Giáo Phận Ban Mê Thuộthttps://gpbanmethuot.net/assets/images/logo.png
Thứ sáu - 08/10/2021 10:58 |
1278
Kinh Thánh thậm chí không nói cho chúng ta biết tên bà. Chúng ta chỉ biết bà qua ông chồng và bà mẹ của bà.
Bà vợ của thánh Phêrô (Mt 8,14-15 và 1 Cr 9,5)
Đức Giêsu chữa lành bà mẹ vợ Thánh Phêrô, Tranh John Bridges, 1839, Bảo tàng Birmingham Museum of Art
BÀ VỢ CỦA THÁNH PHÊRÔ (Mt 8,14-15 và 1 Cr 9,5)
Tác giả: Gina Karssen
WGPQN (08.10.2021) - Kinh Thánh thậm chí không nói cho chúng ta biết tên bà. Chúng ta chỉ biết bà qua ông chồng và bà mẹ của bà. Hình thể, tính cách, trò tiêu khiển, sở thích, tác giả thấy không cần nói cho chúng ta biết. Vì thế, phụ nữ ngày nay dường như ít quan tâm đến bà. Tuy nhiên, khi nghiên cứu sâu hơn những gì có thể biết được về bà, ta thấy có nhiều điểm chung mà có thể rút ra được những bài học cho cuộc sống của chúng ta.
Bà sống ở Capharnaum, một thành phố cảng nhỏ miền tây bắc biển Galilê. Như hầu hết đàn ông trong vùng, ông chồng Phêrô của bà hành nghề ngư phủ. Ngày nay, người ta vẫn còn có thể thưởng thức một món ăn gồm một con cá lớn trên đĩa được gọi là món “cá Phêrô” (poisson de Pierre).
Capharnaum được gọi là “Thành phố của Đức Giêsu”. Thật vậy, phần lớn cuộc đời trần thế, Ngài đã làm việc tại đây. Từ đây, Ngài cũng đã đến với các thành lân cận. Một vài nhà chú giải cho rằng Ngài sống cùng nhà với Phêrô và bà vợ ông. Mặc dù thiếu những bằng chứng Kinh Thánh chính thức, song điều này cũng có thể xảy ra vì chúng ta biết rằng Đức Giêsu chẳng sở hữu tài sản gì ở dưới thế gian này. Dù sao Ngài cũng đã vào trong căn nhà này lúc bà nhạc của Phêrô bị bệnh và chữa lành bà cách lạ lùng.
Có ba điều mà chúng ta dễ dàng đồng hóa với bà vợ của Phêrô: sự bất an, sự cô đơn và sự thông cảm với chồng mình. Khi Phêrô quyết định theo Đức Giêsu cùng với anh mình là Anrê (ông này cũng sống cùng nhà với họ) thì không còn ai kiếm cơm trong nhà này nữa. Người ta không nói rằng hai người đánh cá này – cũng như hai anh em khác là Giacôbê và Gioan – đã giao công việc lại cho người thứ ba. Trong tình cảnh này, ai sẽ nấu nướng phục vụ gia đình? Trong gia đình của Phêrô, ai sẽ tính toán chi tiêu? Ai sẽ sửa chữa những hư hỏng vụn vặt?
Ở thời đại chúng ta, như ngày xưa, chính bà chủ nhà làm những công việc này. Thường thì những công việc này làm phát sinh tranh cãi và phải có thần kinh vững mới làm chủ được tình hình.
Và rồi sự cô đơn. Nó chợt đến mỗi cuộc hành trình của Phêrô đồng hành với Đức Giêsu và các môn đệ đi Giêrusalem. Người ta không nói rằng bà vợ này đi theo chồng mình như bà vợ của Dêbêđê.
Lối sống này cho Phêrô một kinh nghiệm khác thường. Ngày qua ngày cùng với Đức Giêsu, nghe lời Ngài, đi theo Ngài cùng với các môn đệ khác, gặp gỡ đám đông người, tất cả những điều này không tẻ nhạt. Trọn ngày đầy ắp những công việc.
Nhưng đối với bà vợ mình, đó là sự cô đơn. Tình cảnh mà các bà vợ của những viên chức cao cấp, nhà kinh doanh, các thủy thủ hay binh lính đều biết rõ.
Ở thời đại chúng ta, một cú điện thoại hay một bức thư chợt đến là có thể chấm dứt sự cô đơn. Nhưng đối với người bạn đời của Phêrô, chẳng bao giờ có chuyện đó; không có truyền thanh hay truyền hình để nắm bắt tin tức. Ấy vậy mà ta biết rằng sự vắng mặt lâu dài của người chồng thường đưa đến ly thân, thậm chí ly dị.
Trong bất kỳ tương quan nào giữa các cá nhân, điều thiết yếu là biết thích ứng với người khác. Thích ứng lại còn là điều quan trọng hơn nữa trong hôn nhân và là điều cần thiết ngay cả khi các đối ngẫu yêu nhau chân thành và mãnh liệt. Trong vở diễn cuộc sống này, bà vợ của Phêrô đã đóng trọn vai trò của mình cách xuất sắc.
Phêrô là người ngoại thường, hơn những đồng môn ở nhiều khía cạnh. Nhiệt tình, tràn trề năng lượng và can đảm, Phêrô không dừng lại trước bất kỳ vấn đề gì. Đối với ông, không có nửa vời. Không dễ sống với ông, điều này thì không!
Ngoài những tính chất đáng kể này, Phêrô cũng có những yếu đuối. Ông bốc đồng và khó đoán trước. Thậm chí dường như ông thiếu sự quan tâm và tình yêu đối với tha nhân. Đôi khi ông có khuynh hướng nhanh nhảu đoảng, điều làm ông khó được chấp nhận.
Một đàng, ông có một giác quan thiêng liêng sâu sắc khiến ông tuyên xưng: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16); đàng khác, ông lại chối bỏ: “Tôi không biết người này!” (Mt 26,72). Về đức tin, Phêrô gợi lên sự thán phục và sự tôn kính, và đàng khác ông cũng đã được mời gọi sống theo ân sủng và sự thứ tha như bất kỳ ai trong chúng ta.
Rất thường là chúng ta muốn biết nhiều về nhân vật nào đó trong Kinh Thánh. Tuy nhiên Chúa Thánh Thần đã giấu nhiều dấu vết đi và hạn chế ở điều chính yếu. Về bà vợ ông Phêrô, chúng ta phải bằng lòng với rất ít chi tiết. Sự khó khăn của đời sống đã không khiến bà thối chí, cũng không khiến bà ngậm đắng nuốt cay. Đó là điều mà chúng ta có thể suy ra khi đọc 1 Cr 9,5: “Phải chăng tôi không có quyền… đem theo một người chị em tín hữu như các tông đồ khác, như các anh em của Chúa và như ông Kêpha?”. Trong đoạn văn này, Thánh Phaolô nói về bà như một người chị em, một người vợ tín hữu, một bạn đồng hành của Kêpha (Phêrô) trong những chuyến hành trình truyền giáo, khoảng 30 năm sau đó.
Phêrô lúc này là một người nói và hành động với thẩm quyền giữa lòng Giáo Hội Do Thái – Kitô giáo. Là nhân vật chính trong ngày lễ Ngũ Tuần khi Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, ông còn là người đầu tiên mang Tin Mừng đến với người không Do Thái và ngoại giáo. Từ Thánh Phêrô toát ra một sức mạnh thiêng liêng đến nỗi người bệnh được chữa lành chỉ vì cái bóng của ông ngã xuống trên người họ (Cv 5,15). Trong trường hợp bà Tabitha (Cv 9,36-42), ông còn làm cho một phụ nữ sống lại.
Những thư mục vụ của Phêrô cho ta thấy đó là một người cân bằng và đầy lòng thương cảm. Sự biến đổi này là kết quả của cuộc sống bên cạnh Đức Giêsu, và hơn nữa, có Chúa Thánh Thần hành động ở trong ông. Khi sự biến đổi này xảy ra trong ông, bà vợ ông cũng chọn cách đi theo ông. Từ lâu, bà đã chăm chú quan sát Đức Giêsu. Chắc chắn khi ấy Ngài đã trở thành Đấng Cứu Thế của riêng bà. Những bài học được khi quan sát Đức Giêsu không phải lúc nào cũng dễ chấp nhận. Dù sao, bà cũng đã quyết định theo gương Ngài.
Bà cũng đã có dịp quan sát thái độ của Đức Giêsu đối với Phêrô: tình yêu thương và lòng kiên nhẫn đối với ông. Bà cũng đã nhận thấy rằng Đức Giêsu đã nhìn thấy bên kia con người bất toàn của Phêrô là một con người mà Phêrô sắp trở thành. Thật dễ dàng khi mường tượng ra sự vui sướng của bà, sau này, khi bà đọc qua bờ vai chồng mình rằng ông đã thích thú như thế nào khi có được một người vợ tín hữu ở bên cạnh mình trong 1 Pr 3,1-6:
Chị em là những người vợ, chị em hãy phục tùng chồng, như vậy, dù có những người chồng không tin Lời Chúa, thì họ cũng sẽ được chinh phục nhờ cách ăn nết ở của chị em mà không cần chị em phải nói lời nào, vì họ thấy cách ăn nết ở trinh tiết và cung kính của chị em. Ước chi vẻ duyên dáng của chị em không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng, hay ăn mặc xa hoa; nhưng là con người nội tâm thầm kín, với đồ trang sức không bao giờ hư hỏng là tính thuỳ mị, hiền hoà: đó chính là điều quý giá trước mặt Thiên Chúa. Xưa kia, các phụ nữ thánh thiện là những người trông cậy vào Thiên Chúa, cũng đã trang điểm như thế; họ đã phục tùng chồng. Như bà Xara, bà đã vâng phục ông Ápraham, và gọi ông là "ông chủ". Chị em là con cái của bà, nếu chị em làm điều thiện và không sợ hãi trước bất cứ nỗi kinh hoàng nào.
Gương mẫu của bà vợ ông Phêrô luôn đáng giá. Dù có những vấn đề, những thất vọng, sự cô đơn và lo lắng, vẫn luôn có một niềm hy vọng và một tương lai. Nhưng đối với người vợ thời xưa này cũng như quý bà ngày nay, tất cả đều bắt đầu ở dưới chân Đấng Cứu Thế. Khi ấy, bà biết chấp nhận chồng mình như ông là, dưới ánh sáng của Đức Kitô. Đó là điều được gọi là thi hành Lời đã để lại cho chúng ta.
Lm. Phaolô Nguyễn Minh Chính chuyển ngữ từ Gina Karssen, Dans l’ombre de leur Maître: Femmes méconnues de la Bible, La Maison de la Bible, 2014, tr. 10-14