Giáo Phận Ban Mê Thuộthttps://gpbanmethuot.net/assets/images/logo.png
Thứ sáu - 06/10/2023 09:42 |
793
“Desiderio desideravihoc Pascha manducare vobiscum, antequam patiar” (Lc 22,15)“Thầy những khát khao mong mỏiăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22,15)
Desiderio Desideravi từ viễn quan thần học hiện diện
DESIDERIO DESIDERAVI TỪ VIỄN QUAN THẦN HỌC HIỆN DIỆN[1] “Desiderio desideravi hoc Pascha manducare vobiscum, antequam patiar” (Lc 22,15) “Thầy những khát khao mong mỏi ăn lễ Vượt Qua này với anh em trước khi chịu khổ hình” (Lc 22,15)
WHĐ (05.10.2022) - Trong ngày Đại lễ kính hai thánh tông đồ Phêrô và Phaolô, 29/6/2022, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tông thư Desiderio Desideravi[2]. Theo nhiều khía cạnh, bức tông thư này là bản hoàn thiện cho Tự sắc Traditionis Custodes[3] của Đức Thánh Cha Phanxicô. Với tông thư mới nhất này, Đức Thánh Cha kêu gọi Giáo hội hướng đến sự hiểu biết rộng hơn và suy tư sâu hơn về các di sản Phụng vụ mà chúng ta đang có. Vì thế, mục đích của bài viết này là cung cấp một dàn ý để hiểu điều mà Đức Thánh Cha đang đề ra cho Giáo hội, và do đó hy vọng rằng tông thư sẽ giúp mỗi cá nhân tham dự vào các nghi lễ thánh thiêng một cách sâu xa hơn.
Desiderio Desideravi là một tông thư ngắn, chỉ dài khoảng 40 trang (65 số). Thay vì đưa ra một bản tóm hay nhận định về tông thư, thì bài viết này sẽ cung cấp một dàn ý để giúp hiểu tông thư. Trước hết, chúng ta sẽ nhìn vào (1) bối cảnh lịch sử và mục đích của tông thư; hai điều này sẽ giúp định hướng để chúng ta hiểu điều mà Đức Thánh Cha đang cố gắng hoàn thiện, cũng như điều mà ngài đang dựa trên đó để xây dựng những suy tư thần học về Bí tích Thánh Thể. Sau đó, chúng ta sẽ xem xét (2) các chủ đề quan trọng và lời mời gọi hành động của tông thư. Điều này sẽ bao hàm những tóm tắt ngắn gọn của các khía cạnh khác nhau trong các phần, cùng với các trích dẫn để làm nổi bật tính thích hợp của những điều mà Đức Thánh Cha đang đề nghị. Cuối cùng, (3) phần kết luận, chúng ta thử đưa ra một vài nhận định về việc làm thế nào để một linh mục có thể đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha.
Vào ngày 16 tháng 7 năm 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành Tự sắc Traditionis Custodes cùng một lá thư được gửi kèm đến các giám mục trên toàn thế giới để giải thích những ngụ ý trong tự sắc này[4].Sau đó, ngày 4 tháng 12 năm 2021, Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích đã công bố một bản Phúc đáp (Responsa) cho một loạt những nghi ngờ (dubia) nảy sinh từ Tự sắc Traditionis Custodes[5]. Trong cả 3 văn kiện này, có một sự lặp đi lặp lại nhất quán đối với mong muốn thống nhất trong việc thờ phượng và trong Giáo hội. Đây là mối bận tâm bao quát đã được Đức Thánh Cha nêu lên.
Mặc dù Tự sắc Traditionis Custodes nhấn mạnh chủ yếu đến việc điều chỉnh cách dùng Sách Lễ Roma 1962, nó thực sự đề ra 2 ý quan trọng để hiểu Tông thư Desiderio Desideravi.
Trước hết, Điều 1 của Tự sắc Traditionis Custodes xác định: “Các sách Phụng vụ được ban hành bởi Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II, tuân theo các sắc lệnh của Công đồng Vatican II, là sự diễn đạt độc đáo ‘luật cầu nguyện’ (lex orandi) của Nghi lễ Roma.” Điều này được đưa ra như một khẳng định riêng biệt về thần học rằng các sách Phụng vụ hiện tại là sự lưu trữ đích thực truyền thống Phụng vụ trong Nghi lễ Roma. Ý tưởng đó được phát triển thêm trong Tông thư Desiderio Desideravi, và nó rất quan trọng để hiểu ý của Đức Thánh Cha Phanxicô trong lời mời gọi hiệp nhất Phụng vụ và Giáo hội.
Thứ đến, trong Điều 2 của Traditionis Custodes Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhắc lại trách nhiệm của hàng giám mục rằng: “với tư cách là người trung gian, là người hỗ trợ và là người giám hộ cho toàn thể đời sống Phụng vụ của Giáo hội mà các ngài đã được tin tưởng trao phó, để kiểm soát việc cử hành các nghi thức Phụng vụ trong giáo phận của các ngài.” Điều này cũng đã được bổ sung trong Thư của Đức Thánh Cha gửi cho các Giám mục trên toàn thế giới. Đức Thánh Cha đã chỉ trích những lạm dụng trong việc cử hành Thánh lễ hiện nay. Trong Thư nêu rõ:
Tôi rất đau buồn vì những lạm dụng ở mọi khía cạnh trong việc cử hành Phụng vụ. Cùng chung tâm tình với Đức Bênêđictô XVI, tôi lấy làm tiếc trước thực trạng ‘ở nhiều nơi, các quy định trong Sách Lễ mới không được tuân giữ khi cử hành Thánh lễ, nhưng trên thực tế lại được cử hành như một quyền lợi hay thậm chí như một yêu cầu của tính sáng tạo. Điều này dẫn đến những lệch lạc không thể chấp nhận được’[6].
Trong phần kết của bức thư, một lần nữa, Đức Thánh Cha nói: “Tôi xin anh em [các giám mục] hãy cẩn trọng để bảo đảm rằng mỗi nghi thức Phụng vụ đều được cử hành cách nghiêm trang và theo đúng các sách Nghi thức Phụng vụ đã được ban hành sau Công đồng Vatican II, tránh những lệch lạc dễ dẫn đến những lạm dụng.” Lời kêu gọi cảnh giác chống lại những lạm dụng nghi thức Phụng vụ của Đức Thánh Cha cũng bao hàm ngụ ý cho việc tập trung nhiều hơn trong các cử hành Phụng vụ ở các giáo phận trên toàn thế giới. Trong ánh sáng này, Tông thư Desiderio Desideravi là bản hoàn thiện cho Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi cho các Giám mục. Trong lá thư gửi đến các giám mục trên toàn thế giới, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra một điểm thần học quan trọng liên quan đến việc hiểu Tông thư Desiderio Desideravi. Ngài tuyên bố: “Bất cứ ai, với lòng yêu mến, mong muốn cử hành các nghi thức Phụng vụ theo các hình thức trước đây đều có thể tìm thấy trong Sách Lễ Roma (2002) đã được sửa đổi theo Công đồng Vatican II về tất cả các chi tiết của Nghi thức Phụng vụ Roma, đặc biệt Quy điển Roma…”[7]
Đây là một hệ luận quan trọng mà theo đó Sách Lễ Roma đã được định nghĩa như là cách diễn đạt độc nhất của “luật cầu nguyện” (lex orandi)[8]. Sách Lễ Roma đã được ban hành và sửa đổi một cách chuẩn xác theo Công đồng Chung Vatican II nên nó thực sự trình bày Nghi thức Phụng vụ Roma truyền thống giống như đã được trình bày trong Sách Lễ Roma 1962. Vì thế, không có sự mâu thuẫn nào hay sự thiếu hụt nào về thần học trong Sách Lễ Roma đòi phải dựa vào Sách Lễ Roma 1962.
Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa ý thức được rằng mọi nghi thức trích từ Sách Lễ Roma 1962 đều có thể được tìm thấy trong Sách Lễ Roma ngày nay. Điều này gợi đến nhu cầu cần có chương trình đào tạo về Phụng vụ để giúp cho Dân Chúa hiểu được sự tiếp nối của nghi lễ truyền thống và cách mà nghi lễ truyền thống hiện hữu trong Sách Lễ Roma. Đây là mục đích của Tông thư Desiderio Desideravi. Trong tinh thần đó Đức Thánh Cha bắt đầu cuộc diễn luận và kêu gọi có chương trình đào tạo cho Dân Chúa, giúp họ có thể tham dự cách sâu xa hơn vào các Nghi thức Phụng vụ Roma truyền thống.
Một lưu ý cuối cùng là nhà thần học Romano Guardini (1885- 1969) đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc đến xuyên suốt Tông thư Desiderio Desideravi. Điều này không có gì là ngạc nhiên đối với nhiều nhà nghiên cứu vì từ ban đầu Đức Thánh Cha Phanxicô đã có ý định viết luận văn tiến sĩ của ngài theo Guardini. Thực sự, Guardini là một triết gia theo chủ nghĩa cá nhân trong trường phái hiện tượng luận. Ông đã cống hiến rất nhiều thành quả nghiên cứu của mình đối với việc hiểu cách mà con người trải nghiệm các nghi thức Phụng vụ và cách con người gặp gỡ Thiên Chúa, hiện diện thâm sâu hơn qua các nghi thức Phụng vụ. Quan điểm đó đã góp phần cho xu hướng chung về canh tân Phụng vụ trong thế kỷ 20.
Một ý tưởng quan trọng đối với Guardini là chủ nghĩa biểu tượng và sự tỏ lộ của các biểu tượng. Đối với Guardini, con người là một hiển linh (epiphany), nơi mà thân xác là một biểu tượng của tâm hồn. Theo viễn quan đó, tất cả các khía cạnh của Phụng vụ đều trở thành “ngôn ngữ” biểu tượng (epiphatic), biểu lộ những thực tại thiêng liêng. Những cuộc gặp gỡ thâm sâu này - gặp gỡ thực tại qua biểu tượng - đã định dạng (in-formed) tâm hồn. Như vậy, một sự chuẩn bị cẩn thận trước của một người giúp người khác sẵn sàng để đón nhận dấu ấn huyền nhiệm được truyền đạt qua Phụng vụ. Guardini cũng đã viết rằng Phụng vụ là nơi mà các Kitô hữu hội họp trong sự hiệp nhất. Sự hiệp nhất này không phải là một sự tuân theo một cách vô thức hay sự từ bỏ các đặc tính cá nhân trong một tập thể như “sự nặc danh trong một đám đông” nào đó[9]. Thay vào đó, sự hiệp nhất trong Phụng vụ là một sự hiệp nhất hướng đến mục đích chung cuộc (final end). Chúng ta “trở nên một trong Phụng vụ” ngang qua việc hướng đến cùng đích chung của chúng ta: kết hiệp với Thiên Chúa.
Trong Lời tựa, Tông thư Desiderio Desideravi trình bày rõ ràng mục đích: “Đào tạo Phụng vụ cho Dân Thiên Chúa.” Vào ngày 29 tháng 6 năm 2022, bản tin (bollettino) của Thánh bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích đã đưa ra một thông cáo ngắn gọn xác định lại mục đích của tông thư[10]. Bản tin nhấn mạnh rằng Tông thư Desiderio Desideravi “không phải là bản quy tắc hay bản hướng dẫn, nhưng là một sự suy gẫm... gợi ra nhiều cách thức để hiểu về vẻ đẹp và chân lý hàm chứa trong Phụng vụ.” Như thế, Tông thư Desiderio Desideravi không phải là một dự phóng toàn diện, nhưng thay vào đó nó chú trọng đến việc khuyến khích cho một cuộc đối thoại gặp gỡ và lời mời gọi toàn thể Giáo hội tìm cách đào sâu vào các Nghi thức Phụng vụ Thánh mà chúng ta đang có, đồng thời cũng không “dễ dãi” tìm trốn tránh trong những nẻo đường mang hơi hướng chủ nghĩa cá nhân hay tinh thần chủ quan.
1.1. Hiến chế Phụng vụ thánh, số 7 (Sacrosanctum Concilium, 7)
Đoạn văn này được trích dẫn xuyên suốt tông thư và nó là một điểm suy tư chính của Đức Thánh Cha Phanxicô. Đoạn văn bắt đầu bằng tuyên bố rằng Đức Kitô hiện diện trong các cử hành Phụng vụ của Giáo hội, trong mỗi bí tích, trong việc công bố Lời Chúa của các cộng đoàn Phụng vụ và trong kinh nguyện chung của toàn thể Giáo hội. Qua Phụng vụ, Đức Kitô thực hiện chức vụ tư tế của Người và thánh hóa con người qua việc dùng các dấu chỉ khả giác. Trong Phụng vụ “toàn thể việc thờ phượng mang tính cộng đồng được thể hiện qua Nhiệm Thể Mầu Nhiệm của Đức Giêsu Kitô, đó chính là Đầu và là Thân Thể của Người.” Như thế, cử hành Phụng vụ là một hoạt động trọn vẹn của Đức Kitô Nhiệm thể, vừa là Đầu vừa là Thân Thể, gồm các chi thể tham dự cộng đoàn Phụng vụ.
1.2. Ý nghĩa Thần học về Phụng vụ
Ở đoạn văn số 16, Đức Thánh Cha đề cập đến ý nghĩa thần học về Phụng vụ. Phụng vụ có nội dung thần học riêng để dạy các Kitô hữu cách đúng đắn. Chúng ta không áp đặt tư tưởng cá nhân vào Phụng vụ. Thay vào đó, vì Phụng vụ là cuộc gặp gỡ đích thực của một thực tại khách quan, Mầu nhiệm Vượt qua, nên chúng ta phải “uốn nắn” chính mình, tâm tư tình cảm, theo sự tự tỏ lộ chính mình của Thiên Chúa qua Phụng vụ. Đức Thánh Cha mời gọi toàn thể Hội Thánh “khám phá lại, bảo toàn và sống những ý nghĩa xác thực cũng như sức mạnh của các cử hành Phụng vụ Kitô giáo.”
Tiếp theo là phần có lời tựa: “Phụng vụ: thuốc giải độc cho sự độc hại của tinh thần thế tục thiêng liêng.” Đức Thánh Cha đã tận dụng khái niệm này để chống lại thuyết Ngộ đạo và thuyết Tân Pelagiô[11], và một quan điểm xem Phụng vụ như là những lễ nghi có tính hình thức bề ngoài[12]. Đức Thánh Cha Phanxicô mong muốn Giáo hội đi từ những dấu chỉ, hình thái bề ngoài để đụng chạm tới những thực tại phía sau những dấu chỉ đó. Người cũng muốn Giáo hội không ‘mắc kẹt’ trong các chọn lựa và suy tư có tính cách chủ quan và cá nhân. Nhờ đó, chúng ta có thể gặp gỡ chính Đức Kitô, một thực tại khách quan.
1.3. Thế giới quan mang tính biểu tượng
Chìa khóa để có thể lĩnh hội được ý nghĩa thần học về Phụng vụ là phải có một thế giới quan mang tính biểu tượng. Nếu các biểu tượng của Phụng vụ không thể chuyển tải hay dẫn vào những thực tại lớn hơn, khi đó Phụng vụ chỉ là những nghi lễ bề ngoài hay những cảm tính chủ quan. Thật đáng tiếc là rất nhiều người ngày nay không còn có thế giới quan mang tính biểu tượng nữa[13]. Đây là thách đố quan trọng mà chúng ta cần phải vượt qua. Thực sự, thế giới quan mang tính biểu tượng dựa trên logic Nhập thể (Emmanuel) trong đó, bản tính Thiên Chúa của Đức Kitô được nhận biết qua bản tính loài người của Người[14]. Nói cách khác, bản tính loài người của Đức Giêsu trở thành quy điểm, cánh cửa để con người có thể “hiện diện” trong Thiên Chúa[15]. Đây là tính chất cơ bản của một biểu tượng: một khách thể làm cho một thực tại lớn hơn được nhận biết, các hành vi nên như một cửa ngõ mà để có thể đi đến gặp gỡ một thực tại lớn hơn.
1.4. Đào tạo Phụng vụ
Phụng vụ khuôn đúc chúng ta và làm cho chúng ta thực sự “thành người”. Có hai loại hình đào tạo Phụng vụ: (1) “Đào tạo cho Phụng vụ” (ý nghĩa thứ nhất) và (2) “đào tạo qua Phụng vụ” (ý nghĩa thứ hai)[16]. Có một mối quan hệ hỗ tương giữa hai ý nghĩa này. “Đào tạo qua Phụng vụ” là nền tảng của đào tạo, nó bắt nguồn từ cảm nghiệm thực tế trong Phụng vụ. “Đào tạo cho Phụng vụ” nghĩa là: dẫn dắt, chuẩn bị một cá nhân đến cuộc cảm nghiệm Mầu nhiệm Vượt qua trong Phụng vụ một cách tròn đầy hơn và nhờ đó có thể dễ dàng được biến đổi qua Phụng vụ[17]. Vì Mầu nhiệm Vượt qua được cử hành vượt quá khả năng hiểu biết của chúng ta, nên chúng ta không bao giờ được phép “ngừng” đào tạo chính mình về Phụng vụ theo hai ý nghĩa vừa nêu trên. Chỉ khi đó chúng ta mới được bừng nở “sửng sốt thiêng liêng” trước Mầu nhiệm[18].
1.5. Cuộc gặp gỡ thâm sâu với Mầu Nhiệm Vượt Qua
Phụng vụ không truyền thụ lại một ý tưởng về Đức Kitô hay một sự hồi tưởng đơn giản về những hành động của Người. Nếu là như thế thì Phụng vụ đã không thể tồn tại hơn 2000 năm! Đúng hơn, Phụng vụ là cách mà Ba Ngôi Thiên Chúa đã chọn để tiếp tục biểu lộ những nhiệm tích cứu chuộc của Mầu nhiệm Vượt qua[19]. Đó là thực tại quan trọng cần được khám phá, “cần được bắt lấy”! Mỗi cử hành Phụng vụ cần đảm bảo khả năng xảy ra sự tiếp diện cá vị và thâm sâu với Mầu Nhiệm Vượt Qua[20]. Nhờ cuộc gặp gỡ nhiệm mầu này, chúng ta được thánh hóa và được cứu độ. Đó là nơi và là cách thế mà Thiên Chúa thường xuyên biểu lộ hành động cứu chuộc và hiệp nhất của Người qua không gian và thời gian.
1.6. Hiệp nhất trong Thờ phượng
Giáo hội được sinh ra từ trong Mầu nhiệm Vượt qua, từ cạnh sườn của Đức Kitô trên Thập giá. Nhờ Bí tích Thánh tẩy, chúng ta được gia nhập vào Nhiệm Thể này và chỉ trong sự kết hiệp với Nhiệm thể này chúng ta mới thực sự có thể tham dự vào việc thờ phượng Thiên Chúa một cách trọn vẹn. Bởi vì, Đức Kitô, khi quy tụ tất cả thành Nhiệm thể của Người, đã dâng “hiến lễ vâng phục” như một hành vi thờ phượng Thiên Chúa Cha một cách hoàn hảo nhất[21].Chúng ta cũng có thể hiến dâng một hy lễ hoàn hảo lên Thiên Chúa khi hiệp nhất vào trong Nhiệm Thể Đức Kitô. Như vậy, Phụng vụ là nơi chúng ta tìm gặp sự hiệp nhất. Chúng ta không được mời gọi hiệp nhất với những hình thức xuề xòa bên ngoài của sự thờ phượng, nhưng là hiệp nhất trong đức tin và thần học, điều đó có ảnh hưởng đến cách chúng ta thờ phượng (và ngược lại).
Việc loại trừ Sách lễ Roma (Thánh Gioan Phaolô II ban hành năm 2002) không phải là vấn đề về sự cảm nếm hay tinh thần Phụng vụ, nhưng là một vấn đề về có tính Giáo hội học. Sách Lễ Roma, như đã nói ở trên, là cách diễn đạt mang tính thần học độc đáo của Công đồng. Loại bỏ thần học trong Sách Lễ Roma trên thực tế là phản đối thần học của Công đồng Vaticanô II[22]. Thay vào đó, trung thành với Công đồng có nghĩa là đào sâu hơn Sách Lễ Roma chứ không phải quay trở lại với Sách Lễ Roma 1962[23]. Sách Lễ Roma 2002 mang truyền thống của Sách Lễ Roma 1962 cùng với việc bổ sung sự khai triển thần học đúng đắn của Công đồng Vaticanô II.
1.7. Thái độ khiêm tốn trước Quà tặng Bí tích
Bữa Vượt qua là một quà tặng được trao ban chứ không phải là một quà tặng tự kiếm được. Tất cả chúng ta đều được mời tham dự, mặc dù không phải ai cũng có thể nghe thấy tiếng mời gọi và đáp lời[24]. Việc đáp lại lời mời đón nhận quà tặng này trở thành một trong những hành động khiêm tốn khi chúng ta dâng hiến chính mình cho Thiên Chúa[25]. Đây chính là phẩm cách nền tảng của chúng ta khi tham dự những nghi lễ của Giáo hội. Phụng vụ không phải là cái gì đó mà chúng ta có thể lựa chọn cách này hay cách khác một cách chủ quan, làm méo mó Phụng vụ theo ý thích của chúng ta, hoặc phục vụ cho những lợi lộc cá nhân. Phụng vụ là món quà ân sủng được ban tặng; và như thế, khi cử hành hay tham dự Phụng vụ, có một thái độ khiêm tốn là điều thiết yếu cho một cuộc gặp gỡ Mầu nhiệm Vượt qua đích thực.
Sự ‘sửng sốt’ hay ‘ngỡ ngàng’ là thái độ cần thiết khi tham dự Phụng vụ. “Nếu không sửng sốt trước mầu nhiệm Vượt qua được hiện tại hóa cách cụ thể qua các dấu chỉ bí tích, chúng ta sẽ thực sự có nguy cơ không được dìm vào đại dương ân sủng ngập tràn nơi từng cử hành Phụng vụ.” Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhớ rằng chúng ta dễ bị cuốn vào thái độ tự mãn hay “bình thường hóa” - “gần chùa gọi Bụt bằng anh” - đối với Phụng vụ. Phụng vụ phải giúp duy trì hiệu năng và tiếp tục ‘uốn nắn’ chúng ta. Chúng ta đừng biến việc tham dự, cử hành Phụng vụ như thói quen cứng nhắc nhưng thay vào đó là duy trì một sự sửng sốt trước vẻ đẹp của Phụng vụ[26]. Điều này đòi hỏi chúng ta phải chiêm ngưỡng vẻ đẹp vượt xa những “tâm tình bên ngoài” của thái độ xơ cứng, chăm chút tỉ mỉ, và một thứ chủ nghĩa cá nhân về thẩm mỹ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là phản đối việc giữ đúng “luật chữ đỏ” và cổ xúy việc cử hành Phụng vụ cách sáo rỗng, hời hợt[27]. Những điều trên hàm ý rằng: người ta không dừng lại ở ngưỡng cửa của các biểu tượng, nhưng là đi qua lối vào mang tính biểu tượng để trực diện với thực tại cao cả hơn. Biểu tượng thì có giới hạn và chúng ta sẽ sớm mất đi sự sửng sốt về chúng; trái lại, các thực tại mà các biểu tượng chuyển tải thì vô hạn - Mầu nhiệm Vượt qua - và vì thế chúng trở thành một nguồn mạch của sự sửng sốt bất tận.
Việc thiếu sự sửng sốt và một thế giới quan về biểu tượng nghèo nàn tạo nên những rào chắn ngăn cản chúng ta lãnh nhận các ân sủng của các Bí tích cho cuộc sống của chúng ta[28]. Sự nghèo nàn này thực sự giới hạn khả năng lĩnh hội Mầu nhiệm. Chính sự lĩnh hội Mầu nhiệm trong Phụng vụ tác động đến ân sủng của các bí tích. Chúng ta không đơn thuần cần những cử hành “tốt hơn” (mặc dù chúng cũng cần thiết), cũng không cần nội tâm rộng mở hơn. Nội tâm không cảm nghiệm, lĩnh hội được Mầu Nhiệm Vượt Qua sẽ trở thành chủ nghĩa cá nhân chủ quan[29]. Chúng ta cần gia tăng “khả năng biết sửng sốt”. Sự sửng sốt không phải là thứ “cảm thức mơ hồ về Mầu nhiệm”, nhưng nó “là sự ngỡ ngàng thán phục trước một sự kiện, đó là chương trình cứu độ của Thiên Chúa đã được mặc khải cho chúng ta trong mầu nhiệm Vượt qua của Chúa Giêsu (x. Ep 1, 3-14), và hiệu năng của sự kiện Vượt qua này tiếp tục đến với chúng ta trong việc cử hành sự “huyền nhiệm” của các bí tích...” Vẻ đẹp, giống như chân lý (Chân-Thiện-Mỹ), luôn luôn khơi dậy sự sửng sốt. Một khi sự sửng sốt quy hướng về mầu nhiệm của Thiên Chúa, chúng trở thành thái độ tôn thờ[30].
2.2. Một cuộc gặp gỡ thâm sâu trong Phụng vụ
Nói đúng ra, Phụng vụ không thuộc về sư phạm, mặc dù trên thực tế nó thể hiện chức năng sư phạm nghĩa là “khuôn đúc” và “biến đổi” con người. Mục đích tối hậu của Phụng vụ là cuộc gỡ của Mầu nhiệm Vượt qua trong sự tôn vinh Thiên Chúa Cha và sự quy phục Chúa Thánh Thần. Thước đo để chúng ta biết liệu chúng ta có thực sự đạt được mục đích đó hay không là mức độ chúng ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, Người Con của Chúa Cha. Thánh Lêô Cả viết: “Việc thông dự vào Mình và Máu Chúa Kitô không hướng đến điều nào khác hơn là làm cho chúng ta trở thành Đấng chúng ta ăn”[31]. Cuộc gặp gỡ Mầu nhiệm Vượt qua này không phải là cuộc gặp gỡ của trí khôn hay tinh thần trừu tượng, nhưng là một cuộc gặp gỡ hiện sinh mang chiều kích bí tích. Chúng ta phải đọc biết những thực tại mang tính biểu tượng được sử dụng để nhận thức về cuộc gặp gỡ này. Điều này bắt đầu với việc nhìn thân xác như là những biểu tượng của tâm hồn chúng ta. Theo đó, nó sẽ giúp chúng ta có thể nhận ra tính chất biểu tượng của sự tạo dựng[32]. Sau đó, chúng ta phải tự tin với những sự chiêm niệm biểu tượng này và để cho Chúa Thánh Thần dẫn dắt chúng ta đi sâu vào những chiêm niệm đó[33].
Một khi chúng ta trải nghiệm Phụng vụ như một cuộc diện kiến đích thực với Thiên Chúa, chúng ta có thể hiểu nó như là “điểm bắt đầu và điểm cao nhất”. Quả thực, chúng ta có thể nói rằng tất cả các hoạt động của Giáo hội đều dựa trên việc chúng ta gặp gỡ Thiên Chúa trong Phụng vụ[34]. Chúng ta có thể thấy những suy tư thần học của mình giống như sở hữu một sự đồng nhất hữu cơ “khởi đi từ Phụng vụ và quay trở lại với Phụng vụ.”[35]
2.3. Một nhu cầu canh tân “Nghệ thuật cử hành” Phụng vụ
Thông thường, khi nói tới nghệ thuật cử hành (ars celebrandi) không ít người nghĩ ngay đến một loại hình nghệ thuật như nghệ thuật sắp đặt, nghệ thuật trang trí hay nghệ thuật trình diễn... Thực sự, nghệ thuật cử hành Phụng vụ không thuộc những phạm trù như thế! Theo Đức Thánh Cha, phẩm chất của nghệ thuật cử hành được quyết định bởi sự tích hợp các ý nghĩa thần học của Phụng vụ, chứ không phải là luật chữ đỏ hay sự sáng tạo chủ quan của một cá nhân. Nghi thức là quy chuẩn và là lối vào những thực tại lớn hơn[36]. Theo Đức Thánh Cha, các tín hữu có “quyền” tham dự vào một cử hành Phụng vụ tốt lành và đúng đắn. Mặc dù cần thiết, nhưng điều này không đủ cho sự “tham dự tích cực và đầy đủ”[37]. Nếu là “nghệ thuật” (ars), có nghĩa là nghệ thuật đòi hỏi sự am tường các sự hiểu biết khác, ví dụ:
- Về động lực và logic học của Phụng vụ. Mầu Nhiệm Vượt Qua là cội nguồn của hành động, chứ không phải con người (chủ tọa hay cộng đoàn).
- Chúa Thánh Thần là động lực chính của Phụng vụ. Sự hòa hợp của chúng ta với Người giải thoát chúng ta khỏi chủ nghĩa chủ quan, thị hiếu cá nhân, những cách thức hội nhập văn hóa ‘lệch lạc’.
- Bản chất và ý nghĩa các biểu tượng - lời đọc, cử chỉ, và ngay cả sự thinh lặng - được Phụng vụ sử dụng[38]. Vì thế, nghệ thuật cử hành Phụng vụ không phải là khả năng ứng biến nhưng đòi hỏi áp dụng kĩ năng thận trọng. Hơn nữa, nó cũng không phải là kĩ thuật trình diễn trước khán giả. Chính nghệ thuật cử hành chiếm hữu chúng ta (to be possessed) và “để việc cử hành chuyển tải nghệ thuật cho chúng ta”[39]. Điều này áp dụng cho tất cả cộng đoàn tham dự chứ không phải chỉ cho người chủ tọa. Chúng ta phải nhớ rằng toàn thể cộng đoàn tham gia vào cử hành Phụng vụ theo mỗi chức vụ thích hợp của họ, không đơn giản chỉ là các linh mục. Không ai là khán giả cả. Để đạt được nghệ thuật cử hành, Đức Thánh Cha nhắn nhủ: tất cả “phải tuân giữ kỷ luật, từ bỏ tình cảm ủy mị; phải làm việc nghiêm túc, tuân phục Hội Thánh, trong con người và các hành động thờ phượng của chúng ta”[40].
Đương nhiên, linh mục được huấn luyện và trải nghiệm đặc biệt về Phụng vụ để giúp cộng đoàn đi vào chiều sâu của cuộc gặp gỡ thực tại trong cử hành Phụng vụ[41]. Cách mà vị linh mục cử hành Phụng vụ có một ảnh hưởng đặc biệt để trở thành một lối mở hay một trở ngại đối với nghệ thuật cử hành của toàn thể dân Chúa. Thực tế, linh mục thường hay rơi vào những thái cực khác nhau:
- Sự mộc mạc cứng nhắc hay sự sáng tạo gây khó chịu.
- Đề cao tinh thần thần bí hay thực hành thuyết chức năng, máy móc.
- Sự nhanh nhẹn vội vã hay sự chậm chạp quá mức.
- Sự bất cẩn tùy tiện hay kiểu cách quá mức.
- Sự thân thiện thừa thãi hay vô cảm lạnh lùng[42].
Căn nguyên chung của những thái cực này là người theo chủ nghĩa cá nhân quá tập trung vào phong cách của họ, “mà đôi khi thể hiện cách lộ liễu thói tật muốn trở thành trung tâm của sự chú ý...[43]
Để cử hành tốt Phụng vụ, linh mục cần ý thức rằng ngài là sự hiện diện đặc biệt của Đức Giêsu Phục Sinh (in persona Christi). Như thế, theo nghĩa rộng, tất cả các cử chỉ, lời nói của vị chủ sự mang chiều sâu bí tích. Điều này đặt vị linh mục ở giữa con tim bừng cháy lửa yêu mến của Thiên Chúa và dân Người. Chỉ có điều này mới giúp linh mục biết khiêm tốn sửa chữa và tự khiển trách, đồng thời cung cấp tiêu chuẩn chống lại sự ứng biến chủ quan, và là động lực để cải thiện “nghệ thuật cử hành”[44].
2.4. Canh tân suy tư về năm Phụng vụ và Phụng vụ Chúa nhật
Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi có sự suy tư sâu rộng hơn về năm Phụng vụ và Phụng vụ Chúa nhật[45]. Năm Phụng vụ sắp xếp trật tự cuộc sống của chúng ta và mọi thời điểm trong cuộc sống của chúng ta trong ánh sáng của lịch sử cứu độ[46]. Theo Đức Thánh Cha, nhưng những kinh nghiệm phổ biến chứng minh cho nhu cầu về việc canh tân sự hiểu biết của chúng ta về Năm Phụng vụ và Phụng vụ Chúa Nhật.
2.5. Một Lời mời gọi Canh tân Phong trào Phụng vụ
Phong trào Phụng vụ ở thế kỉ 20 đã đóng góp lớn về mặt học thuật cho sự hiểu biết của chúng ta về Phụng vụ. Điều cần thiết bây giờ là làm thế nào để chúng ta có thể tiếp cận được kho tàng này. Chúng ta phải được đào tạo về v nghĩa thần học của Phụng vụ. Chúng ta cần phải được khuôn đúc trong một thế giới quan mang tính biểu tượng[47], và theo cách này, chúng ta có thể tham dự vào các cử hành Phụng vụ của Giáo hội một cách trọn vẹn và năng động, giúp chúng ta sống mầu nhiệm cứu độ trong đức tin của mình.
Thứ nhất, như một linh mục, chúng ta không khỏi bị đánh động bởi những phân tích, nhận định và ước mong của Đức Thánh Cha Phanxicô về nhu cầu đào tạo Phụng vụ cho Dân Thiên Chúa. Cũng từ đó, chúng ta như bị đặt trước những chất vấn: liệu chúng ta đang cử hành các Mầu nhiệm Cứu độ một cách “nghèo nàn” và “nhàm chán”, hoặc làm “biến dạng” Phụng vụ truyền thống của Giáo hội (?). Đồng thời, chúng ta như phải đối diện với một thách đố sống còn: “phải gấp rút và kiên trì canh tân đời sống Phụng vụ của chính mình,” để có thể lĩnh hội được chiều sâu, sự sống của Thực tại thánh thiêng - sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi - mà chúng ta cử hành qua các dấu chỉ Phụng vụ.
Thực sự, tâm điểm của nhiều “lạm dụng”, thờ ơ với Phụng vụ là sự nghèo nàn trong việc hiểu biết ý nghĩa thần học của Phụng vụ và sự khiếm khuyết trầm trọng về một thế giới quan mang tính biểu tượng. Từ đó, nảy sinh vô số những vấn đề như “xung đột” giữa hình thái “cấp tiến” và truyền thống, những cám dỗ “sáng tạo” trong nghệ thuật cử hành Phụng vụ, sự quy ngã một cách nghèo nàn hay sự thờ ơ với các Bí tích nói chung.
Thứ hai, một chương trình giáo lý về Phụng vụ cho Dân Chúa là điều hết sức cần thiết, để họ có thể gặp gỡ những thực tại hiện diện trong Phụng vụ một cách đúng đắn (việc đào tạo Phụng vụ trong chủng viện cũng không nằm ngoài quan tâm của Đức Thánh Cha). Tuy nhiên, một chương trình giáo lý thuần túy mang tính giáo điều (mặc dù hữu ích và cần thiết) thì không đủ. Thiết nghĩ, Đức Thánh Cha Phanxicô không nhấn mạnh thực hiện việc này. Điều mà người mời gọi là một phương pháp sư phạm bắt đầu với kinh nghiệm về Phụng vụ - suy tư thần học, canh tân hướng vào chiều sâu các cử hành, làm sống động Phụng vụ nơi mỗi cá nhân trong thái độ tham dự hay cử hành để có thể sử dụng biểu tượng Phụng vụ như một lối vào các thực tại mà chúng thể hiện. Đây là cách lý tưởng làm nền tảng cho việc giảng dạy của Giáo hội trong thực tế; đồng thời giúp ngăn chặn không làm cho việc cử hành Mầu nhiệm Vượt qua trở thành hình thức của một hệ tư tưởng, hay buổi trình diễn.
Sau cùng, điều chúng ta truyền thụ cho thế giới không phải là một quan niệm, một vở diễn hay “kỷ niệm huyền bí”, nhưng là cử hành và “trở nên” Mầu nhiệm Cứu độ của Thiên Chúa Ba Ngôi - Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần - trong hiện tại qua những dấu chỉ hữu hình. Chính điều này gợi đến dấu ấn, như một thách đố liên lỉ, trong ngày chúng ta (linh mục) lãnh nhận Bí tích Truyền chức, khi Đức Giám mục huấn dụ:
“Hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con cử hành và rập đời sống của con theo Mầu nhiệm Thập giá Đức Kitô” Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 135 (Tháng 5 & 6 năm 2023)
[11] Thuyết Ngộ đạo giản lược đức tin Kitô giáo thành một thái độ chủ quan, “cuối cùng giam hãm con người trong những suy tư và cảm xúc cá nhân” (Evangelii gaudium 94). Thuyết Tân-Pêlagiô hủy bỏ giá trị của ân sủng và “thay vào đó quan điểm ưu tuyển tự mãn và chuyên chế, chỉ muốn phân tích và xếp loại người khác thay vì loan báo Tin Mừng; và dành hết năng lượng cho việc tra xét và kiểm chứng thay vì mở rộng tâm hồn đón nhận ân sủng” (Evangelii gaudium, s. 94).