13/3/2022
CHÚA NHẬT TUẦN 2 MÙA CHAY – C
Lc 9, 28b-36
HIẾN MÌNH ĐỂ BIẾN HÌNH
Và từ trong đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta, người được Ta tuyển chọn, hãy vâng nghe Lời Người.” (Lc 9, 35)
Suy niệm: Ta được nghe những lời thật “hả dạ” của Chúa Cha nói về người Con Một của Ngài mỗi khi Đức Giêsu có một cử chỉ HIẾN MÌNH cho con người: một lần nơi sông nước Giođan, khi Ngài gánh lấy hết tội lỗi nhân loại đổ vào giòng nước; lần này trên núi cao Tabor khi Ngài khởi đầu hành trình đi về Giê-ru-sa-lem chịu khổ nạn. Hôm nay Chúa Cha hài lòng về cử chỉ hiến mình của Người Con Một ấy, nên cho Ngài được biến hình sáng láng, nghĩa là làm cho vẻ đẹp và sự sáng chói của khuôn mặt Thiên Chúa nơi Ngài được hiển lộ ra.
Mời Bạn: Khuôn mặt của bạn cũng sẽ nên sáng tươi mỗi khi bạn có một nghĩa cử hiến mình cho tha nhân. Trái lại, khuôn mặt đó sẽ biến dạng xấu xí mỗi khi bạn có một cử chỉ ích kỷ hẹp hòi. Xin bạn nhớ rằng lý tưởng đời bạn là phải trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu, người mẫu của bạn. Có được tâm tình như Chúa Giêsu, suy nghĩ như Chúa Giêsu, ứng xử như Chúa Giêsu, bạn sẽ biến hình biến dạng tốt đẹp giống Ngài.
Chia sẻ: Trong mùa Chay này, mỗi ngày tôi (gia đình,/hội đoàn…) sẽ có một cử chỉ hiến mình nào cho người khác?
Sống Lời Chúa: Trong mùa Chay này, mỗi ngày tôi sẽ rà soát xem mình đã có những nghĩa cử hiến mình cho tha nhân như Chúa Giêsu chưa.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi mắt con. Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con. Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con. Xin cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa. (Rabbouni)
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Chúa Nhật II Mùa Chay – Năm C
Ca nhập lễ
Tâm hồn tôi thưa cùng Chúa, mắt tôi tìm kiếm Chúa. Lạy Chúa, tôi tìm kiếm dung nhan Chúa. Xin đừng ẩn mặt xa tôi.
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến! Trong Chúa Nhật thứ II mùa chay Hội Thánh mời gọi chúng ta xét lại xem đã sống đức tin như thế nào trong cuộc sống hằng ngày. Đức tin đã thực sự làm chúng ta nên công chính như tổ phụ Abraham chưa? Ngài đã hoàn toàn đặt tin tưởng vào Chúa, ngay chính lúc tuyệt vọng, không còn lý do để tin tưởng. Chính do lòng tin tưởng thuần phục đó, tổ phụ Abraham đã được toại nguyện, đúng như lời Chúa hứa.
Qua bài Tin Mừng các Tông Đồ biết Đức Giêsu có thần tính và là Đấng mà Môsê và các tiên tri loan báo mấy trăm năm về trước. Chính Ngài là Lời của Thiên Chúa và cũng là Thiên Chúa. Do đó, cùng với việc tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa duy nhất, phụng vụ mời gọi chúng ta cũng đặt trọn niềm tin của mình vào Đức Kitô qua việc lắng nghe lời Người.
Đức Kitô chính là Đấng đến thực hiện trọn vẹn những gì Cựu Ước đã chuẩn bị và loan báo. Và như thế, Ngài trở nên Đấng Cứu Độ duy nhất mà muôn dân hằng mong đợi. Trong tâm tình đó giờ đây chúng ta cùng thành tâm thống hối
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã dạy chúng con phải vâng nghe Con yêu dấu của Chúa; xin lấy lời hằng sống nuôi dưỡng đức tin của chúng con, nhờ vậy, cặp mắt tâm hồn chúng con sẽ trong sáng để nhìn thấy vinh quang Chúa tỏ hiện trong cuộc đời chúng con. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: St 15, 5-12. 17-18
“Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với Abraham”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, Thiên Chúa dẫn Abram ra ngoài và nói với ông: “Ngươi hãy ngước mắt lên trời, và nếu có thể được, hãy đếm các ngôi sao”. Rồi Chúa nói tiếp: “Miêu duệ của ngươi sẽ đông đảo như thế”. Abram tin vào Thiên Chúa, và vì đó ông được công chính.
Và Chúa lại nói: “Ta là Chúa, Ðấng dẫn dắt ngươi ra khỏi thành Ur của dân Calđê, để ban cho ngươi xứ này làm gia nghiệp”. Abram thưa rằng: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, làm sao con có thể biết con sẽ được xứ đó làm gia nghiệp?” Chúa đáp: “Ngươi hãy bắt một con bò cái ba tuổi, một con dê cái ba tuổi, một con cừu đực ba tuổi, một con chim gáy mái và một con bồ câu non”. Abram bắt tất cả những con vật ấy, chặt ra làm đôi, đặt phân nửa này đối diện với phân nửa kia; nhưng ông không chặt đôi các con chim. Các mãnh cầm lao xuống trên những con vật vừa bị giết, song ông Abram đuổi chúng đi. Lúc mặt trời lặn, Abram ngủ mê; một cơn sợ hãi khủng khiếp và u tối bao trùm lấy ông.
Khi mặt trời đã lặn rồi, bóng tối mịt mù phủ xuống, có một chiếc lò bốc khói và một khối lửa băng qua giữa những phần con vật bị chia đôi. Trong ngày đó, Chúa đã thiết lập giao ước với Abram mà nói rằng: “Ta ban xứ này cho miêu duệ ngươi, từ sông Ai-cập cho đến sông Eu-phrát”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 26, 1. 7-8a. 8b-9abc. 13-14
Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng Cứu Ðộ tôi. (c. 1a)
Xướng: Chúa là sự sáng, là Ðấng Cứu Ðộ, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai?
Xướng: Lạy Chúa, xin nghe tiếng con kêu cầu, xin thương xót và nhậm lời con. Về Chúa, lòng con tự nhắc lời: “Hãy tìm ra mắt Ta”.
Xướng: Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa, xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong cơn thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ, xin đừng hất hủi con.
Xướng: Con tin rằng con sẽ được nhìn xem những ơn lành của Chúa trong cõi nhân sinh. Hãy chờ đợi Chúa, hãy sống can trường, hãy phấn khởi tâm hồn và chờ đợi Chúa!
Bài Ðọc II: Pl 3, 17 – 4, 1
“Chúa Kitô sẽ biến đổi thân xác chúng ta nên giống thân xác hiển vinh của Người”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philípphê.
Anh em thân mến, anh em hãy bắt chước tôi, và hãy để mắt nhìn coi những người ăn ở theo như mẫu mực anh em thấy nơi chúng tôi. Bởi chưng như tôi đã thường nói với anh em, và giờ đây tôi đau lòng ứa lệ mà nói lại, có nhiều người sống thù nghịch với thập giá Ðức Kitô. Chung cuộc đời họ là hư vong, chúa tể của họ là cái bụng, và họ đặt vinh danh của họ trong những điều ô nhục; họ chỉ ưa chuộng những cái trên cõi đời này.
Phần chúng ta, quê hương chúng ta ở trên trời, nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người.
Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Hoặc đọc bài vắn sau đây: Pl 3, 20 – 4, 1
Anh em thân mến, quê hương chúng ta ở trên trời nơi đó chúng ta mong đợi Ðấng Cứu Chuộc là Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác hiển vinh của Người, nhờ quyền lực mà Người vẫn có, để bắt muôn vật suy phục Người. Bởi thế, anh em thân mến và yêu quý, anh em là niềm hoan lạc và triều thiên của tôi; anh em thân mến, hãy vững vàng trong Chúa.
Ðó là lời Chúa.
Câu Xướng Trước Phúc Âm: Mt 17, 5
Từ trong đám mây sáng chói có tiếng Chúa Cha phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.
