Mục tử vì đàn chiên chứ không phải đàn chiên vì mục tử[1].
Mục tử có mùi của chiên chính là mục tử có tình yêu với đàn chiên theo gương Mục Tử Tối Cao.Chúa Giêsu khẳng định: “Tôi là Mục Tử Tốt Lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của Tôi biết Tôi. Mục Tử Tốt Lành hy sinh mạng sống cho đàn chiên”. Chúa Giêsu là vị Mục Tử Tốt Lành, là Đấng bảo vệ đoàn chiên, yêu thương săn sóc và hy sinh mạng sống cho đàn chiên, là nền tảng, là mẫu mực cho mọi vị chủ chăn được Ngài trao quyền chăn dắt đoàn chiên, tiếp nối sứ mạng Mục Tử của Ngài.
Theo tinh thần của Đức Ki-tô, Đức Thánh Cha Phanxicô diễn tả lòng thương xót đặc biệt của ngài với đàn chiên, đặc biệt với những con người khổ đau và bất hạnh. Hình ảnh ngài ôm hôn một người mặt dị dạng ở quảng trường thánh Phê-rô đã được truyền đi khắp nơi trên thế giới. Hình ảnh ngài cử hành Thánh Lễ rửa chân ở tại một nhà tù cho 12 trẻ vị thành niên, trong số đó có một cô gái người Hồi Giáo, trong năm đầu tiên trên tư cách Giám Mục Rôma, đã làm cho mọi người ngạc nhiên. Đó chính là tinh thần của lòng thương xót mà Chúa Giê-su mời gọi thực thi: “Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han” (Mt 25,36). Rồi Đức Thánh Cha còn quan tâm đến thăm những người vượt biển lục địa Châu Phi đến một hòn đảo của Ý Đại Lợi, như là một lời thức tỉnh cho mọi người về lòng thương xót của Chúa mời gọi: “Ta là khách lạ, các người đã đón rước” (Mt 25,35). Lòng thương xót của Thiên Chúa cũng rất cụ thể, khi chính Đức Thánh Cha đã từng gọi điện thoại đến những người bất hạnh, để chia sẻ và thoa dịu nỗi khổ đau của họ. Trong dịp ngài thăm Phi-Luật-Tân đầu năm 2015, ngài đã gặp các em bé bị bỏ rơi và là trẻ bụi đời, ngài đã nghe lời tâm tình của em gái Glyzelle Iris Palomar. Em là nạn nhân của sự bỏ rơi và em phải sống ở ngoài đường phố. Cùng với các bạn khác, em buộc phải tự kiếm sống, không cha mẹ, không nhà cửa và phải ngủ ngoài đường phố.
Phần lớn các em bị lừa vào tện nạn mãi dâm và ma túy. Một tổ chức phi chính phủ do một cha Dòng Tên thành lập, đã cứu Glyzelle và nhiều em khác ra khỏi cảnh sống ngoài đường phố, và hiện Glyzelle và các bạn được chăm sóc ở đó. Trong cuộc sống bụi đời, em đã chứng kiến nhiều đồng bạn bị cha mẹ bỏ bê đã xa vào những cạm bẫy cuả sự dữ, như nghiện ngập hoặc nạn mãi dâm. Trong cuộc tiếp kiến Đức Thánh Cha ở Phi-luật-tân, khi em đang đọc bài đã được dọn sẵn để dâng lên vị cha chung, bỗng chợt em không thể đọc tiếp bài đó, ngẩng lên nhìn Đức Thánh Cha Phanxicô, em đặt câu hỏi:- Tại sao Chuá lại để xảy ra như vậy?“Tại sao Chuá đã cho phép những sự ấy xảy ra, dù đó không phải là lỗi cuả những đứa trẻ vô tội?” Nói tới đây, em nhắm nghiền mắt lại và nức nở khóc. Cố gắng lắm, em Glyzelle mới kết thúc bằng một câu hỏi thứ hai “Và tại sao lại ít có người giúp chúng con như thế ?”
Giây phút đó, Đức Thánh Cha đã đứng dậy và bước xuống gần em bé gái. Ngài đã rưng rưng nước mắt và ôm chặt Glyzelle vào lòng. Trong bài đáp lời em Glyzelle, Đức Phanxicô đã nói: “Em ấy là người duy nhất đã hỏi một câu hỏi mà không ai có thể trả lời được. Và em ấy cũng đã không diễn tả hết được bằng lời lẽ nhưng đã bằng những giọt nước mắt”. “Tại sao con trẻ có nhiều đau khổ như thế? Tại sao một đứa bé phải chịu đau khổ?” Ngài đặt lại câu hỏi. “Chỉ khi nào mà một trái tim không thể tìm được câu trả lời và bắt đầu khóc, lúc đó chúng ta mới có thể hiểu được”. Ngài nói tiếp:“Cha mời gọi từng người trong chúng con ở đây hãy tự hỏi mình, rằng tôi đã học được cách khóc chưa, khóc như thế nào? Tôi đã học để mà khóc cho một ai đó bị bỏ rơi bên lề đường chưa? Tôi đã khóc cho một ai đó đang bị nghiện ngập chưa? Tôi đã khóc cho một ai đó bị lộng hành chưa?” “Trong Tin Mừng, Chúa Giê-su đã khóc”.
Đức Thánh Cha nói. “Ngài đã khóc cho một người bạn vừa mới chết, Ngài đã khóc trong lòng cho một gia đình vừa mới mất đứa con, Ngài đã khóc khi nhìn thấy một bà goá nghèo đem chôn đứa con trai, Ngài đã rơi nước mắt, động lòng trắc ẩn, khi nhìn thấy đám đông không có ai chăn sóc”. Đức Thánh Cha nhấn mạnh hình ảnh Chúa Giê-su, Ngài đã không sử dụng lòng từ bi theo kiểu thế gian, như là dừng lại một vài giây để ban phát tiền bạc hoặc những của cải vật chất. Nhưng Chúa Ki-tô đã dành trọn thời gian để lắng nghe và an ủi, để đón nhận và chia sẻ với người dân của mình bằng trái tim cảm thông và yêu thương. Giai thoại về cuộc gặp gỡ này là một hình ảnh rất đẹp của vị chủ chăn của Giáo Hội Công Giáo sống tinh thần thương xót. Thật vậy, những gì các vị chủ chăn thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa, là một chứng từ sống động cho cả Giáo Hội cần luôn ý thức rao giảng, thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa. Đó cũng là sứ mạng của Giáo Hội.
Như thế, tác vụ “phục vụ - hầu thiên hạ” của chúng ta theo gương ĐG, không chỉ trong năm thánh Lòng Thương Xót nhưng còn trong cả cuộc đời linh mục của mình, phải là tác vụ của Lòng Thương Xót, cách riêng trong bí tích Hòa Giải. Tác vụ đó đòi buộc chúng ta: phải tinh tế và nhạy bén “đọc ra tiếng kêu xin và sự cần tới ơn tha thứ trong tâm hồn của hối nhân”.
Tuy nhiên, để có thể tinh tế và nhạy bén như thế, bản thân chúng ta cũng phải cất lên lời nguyện xin ơn tha thứ. Chính khi ý thức mình cũng cần đến ơn tha thứ, chúng ta mới có thể thông cảm và luôn quảng đại đáp ứng nhu cầu đón nhận bí tích giao hòa của mọi người trong bất cứ mọi hoàn cảnh. Đây không chỉ là lời mời gọi của ĐTC Phanxico, nhưng đây còn là quyền của người giáo dân và buộc chúng ta phải đáp ứng, vì đó là bổn phận, trách nhiệm của linh mục.
+ Giáo luật, điều 213 “Các tín hữu có quyền được lãnh nhận từ các Chủ chăn sự hỗ trợ nhờ các của cải thiêng liêng của Giáo Hội, nhất là Lời Chúa và các Bí tích.
+ Giáo luật, điều 986 về bí tích giải tội:
(1) Tất cả những người có trách nhiệm coi sóc các linh hồn buộc phải dự liệu cho giáo dân của mình được xưng tội mỗi khi họ yêu cầu cách hợp lý; lại phải ấn định ngày và giờ thuận lợi để họ tùy tiện đến xưng tội riêng.
(2) Trong trường hợp khẩn cấp, bất cứ cha giải tội nào cũng buộc phải giải tội cho tín hữu; và trong lúc nguy tử, bất cứ tư tế nào cũng buộc phải giải tội.
Vậy anh em linh mục thân mến, một lần nữa, chúng ta cần nhớ, chúng ta phải là dấu chỉ đích thực của Lòng Thương Xót. Cho nên,
Chúng ta phải hết sức để làm tròn trách nhiệm đáp ứng các nhu cầu về bí tích của anh chị em giáo dân. Đây là bổn phận và trách nhiệm của chúng ta. Chúng ta được TC chọn gọi và đặt lên để thực thi vai trò phục vụ, không phải là để được cung phụng, không phải là để trở nên những người thi ân, những con người lãnh đạo theo phong cách xin-cho. Không, chúng ta phải có trách nhiệm chu toàn bổn phận cử hành các bí tích cho anh chị em giáo dân, vì phần rỗi của họ và một cách nhưng không (như ĐTC Phanxico nói trong Tông sắc: bất cứ người nào, trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào)
Chúng ta hãy kiên nhẫn, nhẹ nhàng trong việc dạy bảo, chỉ dẫn anh chị em giáo dân. Bởi lẽ, giáo dân không được học biết như chúng ta. Chúng ta không nên cư xử hà khắc, đòi hỏi họ như những người đã được học, được đào tạo. Chính khi họ còn thiếu sót, còn chưa hiểu biết lại chính là lúc cần chúng ta thể hiện vai trò là người hướng dẫn, vai trò ngôn sứ.
Có một người đã kể lại câu truyện sau: “Một ngày cuối tuần, tôi tới thăm Nhà Hưu của quý Cha tại một thành phố tại miền Nam nước Pháp. Nhìn quang cảnh hưu quạnh vắng lặng, ánh nắng chiều với những lá khô rải rác ở sân càng làm khung cảnh cô liêu. Khi tôi bước vào Nhà nguyện, cảnh càng buồn hơn nữa, khi thấy có hơn 10 Cha già- phần lớn đang ngồi trên xe lăn cùng dâng lễ, có một cha khỏe hơn chủ tế. Nhìn các ngài trước kia từng là tổng đại diện, là giám đốc đcv, là giáo sư đại học, giáo sư đại chủng viện,...thế mà giờ đây già nua tuổi tác run rẩy không nhắc tay lên được, đến phần truyền phép các ngài chỉ còn có thể run rẩy mấp máy môi hướng lòng cùng Cha chủ tế mà thôi. Đợi các ngài dâng lễ xong, tôi có tới hỏi một cha già ngồi xe lăn: Cha có mệt lắm không? Cha già trả lời: Mệt lắm, nhưng vẫn hạnh phúc đời dâng hiến; Tôi tự nhủ, những linh mục già nua rớt rãi chảy khi dâng lễ này vẫn xác tín cuộc đời dâng hiến sao? Hình ảnh hôm nay sao khác xa hình ảnh ngày các tân linh mục mở tay; biết bao lời cầu chúc, bao bó hoa, quà, những ánh mắt ngưỡng mộ; còn hôm nay chỉ là cô độc, yếu đuối, bệnh tật, già nua, với cảnh vắng lặng không bóng người; thế mà các Cha già vẫn hạnh phúc đi nốt cuộc đời dâng hiến trong niềm tin - phó thác”.
Ước chi, linh mục chúng ta luôn được như thế, luôn là những mục tử như lòng Chúa mong muốn, luôn là dấu chỉ đích thực của Lòng Thương Xót. Xin kết thúc bằng Thánh Thi Kinh sáng các Thánh Mục tử là tâm tình mời gọi gửi tới quý Cha:
Đây linh mục, những con người thánh hiến
Suốt cuộc đời, là chủ tế trung kiên,
Đem tình thương người mục tử nhân hiền
Dâng trọn vẹn cho đoàn chiên chẳng tiếc.
Hồng ân Chúa, những hồng ân đặc biệt,
Lãnh nhận rồi, phân phát cả cho dân,
Thắt đai lưng như đầy tớ chuyên cần
Chờ đợi chủ, tay cầm đèn sáng rực.
Không mỏi mệt nhưng kiên trì tỉnh thức,
Suốt đêm trường hay mãi tới canh khuya,
Miễn làm sao kịp khi chủ trở về
Mở ngay cửa nghênh đón Người vội vã.
Vinh tụng Chúa Cha, Vua Trời cao cả,
Cùng Chúa Con, Đấng chuộc tội cứu đời,
Và Thánh Thần, lửa yêu mến sáng soi,
Hằng hiển trị bây giờ và mãi mãi.
Đầu giờ chiều Đức cha tiếp tục hướng dẫn tĩnh tâm với Bài 6: SỐNG LÒNG THƯƠNG XÓT
Thánh lễ lúc 05g00 vào mỗi buổi sáng trong tuần tĩnh tâm. Bài giảng sáng thứ Năm 10. 11.2016
Lúc 16g30, tại Nhà Nguyện TGM, Đức cha Vinh Sơn Nguyễn Văn Bản đã chủ sự giờ chầu bế mạc tuần tĩnh tâm. Đức cha giáo phận và tất cả các linh mục tham dự tuần tĩnh tâm cùng tham dự, để kín múc nguồn sức sống từ Thánh Thể. Trong bầu khí linh thiêng, từng bốn người tiến lên cung thánh, đặt tay trên Sách Thánh long trọng lặp lại lời tuyên hứa linh mục “ Xin chọn Chúa làm gia nghiệp”. Những giây phút lặp lại lời tuyên hứa thật là cảm động và sốt sắng!
Ban VHTT- BMT
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn