NHỮNG NẺO ĐƯỜNG MỞ RA CHO GIÁO HỘI TẠI VIỆT NAM
TỪ HOA TRÁI VÀ KINH NGHIỆM THỈNH Ý HIỆP HÀNH
WHĐ (24.01.2023) - “Những nẻo đường mở ra cho Giáo hội tại Việt Nam từ hoa trái và kinh nghiệm thỉnh ý hiệp hành”: đề tài này đòi hỏi sự nghiên cứu kỹ lưỡng cũng như lượng giá đầy đủ và nghiêm túc của các vị có thẩm quyền, dựa trên bảng tổng hợp của các giáo phận gửi về cho Hội đồng Giám mục Việt Nam. Vì thế, dựa vào hoa trái và kinh nghiệm thỉnh ý hiệp hành tại Tổng Giáo phận Sài Gòn nơi tôi được vinh dự tham gia vào việc tổ chức sinh hoạt Thượng Hội đồng Giám mục (THĐGM) cấp Giáo phận, xin mạo muội góp một vài suy tư mang tính cá nhân về một sự kiện lớn đã và đang diễn ra trong lòng Giáo hội.
Các nay mấy hôm, một giảng viên Hán Nôm đã góp ý với tôi về hai từ “thỉnh ý” vốn được dùng để chỉ việc cấp dưới xin ý kiến của cấp trên, lại được dùng để chỉ việc THĐGM xin giáo dân góp ý; theo vị này, dùng từ như thế là không đúng. Nghe qua, tôi cũng thấy có cái gì đó không ổn trong việc dùng từ, nhưng xét cho cùng thì dùng hai chữ ấy trong trường hợp này cũng hay bởi vì THĐGM đâu có “thỉnh” hay “xin” ý kiến dân như người ta đã làm trong hội nghị Diên Hồng, nhưng tha thiết xin các tín hữu đóng góp cho THĐGM những gì họ được Chúa Thánh Thần dạy bảo khi trải nghiệm về hiệp hành qua việc gặp gỡ và lắng nghe nhau trong ánh sáng của Lời Chúa.
Có thể nói việc thỉnh ý hiệp hành của THĐGM lần thứ XVI thực sự là một cuộc “cách mạng”, cho dù hiệp hành đã có từ lâu trong truyền thống cổ kính của Giáo hội xét như lối sống và hành động của cộng đoàn môn đệ cùng bước theo vị Tôn sư của mình là Đức Giêsu. Cách mạng ở đây không mang lại một cái mới, nhưng thay đổi một cách thức sống và hành động theo thời gian như xa dần với cách sống và hành động của Thầy mình, cũng như nghịch lại bản chất của mình vốn được chọn gọi để trở nên “dấu chỉ và khí cụ hiệp nhất” mọi người trong gia đình của Thiên Chúa là Cha. Vì thế, tiến trình THĐGM cấp Giáo phận giống như một tiếng chuông đánh thức ơn gọi và sứ mạng của các tín hữu, đặc biệt là của giáo dân, đồng thời khơi dậy tiềm năng và lợi thế của họ cho công cuộc Phúc âm hóa của Giáo hội trong thế giới hôm nay.
Có chia sẻ được sự phấn khởi của giáo dân, cách riêng của những người đang gắn bó và tham gia vào sinh hoạt của giáo xứ hay giáo phận, khi được tham gia vào sinh hoạt THĐGM cấp Giáo phận, cũng như chia sẻ được niềm vui đến muộn của hàng giáo sĩ khi tiến hành việc thỉnh ý, chúng ta mới thấy được hoa trái thực sự của việc thỉnh ý hiệp hành là sự hoán cải trong đời sống cũng như trong các hoạt động mục vụ nơi các tín hữu, gồm cả giáo sĩ lẫn giáo dân.
1.1. Cảm nghiệm:
Có thể nói hoa trái đầu tiên của việc thỉnh ý hiệp hành là sự phấn khởi của hàng ngũ giáo dân. Nếu hỏi anh chị em giáo dân cảm nhận được gì khi thực hiện hiệp hành, họ sẽ trả lời ngay đó là niềm vui. Đối với các hiền mẫu và doanh nhân, hiệp hành như làn gió Chúa Thánh Thần thổi đến Giáo hội qua THĐGM lần thứ XVI, một luồng sinh khí mới giúp giáo dân phấn khởi và hăng say vì được lắng nghe và góp ý trong việc xây dựng Giáo hội, xây dựng tình hiệp thông với Chúa, với nhau cũng như với mọi người; phấn khởi vì Giáo hội của Chúa không còn là Giáo hội được xây dựng theo hình tháp, nhưng theo hình các vòng tròn đồng tâm mà Chúa Kitô là trung tâm.
Các thầy cô giáo thì cảm thấy, khi hiệp hành, giá trị của từng người được nâng lên nhờ được nghe, được nói, được góp ý; lòng tôn trọng, tính khiêm nhường, tinh thần trách nhiệm và liên đới với những người khác được tôi luyện; vui vì được góp phần xây dựng nhau và xây dựng Giáo hội, được hâm nóng tinh thần hiệp nhất và yêu thương; chỉ tiếc là tinh thần hiệp hành đã không được ‘đánh thức’ sớm hơn, để gia đình, đoàn thể, xã hội và Giáo hội tránh được những chia rẽ, bất hòa, xung đột không cần thiết… nhờ giảm bớt “cái tôi” và sống hòa hợp với nhau.
Đối với thành viên của các đoàn thể Công giáo tiến hành, hiệp hành vô cùng thiết thực, quan trọng và không thể thiếu trong đời sống Giáo hội, vì giúp họ nhận ra mình đang sống trong lòng Giáo hội và thuộc về Giáo hội, từ đó liên đới và hiệp thông với nhau, gắn bó và tích cực tham gia vào các sinh hoạt của cộng đoàn. Ngoại kiều và di dân thấy hiệp hành là cơ hội để gặp gỡ và bày tỏ với giám mục địa phương những ưu tư và lo lắng của mình những khi cần được cử hành hôn phối hay nhận bí tích xức dầu bệnh nhân; qua đó, họ cảm thấy được quan tâm và nâng đỡ.
