Chuyện gì xảy ra trong Vườn Cây Dầu?
Từ nhà thờ Kinh Lạy Cha, tôi dạo bước xuống Vườn Cây Dầu cách đó chừng 1 km dọc theo con đường Lễ Lá. Tại đây người ta dễ nhận ra khu vườn tương đối nhỏ bên cạnh nhà thờ Hấp Hối (The basilica of the Agony). Nhà thờ rộng lớn này được xây lên để tưởng nhớ thời khắc thầy Giêsu trong vườn dầu, giọt mồ hôi tựa những giọt máu rơi xuống đất.
Gian cung thánh nhà thờ còn một tảng đá lớn mà theo truyền thống, người ta tin rằng chính nơi ấy thầy Giêsu đã quỳ gối cầu nguyện. Ngày nay các cha dòng Phanxicô làm một vòng gai bằng sắt lớn đặt quanh tảng đá tựa như mão gai quân lính đội cho thầy Giêsu.
Bên trái nhà thờ là bức ảnh lớn “chụp” lại cảnh quân lính đến bắt Thầy và bên phải là thời khắc Giu-đa Ít-ca-ri-ốt hôn để chỉ điểm Thầy. Đó là những nội dung liên quan đến một đêm kinh hoàng cho các môn đệ, một đêm xao xuyến của thầy Giêsu và một đêm kỷ niệm cho tôi khi theo nhóm của Thầy vào vườn cây dầu.
Ngoài ra, khu vực vườn cây dầu hiện nay còn có “mộ của Đức Mẹ”[1], nhà thờ Chính thống giáo Hy lạp và Chính Thống Nga sát cạnh nhà thờ thánh Maria Ma-đa-lê-na.
1. Khu Vườn Thân Thuộc
Khác với sự náo nhiệt trong nội thành hay chốn đông người, vườn cây dầu là nơi hoang vắng mỗi khi trời về đêm. Quanh khu vườn là một quần thể mồ mả của người Do Thái. Ngày xưa Thầy trò Đức Giêsu thường hay lưu lại chốn này để nghỉ ngơi và hàn huyên tâm sự. Bởi đó, ai trong các môn đệ cũng tinh tường đường đi nước bước quanh khu vực này.
Điều ấn tượng đầu tiên đối với tôi là những cây Ô-liu cổ thụ mà người ta tin rằng chúng đã chứng kiến tất cả những gì Thầy trò Đức Giêsu đã hội họp tại đây. Nào là những giờ chỉ có thầy trò ngồi dưới bóng mát của khu vườn, nào là những đêm trăng thanh gió mát Thầy trò dạo bước sau bữa ăn. Nhất là đêm nay, Thầy trò đến một thửa đất gọi là Vườn Giết-sê-ma-ni (Bồn ép dầu Ô-liu, nằm dưới chân núi Ô-liu phía Đông thành Giêrusalem).
Tại đây đêm nay, khu vườn không còn chỉ là chốn riêng tư của Thầy trò Giêsu nữa, nhưng là nơi người ta đem gậy gộc, khí giới đến bắt Thầy. Khu vườn trở nên ồn ào. Đây đó tôi thấy những nhành lá Ô-liu nằm lăn lóc. Lúc quân lính đến, người ta vung gươm múa kiếm, văng khua gậy gộc khiến cành lá Ô-liu cũng phải tổn thương. Đó là cảnh náo động mà chính những cây Ô-liu như một dấu chứng của đêm hôm ấy: Đêm Thầy bị bắt.
Tôi đứng gần cây lớn nhất trong vườn để ngắm nhìn những gì đang diễn ra đêm hôm ấy. Vỏ cây sần sùi và mỗi năm người ta đều cắt tỉa không cho chúng lên cao hơn. Bởi thế thân cây cao chừng 3-4m ngày càng béo phì ra hơn. Nhìn tuổi đời của cây, tôi liên tưởng đến đêm hôm Thầy bị bắt để thiết tha xin với Thầy cho tôi được ở lại với Thầy trong đêm nay, để tỉnh thức với Thầy và cùng hiệp thông với Thầy trong vài giờ tại khu vườn nổi tiếng này.
2. Giờ cầu nguyện với nỗi sợ kinh hoàng
Khi Thầy trò đến khu vườn là lúc gần nửa đêm. Bóng tối bao trùm mặt đất và ngọn đuốc các ông lúc nãy soi đường cũng dần tàn. Bấy giờ Thầy căn dặn các môn đệ một điều thiết yếu cho đêm nay: “Anh em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.” (Lc 22,40). Xa-tan không bao giờ ngủ, chúng lúc nào chẳng cám dỗ, thưa Thầy? Tôi nghĩ bụng như thế. Nhưng xét cho cùng thì đêm nay chính là lúc Xa-tan hoành hành, chúng không chỉ nhắm đến mạng sống của Thầy mà còn khiến các môn đệ phải chạy toán loạn.
Rồi người để tám môn đệ kia ở lại (hiện nay là hang động nhà nguyện Giết-sê-ma-ni, sát “mộ của Đức Mẹ”). Ba môn đệ còn lại được theo Thầy đến khu những cây Ô-liu cổ thụ cách chừng 50m và cầu nguyện ở đó. Đến nơi, Thầy bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến. Bởi Thầy biết mình sắp đối diện với điều gì. Thầy ngồi xuống với ba môn đệ và nói: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26,38).
Lúc này Thầy cần các ông như nguồn an ủi trong cơn khốn khó. Thầy cần những người bạn có phúc cùng hưởng có họa cùng chia. Những lúc các ông gặp khó khăn chính Thầy đến để an ủi trợ giúp. Lúc này, Thầy xin các ông ở lại để canh thức với Thầy. Hóa ra trong mọi cơn thách đố của cuộc đời, ai cũng cần tha nhân để nương tựa, cần trợ lực để vượt qua. Tiếc là các ông không hiểu Thầy đang phải chịu những gì; do đó mắt các ông trĩu nặng vì trời đã gần sang canh.
Lúc này Thầy đi xa hơn một chút tới tảng đá lớn đàng kia để cầu nguyện. Nơi đó chắc hẳn là chỗ thân quen để Thầy gặp gỡ Thiên Chúa Cha. Một tảng đá lớn tựa bàn thờ để hiến tế con chiên. Thầy sấp mặt xuống đó và cầu nguyện cùng với Cha. Đầu tiên Thầy xin Cha cho Thầy khỏi phải uống chén đắng này. Tuy vậy, Thầy vẫn xin Cha đừng làm theo ý Thầy, nhưng một theo ý Cha. “Áb-ba, Cha ơi, Cha làm được mọi sự, xin cất chén này xa con. Nhưng xin đừng làm điều con muốn, mà làm điều Cha muốn. (Mc 14,36). Lúc này Thầy bị đặt trong mối giằng co giữa sự sống và lòng tuân phục Chúa Cha. Nhưng dẫu sao, là con người, tâm trạng Thầy không tránh khỏi nỗi buồn sầu đau khổ trước giờ lâm tử. Nhìn Thầy lúc này tôi nhớ lại những lời Thánh vịnh mô tả về người công chính đau khổ[2].
Thánh Mát-thêu kể tiếp sau lần cầu nguyện thứ nhất, Thầy quay lại chỗ ba môn đệ. Buồn thay, vì các ông đang ngủ. Thầy lay Phê-rô dậy, Gio-an và Gia-cô-bê cũng tỉnh giấc. Thầy nhắc ba ông: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26, 40-41).
Vậy là nỗi buồn của Thầy gia tăng khi các môn đệ thân tín của mình hồn nhiên no ngủ. Thật ra sau một ngày ròng rã với Thầy, một bữa tiệc dài với nhiều thông điệp Thầy trao, lúc này họ đều mệt mỏi. Vả lại buồn ngủ là sở trường của các môn đệ mà! Thầy thông cảm và tiếp tục cầu nguyện với Cha.
Lần hai Thầy cầu nguyện với cùng một nội dung vốn xin cho mình thoát khỏi giờ này. Tôi nhìn bước chân Thầy trĩu nặng, chiếc áo thấm đẫm mồ hôi, mặc dù trời lúc này sương rơi gió mát. Thầy tuôn mồ hôi mà theo thánh Luca ghi nhận là như những giọt máu rơi xuống đất.
Sau đó Thầy trở lại chỗ môn đệ và thấy các ông vẫn đang ngon giấc. Mắt các ông không chiến thắng được cơn buồn ngủ dù các ông biết cần phải canh thức với Thầy. Đúng là xác thịt thì yếu đuối khiến các ông khó canh thức với Thầy. Lần này Thầy không đánh thức các ông, nhưng trở lại cầu nguyện lần thứ ba với Chúa Cha với ơn xin như hai lần trước.
Tuy vậy, lần này thầy Giêsu đã có câu trả lời minh thị từ Chúa Cha: Thầy phải chết để cứu độ con người. Từ lúc đó, Thầy đón nhận tất cả và theo như mạch văn của thánh Gioan, Thầy chủ động trong cuộc khổ nạn. Thầy đứng dậy, đến chỗ các môn đệ và nói: “Lúc này còn ngủ, còn nghỉ sao? Này, đến giờ Con Người bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi. Đứng dậy, ta đi nào! Kìa kẻ nộp Thầy đã tới.” (Mt 26,45-45).
3. Quân lính đến bắt Thầy
Tôi ngước nhìn xuống phía dưới thung lũng Kít-rôn liền thấy những bó đuốc đang tiến lại khu vườn. Thỉnh thoảng nghe tiếng xì xào của người chỉ đường và tiếng la ó của quân lính hung hăng hằm hằm sát khí. Họ là một đám người đông đảo mang gươm giáo gậy gộc. Chúng thừa lệnh của Thượng Hội Đồng đến bắt Thầy.
Bỗng nhiên khu vườn trở nên ồn ào, các môn đệ tỉnh ngủ và bàng hoàng khi thấy nhóm lính tráng hung hăng. Phần thầy Giêsu thừa biết chuyện gì đang xảy ra nên Thầy tiến ra hỏi họ muốn tìm ai. Dĩ nhiên là toán lính cùng đám thuộc hạ đang tìm Giêsu Nazarét. Thầy nói: “Chính tôi đây. Nghe thấy thế, quân lính cảm thấy vẻ uy nghi quyền năng của Thầy, nên họ lùi lại và ngã xuống đất.” (Ga 18,5-6).
Bọn chúng đứng dậy, lấy lại bình tĩnh để chu toàn nhiệm vụ. Chúng nhìn về phía Giu-đa để yêu cầu ông phải chỉ đích danh ai là Giêsu. Thực ra chúng có lý vì biết đâu đêm tối chập choạng bắt nhằm người thì công cốc và hậu quả khó lường trước Thượng Hội Đồng, do đó chúng yêu cầu Giu-đa chỉ điểm. Với bộ dạng không mấy tự tin, Giu-đa bước tới hôn Thầy. Một nụ hôn phản bội đã đi vào huyền thoại, bởi mỗi lần nhắc tới Giu-đa bán Chúa, người đời không quên giây phút ông nộp Chúa bằng một nụ hôn. Thầy lúc ấy nhìn thẳng vào mắt ông và nói: “Giu-đa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” Ông im lặng rụt bước về phía lính tráng.
Ai cũng nhận ra tình hình đang trở nên căng thẳng bởi một bên hung giữ muốn bắt Thầy, bên kia muốn bảo vệ Thầy. Phê-rô với tính khí cương nghị và trong vai trò trưởng nhóm, ông phản kháng chống trả bằng cách tuốt gươm chém đứt tai phải đầy tớ của vị thượng tế tên là Man-khô. Ngay sau đó, Phê-rô bị Thầy khiển trách và giải thích cho ông hiểu: “Hãy xỏ gươm vào bao. Chén mà Chúa Cha đã trao cho Thầy, lẽ nào Thầy chẳng uống.” (Ga 18,11). Thế là Thầy đưa tay làm phép lạ chữa lành cho Man-khô. Tôi thấy ông ngỡ ngàng vì một phép lạ nhãn tiền. Ông quỳ gối cảm ơn và lúng túng không biết làm gì, nên bắt hay nên tha cho Thầy.
Tuy vậy, một mình Man-khô đâu chống lại bằng ấy toán lính kia. Chúng nhanh chóng bao vây trói Thầy lại. Thầy không kháng cự. Các môn đệ thấy tình hình không mấy an toàn nên bỏ chạy hết, chỉ còn Phê-rô theo xa xa.
Thế là Thầy chính thức bắt đầu đi vào con đường thập giá. Mưu đồ của Thượng Hồi Đồng đã dần hiện thực, vì bấy lâu nay họ luôn muốn bắt Giêsu. Bắt đầu ngày mới, khu vườn chỉ còn tiếng sột soạt la ó bắt Thầy đi nhanh hơn. Vì khu vườn là chỗ xa dân cư nên chẳng ai biết chuyện gì đang diễn ra lúc này. Người nào cũng chìm trong giấc ngủ.
Các Tin Mừng chỉ trình thuật vỏn vẹn một câu: Họ điệu Đức Giêsu đến ông Kha-nan là nhạc phụ ông Cai-pha. Tuy nhiên nếu ai có mặt buổi điệu giải Thầy hôm đó, đều thấy chặng đường dài ghồ ghề mà quân lính bắt Thầy phải đi nhanh. Từ khu vườn, người ta dẫn Thầy trực chỉ xuống thung lũng Kit-rôn, rồi trèo lên hướng về nhà ông Cai-Pha. Trong cảnh hoang mang ấy, tôi chợt nhận ra Thầy đang chịu cực vì ai!
4. Đức Mẹ nhận hung tin
Các Tin Mừng không kể lại thời khắc Đức Mẹ biết con mình bị bắt. Tuy nhiên tôi nhớ có lần xem phim Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, đạo diễn khéo léo quay lại cảnh Gioan chạy về báo tin cho Đức Mẹ. Dầu sao đêm nay, tôi cũng được mời gọi chiêm niệm lại cảnh ấy.
Từ hồi đêm, giấc ngủ Đức Mẹ cứ chập chờn, lòng Mẹ bất an vì một điều gì đó sắp xảy ra. Thôi thì Mẹ cố nhắm mắt ngủ cho lại sức. Đột nhiên Mẹ nghe tiếng gọi thất thanh của thánh Gioan: “Mẹ ơi, người ta bắt Thầy rồi...!” Mẹ không tin vào tai mình, chắc mình đang nằm mơ. Nhưng không, Mẹ ra mở cửa thì thấy Gioan đang thở hổn hển vì chạy nhanh về báo cho Mẹ một hung tin. Lúc này Mẹ bàng hoàng bối rối, vì không biết chuyện gì đang xảy ra với con của Mẹ.
Thực ra kể từ khi con của Mẹ bắt đầu sứ mạng công khai rao giảng Tin Mừng, Mẹ lúc nào cũng linh cảm một ngày người ta sẽ gây cho con của Mẹ nhiều đau khổ. Vả lại hơn ai hết, Mẹ hiểu những lần Thầy tiên báo về Cuộc khổ nạn, Mẹ suy đi nghĩ lại trong lòng. Mẹ đâu ngờ, linh cảm ấy lại đến trong đêm nay. Mẹ nhanh chóng cùng với Gioan tìm đến nơi Giêsu xem sự thể như thế nào. Trong đêm tối, người ta vẫn nhìn thấy giọt nước mắt Mẹ tuôn rơi, lòng Mẹ nát tan, vì người con Mẹ hằng yêu mến đang gặp gian truân.
Tôi theo Mẹ và Gioan đến nhà ông Caipha trên sườn núi Sion. Ở đó, chúng tôi chứng kiến nhiều câu chuyện liên quan đến Thầy và cả ông Phêrô nữa.
Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
Kỳ tới: Đêm Đức Giêsu bị bắt, chuyện gì xảy ra?
[1] Nếu đến Đất Thánh, người ta thường đến hai nơi liên quan đến Đức Mẹ. Theo truyền thống của Chính thống giáo, sau khi mất, Đức Mẹ được an táng trong mồ, gần vườn Giết-sê-ma-ni. Cũng giống như Con của Mẹ là Chúa Giêsu, sau ba ngày Mẹ được đưa lên trời cả hồn và xác. Truyền thống của người Kitô giáo cho rằng Đức Mẹ chỉ ngủ và trong giấc ngủ Đức Mẹ được đưa về trời. Bởi đó trên núi Sion, tương truyền chính là nơi Đức Mẹ ở những năm cuối đời. Hiện nay là nhà thờ Đức Mẹ Ngủ (the Dormition of the Virgin Mary).
[2] “Vậy mà con đã nói vì hốt hoảng: Con bị đuổi đi khuất mắt Chúa rồi! Thế nhưng Ngài đã nghe tiếng con nài van trong ngày con kêu cứu.” Tv 31,23. “Từ cùng cõi địa cầu, con kêu lên Chúa, tâm thần con đang mòn mỏi rã rời. Trên tảng đá kia cao vời vọi, xin Ngài dẫn con lên.” Tv 61,3