Phúc Âm: Lc 9, 28b-36
“Ðang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện. Và đang khi cầu nguyện, diện mạo Người biến đổi khác thường và áo Người trở nên trắng tinh sáng láng. Bỗng có hai vị đàm đạo với Người, đó là Môsê và Êlia, hiện đến uy nghi, và nói về sự chết của Người sẽ thực hiện tại Giêrusalem. Phêrô và hai bạn ông đang ngủ mê, chợt tỉnh dậy, thấy vinh quang của Chúa và hai vị đang đứng với Người. Lúc hai vị từ biệt Chúa, Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm; chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia”. Khi nói thế, Phêrô không rõ mình nói gì. Lúc ông còn đang nói, thì một đám mây bao phủ các Ngài và thấy các ngài biến vào trong đám mây, các môn đệ đều kinh hoàng. Bấy giờ từ đám mây có tiếng phán rằng: “Ðây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Và khi tiếng đang phán ra, thì chỉ thấy còn mình Chúa Giêsu. Suốt thời gian đó, các môn đệ giữ kín không nói với ai những điều mình đã chứng kiến.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tín hữu
Anh chị em thân mến! Để cùng được biến đổi với Đức Kitô, chúng ta hãy luôn giữ vững niềm tin trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Muốn được thế chúng ta cùng tin tưởng cầu xin :
1. “Đang khi cầu nguyện diện mạo Người biến đổi khác thường”.- Xin cho các vị lãnh đạo dân Chúa trong Hội Thánh có đời sống thấm đượm tinh thần cầu nguyện, để sức sống Chúa Kitô biến đổi các ngài nên ánh sáng chiếu soi trần gian.
2. “Abraham tin vào Thiên Chúa và vì đó ông được công chính”.- Xin cho các tín hữu sau khi đã tuyên xưng đức tin qua Bí tích Thánh Tẩy, luôn giữ được đức tin vững vàng để Chúa Giêsu biến đổi, họ dần dần đạt tới sự hoàn thiện trong vinh quang của Người.
3. “Người sẽ biến đổi thân xác hèn hạ của chúng ta nên giống như thân xác vinh hiển Người”.– Xin cho các tu sĩ ý thức hồng ân được tuyển chọn lên núi thánh, mà biết sống mọi biến cố dưới ánh sáng đức tin và sự hướng dẫn của Lời Chúa.
4. “Các ngươi hãy nghe Lời Người”.- Xin cho các tội nhân trong giáo xứ chúng ta, được ơn Chúa thức tỉnh, cảm nhận được vinh quang Chúa mà sống gắn bó với Người.
Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban cho chúng con một đức tin vững mạnh, giúp chúng con biết tích cực thực hiện cuộc biến đổi mỗi ngày bằng loại trừ mọi dam mê dục vọng, phát huy đời sống bác ái yêu thương, để sau này chúng con đáng được phúc chiêm ngưỡng vinh quang Chúa muôn đời. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô Chúa chúng con.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, chớ gì của lễ này đem lại cho chúng con nguồn ơn tha tội và thánh hoá, hầu chuẩn bị hồn xác chúng con và toàn thể tín hữu được xứng đáng mừng lễ Vượt Qua. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con. Sau khi cho các môn đệ biết Người sẽ chịu chết, thì trên núi thánh Người đã tỏ bày vinh quang của Người cho các ông. Nhờ lề luật và các ngôn sứ làm chứng, Người đã cho các môn đệ hiểu rằng; phải trải qua đau khổ mới có thể đạt tới vinh quang phục sinh. Vì thế, cùng với triều thần thiên quốc, chúng con ở dưới trần gian luôn ca tụng Chúa uy linh cao cả, và không ngừng tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Thánh…
Ca hiệp lễ
Này là con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng, các ngươi hãy nghe lời Người.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, Chúa đã cho chúng con được vinh dự rước Mình và Máu Thánh Ðức Ki-tô là bí tích nhiệm mầu cao cả. Chúng con xin chân thành cảm tạ vì Chúa đã cho chúng con được nếm thử phúc lộc trên trời ngay khi còn ở dưới thế. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
Mùa Chay là thời điểm thuận lợi để mỗi người chúng ta sống tinh thần chiến đấu với ma quỷ cũng như những khuynh hướng xấu của tội. Đồng thời cũng là mùa của những đổi mới. Đổi mới từ con người nhu nhược, yếu hèn, trở nên một con người can trường, khẳng khái, cương quyết trước cám dỗ. Từ con người bất xứng sang thánh thiện, từ con người già nua, tội lỗi, trở nên con người thanh xuân trong ân sủng.
Lời mời gọi đổi mới được chính Đức Giêsu mời gọi qua biến cố Biến Hình mà chúng ta cử hành hôm nay.
1. Ý nghĩa cuộc biến hình của Đức Giêsu
Thánh sử Luca trình thuật việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor. Sự kiện này diễn ra sau khi Ngài tiên báo về cuộc khổ nạn lần thứ nhất (x. Lc 9, 22) cũng như nói về điều kiện cần có của người môn đệ khi đi theo Ngài (Lc 923-26), đồng thời nó cũng diễn ra trong bối cảnh Phêrô vừa tuyên xưng đức tin (x. Lc 9,18-21).
Qua việc biến hình, Đức Giêsu muốn củng cố niềm tin cho các tông đồ trước khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Ngài, để các ông can đảm, trung thành làm chứng và chấp nhận chịu đau khổ khi cơn thử thách ập đến.
Mặt khác, Đức Giêsu muốn mặc khải cho các ông biết rõ căn tính của Ngài là Thiên Chúa, Đấng từ trời xuống để đem con người về với Thiên Chúa trong vinh quang.
Khi mạc khải như thế, Đức Giêsu muốn lật tẩy những xu hướng và đam mê của các Tông đồ về Ngài theo kiểu trần tục, đó là việc thiết lập triều đại chốn trần thế…, để rồi chính bản thân các ông sẽ được bù đắp bằng những ân lộc trần gian chốn quan trường!
Thật vậy, đi theo Chúa là chúng ta đi trên chính con đường mà Ngài đã đi, con đường đó là con đường khổ giá. Nếu sẵn sàng từ bỏ ý riêng, vác thập giá để đi theo Chúa, thì cuối con đường đó mới nở hoa vinh quang, vì: hạnh phúc, vinh quang không bao giờ dành cho những người trốn tránh đau khổ. Nếu có thì cũng chỉ là thứ vinh quang phù phiếm, hão huyền do con người tưởng tượng ra và gán ghép rồi đặt tên cho nó là hạnh phúc chứ thực ra không có thật! Vinh quang có thật chính là vinh quang của những người can dự vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của chính Đức Giêsu; để đi từ đau khổ đến vinh quang.
Vì thế, để chiếm được vinh quang Nước Trời, người môn đệ phải chiến đấu không ngừng nghỉ, phải chấp nhận chết cho tội, ý riêng và ngay cả sự sống thể xác… Hành trình này quả là cam go, không dễ, sẽ có người chán nản mà bỏ cuộc, nên đây là lý do Đức Giêsu biến hình trước mặt các Tông đồ để củng cố niềm tin cho các ông.
2. Chúng ta cũng được mời gọi biến hình
Chúng ta không được diễn phúc chiêm ngưỡng cuộc biến hình của Chúa như Phêrô, Giacôbê và Gioan khi xưa! Nhưng chúng ta lại được mời gọi đi ngay vào cuộc biến hình của chính mình để được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô.
Cuộc biến hình đó chính là ngày chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội, khi ấy, con người tự nhiên của chúng ta có thể ví như được đặt vào một khuôn đúc mới để xuất hiện trong một hình ảnh mới, hình ảnh Đức Kitô.
Nhờ cuộc biến hình này, mà mỗi người chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, thành con Thiên Chúa và đền thờ Chúa Thánh Thần.
Tuy nhiên, trải qua thời gian với những thăng trầm, yếu đuối của bản thân, nên sự tinh tuyền ấy bị ô uế, tâm hồn trong trắng bị vấy đục, khiến chúng ta trở nên con người cũ do tội lỗi vây phủ.
Điều này cho thấy, nơi con người chúng ta, luôn mang hình ảnh, dáng dấp, thái độ của Tông đồ Phêrô, hay như các Tông đồ trong bài Tin Mừng hôm nay. Khi cơn sốt sắng đến, chúng ta sẵn sàng từ bỏ mọi sự để được ở với Chúa, nhưng khi bả vinh hoa phú quý chào mời, chúng ta cũng tranh dành quyền lực và ganh đua nhất nhì với nhau trong sự ích kỷ, đê tiện của bản năng. Kinh nghiệm này đã được Thánh Phaolô thốt lên: “Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn thì tôi lại cứ làm” (Rm 7,19).
Thế nên, Mùa chay chính là thời điểm thuận tiện để chúng ta làm mới lại con người của mình, để xứng đáng với hồng ân cao quý mà chúng ta đã lãnh nhận thủa ban đầu nơi Bí tích Thánh Tẩy. Điều này đã được thánh Phaolô khuyên dạy: “Anh em phải cởi bỏ con người cũ với nếp sống xưa, là con người phải hư nát vì bị những ham muốn lừa dối, anh em phải để Thần Khí đổi mới tâm trí anh em, và phải mặc lấy con người mới, là con người đã được sáng tạo theo hình ảnh Thiên Chúa để thật sự sống công chính và thánh thiện” (Ep 4,22-24).
Như vậy có thể nói: nếu muốn được hạnh phúc, vinh quang, chúng ta sẽ phải biến đổi như thánh Phaolô mời gọi. Đây là điều kiện để được chung phần với Đức Giêsu trong vinh quang.
3. Không biến hình thì chẳng được chung phần với Chúa!
Khi cử hành lễ Chúa Biến Hình, chúng ta cần xác tín rằng: Thiên Đàng hay hạnh phúc không thể có được nếu chúng ta sống một cuộc sống bê tha, ăn chơi, đàn điếm! Hạnh phúc Nước Trời chỉ có được sau những đêm ngày chiến đấu với bản năng, ý riêng, để chỉ sống cho Thiên Chúa và những giá trị Nước Trời, khi đã sẵn sàng khước từ sự níu kéo đầy hấp dẫn của thế gian.
Vì thế, có lẽ chúng ta phải lội ngược dòng để chấp nhận lột xác, có khi phải chấp nhận mất mát, cay đắng và đôi khi phải đánh đổi ngay cả mạng sống.
Các thánh là những người đã chấp nhận sống sự ngược đời vì chân lý và Tin Mừng để được đổi mới. Chẳng hạn như:
Môsê đã biến hình khi ông từ bỏ ý riêng để theo ý Chúa. Êlia cũng vậy. Đức Giêsu thì đến chỉ để làm theo ý Chúa Cha. Phêrô và các Tông đồ, trong đó phải kể đến Phaolô, tất cả đều đã biến đổi từ con người nhát đảm, ham danh, hám lợi trở thành một con người can đảm, trung thành sống chết với đức tin, để chỉ còn giữ lại một mối lợi tuyết đối, đó là được biết Đức Giêsu và được ở trong Ngài.
Rồi trong lịch sử Giáo Hội, đã có biết bao gương sáng về những cuộc đổi đời ngoạn mục đến kỳ diệu! Thật vậy, có những vị từ một người nghiện rượu, xì ke, ma túy đến nghiện Giêsu; từ những kẻ khát tình, trác táng chốn ăn chơi, trở thành người say mê Giêsu đến độ vì Ngài mà bỏ hết mọi sự; lại có người từ gái làng chơi trở thành vị thánh; có người dùng cả một hệ tư tưởng để chống đối đạo, đi theo bè rối, khi được biến đổi, họ đã trở thành người bảo vệ các chân lý đức tin đến chết trong anh dũng, kiên trung; có người từ trai tứ chiếng, đầu đường xó chợ lại trở thành đấng lập dòng…
Đây chính là mẫu gương điển hình về những cuộc biến hình trong Giáo Hội thời xưa và thời nay cũng như mãi về sau.
Mong sao, qua sự kiện Chúa biến hình và những mạc khải của Ngài cũng như qua gương sáng nơi các thánh, chúng ta cũng hãy làm một cuộc biến hình riêng của mỗi người để được chung hưởng hạnh phúc với Chúa bên các thánh trong Nước Hằng Sống. Amen.
CHÚA NHẬT 2C MÙA CHAY – 2001
(Lc. 9:28b-36) Lm Lã Mộng Thường
Bài Phúc Âm hôm nay thường được mệnh danh là Chúa Giêsu biến hình, nhưng câu quan trọng nhất như Phúc Âm được chép lại là câu phán bảo từ trong đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Dĩ nhiên, mọi người đều hiểu rõ ràng câu này muốn nhắc nhở chúng ta vâng phục và thực hành những lời dạy dỗ của Đức Giêsu.
Tuy nhiên, vấn nạn được nêu lên, Đức Giêsu đã dạy những gì và chúng ta kiếm lời dạy dỗ của Ngài ở đâu? Xin thưa, chúng ta chỉ có thể tìm thấy lời dạy dỗ của Đức Giêsu nơi bốn Phúc Âm mà thôi, không còn nơi nào khác. Bất cứ ai để tâm đọc Kinh Thánh cũng đều biết mục đích cuộc đời và những công việc Đức Giêsu thực hiện chính là rao giảng Tin Mừng Nước Trời như đã được chép nơi Phúc Âm Luca khi một số dân chúng muốn Ngài ở lại với họ và Ngài đã trả lời, “Ta còn phải đem Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, chính vì thế mà Ta đã được sai đến” (Lc. 4:43).
Vậy Tin Mừng Nước Thiên Chúa là gì? Làm sao có thể nhận biết và phương pháp nào để thực hiện trong cuộc đời mỗi người? Muốn biết Tin Mừng Nước Thiên Chúa, chúng ta cần biết Nước Thiên Chúa là gì. Muốn biết Nước Thiên Chúa, chúng ta cần biết Thiên Chúa thế nào. Muốn biết Thiên Chúa, Đấng vô hình không ai có thể dò thấu, chúng ta cần nhận biết tạo vật, vũ trụ, và những công việc Ngài đã thực hiện. Muốn biết vũ trụ là những gì bên ngoài con người, chúng ta cần nhận biết chính mình.
Bởi vậy điểm bước đầu tiên phải là sự suy gẫm về chính con người của mình, cần biết mình mơ ước gì, mình thế nào, và thực thể hiện hữu của mình ra sao. Phúc Âm ghi lại những lời dạy dỗ của Đức Giêsu; vậy Phúc Âm viết về những điều gì? Nếu ai để ý nhận định, Phúc Âm nêu lên điều kiện cần thiết nơi tâm trí của một người hầu có thể suy nghiệm về Lời Chúa. Ai muốn suy nghiệm Phúc Âm, cần phải vứt bỏ quá khứ, vứt bỏ tất cả những gì được gọi là kiến thức, những gì mình đã học hỏi nơi bất cứ ai và mở rộng tâm trí để nghiệm chứng.
Phúc Âm nói về điểm này qua những câu, “Người ta không lấy vải mới vá áo cũ, không lấy rượu mới đổ bì cũ. Kẻ nào tra tay cầm cày mà ngó lui sau thì bất kham đối với Nước Thiên Chúa. Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ” (Mt. 6:24; Lc. 16:13). Những sự hiểu biết hoặc kiến thức chúng ta nghe từ người khác cũng giống như bì cũ, áo cũ, những gì đã chết theo quá khứ không thể áp dụng để am hiểu Phúc Âm. Bất cứ ai còn bám víu nơi mớ kiến thức thế tục sẽ không cách nào nghiệm chứng Phúc Âm.
Như vậy, những ai còn lệ thuộc nơi mớ kiến thức thế tục thì cũng chẳng khác gì năm cô phù dâu khờ dại, chỉ nghe sao biết vậy hoặc cũng chỉ như người tôi tớ được trao cho một nén bạc và đem chôn vùi, tất cả đều bị kết án là sẽ chẳng thể nào vào được Nước Thiên Chúa. Phúc Âm còn nêu rõ, nếu tay, chân, hoặc mắt làm cớ vấp phạm, hãy cắt bỏ hoặc móc mắt vất đi. Điều này có nghĩa, bất cứ gì ngăn cản hành trình đức tin, hành trình nhận biết Tin Mừng Nước Trời, chúng ta cần phải dứt khoát. Chúng ta được sinh ra tự mang nỗi khát khao nhận biết Thiên Chúa. Lẽ đương nhiên, do sự khát khao này, chúng ta thường tự mường tưởng về một Thiên Chúa theo quan niệm thế tục của con người. Thế rồi chúng ta đem Đức Giêsu gán ép vào Thiên Chúa của chúng ta mà không cần biết Đức Giêsu đã nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa ra sao. Đức Giêsu trình bày một Thiên Chúa không thiên vị, mà đối xử đồng đều với mọi người, “Hãy trở nên thiện toàn như Cha các ngươi trên trời là Đấng thiện toàn” vì Ngài cho mặt trời soi sáng trên kẻ dữ cũng như người lành và làm mưa trên kẻ ngay cũng như người ác. Phúc Âm dạy chúng ta Thiên Chúa ngự trị nơi mỗi người, “Vậy khi cầu nguyện, các ngươi hãy trở về nội tâm mà cầu cùng Cha ngươi Đấng thấu suốt lòng ruột mà ban cho những gì ngươi khẩn nguyện”. Phúc Âm còn nói rõ hơn nơi Mátthêu đoạn 10, câu 19, “Khi người ta nộp các ngươi thì các ngươi đừng lo phải nói làm sao hay nói gì, vì ngay giờ đó sẽ cho các ngươi biết phải nói gì, vì không phải các ngươi nói mà là Thần Khí của Cha các ngươi sẽ nói trong các ngươi”. Thần Khí của Thiên Chúa chính là Thiên Chúa. Thần Khí nói trong chúng ta, Thiên Chúa ngự trị nơi chúng ta.
Qua Phúc Âm Đức Giêsu công bố rõ ràng, Nước Thiên Chúa không đến một cách nhãn tiền, không ai nói được này ở đây hay ở đó vì Nước Thiên Chúa ở giữa và ở trong chúng ta. Và Ngài cũng nhắn nhủ chúng ta công việc quan yếu nhất của đời người đó là, “Tiên vàn hãy tìm kiếm Nước Trời và mọi sự khác sẽ được ban cho” (Mt. 6:33). Vì Thiên Chúa chính là quyền lực hiện hữu nơi mọi loài mọi vật, Thiên Chúa hiện diện nơi mọi người, mọi sự. Thế nên, Nước Thiên Chúa là chính Ngài. Và bởi đó, Tin Mừng Nước Trời chính là Thiên Chúa ở cùng chúng ta (Mt. 1:23). Đức Giêsu cũng căn dặn chúng ta, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước miệng heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Bất cứ ai đã nghiệm chứng được Tin Mừng Nước Trời, hãy biết khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim câu, chẳng may lỡ miệng nói cho người khác hiểu nhưng họ không muốn hiểu thì cũng đừng nói thêm kẻo bị họ lên án, chụp mũ là rối đạo hoặc sẽ cho rằng mình chẳng ra gì.
Đàng khác, Đức Giêsu lên án nặng nề những kẻ rao giảng Phúc Âm theo quan niệm thế tục vì đã vô tình bịt tâm trí người khác, không để họ nghiệm chứng Tin Mừng Nước Trời, “Khốn cho các ngươi” “các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết. Các ngươi sẽ chẳng vào đã rồi mà những kẻ muốn vào các ngươi lại ngăn cản” (Mt. 23:13). Một điều chúng ta nên để tâm suy nghiệm. Nơi Phúc Âm Gioan, Đức Giêsu nói, “Khi Ta còn ở thế gian, ta là sự sáng thế gian” (Gn. 8:12; 9:5). Nơi Phúc Âm Mátthêu, Ngài minh định, “Các ngươi là ánh sáng cho thế gian” (Mt. 5:14). Mỗi người chúng ta mang sứ mệnh như Đức Giêsu và đó là rao giảng Tin Mừng Nước Trời. Khổ nỗi, từ ngày Đức Giêsu rao giảng, đã hai ngàn năm chìm vào quá khứ, Tin Mừng Nước Trời vẫn còn mù mờ đối với dân Chúa thì sao có thể là ánh sáng cho thế gian! Amen.
LÊN CAO – TỎA SÁNG
(Chúa Nhật II Mùa Chay C – Lc 9,28b-36) Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa – Ban Mê Thuột
Cả ba Tin mừng Nhất lãm đều tường thuật rằng sau lần thứ nhất tiên báo về cuộc khổ nạn thập giá, khoảng sáu hay tám ngày sau đó Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao (x.Mt 17,1-8; Mc 9,2-8; Lc 9,28-36). Tin Mừng Matthêu và Maccô không nói rõ mục đích của việc Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi cao mà chỉ tường thuật là ở trên núi Người đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông (x.Mt 17,2; Mc 9,2). Tin mừng Luca thì nói rõ mục đích của việc đưa ba môn đệ thân tín lên núi cao là để cầu nguyện (x.Lc 9,28).
Khởi đi từ thời các giáo phụ, chúng ta được nghe diễn giải mục đích Chúa Giêsu lên núi cao cùng với ba môn đệ là để bày tỏ vinh quang qua sự biến hình nên sáng láng hầu nâng đỡ, củng có đức tin cho các môn đệ trước viễn ảnh thập giá đau thương mà Người sắp chịu. Tuy nhiên, mục đích này xem ra không mấy thuyết phục vì tại sao chỉ có ba môn đệ được củng cố đức tin mà thôi, còn chín vị còn lại thì sao? Và khi xuống núi thì Chúa Giêsu lại căn dặn ba vị không được kể lại chuyện vừa chứng kiến cho các bạn đồng môn (x.Mt 17,9; Mc 9,9). Bên cạnh đó Tin Mừng Maccô ghi rõ là ngay ba vị chứng kiến việc Chúa Giêsu biến hình cũng không hiểu lời Thầy nói “từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì” (x.Mc 9,10).
Mục đích lên núi của Chúa Giêsu là để cầu nguyện như Tin Mừng Luca tường thuật xem ra khá hữu lý vì chúa Giêsu trong những lúc gặp nghịch cảnh lớn hoặc cần có quyết định hay sự chọn lựa quan trọng thì Người thường lánh riêng ra một nơi hay lên núi cao cầu nguyện với Cha trên trời (x.Lc 6,12). Đêm Tiệc Ly, trong vườn dầu, khi sắp đối diện với khổ hình thập giá cần kề thì Chúa Giêsu cũng dẫn ba môn đệ thân tín lánh riêng để cầu nguyện (x.Mt 26,37; Mc 14,32-33).
Cuộc đời con người chúng ta ai cũng có những lúc đối diện với những quyết định quan trọng phải chọn lựa. Một bậc sống, một nghề nghiệp, một nơi định cư lâu dài… là những điều không chỉ đòi hỏi sự cân nhắc, tính toán mà còn cần cả sự can đảm và dứt khoát cách nào đó. Các nghịch cảnh đến với chúng ta cũng là chuyện thường tình của kiếp người. Lắm khi ‘phúc bất trùng lai” mà “họa thì vô đơn chí”. Thỉnh thoảng có đó những nghịch cảnh xem ra khó vượt qua không chỉ do thiên tai hay dịch bệnh mà còn do cả lòng người độc hiểm, gian ác gây ra. Chính những lúc này chúng ta cần phải sáng suốt hơn, can đảm hơn để đương đầu hay đón nhận.
Trong các tình huống trên, dưới ánh sáng Lời mạc khải, Kitô hữu chúng ta chân nhận rằng mình cần đến ơn soi sáng và ơn trợ giúp của Thiên Chúa biết là chửng nào. Vì thế việc cầu nguyện như là điều tất yếu. Cầu nguyện cách riêng tư, cầu nguyện cùng với vài ba người thân tín sẽ giúp chúng ta nhận ra chương trình ý định của Thiên Chúa trên đời mình. Chính qua những giờ khắc cầu nguyện sâu lắng này Chúa Kitô càng thêm xác tín về căn tính và sứ mạng của Người để rồi tự nguyện và can đảm thực thi thánh ý Cha trên trời.
Nét vinh quang hiển lộ trên dung mạo Chúa Kitô có thể nói là hệ quả của việc Người đón nhận sứ mạng cứu độ nhân trần bằng án hình thập giá. Chân dung của một con người sẽ hiển sáng khi họ vuông tròn sứ mạng của mình ở trần gian. Một chị Têrêxa Hài Đồng đã rực sáng khi làm cánh hoa hồng nhỏ cho đời. Một Phanxicô Axidi cũng đã rực sáng khi biểu lộ chân dung người nghèo của Thiên Chúa. Một Mẹ Têrêxa thành Calcutta cũng đã hiển sáng khi làm tỏa rạng tình thương của Thiên Chúa trên những mảnh đời bất hạnh, nghèo hèn… Cuộc đời các thánh nhân được dệt xây trên nền tảng của việc gắn bó với Thiên Chúa bằng sự cầu nguyện chuyên chăm sâu lắng. Dù không có chút quyền lực gì đáng kể trước mặt người đời và có khi cả trong Giáo hội, thế nhưng các nữ tu con cái mẹ Têrêxa thành Calcutta nhờ khởi đầu một ngày sống bằng việc kết hiệp với Thiên Chúa cả giờ đồng hồ, rồi sau đó thi hành sứ mạng và họ rực sáng ngay trong tấm tu phục Sari đơn sơ, bình thường.
Với người đời thì vinh quang thường đi với quyền lực hay với sự thành công hiển hách. Vinh quang ở đây nhiều khi thực ra chỉ là vẻ hào nhoáng nhất thời, chóng qua. Vinh quang thật là ở nơi những con người biết sống có ý nghĩa. Họ không chỉ cảm nhận mà còn biết nỗ lực thực thi sứ mạng của mình khi được hiện hữu trong cõi dương trần này. Với Kitô hữu, để có thể xác tín về căn tính và sứ mạng của mình thì điều tất yếu là cần phải “lên núi cao”, nghĩa là phải biết kết hiệp với Đấng cho mình làm người bằng sự cầu nguyện sâu lắng, chuyên chăm.