Các bạn trẻ thì vừa mừng vừa lo, vừa thích thú vừa rụt rè khi tiếp cận với “hiệp hành” bởi không biết hiệp hành giống và khác với đồng hành hay song hành ra sao, hóa ra “hiệp hành” không chỉ đòi hỏi những người trẻ bước đi cùng nhau (hành), mà còn được mời gọi bước đi trong khi nên một (hiệp).
Các tu sĩ vui mừng và biết ơn vì được tham gia vào THĐGM cấp Giáo phận, qua đó cảm thấy thuộc về Đức Kitô, thuộc về Giáo hội, thuộc về Hội dòng. Họ còn vui vì tìm được những nét đẹp cốt lõi của đời tu và sức mạnh tinh thần, khi được hợp tác trong các sứ vụ mục vụ và truyền giáo, được nuôi dưỡng đức tin nhờ lòng yêu mến, cảm phục, khiêm tốn học hỏi những điều hay nơi người khác, tìm kiếm thiện ích chung, hài hòa, cộng tác giữa các thế hệ, và trưởng thành hơn trong đời sống chứng tá để thông đạt niềm tin cho tha nhân, tham gia tích cực hơn vào sứ vụ được giao.
1.2. Mong đợi:
Trong niềm phấn khởi được tham gia vào sinh hoạt THĐGM cấp Giáo phận, giáo dân tha thiết mong mỏi có được sự hiệp hành nơi những người cùng giới cũng như nơi các vị mục tử. Hội đồng Mục vụ Giáo xứ mong các thành viên nhiệt tình cộng tác với cha xứ và khi cộng tác, họ mong được gặp gỡ, tiếp xúc và trao đổi với ngài cũng như được tham gia vào tiến trình lấy quyết định chung. Các hội đoàn mong được cha xứ và Hội đồng Mục vụ Giáo xứ ủng hộ, đồng thời tạo điều kiện cho các đoàn thể và phong trào phát triển.
Các hội viên mong những người phụ trách cộng đoàn cũng như các mục tử không quyết định một mình, nhưng biết khiêm nhường lắng nghe và tiếp thu ý kiến của họ để phân định và đem ra thực hành, đồng thời tạo điều kiện cho mọi người làm việc với nhau cũng như tham gia vào sứ vụ chung của Giáo hội. Họ cũng mong các mục tử thực sự là những người kiến tạo hiệp thông, khi đối xử công bằng và loại bỏ thành kiến về một cá nhân hay một cộng đoàn nào trong giáo xứ, sẵn sàng “lấm mùi chiên” và chăm lo cho ràn chiên được học và biết đọc Lời Chúa trong tâm thế cầu nguyện; khi có sự bất đồng ý kiến, thì cha con cùng nhau ngồi lại để giải quyết trong tinh thần yêu thương và tôn trọng lẫn nhau.
Các ngoại kiều và di dân mong có được một cộng đoàn hợp nhất trong đa dạng, đa văn hóa, đa ngôn ngữ… để thuộc về và tìm về; có được một chương trình mục vụ nhất quán, một chương trình giáo lý nhất định để giúp cho con cái được giáo dục đức tin hoặc chuẩn bị cho đời sống hôn nhân. Các tu sĩ ước mong những người sống đời thánh hiến buông bỏ “con người cũ” chỉ muốn đóng kín và yên phận, để trở nên “con người mới” luôn biết mở ra, đón nhận và trao ban chính mình cho tha nhân, đồng thời giúp nhau thăng tiến. Họ cũng mong có một Giáo hội cởi mở, không theo hướng trọng nam khinh nữ hay giáo sĩ trị, nhưng tôn trọng và nhìn nhận mỗi người, nhất là người nữ, trong những đóng góp cho sứ mạng, trong khả năng chuyên môn, trong trách nhiệm của mình qua đời sống chứng tá yêu thương và phục vụ.
1.3. Quyết tâm:
Sự phấn khởi và niềm mong đợi nơi giáo dân mau chóng trở thành những quyết tâm cụ thể. Họ phấn khởi không chỉ vì được lắng nghe và lên tiếng, mà còn vì được tham gia vào việc xây dựng cộng đoàn. Khi thực hiện hiệp hành, giáo dân cảm thấy được Chúa Thánh Thần thúc đẩy củng cố mối hiệp thông với Thiên Chúa qua việc sốt sắng tham dự các cử hành mầu nhiệm thánh đồng thời củng cố mối hiệp thông với nhau qua việc dấn thân phục vụ: trước hết, giúp nhau sống đạo tốt hơn - cách riêng là thế hệ trẻ và những người vì một lý do nào đó xa Chúa và rời bỏ cộng đoàn; kế đến, dành thời gian để gặp gỡ và lắng nghe, quan tâm và giúp đỡ những người “ở xa hoặc ở ngoài” Giáo hội.
Ý thức được sứ mệnh của mình, các huynh trưởng - giáo lý viên quyết tâm học hỏi và đào sâu giáo lý, trau dồi khả năng sư phạm và làm gương để làm cho buổi gặp gỡ giáo lý được vui tươi, sinh động, hấp dẫn. Các bạn trẻ sẽ hỗ trợ giáo xứ trong các công việc chung, hăng say dấn thân phục vụ thiện ích chung, nhờ đó chính họ được gặp gỡ nhau và củng cố đức tin.
Phối hợp với các đoàn thể của giáo xứ, các doanh nhân công giáo nỗ lực duy trì và phát triển Quỹ học bổng Mẹ Têrêsa Calcutta cho các em mồ côi cha mẹ do đại dịch Covid-19 đến năm 18 tuổi, không phân biệt tôn giáo, và các quỹ học bổng khác như Quỹ Maiamthegioididong, Quỹ Nguyễn Hoàng Group, Quỹ học bổng trường ĐH Nguyễn Tất Thành và Quỹ Tôma Thiện; tiếp tục chương trình nước sạch cho các giáo xứ; hợp tác với Caritas và các chương trình khác do giám mục giáo phận kêu gọi.
Các tu sĩ nguyện tuyên xưng Đức Giêsu Kitô như là món quà Thiên Chúa ban cho nhân loại qua ngôn ngữ yêu thương, qua việc kiến tạo các giá trị của Nước Thiên Chúa như yêu thương, huynh đệ, công lý, hòa bình, liên đới và hiệp thông, và qua đối thoại với văn hóa từng vùng, miền, với các tôn giáo, với dân nghèo bằng cách sống đơn sơ giản dị, không xa cách nếp sống dân nghèo, theo niềm vui mới mẻ của Tin Mừng, đồng thời xây dựng đời sống cộng đoàn dựa trên phẩm chất của mối tương quan huynh đệ, đối thoại và cổ võ tính đồng trách nhiệm, hướng đến sự thay đổi về cách thức và thái độ trong việc lãnh đạo.
1.4. Thách đố:
Bên cạnh những cảm nghiệm, những mong đợi và quyết tâm mang tính tích cực trên, giáo dân cũng thấy mình phải vượt thắng trước những cám dỗ như đi nhà thờ mà chẳng gắn kết vào một cộng đoàn nào, miễn sao chu toàn luật lễ buộc hoặc dự một thánh lễ nhanh gọn, nghe được một bài giảng hay; coi ý kiến của đa số là ý của Chúa mà không cần phân định dưới ánh sáng của Lời Chúa, thậm chí chống lại hoặc loại bỏ hàng giáo sĩ; khép kín trong “nhóm của tôi hay của chúng tôi” thay vì mở ra với các thành phần khác trong và ngoài Giáo hội để chung tay góp sức cho một dự phóng chung; đóng khung trong kinh nghiệm cố hữu của người già, thay vì tạo điều kiện cho người trẻ có dịp cống hiến khả năng và sức trẻ cho cộng đoàn.
Ý thức được vai trò “quan trọng và không thể thay thế” của mình trong công cuộc Phúc âm hóa của Giáo hội, giáo dân thấy mình còn phải học hỏi và rèn luyện để trở thành người tín hữu giáo dân trưởng thành; nhờ đó có thể chia sẻ trách nhiệm xây dựng Giáo hội hiệp hành tại giáo xứ và giáo phận với hàng giáo sĩ cũng như đóng vai trò tích cực trong sứ mạng Loan báo Tin Mừng trên Quê hương như các giám mục hướng dẫn trong Thư Chung 1980 và Thư Chung Hậu Đại Hội Dân Chúa 2010.
2.1. Từ nghi ngại:
Trong khi giáo dân phấn khởi vì được thỉnh ý hiệp hành, thì nhiều linh mục vẫn còn nghi ngại, một số thì loay hoay với vấn đề từ ngữ hiệp hành hay đồng hành, đồng nghị, đồng đạo v.v…, một số khác thì có những suy nghĩ và phản ứng tiêu cực; nào là bày ra làm gì cho xáo trộn, cuộc sống đang yên ổn tự dưng tạo dịp cho người giáo dân phê bình, chỉ trích các linh mục, họp với hành rồi đâu cũng vào đấy, chẳng đi đến đâu, “ném đá ao bèo”. Có vị còn lấy Đại Hội Dân Chúa năm 2010 làm chứng cớ để khẳng định rằng chẳng “xi-nhê” gì đâu, “vũ như cẩn” thôi, chẳng có gì mới!
Các linh mục giữ vai trò cốt yếu trong việc đồng hành với toàn thể Dân Chúa trên con đường hiệp hành qua việc giúp giáo xứ mà họ phục vụ nâng cao nhận thức về bản chất và ý nghĩa hiệp hành của Giáo hội; hỗ trợ, khuyến khích, thúc đẩy và tạo điều kiện cho các buổi gặp gỡ hiệp hành trong các nhóm; tìm ra những cách thức mới mẻ và sáng tạo để nuôi dưỡng kinh nghiệm hiệp hành đích thực giữa các tín hữu[1]. Cho nên khi các linh mục không nhiệt tình hưởng ứng, giáo dân khó có thể tiếp cận được với sinh hoạt của giáo phận nói chung và sinh hoạt THĐGM cấp Giáo phận nói riêng.
Khi hiểu được hiệp hành với các chiều kích dài, rộng, cao và sâu của nó: dài bởi nó là một lối sống và hành động nên không thể hoàn thiện trong một sớm một chiều; rộng vì nó liên quan đến cả sinh hoạt nội bộ lẫn ngoại bộ của giáo xứ, đến từng gia đình và các nhóm sinh hoạt; cao vì nó không dừng lại ở canh tân mục vụ mà hướng tới việc đẩy mạnh công cuộc Phúc âm hóa; sâu vì nó không phải là cách để lấy ý kiến toàn dân theo xu hướng dân chủ, nhưng là cùng nhau phân định ý muốn của Thiên Chúa dành cho Giáo hội trong bối cảnh của thế giới hôm nay, các linh mục đã lấy lại vai trò chủ đạo của mình.
2.2. Đến hăng hái nhập cuộc:
Điều quan trọng đối với các linh mục bây giờ không phải là từ ngữ mà là hành động, là lên đường cho một vận hội mới, xây dựng Hội Thánh Chúa đáp ứng những nguyện vọng của con người trong thế giới hôm nay, một thế giới đầy biến chuyển, tiến nhanh và phát sinh nhiều vấn đề.
Thay vì làm cho “có” hay làm để “đối phó” với lệnh từ trên, các linh mục chủ động tổ chức buổi gặp gỡ giáo dân trong xứ, để lắng nghe và tìm hiểu xem: trước hết, giáo xứ có sự hiệp thông hài hòa giữa giáo dân và các mục tử, giữa mọi người và giữa các đoàn thể không, nếu không thì nguyên nhân là gì và làm gì để gầy dựng lại sự hiệp thông; kế đến, có cá nhân hoặc thành phần nào bị bỏ rơi, bị quên lãng, bị loại trừ không và làm cách nào để giúp họ hội nhập; sau hết, làm cách nào để mọi người có thể phát huy khả năng và tích cực tham gia vào sinh hoạt giáo xứ, đặc biệt là giới trẻ, giới trí thức và giáo viên, giới doanh nhân.
Các linh mục trong giáo hạt cũng gặp gỡ nhau để nhìn lại sự hiệp thông giữa các linh mục với giám mục cũng như giữa các linh mục với nhau. Các linh mục mong có sự gần gũi, chia sẻ và giúp đỡ lẫn nhau; góp ý trong tinh thần huynh đệ và tôn trọng nhau; thấu hiểu, thông cảm, thông chia, thông hiệp và thông công với nhau; sửa lỗi và cầu nguyện cho nhau. Các linh mục cũng mong giám mục gần gũi, thân tình, hòa đồng, cởi mở, lắng nghe, đối thoại, quan tâm, nâng đỡ, làm gương, hướng dẫn và động viên các linh mục trong tình cha con, thậm chí trong tình bằng hữu mà Chúa Giêsu dành cho các môn đệ; khi giáo dân có kiện cáo gì thì giám mục nên trực tiếp lắng nghe các linh mục của mình, để nếu cần thì nâng đỡ hoặc nhắc nhở trong tâm tình của người cha chung trong giáo phận.
2.3. Và quyết tâm đổi mới:
Qua kinh nghiệm hiệp hành, các linh mục thấy trước hết phải loại bỏ và giúp nhau loại bỏ não trạng “giáo sĩ trị” được hình thành bởi sự lệch lạc trong nhận thức về ơn gọi và sứ mạng của mình, “lẫn lộn việc được chọn với đặc quyền, sự phục vụ với chủ trương phục dịch, hiệp nhất với đồng bộ, sự khác biệt với sự chống đối, sự đào luyện với nhồi sọ”[2], một não trạng có nguy cơ gạt giáo dân ra bên lề Giáo hội[3]; kế đến phải từ bỏ việc sử dụng kỷ luật bí tích như công cụ làm cho giáo dân xa cách Giáo hội, ngăn cản họ đồng cảm với Giáo hội (sentire cum Ecclesia).
Các linh mục còn thấy giáo xứ cần phải: cổ võ và khuyến khích mọi thành phần Dân Chúa, đặc biệt là người trẻ, tham gia vào các sinh hoạt của giáo xứ, tạo điều kiện cho các đoàn thể gặp gỡ, giao lưu và học hỏi lẫn nhau, thúc đẩy giáo dân tham dự các khóa đào tạo để nâng cao khả năng phục vụ, tiếp nhận và giải quyết ngay những bức xúc của giáo dân; giáo hạt cần phải: thông tin về lịch học giáo lý hôn nhân và dự tòng tại các giáo xứ để tạo điều kiện thuận tiện cho học viên tham dự, tổ chức các buổi sinh hoạt chung để các thành viên trong hội đồng giáo xứ cũng như trong các đoàn thể quen biết và gắn bó với nhau; và giáo phận cần phải: hỗ trợ nhân vật lực cho các ban mục vụ và nối kết các ban trong một kế hoạch chung, bố trí thời gian hợp lý cho các sinh hoạt chung để mọi người có thể tham dự, trao trách nhiệm nhiều hơn cho các linh mục trẻ. Thêm vào đó, các giáo xứ phải mở ra cho sinh hoạt của giáo hạt và giáo phận, thay vì khép lại trong các sinh hoạt của giáo xứ; đồng thời mở ra cho xã hội và lương dân bằng cách lắng nghe và đáp lại tiếng Chúa kêu gọi từ tiếng khóc của những người xung quanh, quan tâm và giúp đỡ những người bị loại ra bên lề xã hội, băn khoăn và day dứt vì có nhiều anh chị em chưa có được ánh sáng và sức mạnh bắt nguồn từ tình bạn với Đức Giêsu, từ sự nâng đỡ của cộng đoàn đức tin.
Niềm vui làm trổ sinh hy vọng và thôi thúc hành động nơi giáo dân, tu sĩ và linh mục có được từ việc thỉnh ý hiệp hành của THĐGM cho thấy có một sự chuyển đổi trong tâm tư và hành động của Dân Chúa nhờ việc lắng nghe nhau trong ánh sáng của đức tin để lắng nghe tiếng Chúa dành cho đời sống cộng đoàn. Nói cách khác, sự đổi mới trong cách thực hiện THĐGM lần thứ XVI này tạo điều kiện cho Dân Chúa được lắng nghe và lên tiếng, được tham gia vào tiến trình phân định để khám phá thánh ý Thiên Chúa, từ đó chạm đến tâm trí của họ đồng thời thúc đẩy họ canh tân đời sống và sứ vụ. Đây chẳng phải là bước đầu của cuộc hoán cải mục vụ và truyền giáo, thao thức mục vụ của Đức Giáo hoàng Phanxicô sao?
Qua việc thỉnh ý hiệp hành, THĐGM từ nay không chỉ là chuyện của các giám mục hay của giáo hoàng, nhưng là chuyện của mỗi tín hữu và của tất cả các tín hữu, là chuyện của Giáo hội. Giáo hội là của mỗi người và trong Giáo hội đó “mọi người bình đẳng với nhau về phẩm giá, nhưng mỗi người có bổn phận khác nhau tùy theo bậc sống của mình” (LG số 32). Nhận thức này đòi hỏi các tín hữu, cả giáo sĩ lẫn giáo dân, “vượt qua từ cái ‘tôi’ được hiểu theo lối quy ngã (self-centred) sang cái ‘chúng ta’ mang tính Giáo hội, nơi mà mỗi cái tôi được mặc lấy Chúa Kitô (x. Gl 3,27), sống và đồng hành với anh chị em của mình như là người có trách nhiệm và là tác nhân tích cực của sứ vụ duy nhất của Dân Chúa” (UBTHQT, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, số 107). Đây chẳng phải là nội dung chính yếu hay trọng tâm của cuộc hoán cải mục vụ và truyền giáo mà Đức giáo hoàng Phanxicô đã nêu ra ngay trong Tông huấn đầu tiên “Niềm vui của Tin Mừng” của ngài sao?
Có thể nói việc thỉnh ý hiệp hành đã làm cho THĐGM trở thành nơi mà toàn thể Giáo hội gồm cả Dân Chúa, Giám mục đoàn và Giám mục Rôma lắng nghe: lắng nghe Thiên Chúa và lắng nghe con người, từ đó thúc đẩy mọi người “lên đường” đáp lại lời Chúa kêu gọi giữa tiếng khóc của anh chị em trong cũng như ngoài Giáo hội đang đau khổ vì nghèo khổ bệnh tật, bị bỏ rơi hay bị đẩy ra bên lề, cách riêng “những anh chị em sống không sức mạnh, ánh sáng và an ủi được sinh ra từ tình bạn với Đức Giêsu, không có một cộng đoàn đức tin nâng đỡ, không có ý nghĩa và mục đích trong đời sống”[4]. Điều này đòi hỏi các tín hữu phải “đi ra” thay vì “đóng kín mình trong những cấu trúc vốn mang lại cho ta một cảm thức an toàn giả tạo, trong những luật lệ khiến chúng ta phán xét cay nghiệt, trong những thói quen làm ta cảm thấy an toàn, đang khi ngay cửa nhà chúng ta dân chúng đang chết đói” và Đức Giêsu không mệt mỏi nói cho ta rằng: “Anh em hãy cho họ ăn đi!” (Mc 6,37)[5].
Như vậy, hoa trái và kinh nghiệm quý giá từ việc thỉnh ý hiệp hành của THĐGM trước hết là “cảm thức thuộc về” nơi các tín hữu: không chỉ thuộc về gia đình tôi, mà còn thuộc về giáo xứ, giáo phận, giáo hội của chúng ta, trong đó mỗi người là một thành phần không thể thay thế và được mời gọi sử dụng khả năng độc đáo Chúa ban để góp phần xây dựng thiện ích chung; kế đến là sự thôi thúc “đi ra” để đến với và ở giữa muôn dân hầu mang lại cho họ ánh sáng và niềm vui của Chúa. Điều này đòi hỏi các tín hữu phải hoán cải trong tâm trí cũng trong hành động theo hướng hiệp hành, một hành trình dài ở phía trước.
Hành trình này đã được hé mở ngay trong mục đích của THĐGM và của cuộc thỉnh ý hiệp hành; đó là “gieo mầm ước mơ, rút ra các lời tiên tri và thị kiến, cho phép hy vọng nảy nở, khơi dậy niềm tin, băng bó các vết thương, cùng nhau đan kết các mối tương quan, đánh thức bình minh hy vọng, học hỏi lẫn nhau và mang lại một khả năng sáng tạo giúp khai mở trí tuệ, sưởi ấm trái tim, tiếp thêm sức mạnh cho đôi tay”[6],(2) và các tín hữu một cách nào đó đã hăm hở lên đường thực hiện một cuộc canh tân cộng đoàn qua việc canh tân não trạng và thái độ của chính mình (1), canh tân cấu trúc và hoạt động của giáo xứ (2), và canh tân việc đào tạo theo linh đạo hiệp thông và đào tạo đời sống hiệp hành (3)[7].
Chúng ta phải thừa nhận rằng các mối tương quan giữa giáo dân, tu sĩ và linh mục trong giáo xứ cũng như trong giáo phận, có rất nhiều điều tốt. Ngay từ thuở ban đầu khi hạt giống Tin Mừng được gieo trên mảnh đất quê hương này, có biết bao giáo dân đã nhiệt tình chung tay góp sức với các nhà truyền giáo để đem Tin Mừng đến cho những anh chị em vùng sâu vùng xa và liều mình chịu chết để bảo vệ các ngài trong những ngày bị cấm cách; có biết bao nhiêu giáo xứ trong đó giáo dân, tu sĩ và linh mục sống chan hòa với nhau và chung tay xây dựng cộng đoàn ngày một phát triển hơn. Khi đất nước thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, Giáo hội tại Việt Nam với Thư Chung 1980 của Hội đồng Giám mục đã chọn “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”; sau đó, với Thư Chung Hậu Đại hội Dân Chúa 2010, Giáo hội cùng bước theo hướng đem tình thương của Đức Kitô vào trong văn hóa và ước mơ về một Giáo hội tham gia tại Việt Nam. Dưới sự dẫn dắt của hàng giáo phẩm, anh chị em giáo dân tích cực cộng tác vào việc xây dựng một Giáo hội hiệp thông theo tinh thần Công đồng Vatican II. Tuy nhiên, giáo dân vẫn cộng tác theo kiểu “chỉ đâu đánh đó”, như những “người thợ” hơn là người đóng “vai chính” trong sứ vụ như Vatican II mong đợi (x. UBTHQT, 72-73). Vì thế, làm cho mọi tín hữu nên những vai chính trong sứ vụ là ý muốn của Thiên Chúa và là điều mà Đức giáo hoàng Phanxicô thao thức trong sinh hoạt THĐGM lần thứ XVI này[8].
Nếu tìm về Chúa Giêsu và học với Người cách sống và hoạt động để thực thi sứ vụ, chúng ta thấy Người không bao giờ loại trừ ai và chọn các tông đồ để các ông cùng Người quy tụ chứ không để phân tán, cùng Người phục vụ chứ không để thống trị. Chúa phải kiên nhẫn để làm cho các ông thay đổi não trạng loại trừ là căn nguyên của mọi kỳ thị và giúp cho các ông có được tinh thần rộng mở. Do đó, các tín hữu - cả linh mục và giáo dân - phải thay đổi trong tâm trí cũng như trong thái độ sống của mình.
