TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Chúa Nhật XXI Thường Niên -Năm C

“Người ta sẽ từ đông chí tây đến dự tiệc trong nước Chúa”. (Lc 13,22-30)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Lời Chúa THỨ TƯ TUẦN 20 THƯỜNG NIÊN

Thứ bảy - 16/08/2025 14:17 |   34
“Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.” (Mt 20,1-16a)

20/08/2025
Thứ tư tuần 20 THƯỜNG NIÊN
Thánh Bernarđô, viện phụ, Tiến sĩ Hội Thánh

t4 t20 TN

Mt 20,1-16a


mọi người đều được mời
“Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.”
(Mt 20,1-16a)

Suy niệm: Thoạt nhìn, ông chủ vườn nho trong dụ ngôn đây xem ra thật “tội nghiệp”: nho đã đến mùa thu hoạch, công việc bề bộn gấp rút mà phải một thân một mình xoay xở tất bật chạy ra chạy vào kiếm thợ vào làm vườn nho! Thế nhưng đọc kỹ dụ ngôn thì không phải thế. Ông chủ không quan tâm đến công việc mà là con người. Ông kêu gọi người ta “đi vào vườn nho” chỉ vì ông không muốn ai “đứng không ngoài chợ.” Trong thời buổi kinh tế suy thoái, có việc làm ổn định, dù đồng lương có khiêm tốn một chút, vẫn còn quý hơn bị thất nghiệp. Ông chủ vườn nho này không muốn ai thất nghiệp, mà hơn thế nữa, mức lương “một đồng” không chỉ “hợp lẽ công bằng” mà còn “trên cả tuyệt vời” đối với mọi người nhận lời bước vào vườn nho của ông. Đối với Thiên Chúa cũng vậy: không ai bị loại trừ nhưng mọi người đều được mời vào chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu với Ngài.

Mời Bạn: Đức Ki-tô không muốn bạn đứng ngoài cuộc trước lời mời gọi của Cha Ngài trong công việc loan báo Tin Mừng, xây dựng Nước Trời đâu. Chẳng những thế, Ngài còn mong muốn bạn cộng tác với Ngài để mời mọi người vào tham dự bữa tiệc trong Nước của Thiên Chúa nữa. Mong bạn đừng từ chối!

Chia sẻ: Giáo xứ hay cộng đoàn của bạn có đang trở thành chướng ngại loại trừ người khác tham dự vào công trình “vườn nho của Chúa” không? Vì sao? Vì cơ chế cứng nhắc hay vì định kiến hẹp hòi?

Sống Lời Chúa: Mời một bạn lương dân tham dự một hoạt động bác ái của bạn hay nhóm của bạn.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy sai con đi vào làm vườn nho Chúa. Amen.

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thứ tư tuần 20 THƯỜNG NIÊN

Ca nhập lễ

Lạy Chúa là khiên thuẫn của chúng tôi, xin hãy trông xem, hãy nhìn tới dung mạo người được Chúa tấn phong. Thực một ngày sống trong hành lang nhà Chúa, đáng quí hơn ngàn ngày ở nơi đâu khác.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, Chúa dành muôn ân huệ thiêng liêng cho những người mến Chúa xin đổ tràn tình yêu nồng nhiệt xuống tâm hồn chúng con, giúp chúng con một niềm mến Chúa trong mọi sự và hơn mọi loài, hầu được hưởng gia nghiệp Chúa hứa, là gia nghiệp cao quý hơn những gì lòng người dám ước mong. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: Tl 9, 6-15

“Ðang khi Chúa ngự trị giữa chúng tôi, các ngươi đã nói: “Xin cho một vua cai trị chúng tôi”.

Trích sách Thủ Lãnh.

Khi ấy, mọi người Sikem và tất cả các gia tộc thành Mêllô tụ họp lại, rồi kéo nhau đến gần cây sồi ở Sikem, và tôn Abimêlech lên làm vua.

Khi ông Giotham nghe tin ấy, liền đi lên đứng trên đỉnh núi Garizim, lớn tiếng kêu lên rằng: “Hỡi người Sikem, hãy nghe ta, để Thiên Chúa cũng nghe các ngươi. Các cây cối đều đến xức dầu phong một vị vua cai trị chúng, và nói cùng cây ôliu rằng: “Hãy đi cai trị chúng tôi”. Cây ôliu đáp lại rằng: “Chớ thì ta có thể bỏ việc sản xuất dầu mà các thần minh và loài người quen dùng, để được lên chức cai trị cây cối sao?” Các cây cối nói cùng cây vả rằng: “Hãy đến cầm quyền cai trị chúng tôi”. Cây vả trả lời rằng: “Chớ thì ta có thể bỏ sự ngọt ngào của ta, bỏ hoa trái ngon lành của ta, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?” Các cây cối nói với cây nho rằng: “Hãy đến cai trị chúng tôi”. Cây nho đáp rằng: “Chớ thì ta có thể bỏ việc cung cấp rượu, là thứ làm cho Thiên Chúa và loài người được vui mừng, để được lên chức cai trị các cây cối khác sao?” Tất cả những cây cối nói với bụi gai rằng: “Hãy đến cai trị chúng tôi”. Bụi gai trả lời rằng: “Nếu các ngươi thật lòng đặt ta làm vua các ngươi, thì các ngươi hãy đến nghỉ dưới bóng ta. Nhưng nếu các ngươi không muốn thì sẽ có lửa từ bụi gai phát ra thiêu huỷ các cây hương nam núi Liban”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 20, 2-3. 4-5. 6-7

Ðáp: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng 

Xướng: Lạy Chúa, do quyền năng Chúa mà vua vui mừng; do ơn Chúa phù trợ, vua xiết bao hân hoan! Chúa đã ban cho sự lòng vua ao ước, và điều môi miệng vua xin, Chúa chẳng chối từ.

Xướng: Chúa đã tiên liệu cho vua được phước lộc may mắn, đã đội triều thiên vàng ròng trên đầu vua. Nhờ Chúa giúp mà vua được vinh quang cao cả, Chúa khoác lên người vua, oai nghiêm với huy hoàng.

Xướng: Vua xin Chúa cho sống lâu, thì Chúa đã ban cho một chuỗi ngày dài tới muôn muôn thuở. Chúa đã khiến vua nên mục tiêu chúc phúc tới muôn đời, Chúa đã cho vua được hân hoan mừng rỡ trước thiên nhan. 

Bài Ðọc I: (Năm II) Ed 34, 1-11

“Ta sẽ giải thoát đoàn chiên Ta khỏi tay chúng, và đoàn chiên sẽ không làm mồi ngon cho chúng nữa”.

Trích sách Tiên tri Êdêkiel.

Có lời Chúa phán cùng tôi rằng: Hỡi con người, hãy nói tiên tri về các chủ chăn Israel, hãy nói tiên tri và bảo các chủ chăn rằng: Chúa là Thiên Chúa phán thế này: Khốn cho các chủ chăn Israel, họ chỉ lo nuôi chính bản thân: chớ thì các chủ chăn không phải lo chăn nuôi đoàn chiên sao? Các ngươi đã uống sữa chiên, đã mặc áo lông chiên, hễ con nào béo tốt, các ngươi làm thịt: nhưng các ngươi không chăn nuôi đoàn chiên của Ta. Con nào yếu đuối, các ngươi không bổ dưỡng; con nào đau ốm, các ngươi không chạy chữa; con nào bị thương, các ngươi không băng bó; con nào đi lạc, các ngươi không đem về; con nào đi mất, các ngươi không tìm kiếm; nhưng các ngươi chăn dắt chúng bằng bạo lực và nghiêm khắc. Các chiên Ta tản mác vì thiếu chủ chăn: chúng làm mồi cho thú dữ ngoài đồng. Các chiên Ta lang thang khắp núi, trên mọi đồi cao, các chiên Ta tản mác khắp mặt đất, và chẳng có ai tìm kiếm. Ta nói, chẳng có ai tìm kiếm.

Vì thế, hỡi các chủ chăn, hãy nghe lời Thiên Chúa phán: Nhân danh mạng sống của Ta, các chiên Ta đã bị cướp mất, các chiên Ta làm mồi cho thú dữ ngoài đồng, vì không có chủ chăn: các chủ chăn của Ta không lo lắng cho đoàn chiên Ta, nhưng chúng chỉ nuôi chính bản thân, mà không chăn nuôi các chiên Ta, vì thế, hỡi các chủ chăn, hãy nghe lời Chúa: Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Ðây chính Ta sẽ đến với các chủ chăn, đòi lại đoàn chiên khỏi tay chúng, và sẽ không cho chúng chăn nuôi đoàn chiên nữa, các chủ chăn không còn nuôi chính bản thân nữa. Ta sẽ giải thoát đoàn chiên Ta khỏi miệng chúng, và đoàn chiên sẽ không còn làm mồi ngon cho chúng nữa.

Vì Chúa là Thiên Chúa phán như thế này: Ðây chính Ta sẽ tìm kiếm các chiên Ta, và Ta sẽ thăm viếng chúng.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6

Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi (c. 1).

Xướng: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, người lo bồi dưỡng. – Ðáp.

Xướng: Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con. – Ðáp.

Xướng: Chúa dọn ra cho con mâm cỗ, ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa. – Ðáp.

Xướng: Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi, hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư, cho tới thời gian rất ư lâu dài. – Ðáp.

Alleluia: Tv 118, 135

Alleluia, alleluia! – Xin Chúa tỏ cho tôi tớ Chúa thấy long nhan hiền hậu, và dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa. – Alleluia.

Phúc Âm: Mt 20, 1-16a

“Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn này rằng: “Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm ra thuê người làm vườn nho mình. Khi đã thoả thuận với những người làm thuê về tiền công nhật là một đồng, ông sai họ đến vườn của ông.

“Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác đứng không ngoài chợ, ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta, ta sẽ trả công cho các ngươi xứng đáng”. Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu và thứ chín, ông cũng trở ra và làm như vậy.

“Ðến khoảng giờ thứ mười một ông lại trở ra, và thấy có kẻ đứng đó, thì bảo họ rằng: “Sao các ngươi đứng nhưng không ở đây suốt ngày như thế?” Họ thưa rằng: “Vì không có ai thuê chúng tôi”. Ông bảo họ rằng: “Các ngươi cũng hãy đi làm vườn nho ta”.

“Ðến chiều chủ vườn nho bảo người quản lý rằng: “Hãy gọi những kẻ làm thuê mà trả tiền công cho họ, từ người đến sau hết tới người đến trước hết”. Vậy những người làm từ giờ thứ mười một đến, lãnh mỗi người một đồng. Tới phiên những người đến làm trước, họ tưởng sẽ lãnh được nhiều hơn; nhưng họ cũng chỉ lãnh mỗi người một đồng. Ðang khi lãnh tiền, họ lẩm bẩm trách chủ nhà rằng: “Những người đến sau hết chỉ làm có một giờ, chúng tôi chịu nắng nôi khó nhọc suốt ngày mà ông kể họ bằng chúng tôi sao?” Chủ nhà trả lời với một kẻ trong nhóm họ rằng: “Này bạn, tôi không làm thiệt hại bạn đâu, chớ thì bạn đã không thoả thuận với tôi một đồng sao? Bạn hãy lấy phần bạn mà đi về, tôi muốn trả cho người đến sau hết bằng bạn, nào tôi chẳng được phép làm như ý tôi muốn sao? Hay mắt bạn ganh tị, vì tôi nhân lành chăng?”

“Như thế, kẻ sau hết sẽ nên trước hết, và kẻ trước hết sẽ nên sau hết”.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin chấp nhận lễ vật của chúng con và thực hiện cuộc trao đổi kỳ diệu trong thánh lễ này: là cho chúng con được đón nhận chính Chúa khi chúng con dâng tiến của lễ do Chúa tặng ban. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Chúa rộng lượng từ bi, và Chúa rất giàu ơn cứu độ.

Hoặc đọc:

Chúa phán: Ta là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này, sẽ sống đời đời.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, Chúa đã ban bí tích Thánh Thể cho chúng con được tham dự vào sự sống của Ðức Kitô; xin cho chúng con được trở nên giống như Người, để mai sau được vào thiên quốc cùng Người chung hưởng phúc vinh quang. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Suy niệm

DỤ NGÔN THỢ LÀM VƯỜN NHO (Mt 20,1-16a)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

1. Nước Trời giống như chủ nhà kia sáng sớm đi mướn người làm vườn nho mình. Ông định cho họ mỗi ngày một quan tiền. Và họ làm việc. Đến 9 giờ và đến trưa ông thấy còn có người ở không, nên cũng gọi họ vào làm. Chiều đến, ông phát lương cho họ: Mấy người vào làm sau hết được lãnh mỗi người một quan tiền. Thấy vậy, những người vào làm trước hết tưởng mình sẽ được lãnh nhiều hơn, nhưng rốt cuộc họ cũng chỉ lành được một quan tiền, nên họ phàn nàn trách móc ông chủ bất công. Ông liền nói với họ: các anh đã đồng ý giá mỗi ngày một quan tiền, tôi đã trả đủ cho các anh. Còn những người vào làm sau, tôi cũng cho bằng các anh là tùy lòng tốt của tôi.

2. Ý nghĩa dụ ngôn

Trước hết, dụ ngôn muốn nói lên lòng quảng đại của Thiên Chúa (ông chủ) đối với dân ngoại, những kẻ được gọi vào Hội thánh (vườn nho) vào giờ sau hết (17 giờ). Đối với những người này, Thiên Chúa cũng ban cho họ mọi quyền lợi và đặc ân như người Do thái, những kẻ đã được gọi từ đầu (họ được thuê từ sáng).

Cách đối xử khoan dung và quảng đại này làm cho những người Do thái bực bội vì họ tưởng bị thiệt thòi, thua kém dân ngoại. Được chọn trước dân ngoại, người Do-thái đã tưởng rằng Thiên Chúa phải mắc nợ họ. Những thái độ của những người cằn nhằn ông chủ cũng giống như thái độ của người biệt phái lên đền thờ cầu nguyện.

Chuyện này còn ngụ ý rằng Thiên Chúa làm gì cho ai, cũng là bởi tình thương mà thôi: “Tôi muốn cho người vào làm sau chót được bằng bạn…”, và người ta phải tôn trọng trong cách xử sự của Người: “Chẳng lẽ tôi lại không có quyền được tùy ý sử dụng của cải tôi sao”? Kẻ không chấp nhận việc người tỏ tình thương như thế, kẻ ấy mắc tội ghen tỵ. Khi người ta đặt nặng các ơn ban hơn là tình yêu ban ơn, cũng là hơn chính Đấng thương yêu, thì người ta không yêu mến mà chỉ ích kỷ thôi! (Trần Hữu Thành).

3. Bao Công ngày xưa nổi tiếng là vị quan xử án công bằng, “thiết diện vô tư”, không kiêng nể người phạm tội là ai. Cho dù đó là hoàng thân quốc thích như phò mã Trần Thế Mỹ hay cháu quan thái sư Bàng Đức… ông đều xử rất công bằng, đúng người đúng tội, không thiên vị một ai. Đây là sự công bằng của con người.

Sự công bằng của Thiên Chúa thì khác. Dụ ngôn ông chủ và người làm công cho thấy rõ điều này. Trong dụ ngôn, ông chủ ám chỉ Thiên Chúa, còn những người làm công là chúng ta. Theo lối nhìn của người trần gian, những người vào làm từ sáng sớm sẽ được nhiều tiền hơn những người vào làm việc từ lúc 17 giờ. Nhưng Thiên Chúa  không nhìn theo lối nhìn này.

Đối với Chúa, mọi người cần được thương yêu, chăm sóc, đều có những nhu cầu cần được đáp ứng. Vì thế, Người rộng ban cho chúng ta mọi ơn lành theo như nhu cầu chúng ta cần, chứ không theo như công trạng của chúng ta.

4. Qua dụ ngôn người làm vườn nho chúng ta thấy rằng Thiên Chúa không chỉ công bằng, vì Ngài đã trả công đúng như đã thỏa thuận nhưng còn rất giàu lòng yêu thương (1Ga 4,16). Ngài yêu thương và quan tâm đến con người, đặc biệt là những người có hoàn cảnh khó khăn, kém may mắn. Hay nói đúng hơn, Thiên Chúa mong muốn tất cả mọi người đều làm việc trong vườn nho của Chúa, đề được hưởng hạnh phúc Nước Trời.

Phần chúng ta, chúng ta theo Chúa không phải vì sự thỏa thuận hay được trả công nhiều hay ít. Nhưng theo Chúa là vào làm vườn nho cho Chúa, là tin tưởng vào sự công bằng và tình thương của Ngài. Để rồi trong đời sống chúng ta biết cố gắng hằng ngày làm việc cho vườn nho của Chúa.

5. Muốn nên giống Chúa Ki-tô, chúng ta phải sống theo tinh thần Tân Ước, không chỉ chú ý đến công bằng mà nhất là chú ý đến Bác ái. Đối với Chúa, đức công bằng chưa đủ vì như thế  chúng ta còn đang sống trong tinh thần Cựu Ước vì Cựu Ước chưa được hoàn hảo. Chính vì vậy mà dụ ngôn hôm nay nhắc nhở chúng ta  là phải chú trọng tới Tình yêu đối với Chúa và đối với tha nhân. Từ nay chúng ta đừng phân bì với nhau mà hãy để cho Chúa hành động theo ý Ngài.

6. Truyện: Cha Sở và Cha Phó

Tại một xứ đạo kia số dân khá đông, có Cha Sở và Cha Phó. Một số giáo dân, vì cuộc sống bác ái chưa trưởng thành, nên có hai nhóm xung khắc nhau. Một nhóm quý Cha Sở, nhóm kia quý Cha Phó, vì ngài còn trẻ và năng nổ.

Một hôm nhóm ủng hộ Cha Sở đến trao đổi tâm tình với ngài:

– Thưa cha, cha ở đây đã lâu năm, công dày, đức cao, sao cha để Cha Phó thay đổi nề nếp giáo xứ mình – bỏ đi công lao cha xây dựng? Và đám thanh niên cùng một số lớn giáo dân có vẻ nghiêng cảm tình về Cha Phó. Xin cha ngăn cản đi.

Cha Sở bình tĩnh trả lời:

– Giữa tôi và Cha Phó ai vất vả hơn?

– Cha Phó.

Cha Sở chậm rải nói tiếp:

– Ngài còn trẻ, còn có sức hoạt động, phải dấn thân nhiều, và Chúa cũng lo liệu và trợ giúp ngài bằng cách cho những tâm hồn biết thông cảm, cộng tác. Đó là điều công bằng, điều tốt đẹp, sao các ông bà so bì với tôi – một người đáng lẽ đã về hưu?

Nghe Cha Sở nói sai tần số với mình, nhóm kia chống chế:

– Cha cũng đã từng hoạt động dấn thân, có khi còn hơn cả Cha Phó bây giờ.

Cha Sở nói tiếp:

– Và tôi cũng đã được người ta quý mến, ủng hộ. Và biết đâu còn hơn Cha Phó. Vì bây giờ Cha Phó vẫn còn một số người thiếu thông cảm, muốn hạ thấp.

Đám người kia ra về, họ cảm phục Cha Sở “đức cao” và cảm thấy tâm hồn, cõi lòng mình sao nhỏ nhen, trần thế quá! Từ đó nạn “bè phái” bớt nhiều.

 

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thánh Bernarđô, viện phụ, Tiến sĩ Hội Thánh

Ca nhập lễ

Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan, và lưỡi người nói điều đoan chính; luật Thiên Chúa ở trong lòng người.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh viện phụ Bê-na-đô đầy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa để trở nên ngọn đèn cháy sáng trong Giáo Hội. Nhờ lời người nguyện giúp cầu thay, xin cho chúng con cũng được lòng hăng hái như người để sống thế nào cho xứng đáng là con cái ánh sáng. Chúng con cầu xin…

Bài đọc

Phụng vụ Lời Chúa – (theo ngày trong tuần)

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Thiên Chúa uy linh cao cả, xưa thánh viện phụ Bê-na-đô đã dùng lời nói và việc làm để xây dựng bình an trong Hội Thánh. Nhân ngày lễ mừng kính người hôm nay, chúng con dâng lên Chúa của lễ này, cũng là bí tích bình an và hiệp nhất, xin Chúa thương chấp nhận, Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, Chúa Kitô là quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, trong ngày lễ kính thánh Bê-na-đô, Chúa đã bồi dưỡng chúng con nơi bàn tiệc thánh, xin cho lương thực chúng con vừa lãnh nhận đem lại lợi ích thiêng liêng cho chúng con. Ước chi gương sáng của người khích lệ chúng con, và lời giảng dạy của người soi sáng chúng con, nhờ vậy chúng con sẽ ngày càng gắn bó với Con Chúa là Ngôi Lời nhập thể, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

Thánh Bênađô, qua đời ngày 20 tháng 8 năm 1153 tại Claivaux, phong thánh năm 1174 và được tuyên bố là tiến sỹ Hội thánh năm 1830, đã ảnh hưởng mạnh mẽ lên một phần lớn thế kỷ XII mà người ta mệnh danh cách chính đáng là “thời kỳ thánh Bernard ”. Vì thánh nhân thực sự là một trong những nhân vật chính của phương Tây Kitô giáo và mãi tới nay, vẫn thuộc số những vị thánh được yêu mến nhất.

Bênađô người Clairvaux sinh năm 1090 tại Fontaine-lès-Dijon, trong một gia đình lãnh chúa quyền quí. Thân phụ, ông Tescelin, là lãnh chúa Fontaine hiệp sỹ của quận công Bourgogne và thân mẫu, phu nhân Alets de Montbard, có nhiều con và con thánh. Bà Aleth sẽ được tôn phong là chân phước. Hai mươi ba tuổi, Bênađô quyết định trở thành tu sỹ dòng Xi-tô lúc ấy đang dưới quyền điều khiển của thánh Etienne Harding tu viện trưởng. Bề trên tu viện đang buồn bã vì thiếu thỉnh sinh tu dòng thì Bênađô tới, kéo theo ba mươi thanh niên quí tộc, trong đó một số là anh em. Ông bố và các anh em khác sẽ tiếp theo sau..

Sau ba năm tu tại Xi-tô, năm 1115, Bênađô được sai đến làm tu viện trưởng, thành lập dòng tại Clairvaux và sẽ làm bề trên tại đó cho đến lúc chết. Người chăm chú cuộc đời trong chiêm niệm nhưng đồng thời cũng chuyên tâm giảng thuyết và hoạt động, bươn chải khắp các nẻo đường nước Pháp, nước Đức và nước Ý, giảng rao về an bình, nhưng cũng tuyên truyền cho cuộc thập tự sinh thứ hai (Véjelay 1146) theo yêu cầu của Đức giáo hoàng Eugène III từng là tu sỹ Clairvaux. Suốt thời làm tu viện trưởng, thánh Bênađô chỉ chuyên trách về toàn dòng Xi-tô và đã thành lập sáu mươi tám nhà dòng mới. Cùng thời gian đó, trên hầu khắp châu Âu xuất hiện nhiều nhà dòng mới, đến nỗi năm 1153 khi thánh nhân qua đời, đã có tới ba trăm bốn mươi ba nhà. Vậy nên người ta có lý khi gọi Người là vị sáng lập thứ hai Dòng Xi-tô.

Thông điệp và tính thời sự

Lời nguyện trong ngày: “Lạy Chúa, Chúa đã muốn thánh Bênađô được tràn đầy lòng yêu mến Giáo hội Chúa, trở trên ngọn đèn sưởi ấm và chiếu sáng trong nhà Chúa”. Đây là điểm đặc trưng thứ nhất của vị thánh viện phụ mà người ta, xét theo tính lịch sử, gọi là thánh giáo phụ cuối cùng căn cứ vào nền giáo lý của Ngài phù hợp với Thánh kinh phụng vụ và truyền thống Giáo hội. Bênađô đã rời bỏ lâu đài Fontaine để đến tu tại viện ở Xi-tô nơi đây các tu sỹ sống nghiêm nhặt tuân thủ qui luật thánh Biển Đức. Đức viện phụ Robert de Molesme đã xây dựng tu viện nổi tiếng này năm 1098, cùng với thánh Etienne Harding và thánh Albéric. Anh sáng của thánh tiến sỹ Bênađô rạng rỡ một cách đặc biệt trong các tác phẩm thần học và tu đức, chẳng hạn cuốn Luận về ân sủng và tự do ý chí. Cuộc thăng tiến của linh hồn tiến Chúa, các bài giảng về cuốn Diễm ca, và trong tuyệt tác của Người, cuốn Luận về tình yêu Thiên Chúa. Trong những cuộc tranh luận với thuyết duy lý của Abélard cho rằng “biết mọi sự trên trời dưới đất, chỉ trừ động từ không biết”, thánh Bênađô trình bày một nền giáo lý in đậm một nền thần bí điều độ và bình tĩnh.

Điệp khúc của thánh thi Zacharie lập lại đề tài của lời nguyện trong ngày: “Ôi lạy thánh Bênađô, sức sáng rạn rỡ của Ngôi Lời đã chiếm được hồn Ngài, nên Ngài đã trải ánh khôn ngoan và đức tin trên khắp Giáo hội”.

Lời nguyện trên lễ vật nhấn mạnh một khía cạnh khác trong nhân cách thánh Bênađô, đấng được gọi là “tiến sỹ ngọt ngào” đã “làm hết sức bằng lời nói và hành động để giúp xây dựng trật tự và bình an”. Quả thế năm 1130, khi ở Roma xảy ra việc chia rẽ giữa ngụy giáo hoàng Anaclet II với Đức giáo hoàng Innocent II, Thánh Bênađô đã chạy Đông chạy Tây khắp châu Âu hầu đem lại bình an cho Giáo hội. Cũng trong mục đích đó, ngài liên tục chống các lạc giáo đang làm tan nát giáo đoàn Kitô, đến nỗi người ta gọi Ngài là “cái búa đánh bọn lạc giáo”.

Lời nguyện tạ lễ khẩn cầu Chúa ban cho chúng ta được “tình yêu đối với Ngôi Lời nhập thể thu phục”, được cổ võ bởi gương sáng và lời khuyên của thánh Bênađô là một nhà thần bí lớn. Cuốn Luận về tình yêu Thiên Chúa đích thực là sự minh họa rõ ràng nhất: trong tác phẩm, thánh nhân đã nhiệt tình mô tả lịch sử của Ngôi Lời, cuộc đời Đức Kitô từ khởi thủy trong chốn vĩnh hằng, đồng thời cũng ca ngợi Mẹ Đức Kitô một cách tuyệt mỹ. Giáo thuyết của tình yêu cảm tính được phát triển trong một nền linh đạo lấy Đức Kitô làm trọng tâm.

Con người vốn yêu mến tình bạn và thường thúc giục: “chúng ta hãy cứ thương yêu nhau đi và sẽ được yêu thương”, con người ấy là một nhà linh hướng tâm hồn vĩ đại, bị thúc đẩy bởi tình yêu thúc bách nhất, đồng thời cũng dịu dàng nhất. Phát biểu với các ông hoàng, vua chúa, các giám mục, các giáo hoàng, Ngài thường nói: “Nếu các ngài không nghe tôi, tôi sẽ nhắc lại những lời của Gióp: Người nào không cảm thấy thương bạn mình thì đã đánh mất lòng kính sợ Thiên Chúa”. Bài ca vãng của thần vụ ca ngợi nỗi hoài cảm siêu tuyệt và dịu dàng của linh hồn đối với Ngôi Lời Thiên Chúa, Đấng chí ái của chúng ta: “Ngài đi đâu rồi ? Ta nào có biết / nhưng hồn ta mãi bị tổn thương, do tình yêu đối với Ngài” (Thần vụ trong ngày). Thánh Bênađô, con người bị nồng nhiệt thiêu đốt bởi tình yêu đó đã đi qua thế kỷ của Ngài như một “ngọn đèn sưởi ấm và chiếu sáng” và qua các thời gian vẫn không ngừng nhắc nhở chúng ta điều cốt lõi trong nền Giáo lý của Ngài: “Khi Chúa yêu thương, Chúa không muốn điều gì khác ngoài việc được yêu… Nhưng sao Đấng tình yêu lại không được yêu kia chứ?” (Phụng vụ bài đọc: Bài giảng thánh Bênađô về sách Diễm ca).

Enzo Lodi

 


THẤY TỐT BỤNG ĐÂM GHEN TỨC
(THỨ TƯ – THÁNH BÊNAĐÔ 20/08) 
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Bênađô hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã cho Thánh Viện Phụ Bênađô đầy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa để trở nên ngọn đèn cháy sáng trong Giáo Hội. Nhờ lời người nguyện giúp cầu thay, xin Chúa cho chúng ta cũng được lòng hăng hái như người, để sống thế nào cho xứng danh là con cái ánh sáng. Thánh nhân sinh năm 1090 gần Đigiông, nước Pháp. Được giáo dục theo nếp sống đạo đức, năm 1111 người nhập Dòng Các Đan Sĩ Xitô. Ít lâu sau, người được chọn làm Viện Phụ. Người đã dùng hoạt động và gương sáng để hướng dẫn các Đan Sĩ tập luyện các nhân đức. Vì có sự phân ly trong Hội Thánh, người đã đi khắp châu Âu để lo vãn hồi sự hòa bình và hợp nhất. Người đã biên soạn nhiều tác phẩm thần học và tu đức. Người qua đời năm 1153.

Xứng danh là con cái ánh sáng, sám hối quay về lại với Chúa, là nguồn sáng, chứ đừng như dân xưa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Isaia: Bàn tay Đức Chúa vẫn còn giơ lên. Ítraen dám tấn công nước Giuđa anh em, và như thế là dấn thân vào cuộc chiến tương tàn dẫn tới diệt vong. Các cuộc biến động nối tiếp nhau, khiến cho đất nước phải đắm chìm trong chiến tranh hỗn loạn. Chỉ trong không đầy một thế hệ, Ítraen đã bị xóa khỏi bản đồ. Chống lại dân tộc bất công và vô luân đó, những lời đe dọa của Amốt và Hôsê đã trở nên sự thật phũ phàng… Vì đâu Đức Chúa nổi lôi đình, khiến thiếu nữ Xion tối mày tối mặt? Vẻ huy hoàng của Ítraen, từ trời cao Người quăng xuống đất. Người chẳng nhớ đến bệ Người kê chân trong ngày Người nổi cơn thịnh nộ.

Xứng danh là con cái ánh sáng, lấy tình yêu đáp đền tình yêu, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, trích bài giảng của thánh Bênađô: Tôi yêu vì tôi yêu, tôi yêu để tôi yêu… Lạy Chúa, cao cả thay tấm lòng nhân hậu, Chúa dành cho kẻ kính sợ Ngài! Họ được no say yến tiệc nhà Ngài, nơi suối hoan lạc, Ngài cho uống thỏa thuê.

Xứng danh là con cái ánh sáng, quy phục quyền Chúa và bước theo sự soi sáng, chỉ dẫn của Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Thủ Lãnh: Anh em đã nói: Phải có một vua cai trị chúng tôi! Trong khi chính Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, là Vua anh em. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 20 cho thấy: Lạy Chúa, Ngài tỏ uy lực khiến nhà vua sung sướng, Ngài đã chiến thắng, vua hoan hỷ dường nào! Lòng vua ước nguyện sao, Chúa đã ban như vậy, miệng vua khấn xin gì, Ngài cũng không từ chối.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Lời Thiên Chúa là lời sống động và hữu hiệu, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người. Trong bài Tin Mừng, ông chủ nói: Phải chăng vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức? Lời Chúa là ánh sáng, thấu suốt tư tưởng của lòng người. Chúa nhìn thấy lòng dạ hẹp hòi, ích kỷ của ta, để xót thương và chữa lành, nhưng, ta lại làm ngơ trước lòng tốt, lòng nhân hậu từ bi của Chúa, để quay trở về với Người. Khi Thiên Chúa yêu, thì, Người không muốn điều gì khác hơn là được yêu lại, bởi vì, Người biết ai yêu mến Người, thì, sẽ được hạnh phúc nhờ chính tình yêu đó, cho dẫu, tình yêu của ta chẳng đáng là gì so với nguồn mạch tình yêu. Cao cả thay tấm lòng nhân hậu, Chúa dành cho kẻ kính sợ Người: ta được no say yến tiệc nhà Chúa; nơi suối hoan lạc, Người cho ta uống thoả thuê, vì thế, thay vì, ỷ vào công trạng của mình, để rồi, so bì ganh tỵ với người khác, ta hãy mở rộng lòng đón nhận tất cả mọi người, và cùng giúp nhau đạt tới ơn cứu độ của Chúa. Chúa đã cho Thánh Viện Phụ Bênađô đầy nhiệt tâm lo việc nhà Chúa để trở nên ngọn đèn cháy sáng trong Giáo Hội. Ước gì chúng ta cũng được lòng hăng hái như người, để sống thế nào cho xứng danh là con cái ánh sáng. Ước gì được như thế!


PowerPoint-t4-t20-TN

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây