Số 273, 300, 314: Sự siêu việt của Thiên Chúa
Số 273. Chỉ đức tin mới có thể gắn bó với những đường hoàng huyền của sự toàn năng của Thiên Chúa. Đức tin này tự hào về những điều yếu đuối của mình, để người rút ra quyền năng của Đức Kiệt xuống trên mình [1] . Mẫu cao nhất của một đức tin như thế là Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ là người đã tin rằng “đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37) và đã khen ngợi Chúa: “Đấng Toàn Năng làm đã cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Ngài thật chính thánh tôn” (Lc 1,49).
Số 300. Thiên Chúa vô cùng cao hơn cả các công trình của Ngài [2] : “Uy phong Ngài vượt quá trời cao” (Tv 8,2). “trực cao cả không dây chéo” (Tv 145,3). Nhưng bởi vì Ngài là Tạo tạo Hóa tối cao và tự do, là căn nguyên đệ nhất của tất cả những gì hiện hữu, Ngài hiện diện nơi đó sâu nhất của các thụ tạo của Ngài: “Chính ở nơi Ngài mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu” (Cv 17,28). Theo lời thánh Augustinô: Ngài “thâm sâu hơn ác sâu nhất của tôi và cao cấp hơn đỉnh cao của tôi” [3] .
Số 314. Chúng ta tin chắc rằng Thiên Chúa là Chúa của trần gian và lịch sử. Nhưng thông thường chúng ta không biết được các đường đi của quan phòng của Ngài. Chỉ khi nào đến cuối cuộc, khi chúng ta hiểu được Giao diện của chúng ta kết thúc, khi chúng ta thấy Thiên Chúa “mặt giáp mặt” (1 Cr 13,12), chúng ta sẽ biết một cách kiểm tra các đường lối này, mà qua đó, kể cả nhờ những plugin của sự kiện và tội lỗi, Thiên Chúa đã đưa ra công cụ tạo dựng của Ngài sẽ gây khó chịu cho ngày Sabat [4] cuối cùng, ngày đó mà Thiên Chúa đã tạo ra trời đất.
Số 36-43: Sự nhận biết Thiên Chúa theo Giáo huấn Giáo hội
Số 36. “Mẹ Hội Thánh khẳng định và dạy rằng: Từ những loài thụ tạo, nhờ ánh sáng tự nhiên của lý trí con người, con người có thể nhận biết cách chắc chắn về Thiên Chúa như là nguyên lý và cùng đích của mọi loài” [5] . Không có khả năng này, con người không thể nhận được khải tượng của Thiên Chúa. Con người có khả năng đó là do đã được tạo ra “theo hình ảnh Thiên Chúa” (St 1,27).
Số 37. Tuy nhiên, trong những hoàn cảnh lịch sử mà con người đã trải qua, con người gặp nhiều khó khăn trong công việc nhận biết Thiên Chúa dù chỉ dựa vào ánh sáng trí tuệ.
“Nói một cách đơn giản, mặc định dầu lý trí con người, nhờ sức lực và ánh sáng tự nhiên của mình, thật sự có thể đạt tới sự nhận biết thực tế và chắc chắn về một Thiên Chúa có vị trí, cân bảo vệ và quản lý trụ bằng quan phòng của Ngài, cũng như nhận biết một luật tự nhiên được là Tạo Hóa đặt trong tâm chúng ta, có không ít phiền toái cản trở việc sử dụng năng lượng vì nó là một cách hữu hiệu. liên quan đến liên hệ giữa Thiên Chúa và con người, là những điều hoàn toàn lãnh vực những vật hữu hình, và khi những chân lý đó được diễn ra bằng hành động và tác động đến đời sống thì đòi con người phải hiến thân và từ bỏ mình. cho là tráo hoặc ít nhất là la mơ hồ, những điều họ không muốn đó là những sự thật” [6] .
Số 38. Vì lý do đó, con người cần được khả năng của Thiên Chúa soi dẫn, không có những gì xảy ra quá trí, mà cả trong “những chân lý tôn giáo và luân lý tự chúng vốn không vượt quá khả năng lý trí, để trong tình trạng hiện tại của các loại nhân, mọi người đều có thể biết được cách dễ dàng, chắc chắn và không lộn xộn” [7] .
Phải nói về Thiên Chúa thế nào?
Số 39. Khi hùng khả năng trí tuệ con người trong công việc nhận biết Thiên Chúa, Hội Thánh tin tưởng rằng mình có thể nói về Thiên Chúa cho mọi người và với mọi người. Niềm tin tín này là điểm khởi đầu cho công việc đối thoại của Hội Thánh với các tôn giáo khác, với học và khoa học, và cả với những người vô tín ngưỡng và những người vô thần.
Số 40. Vì sự hiểu biết của chúng ta về Thiên Chúa có giới hạn, nên ngôn ngữ chúng ta dùng để nói về Thiên Chúa cũng bị giới hạn. Chúng tôi chỉ có thể nói về Thiên Chúa dựa trên những gì chúng tôi biết về các loài thụ tạo và theo cách hiểu biết và suy nghĩ hạn chế của loài chúng ta.
Số 41. Mọi thụ tạo đều có một loại nào đó giống Thiên Chúa, đặc biệt là con người được tạo dựng theo hình ảnh Ngài và giống như Ngài. Nhiều điều hoàn hảo của các thụ tạo (tính chân, thiện, mỹ của chúng) phản chiếu sự hoàn hảo vô biên của Thiên Chúa. Do đó, chúng ta có thể nói về Thiên Chúa từ những sự hoàn hảo nơi các thụ tạo của Ngài, “vì các thụ tạo càng lớn lao đẹp khéo thì càng giúp nhận ra bã tạo thành” (Kn 13,5).
Số 42. Thiên Chúa siêu việt trên mọi thụ tạo. Vì vậy, chúng tôi phải không ngừng thanh luyện ngôn ngữ của chúng tôi khỏi những gì bị hạn chế, lệ thuộc vào hình ảnh, và không an toàn, để Thiên Chúa, Xóa người “không thể diễn đạt được, không thể hiểu được, không thể nhìn thấy được, không thể suy nghĩ được” [8] , không bị lộn xộn với những nhân vật trình bày kiểu của chúng tôi. Ngôn ngữ phàm nhân của chúng ta không bao giờ có thể diễn tả đầy đủ tiềm ẩn vô tận của Thiên Chúa.
Số 43. Khi nói như vậy về Thiên Chúa, ngôn ngữ của chúng ta diễn đạt theo cách nhân nhân, nhưng thực sự đạt tới chính Thiên Chúa, dù không thể diễn tả được Ngài trong tính đơn thuần vô biên của Ngài. Chúng ta phải nhớ rằng “giữa Tạo Hóa và thụ tạo, không thể ghi các sự giống nhau, mà không bao hàm rằng sự khác nhau còn lớn hơn nhiều” [9] ; hơn nữa, “chúng ta không thể nắm bắt được Thiên Chúa là gì, nhưng chỉ có thể biết Ngài không phải là gì, và các hữu thể khác liên hệ với Ngài như thế nào” [10] .
Số 2544: Yêu mến Đức Tử trên tất cả mọi sự và mọi người
Số 2544. Chúa Giêsu truyền cho các đệ tử yêu mến Người trên tất cả mọi sự và mọi người, và mời họ từ bỏ “mọi sự họ có” [11] vì Người và vì Tin Mừng [12] . Trước cơn đau khổ của Người ít lâu, Người đã chọn họ ngoại bà nghèo nghèo ở Giêrusalem, bà này, trong cảnh túng cực của mình, đã cho đi tất cả những gì bà có để sống [13] . Lệnh truyền giữ trái tim tự động thực hiện để cải tiến để được vào Nước Trời.
Số 914-919, 931-932: Theo Chúa Kitô trong đời sống thánh hiến
Số 914. “Bác sống … được thiết lập làm việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc âm, tuy không liên quan đến cơ cấu sản phẩm trật tự của Hội Thánh, vẫn thuộc về đời sống và sự thiện thiện của Hội Thánh một cách vững bền” [14] .
Những lời khuyên Phúc Âm và đời sống thánh hiến
Số 915. Các lời khuyên Phúc Âm, vốn có nhiều, được đề ra cho tất cả các môn đệ của Đức Kitô. Sự hoàn hảo của đức tôn giáo, mà tất cả các Kitô hữu được kêu gọi tới, đối với những ai tự nguyện thiên nhận ơn gọi sống đời sống thánh hiến, bao hàm nghĩa phục vụ giữ đức khiết tịnh trong độc thân vì Nước Trời, đức khó nghèo và đức vâng phục. Việc tuyên bố những lời khuyên này, trong một giai đoạn sống vững chắc được Hội Thánh công nhận, là đặc tính của “đời sống thánh hiến” cho Thiên Chúa [15] .
Số 916. Bậc sống “đời sống thánh hiến” xuất hiện như một trong những cách sống một cách “thân mật hơn” sự thánh hiến đã bắt nguồn từ bí tích Rửa tội và hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa [16] . Trong đời sống thánh hiến, các Kitô hữu muốn mình, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần, bước theo Đức cưỡi cách gần gũi hơn, tự hiến cho Thiên Chúa viếng thăm trên hết mọi sự, và theo đuổi sự hoàn hảo của đức thờ để phục vụ Nước Trời, bày tỏ và loan báo trong Hội Thánh sự vinh quang của thế giới tương lai [ 17] .
Một cây lớn có nhiều nhánh
Số 917. “Như trong một cây lớn mọc lên từ hạt giống do Thiên Chúa rụng hoa và rụng lá cách kỳ diệu và đa biến trong cánh đồng của Chúa, [đã phát sinh] những hình thức khác nhau của đời sống đan tu hoặc cộng đồng, và những gia đình khác nhau…, họ làm gia tăng sản nghiệp, vừa sinh hữu ích cho các thành viên, vừa sinh hữu ích cho toàn Thân The của Đức” [18] .
Số 918. “Ngay từ thời điểm khai mạc của Hội Thánh, đã có những người nam và người nữ, có ý muốn giúp việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm để bước theo Đức Chết cách tự làm hơn, và bắt sống người cách khắngt hơn, và mỗi người một cách, họ sống một cuộc đời tận hiến cho Thiên Chúa. Nhiều người trong số đó, được Chúa Thánh linh linh, hoặc sống cuộc đời cô, hoặc đã lập ra những gia đình tu mà Hội Thánh, bằng quyền của mình hãy chấp nhận và phê chuẩn” [19] .
Số 919. Các Giám mục phải cố gắng phân định những hồng ân mới của đời sống thánh hiến, được Chúa Thánh Thần phó thác cho Hội Thánh của Ngài; việc phê chuẩn những hình thức mới của đời sống thánh hiến được dành riêng cho Tòa Thánh [20] .
Số 931. Người đã được lau chùi dành riêng cho Thiên Chúa, nay hiến thân cho Ngài là kỳ tích sát khách trên hết mọi sự, như vậy người đó đã cố gắng hết sức để, một cách mật thiết hơn, được thánh hiến cho việc phục vụ Thiên Chúa và thảm sát hữu ích cho Hội Thánh. Giai cấp sống đời sống thánh hiến, Hội Thánh biểu lộ Đức Kitô và Chúa Thánh Thần hành động được thấy trong Hội Thánh một kỳ kỳ như thế nào. Những người tuyên bố giữ các lời khuyên Phúc âm có sứ vụ đầu tiên là sự sống thánh hiến của mình. Vì họ “dân thân phục vụ Hội Thánh làm chính sự thánh hiến của mình, nên họ buộc phải hoạt động cách đặc biệt cho công cuộc truyền giáo, theo thể thức riêng của hội dòng” [21] .
Số 932. Trong Hội Thánh, như là một bí tích, nghĩa là một dấu chỉ và dụng cụ của sự sống của Thiên Chúa, đời tu dòng xuất hiện như một dấu chỉ đặc biệt của huyền thoại Cứu Chuộc. Bước theo và bắt mồi Đức “một cách gần gũi hơn”, thể hiện rõ ràng mình ra không của người “một cách rõ ràng hơn”, là hiện diện “một cách sâu sắc hơn”, trong trái tim Đức Chết, với những người đương thời của mình. Những ai đi trên con đường “hẹp hơn” này Kích động anh chị em bằng kính sáng của mình, và “đưa ra một bằng chứng sáng trang trí và nổi bật rằng, trần gian không thể được biến hình và được dâng lên cho Thiên Chúa nếu không có tinh thần thần thánh của các mối Phúc” [22] .
Bài Ðọc I: Kn 9, 13-18
“Ai có thể suy tưởng được sự thật Thiên Chúa muốn”.
Trích sách Khôn Ngoan.
Ai trong loài có thể biết được ý nghĩa của Thiên Chúa? Hay ai có thể suy tưởng được sự thật Thiên Chúa muốn? Vì những ý tưởng về loài hay chết chóc thì mập mờ, và những điều dự phòng của chúng tôi đều không chắc chắn. Vì xác thực hay hư hỏng làm cho linh hồn ra nặng nề, và nhà bụi đất làm cho lý trí hay lo lắng nhiều điều ra nặng nề.
Chúng tôi ước lượng cách khó khăn các công việc dưới đất, và khó tìm thấy những điều trước mắt. Còn những điều trên trời ai khám phá được? Ai hiểu Thánh ý của Chúa, nếu Chúa không ban sự phi quan, và không sai Thánh Thần Chúa từ trời cao xuống. Như thế, mọi đường hoa những kẻ ở dưới đất đều được chỉnh sửa lại ngay thẳng, và loài người học biết những điều đẹp lòng Chúa.
Vì, lạ Chúa, những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan.
Ðó là lời Chúa.
Đáp Ca: Truyền hình 89, 3-4. 5-6. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Thân lạ Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời sống trải qua đời kia.
Xhướng: 1) Thực ngàn năm ở trước thiên nhân, tựa hồ như ngày hôm qua đã khuất, như một đêm thức giấc cầm canh. Chúa tể cho con người trở về bụi đất, Ngài phán: “Hãy trở về gốc, con người”.
Ðáp: Thân lạ Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời sống trải qua đời kia.
2) Chúa tạo họ trôi đi, họ như kẻ mộng giấc buổi sáng, họ như cây cỏ mọc xanh tươi. Ban sáng cỏ nở hoa và xanh tốt, buổi chiều nó bị xén đi và nó khô.
Ðáp: Thân lạ Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời sống trải qua đời kia.
3) Hãy dạy chúng tôi biết cách đếm ngày giờ, để chúng tôi có thể luyện tập cách xoay vòng. Lạy Chúa, xin trở lại, chớ còn để tới bao giờ? xin tỏ lòng thương xót tôi cho ngài.
Ðáp: Thân lạ Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời sống trải qua đời kia.
4) Xin cho chúng sớm được nhận được ân huệ của Chúa, để chúng mừng rỡ hoan thọ đời sống chúng con. Xin cho họ được hưởng ân huệ Chúa là Thiên Chúa chúng con, sự nghiệp tay chúng con làm ra, xin Ngài củng cố, xin Ngài củng cố sự nghiệp tay chúng con làm ra.
Ðáp: Thân lạ Chúa, Ngài là chỗ chúng con dung thân, từ đời sống trải qua đời kia.
Bài Đọc II: Plm 9b-10. 17-12
“Con hãy tiếp tục nó không phải như một người nô lệ, nhưng như một người anh rất thân mến”.
Trích thư Thánh Thánh Tông gửi cho Philêmon.
Con thân viếng, mùa già nua, và hiện đang bị cầm tù vì Đức Kitô, cha nài xin con cho Ônêsimô, các con cha đã sinh ra trong xiềng xích.
Cha trao nó lại cho con. Phần con, con hãy đón nhận nó như ruột thịt của cha. Cha cũng muốn giữ lại để thay con giúp đỡ cha trong lúc cha bị xích xích vì Tin Mừng. Nhưng vì chưa biết ý con nên cha không muốn làm gì, để nghĩa con làm là một việc tự ý, chớ không ép buộc. Vì biết đâu nó xa con một thời gian để rồi con sẽ tiếp tục nhận muôn đời, không phải như một người nô lệ, nhưng thay vì nô lệ, thì như một người anh em rất thân mến, đặc biệt đối với cha, vấn chi là đối với con, về phần xác cũng như trong Chúa. Vậy nên nếu con nhận cha là bạn hữu thì xin con hãy đón nhận nó như chính mình vậy.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10,27
Alleluia, Alleluia! - Chúa phán: “Con chiên Ta thì nghe Ta; Ta biết chúng và chúng theo Ta”. - Alleluia.
Phúc Âm: Lc 14, 25-33
“Ai không bỏ tất cả những cải thiện của mình thì không thể làm môn đệ Ta”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, có nhiều đám đông cùng đi với Chúa Giêsu, Người ngoảnh lại bảo họ rằng: “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không thu giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.
“Có ai trong số các bạn muốn xây tháp mà trước tiên không ngồi tính toán phí tổng hợp cần thiết, xem đủ để hoàn thành không? Kẻo đặt móng rồi mà không thể hoàn thành, thì mọi người xem sẽ chế độ độc đáo đó rằng: 'Tên này khởi động cửa hàng mà không hoàn thành thành công'.
“Hoặc có vua nào sắp đi giao chiến với một vua khác, mà trước không ngồi suy nghĩ xem mình có thể đem mười ngàn quân ra cân đầu với đối phương dẫn hai lăm ngàn quân tiến đánh mình chăng? Bằng nổi nổi, thì khi đối phương còn ở xa, vua ấy sai một thư đoàn đến cầu. Ngoài ra, bất kỳ ai trong số đó không từ bỏ tất cả cải thiện của mình có, thì không làm môn đệ Ta”.
Ðó là lời Chúa.
_________
[1] X. 2 Cr 12,9; Pl 4,13.
[2] X. Hc 43,30.
[3] Thánh Augustinô, Tự Thú , 3, 6, 11: CCL 27, 33 (PL 32, 688).
[4] X. St 2,2.
[5] CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius , c. 2: DS 3004; X. Như trên. , De Revelatione, điều 2: DS 3026; CĐ Vaticanô II, Hiến pháp tín lý Dei Verbum , 6: AAS 58 (1966) 819.
[6] ĐGH Piô XII, Thông điệp Humani Generis : DS 3875.
[7] Ibid .: DS 3876. X. CĐ Vaticanô I, Hiến chế tín lý Dei Filius , c. 2: DS 3005; CĐ Vaticanô II, Hiến pháp tín lý Dei Verbum , 6: AAS 58 (1966) 819-820; Thánh Toma Aquinô, Summa thần học , I, q. 1, A. 1, c: Ed. Leon. 4, 6.
[8] Byzantin phụ vụ. Anaphora sancti Ioannis Chrysostomi : Phụng vụ Đông và Tây , ed. FE Brightman (Oxford 1896) tr. 384 (PG 63, 915).
[9] CĐ Latêranô IV, Cap. 2. De errore abbatis Ioachim : DS 806.
[10] Thánh Toma Aquinô, Summa contra gentiles , 1, 30: Ed. Leon. 13, 92.
[11] X. Lc 14,33.
[12] X. Mc 8,35.
[13] X. Lc 21,4.
[14] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 44: AAS 57 (1965) 51.
[15] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 42-43: AAS 57 (1965) 47-50; Id., Sắc lệnh Perfectae caritatis, 1: AAS 58 (1966) 702-703.
[16] X. CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Perfectae caritatis, 5: AAS 58 (1966) 704-705.
[17] X. Bộ Giáo Luật , điều 573.
[18] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 43: AAS 57 (1965) 49.
[19] CĐ Vaticanô II, Sắc lệnh Perfectae caritatis, 1: AAS 58 (1966) 702.
[20] X. Bộ Giáo Luật, điều 605.
[21] Bộ Giáo Luật, điều 783; x. ĐGH Gioan Bậc II, Thông điệp Redemptoris Mission, 69: AAS 83 (1991) 317-318.
[22] CĐ Vaticanô II, Hiến chế tín lý Lumen Gentium, 31: AAS 57 (1965) 37.
https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/giao-ly-cho-bai-giang-chua-nhat-23-thuong-nien-nam-c