Về phần các linh mục, các vị phải ý thức rằng việc được tuyển chọn không đặt họ trên những người khác nhưng ở giữa những anh chị em được rửa tội, và quyền bính được ban cho họ là để phục vụ cho sự hiệp thông. Cách nhìn này giúp các linh mục thoát khỏi một cám dỗ thường xuyên là “giáo sĩ trị”, cám dỗ “tin rằng mình thuộc về một nhóm nắm giữ mọi lời giải đáp mà chẳng cần lắng nghe hay học hỏi gì thêm nữa, hay chỉ giả vờ lắng nghe mà thôi. Rõ ràng, tinh thần ‘giáo sĩ trị’ làm cho những người được thánh hiến dễ dàng đánh mất lòng kính trọng giá trị thánh thiêng và bất khả nhượng của mỗi con người và sự tự do của họ” (Tông huấn Đức Kitô đang sống, số 198). Các linh mục còn phải ra khỏi sự tự mãn vốn dựng lên những bức tường thay vì những nhịp cầu cũng như ra khỏi sự an phận vốn dẫn đến những quyết định rập khuôn theo công thức hay dựa vào những cách thức hoạt động xưa cũ, bằng cách dành thời gian để khiêm tốn lắng nghe tâm tư và nguyện vọng của Dân Chúa, đồng thời sẵn sàng thay đổi ý kiến dựa trên những gì nghe được từ người khác và hoán cải theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần; nhờ đó, tránh được xung đột và chia rẽ do cố gắng áp đặt ý của mình lên toàn thể hoặc làm mất thể diện của những kẻ bị coi là khác biệt để giành lấy quyền quyết định (x. Cẩm nang THĐGM số 2.3 & 2.4).
Về phần giáo dân, họ phải ý thức được phẩm giá của một Kitô hữu như Công đồng Vatican II đã dạy: “Chỉ có một Thiên Chúa, một đức tin, một Phép Rửa, một dân riêng của Thiên Chúa, cùng chung một phẩm giá của những chi thể đã được tái sinh trong Đức Kitô, cùng có một ân huệ làm con cái Thiên Chúa, một ơn gọi nên trọn lành, một ơn cứu độ và một niềm hy vọng duy nhất và một đức ái không phân chia. Vì thế trong Đức Kitô và trong Giáo hội không có sự hơn kém về nguồn gốc hay dân tộc, vì địa vị xã hội hoặc vì phái tính” (LG số 32). Giáo dân phải ý thức họ được kêu gọi “làm cho Giáo hội hiện diện và hoạt động nơi và trong những hoàn cảnh mà nếu không có họ, Giáo hội sẽ không trở thành muối của thế gian. Vì những ân huệ đã lãnh nhận, họ vừa là chứng nhân vừa là dụng cụ sống động cho chính sứ mệnh của Giáo hội” (LG 33), bằng cách sử dụng ân huệ Chúa ban để cộng tác với hàng giáo sĩ và tu sĩ trong việc canh tân, xây dựng và phát triển Giáo hội. Giáo dân còn phải thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa cá nhân và các phong trào dân chủ lệch lạc để rồi chỉ tìm đến các thánh đường họ ưa thích mà chẳng gắn kết vào một cộng đoàn nào hoặc coi tiếng của đa số là tiếng của Thiên Chúa, để rồi xem thường hoặc chống lại tiếng của người có trách nhiệm hướng dẫn cộng đoàn.
Như thế, việc thỉnh ý hiệp hành là cơ hội thuận tiện để các tín hữu khám phá lại ơn gọi, vai trò và nhiệm vụ của mình, bởi việc thỉnh ý này được thực hiện dựa trên nền tảng mọi tín hữu là “ngôi đền thiêng liêng”, là “hàng tư tế thánh thiện”, là “dân thánh” vì được xức dầu Thánh Thần và vì được xức dầu Thánh Thần nên họ không thể sai lầm trong đức tin và luân lý; họ có một cảm thức đức tin, một bản năng đức tin giúp họ không mắc sai lầm khi tin những điều liên quan đến Thiên Chúa, mặc dù không biết đến những lý luận và công thức thần học để định nghĩa những ân huệ mà họ cảm nhận. Vì thế, Dân Chúa có quyền được lắng nghe và lên tiếng, được phân định và tham gia vào tiến trình lấy quyết định.
Việc canh tân não trạng và thái độ của các tín hữu khơi nguồn và mang lại cho việc canh tân cấu trúc và hoạt động mục vụ của giáo xứ một sức mạnh tự bên trong. Điều này hết sức cần thiết vì sự thay đổi thường dẫn đến một phản kháng nào đó tự bên trong, bởi làm ta không yên, buộc ta phải đấu tranh với cái ta đã từng có, từng quen sống và hành động.
Huấn thị Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ Loan báo Tin Mừng cho thấy xã hội đã biến đổi sâu rộng đến nỗi một giáo xứ chỉ đối địa mà thôi tức chỉ giới hạn hoạt động trong lãnh thổ của giáo xứ, đều lỗi thời; do đó phải tìm ra những hình thức mới để đồng hành và gần gũi với giáo dân trong đời sống hằng ngày[9], phải xây dựng giáo xứ thành cộng đoàn lên đường trong tình hiệp thông được tỏ lộ bằng sự tham gia, để chung tay xây dựng đền thờ Chúa Thánh Thần giữa những anh chị em chưa cùng đức tin[10]. Vì vậy, những tổ chức hay cách hành động nào trong giáo xứ không cổ võ cho sự tham gia và cộng tác hoặc chung tay và góp sức thì không còn thích đáng nữa.
Đông đảo giáo dân vẫn tham gia và cộng tác với các mục tử trong các hoạt động giáo xứ, nhưng đa phần tham gia và cộng tác cách phụ thuộc và thụ động, chưa tham gia một cách chủ động và sáng tạo; tham gia và cộng tác như những cánh tay nối dài, chứ không như những cộng sự viên thực sự bình đẳng. Tham gia và cộng tác ở đây được hiểu là tham gia và cộng tác trong tinh thần đồng trách nhiệm bởi ý thức thuộc về, nhờ được cộng đoàn yêu thương tôn trọng, nâng đỡ, thách đố và cảm hứng; là tham gia cách tự nguyện không những vì nó là trách nhiệm, là bổn phận của mình, mà còn vì nó là ơn gọi của mình, ơn gọi phục vụ với tất cả khả năng độc đáo Chúa ban; là tham gia vào các hoạt động mục vụ không chỉ trong mà cả ngoài giáo xứ nữa, không chỉ nhằm bảo tồn mà còn mở ra với mục vụ truyền giáo. Điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các thành phần đồng trách nhiệm trong giáo xứ như cha xứ, cha phó, người sống đời thánh hiến và giáo dân, cũng như giữa cha xứ và các tổ chức như Hội đồng Kinh tế và Hội đồng mục vụ giáo xứ để phát triển văn hóa của sự minh bạch và của tinh thần đồng trách nhiệm trong việc quản trị giáo xứ.
Từ năm 1990, Liên Hội đồng Giám mục Á Châu (FABC) đã suy nghĩ và tìm ra những cách thế hiện diện mới để Giáo hội có thể thi hành và chu toàn sứ vụ yêu thương và phục vụ tại lục địa rộng lớn này. Theo các giám mục, trước hết Giáo hội phải nhập thể vào đời sống Á châu; kế đến, canh tân nội bộ Giáo hội như là sự hiệp thông của các cộng đoàn và là một Giáo hội tham gia trong tinh thần đồng trách nhiệm. Các giám mục khẳng định: “Giáo hội tại châu Á phải là sự hiệp thông của các cộng đoàn, nơi đó, giáo dân, tu sĩ và giáo sĩ nhìn nhận và đón nhận nhau như anh chị em”[11]. Có thể nói đường hướng mục vụ các giám mục Á Châu đề ra cách nay hơn 30 năm như được sinh động hóa bởi sinh hoạt của THĐGM lần thứ XVI này, và những gì các giám mục Á Châu nói về Giáo hội cũng có thể hiểu và áp dụng cho giáo xứ trong nỗ lực xây dựng một giáo xứ mang tính hiệp hành.
Theo đó, giáo xứ được mời gọi chuyển từ một giáo xứ chu cấp tất cả, trong đó linh mục là trung tâm, là người ban phát mọi sự và ra lệnh cho mọi người, còn các tín hữu với nhau chỉ là những cá nhân rời rạc, sang một giáo xứ có hội đồng mục vụ giáo xứ, trong đó linh mục có sự cộng tác với một nhóm được gọi là Hội đồng Mục vụ Giáo xứ, còn các tín hữu đã tụ năm tụ ba, gắn bó với nhau hơn; tiếp đến chuyển sang một giáo xứ thức tỉnh, trong đó linh mục tham gia vào sinh hoạt của các nhóm tín hữu muốn hiểu sâu hơn về Giáo hội; rồi chuyển sang một giáo xứ có nhiều nhóm trách nhiệm, trong đó linh mục tổ chức các nhóm tín hữu có ý thức trách nhiệm chung hoặc các xóm giáo, để đáp ứng các nhu cầu của cộng đoàn; và cuối cùng chuyển sang một giáo xứ hiệp thông của các cộng đoàn (communion of communities), được gọi là cộng đoàn Kitô hay Giáo hội cơ bản, hoặc cộng đoàn Kitô nhỏ (Basic Christian or Ecclesial Community: BCC or BEC, Small Christian Community: SCC). Các cộng đoàn này gồm có 4 đặc tính sau: a/ Các người láng giềng nhóm họp với nhau ngoài những giờ chính thức của nhà thờ; b/ Họ lấy việc chia sẻ Lời Chúa làm nền tảng thiêng liêng của Cộng đoàn; c/ Họ nâng đỡ nhau và cùng dấn thân phục vụ khu xóm; và d/ Họ hiệp nhất với các nhóm khác của giáo xứ và hiệp nhất với Giáo hội phổ quát.
Năm hình ảnh giáo xứ từ chu cấp tất cả đến hiệp thông của các cộng đoàn cống hiến cho giáo xứ cách thế để liên kết các thành phần đồng trách nhiệm trong cộng đoàn như cha xứ, cha phó, người sống đời thánh hiến và giáo dân cũng như các tổ chức đồng trách nhiệm như hội đồng kinh tế và hội đồng mục vụ giáo xứ lại với nhau để phục vụ cho công cuộc loan báo Tin Mừng.
Để có được cách suy nghĩ, cách sống và hành động mang tính hiệp hành, các tín hữu - cả giáo sĩ lẫn giáo dân - cần được đào tạo theo linh đạo hiệp thông. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trong Tông thư Novo Millennio Inuente (Khởi đầu Thiên niên kỷ mới) xem việc làm cho Giáo hội trở thành “ngôi nhà và ngôi trường của sự hiệp thông” là thách đố của chúng ta trong thiên niên kỷ này, nếu chúng ta muốn trung thành với chương trình của Chúa và đáp ứng những ước mơ sâu xa nhất của thế giới. Vì thế, chúng ta cần cổ võ một linh đạo hiệp thông và làm cho linh đạo đó trở thành nguyên lý hướng dẫn việc giáo dục bất cứ nơi nào huấn luyện Kitô hữu.
Theo Thánh Giáo hoàng, linh đạo hiệp thông dạy chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Ba Ngôi và cống hiến cho chúng ta khả năng thấy ánh sáng của Chúa trên gương mặt của anh chị em xung quanh; khả năng nghĩ đến anh chị em trong sự hiệp nhất sâu xa của Nhiệm Thể và do đó như “thành phần của tôi”; khả năng chia sẻ những niềm vui và những đau khổ của anh chị em, cảm nhận những ước muốn của họ và chăm chú đến những nhu cầu của họ, hiến cho họ tình bạn sâu sắc và chân chính. Linh đạo hiệp thông còn cống hiến cho chúng ta khả năng thấy điều tích cực nơi kẻ khác, đón nhận điều đó và khen ngợi điều đó không những như một hồng ân Thiên Chúa ban cho người ấy, mà còn như “một hồng ân cho tôi”; khả năng “nhường chỗ” cho anh chị em, bằng cách “mang lấy gánh nặng cho nhau” (Gl 6, 2) và chống lại cám dỗ ganh đua, ham danh vọng, ngờ vực và ghen tương. Sau cùng, linh đạo hiệp thông khuyến khích sự đối thoại đầy hiệu quả giữa các mục tử và các tín hữu: một mặt liên kết họ ưu tiên trong tất cả những gì thiết yếu; mặt khác đưa họ tới sự đồng thuận có cân nhắc trong các vấn đề mở rộng cho bàn cãi. Bằng cách thúc đẩy sự tin tưởng và cởi mở nơi mọi thành phần Dân Chúa, linh đạo hiệp thông, mang lại cho thực tại thể chế một linh hồn[12].
Theo Ủy ban Thần học Quốc tế, điều thiết yếu trong việc đào tạo các tín hữu theo tinh thần hiệp hành là làm cho cảm thức đức tin (sensus fidei) của họ nên trưởng thành, bằng cách giúp họ “tham gia vào đời sống của Hội thánh mà trung tâm là bí tích Thánh Thể và bí tích Hòa Giải; lắng nghe Lời Chúa để đối thoại với Lời Chúa và đem ra thực hành; tuân theo Huấn quyền trong các giáo huấn về đức tin và luân lý; ý thức về việc trở thành chi thể của nhau như là Thân thể Chúa Kitô và được sai đến với anh chị em của chúng ta, trước hết và trên hết là những người nghèo nhất và người bị loại trừ nhất”[13]. Kế đến, là đào tạo đời sống hiệp hành bằng cách giúp các tín hữu thực hành lắng nghe, đối thoại và phân định cộng đoàn cũng như giúp họ thực hành đối thoại đại kết và dấn thân phục vụ xã hội[14].
THĐGM trong Tài liệu chuẩn bị cũng khẳng định: “Linh đạo cùng nhau cất bước hành trình cần trở thành nguyên tắc giáo dục để huấn luyện các tín hữu tự đào tạo trong tiến trình hiệp hành để trở nên con người nhân bản và con người Kitô hữu, con người của gia đình và con người của cộng đồng. Phải đào tạo thế nào, đặc biệt những người gánh vác trách nhiệm trong cộng đoàn Kitô hữu, để họ có thêm khả năng ‘cùng nhau cất bước hành trình’, lắng nghe nhau và tham gia đối thoại, …phân định và thực thi quyền bính”[15].
Những nẻo đường mà hoa trái và kinh nghiệm từ việc thỉnh ý hiệp hành mở ra, cho thấy tiến trình THĐGM thực sự đã mang lại cho các giáo phận “một mùa xuân mới cho việc lắng nghe, phân định và ra quyết định, để toàn thể Dân Chúa có thể thực hiện tốt hơn cuộc hành trình cùng bước đi bên nhau và cùng bước đi với toàn thể gia đình nhân loại, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần” như THĐGM mong ước[16].
Tuy nhiên, chúng cũng mở ra cho các giáo phận một cuộc xuất hành mới hướng tới một lối sống và hành động nhất thiết phải có của người môn đệ Chúa Giêsu, để có thể chu toàn sứ vụ Loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay. Tinh thần hiệp hành đã được khơi dậy qua sinh hoạt THĐGM cấp Giáo phận còn phải được củng cố và phát huy đến độ trở thành sức mạnh đổi mới cách sống và hành động nơi các cộng đoàn để toàn thể Dân Chúa có thể tham gia vào đời sống và sứ vụ của Giáo hội cách nhiệt thành và hữu hiệu.
Ước mong những suy tư còn bị giới hạn bởi hiểu biết và kinh nghiệm hạn hẹp của người viết được tiếp nối bởi kho tàng hiểu biết và kinh nghiệm phong phú của mọi thành phần trong cộng đồng Dân Chúa, để góp phần vào công cuộc đổi mới của Giáo hội tại Việt Nam, hướng tới một Giáo hội hiệp hành: hiệp thông, tham gia và sứ vụ như lòng Chúa mong ước, trên quê hương đất nước này.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hiền
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 131 (Tháng 9 & 10 năm 2022)
[2] Đức giáo hoàng Phanxicô: Diễn từ cho các Salêdiêng trong Tổng Tu Nghị 28.
[3] x. UBTHQT, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, số 73
[4] EG số 49
[5] EG số 49
[6] Văn phòng Tổng thư ký THĐGM, Tài liệu chuẩn bị, số 32.
[7] x. UBTHQT, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, số 103.
[8] x. Lm. Nguyễn Văn Am, SDB., Hướng tới việc xây dựng cộng đoàn Giáo Hội tại giáo xứ theo mô hình: hiệp thông, tham gia và sứ vụ.
[9] x. Bộ Giáo Sĩ, Huấn thị Cải tổ mục vụ cộng đoàn giáo xứ để phục vụ sứ vụ Loan báo Tin Mừng, số 8-15.
[10] x. HĐGM.VN, Thư gởi Đại hội Dân Chúa 2010.
[11] For All the Peoples of Asia, Vol. I, 287.
[12] x. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông thư Novo Millennio Inuente (Khởi đầu Thiên niên kỷ mới), 43-45.
[13] UBTHQT, Tính hiệp hành trong đời sống và sứ vụ của Hội Thánh, số 108.
[14] x. Ibid., 110-119.
[15] x. Văn phòng Tổng thư ký THĐGM, Tài liệu chuẩn bị, số 30.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn