[2] Ngay từ năm 1770, cha Levavasseur đã thành lập Nhà Mến Thánh Giá tại Campuchia. Đến năm 1942, Dòng Mến Thánh Giá ở đây được chuyển thành Dòng Con Đức Mẹ Nam Vang. Vì các nữ tu Dòng Con Đức Mẹ Nam Vang hầu hết là người Việt Nam, nên năm 1970, các chị cùng với những người Việt khác rời Campuchia về Việt Nam. Khi về Việt Nam, Dòng Con Đức Mẹ Nam Vang gia nhập Giáo Phận Phú Cường. Hiện nay, Dòng có tên gọi là Con Đức Mẹ Phú Cường.
NĂM THÁNH MỪNG 350 NĂM
THÀNH LẬP DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
BÀI 6: LINH ĐẠO CỦA ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT DE LA MOTTE – ĐẤNG SÁNG LẬP DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
WHĐ, 27-05-2020 –Cảm thức tâm linh luôn âm vang nơi tâm hồn con người, nhất là nơi người Kitô hữu, bởi ân sủng của Bí Tích Thánh Tẩy thôi thúc họ tìm kiếm và kết hợp với Thiên Chúa. Người ta vẫn thường gọi đường dẫn đến sự gặp gỡ với Đấng Siêu Việt này là con đường tâm linh mà truyền thống tu đức Kitô Giáo gọi là linh đạo. Tuy vậy, có lẽ cũng cần một khái niệm để hiểu nghĩa của từ này.
Theo Từ Điển Công Giáo, Linh Đạo là con đường thiêng liêng đưa con người đến với Thiên Chúa, Đấng Thánh Thiện, qua Đức Kitô, dưới sự tác động của Chúa Thánh Thần[1]. Trong một định nghĩa khác, linh đạo “là một cách thế sống và thể hiện Tin Mừng. Linh đạo giống như những phương pháp và những kim chỉ nam, để giúp Kitô hữu đem hết tâm lực làm cho Giáo Hội, qua con người của họ, thực sự biểu dương Đức Kitô ngày một hoàn hảo hơn, cho các tín hữu cũng như cho lương dân”[2].
Trong lòng Giáo Hội, qua mọi thời đại, dù cách thức sống linh đạo đặc thù của mỗi Kitô hữu rất phong phú và đa dạng, nhưng mọi linh đạo đều xuất phát từ nguồn mạch duy nhất là Đức Kitô và Phúc Âm của Người, để tìm cách hoạ lại một khía cạnh trong đời sống phong phú vô tận của Người: chiêm niệm trên núi, rao giảng về Nước Thiên Chúa, chữa lành bệnh nhân và người tàn tật, kêu gọi người tội lỗi hoán cải, chúc lành cho trẻ em và thi ân giáng phúc cho mọi người...[3].
Khi chọn lựa cho mình phương thế nên thánh bằng việc hướng trọn cái nhìn và con tim về Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh, Đức Cha Pierre Lambert khao khát gắn chặt đời mình với Người bằng một tình yêu thực tiễn và phi thường, đến độ sẵn lòng dâng tiến, trao gửi và cống hiến trọn vẹn con người mình, để Chúa dùng theo cách Người muốn, hầu tiếp nối sự hy sinh đau khổ của Người[4].
Một trải nghiệm tâm linh thường chịu ảnh hưởng không ít từ nền văn hóa, hoàn cảnh xã hội. Do đó, vài nét phác hoạ về bối cảnh Giáo Hội Pháp thế kỷ XVII, sẽ giúp hiểu rõ hơn những giá trị tinh thần, những ký ức tâm linh của Đức Cha Pierre Lambert. Từ đó, có thể hiểu, cách quân bình và sâu sắc, con đường thiêng liêng mà Đức Cha đã mở lối và bước đi. Cho đến nay, có biết bao thế hệ nữ tu Mến Thánh Giá vẫn luôn tiếp bước trên con đường này khi chọn Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh là đối tượng duy nhất cho cuộc đời mình.
Chương I:
ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT DE LA MOTTE - NGƯỜI CON CỦA GIÁO HỘI PHÁP THẾ KỶ XVII
Thế kỷ XVII được xem là thế kỷ vĩ đại về nhiều phương diện. Đây là thời kỳ vẻ vang của lịch sử nước Pháp về mặt chính trị, quân sự, văn chương và nghệ thuật. Cuộc đời Đức Cha Pierre Lambert de la Motte nằm gọn trong lòng thế kỷ này (1624-1679). Ngài sinh ra và lớn lên dưới triều đại Vua Louis XIII (trị vì từ năm 1610-1643) và chọn hướng đi cho cuộc đời của mình dưới triều đại Vua Louis XIV (trị vì từ năm 1643-1715). Điều đáng lưu ý, Vua Louis XIII được mệnh danh là “Vua Công Chính”[5] và Vua Louis XIV, vị Vua mà các sử gia đã tặng biệt hiệu là “Louis Đại Đế”, “Vua Mặt Trời”[6]. Đây là hai vị Vua Công Giáo và sùng đạo.
Nhìn sâu vào thực tế nước Pháp thời đó, các sử gia phát hiện thêm điều này là vẻ hào nhoáng bề ngoài kia che đậy nhu cầu bức thiết của một xã hội cần được Phúc Âm chiếu rọi, để thúc đẩy mọi người hoán cải và sống công chính thánh thiện. Thật vậy, thế kỷ XVII của nước Pháp được đánh dấu bởi những cuộc hoán cải kỳ diệu và sự thấm nhuần tinh thần Phúc Âm.
I. ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁO HỘI PHÁP THẾ KỶ XVII
Từ đầu thế kỷ XVII, tinh thần Phúc Âm đã thấm nhập sâu rộng vào đời sống Giáo Hội Pháp qua ba cửa ngõ chính: các tác phẩm tu đức, lòng sùng kính Mẹ Maria và hoạt động của các Dòng tu.
1. Những tác phẩm tu đức
Những tác phẩm tu đức đã góp phần hữu hiệu, hun đúc được nhiều tâm hồn thánh thiện:
- Sách Gương Chúa Giêsu: được viết vào thế kỷ XV, nhưng đã chiếm một vị trí đặc biệt trong đời sống người Công Giáo thế kỷ XVII. Chúng ta được biết Pierre Lambert ham đọc và suy niệm quyển sách này từ thuở thiếu thời[7].
- Dẫn Vào Đời Sống Đạo Đức của Thánh Francois de Sales (1608). Tác phẩm này đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tu đức, vì thánh nhân đặc biệt quan tâm hướng dẫn cách nên thánh cho các Kitô hữu sống giữa đời.
- Những tác phẩm thần bí của Thánh nữ Têrêsa Avila, được phiên dịch và phổ biến rộng rãi: Con Đường Hoàn Thiện (1566- 1567, xuất bản năm 1583), Lâu Đài Nội Tâm (1577).
2. Lòng sùng kính Đức Trinh Nữ Maria
Từ thời Thánh Bênađô (1091-1153), Vua Thánh Louis IX (1214-1270) và Thánh nữ Jeanne d'Arc (1412-1431), nước Pháp sống trong bầu khí rất sùng kính Đức Mẹ Maria. Truyền thống lâu đời ấy đạt tới cao điểm vào thế kỷ XVII: Vua Louis XIII long trọng dâng cả nước Pháp cho Đức Mẹ ngày 10/02/1638. Thật vậy, Đức Trinh Nữ Maria đã chiếm một vị trí rất đặc biệt trong đời sống Giáo Hội Pháp thế kỷ XVII, vì thế, một tác giả phải thốt lên: “Nước Pháp là lãnh địa của Đức Mẹ và là vương quốc tôn kính Đức Mẹ nhiều nhất trên khắp cả thế giới”[8].
Trong bầu khí đó, Đức Cha Lambert cũng có lòng tôn sùng Đức Maria cách đặc biệt, qua việc siêng năng lần hạt Mân Côi và hành hương kính viếng các nhà thờ được dâng kính Đức Mẹ. Ngài còn chỉ thị cho các chị em Mến Thánh Giá “lần hạt Mân Côi”, như một việc đạo đức của ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc[9]. Vào cuối năm 1671, trước khi lập Dòng Mến Thánh Giá tại An Chỉ ở Đàng Trong, ngài dạy các ứng sinh hãy làm tuần cửu nhật kính Đức Mẹ và Thánh Giuse để xin ơn soi sáng[10]. Chính ngài cùng với Đức Cha Francois Pallu, đã tôn vinh Đức Mẹ với tước hiệu đầy vinh dự “Đấng Sáng Lập các miền truyền giáo của chúng tôi”[11].
3. Các dòng tu
Sinh hoạt của các dòng tu cũng thổi vào Giáo Hội Pháp thế kỷ XVII một luồng sinh khí mới. Đó là những dòng mới như Dòng Tên, Dòng Bé Mọn... và những dòng kỳ cựu nhưng được canh tân như Dòng Biển Đức, Dòng Xitô, Dòng Đaminh, Dòng Phanxicô... Sự đóng góp của các dòng tu rất đa dạng nhưng tập trung vào hai lãnh vực chính: truyền giáo cho lương dân và huấn luyện đời sống đạo đức cho dân Chúa. Trong lãnh vực thứ hai này, đáng kể nhất:
- Những sinh hoạt của các Hiệp Hội như: Hiệp Hội Thánh Mẫu do Dòng Tên thành lập; Hiệp Hội Thánh Thể do ông Henri de Levis thành lập dưới sự cố vấn của Dòng Phanxicô và Dòng Tên; và Hội Nguyện Đường do Hồng Y Pierre de Bérulle.
- Giáo dục đời sống văn hóa và đời sống đức tin cho giới trẻ do một số dòng tu đảm trách.
- Trau dồi và đào sâu đời sống cầu nguyện trong các nhà tĩnh tâm do tu sĩ hoặc giáo dân hướng dẫn. Theo nhận định của một sử gia, thế kỷ XVII là thời đại hoàng kim của phong trào tĩnh tâm và nguyện ngắm có phương pháp[12].
Giáo Hội Pháp thế kỷ XVII thật phong phú về tinh thần hăng say phấn khởi, về đời sống cầu nguyện, về chủ nghĩa anh hùng và các nhân đức thầm kín[13]. Chỉ trong giai đoạn đó, nước Pháp đã cống hiến cho Giáo Hội ít nhất 27 vị thánh và chân phước được tuyên phong chính thức, và biết bao tâm hồn đạo đức thánh thiện khác dấn thân phục vụ Giáo Hội.
II. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC BẬC THẦY ĐẠO ĐỨC
1. Cha Julien Hayneuve
Vị linh hướng đầu tiên của Đức Cha Pierre Lambert là cha Julien Hayneuve, thuộc Dòng Tên có thế giá qua “đời sống siêu thoát trần gian, kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa, khiêm nhường thẳm sâu, nguyện ngắm cao siêu...”[14]. Chính ngài đã khai tâm cho Pierre Lambert về đời sống cầu nguyện, xin ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần và sống trong sự lệ thuộc hoàn toàn vào Đức Kitô: “Ngôi Lời Nhập Thể phải điều khiển chúng ta như đã điều khiển nhân tính của Người”[15]. Tư tưởng này của cha Hayneuve được phản ánh rõ nét trong quan niệm tu đức của Đức Cha Lambert.
2. Ông Jean de Bernières de Louvigny (1602-1659)
Ông Jean de Bernières, một giáo dân đạo đức, là bạn đồng hương của Thánh Jean Eudes và Đức Cha Pierre Lambert. Ông nổi bật giữa Giáo Hội vùng Normandie và cả nước Pháp với một tâm hồn chiêm niệm sâu sắc và tinh thần tông đồ nhiệt thành, thể hiện bằng những việc:
- Xây Ẩn Viện Caen làm nơi tĩnh tâm để cổ võ việc nguyện ngắm.
- Lập Hiệp Hội Khổ Nhục để phát huy đức khiêm nhường và tinh thần khổ chế, và lập hội giúp đỡ người nghèo khổ bệnh tật.
- Tận tình yểm trợ chương trình truyền giáo ở Canada. Các bài huấn đức ông giảng cho thành viên Hiệp Hội Thánh Thể hoặc cho môn sinh tại Ẩn Viện Caen được thu thập và xuất bản với nhan đề: “Người Kitô Hữu Nội Tâm”. Chính Đức Cha Francois Pallu đặc biệt giới thiệu quyển sách này với các cha Giám Đốc Chủng Viện Thừa Sai Hải Ngoại Paris để làm tài liệu giảng dạy và sách thiêng liêng cung cấp đề tài nguyện ngắm[16].
Giáo huấn và gương sáng của ông Jean de Bernières ghi đậm nét trên tâm hồn Đức Cha Lambert, mặc dầu quan niệm tu đức và phương pháp nguyện ngắm của ông có vài điểm hơi thái quá.
3. Thánh Jean Eudes
Thánh Jean Eudes là gạch nối quan trọng giữa linh đạo trường phái Pháp và Đức Cha Pierre Lambert. Thánh nhân là môn đệ trực tiếp của Đức Hồng Y de Bérulle, đã sống trong Hội Nguyện Đường 20 năm (từ 1623-1643) trong nhiệm kỳ Bề Trên của Đức Hồng Y và cha Condren; còn Đức Cha Lambert là môn đệ của Thánh Jean Eudes, đã từng cộng tác với ngài trong việc mở chủng viện đào tạo các linh mục tại Rouen. Ảnh hưởng của thánh nhân trên Đức Cha Lambert thuộc ba lãnh vực: Tu đức, mục vụ và xã hội[17].
4. Cha Simon Hallé
Một vị linh hướng khác của Đức Cha Lambert là cha Simon Hallé, đã hướng dẫn ngài vào đời sống khổ hạnh là đặc điểm nổi bật của Dòng Bé Mọn. Các tu sĩ Dòng Bé Mọn tạo được ảnh hưởng tốt tại Pháp trong thế kỷ XVII. Khi Đức Cha Lambert sang Thái Lan, tiếp xúc với giới tăng ni Phật Giáo Tiểu Thừa, ngài liên tưởng tới Dòng Bé Mọn có nếp sống khổ hạnh, gần giống như họ.
Đức Cha Pierre Lambert là một người con chân chính của Giáo Hội Pháp thế kỷ XVII. Nhưng người con ấy đã tiếp nhận gia sản tinh thần của Mẹ Giáo Hội một cách sáng tạo để trở thành vị chủ chăn thánh thiện của Giáo Hội Việt Nam, và người cha tinh thần của nữ tu Dòng Mến Thánh Giá. Tính kế thừa và tính sáng tạo của Đức Cha Lambert sẽ nổi bật lên rõ nét hơn nữa trong phần trình bày tổng hợp về linh đạo của ngài[18].
Chương II:
LINH ĐẠO ĐỨC CHA PIERRE LAMBERT DE LA MOTTE
ĐẤNG SÁNG LẬP DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
Linh đạo Đức Cha Lambert, tổng hợp kinh nghiệm thiêng liêng và quan niệm tu đức của ngài, được phản ánh sâu sắc và phong phú trong các bút tích ngài để lại. Nguồn mạch cho đời sống thiêng liêng của ngài là Đức Kitô, xoay quanh trọng tâm là Đức Kitô, rập theo khuôn mẫu là Đức Kitô, và hướng về cùng đích là Đức Kitô[19]. Do đó, chúng ta có thể nói được rằng, linh đạo của Đức Cha Lambert mang đặc tính Kitô trung tâm. Linh đạo ấy, tập trung vào ba chiều kích chiêm niệm, khổ chế và tông đồ, hướng dẫn đời sống thiêng liêng và hoạt động truyền giáo cho các thừa sai và người nữ tu Mến Thánh Giá.
I. CHIỀU KÍCH CHIÊM NIỆM
1. Tâm hồn chiêm niệm
Đức Cha Lambert de la Motte có một tâm hồn chiêm niệm sâu sắc: từ thời trẻ tuổi, ngài có thói quen nguyện ngắm mỗi ngày[20] và trải qua những cuộc tĩnh tâm 30 hoặc 40 ngày. Kinh nghiệm sa mạc này được lặp lại nhiều lần trong đời ngài, kể cả trong thời gian làm Giám Mục thừa sai tại Châu Á[21].
Nhờ ân sủng thần bí Chúa ban, từ lúc thiếu thời, tâm hồn Đức Cha đã sớm trở nên nhạy bén và tỏ ra ngoan nguỳ trước những tác động của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, lúc mới lên chín tuổi tại Lisieux, ngài được ơn Chúa soi sáng để hình dung ra một Hội Dòng gồm Những Người Yêu Mến Thánh Giá. Ba mươi năm sau, trong cuộc tĩnh tâm 40 ngày tại Ayutthaya vào năm 1663, vị Giám Mục thừa sai đầu tiên của miền Đông Á lại được thôi thúc để thành lập một Hiệp Hội mang tên Những Người Yêu Mến Thánh Giá. Cuộc tĩnh tâm này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lộ trình thiêng liêng của Đức Cha Lambert, làm phát sinh nơi ngài “một ước nguyện lớn lao là chứng tỏ một tình yêu phi thường đối với Chúa Giêsu Kitô”[22].
Với tâm hồn chiêm niệm, vị tông đồ thừa sai chân chính luôn cảm nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng tốt lành hằng soi tỏ cho ngài biết phải sống thế nào cho đẹp lòng Ngài. Trong cuộc hành trình đến miền truyền giáo, Đức Cha Lambert thường xuyên có được những cảm nghiệm nội tâm sâu sắc về sự tác động của Thiên Chúa trong tâm hồn, như ngài từng chia sẻ với vị linh hướng của mình: “...con phải thưa với cha rằng, dường như Thiên Chúa toàn năng làm chủ nội tâm và các hoạt động của nội tâm chúng ta. Cách Ngài tác động trong chúng ta thật là tuyệt đối, không còn có vấn đề vận dụng ý chí để muốn, nhưng một khi linh hồn thấy, hoặc cảm nghiệm được thánh ý Thiên Chúa thì hướng ngay về đó, chẳng những không cần suy nghĩ gì cả, mà còn cảm thấy thích thú một cách khôn tả nữa”[23].
Đối với Đức Cha, cuộc hành trình thừa sai này còn là một cuộc hành hương đặc biệt, giúp ngài nhận thức được những đòi hỏi của Thiên Chúa trong việc hoán cải không ngừng, để có được một đời sống hoàn hảo, thánh thiện, xứng hợp với bậc sống. Bên cạnh đó, việc vun trồng đời sống nội tâm sâu sắc luôn là nhu cầu thiết yếu để tâm hồn vị thừa sai ngày càng trở nên nhạy bén và trung thành với tác động của ân sủng[24].
2. Thái độ nội tâm
2.1. Lắng nghe Thần Khí
Đức Cha Lambert xác tín rằng, Chúa Thánh Thần hằng cư ngụ và hoạt động trong nội tâm mỗi người,“để tiếp nối những hoạt động mà Ngài đã thực hiện trong nội tâm Chúa Giêsu Kitô”[25]. Khi nhận thức được sự hiện diện và linh hoạt của Thần Khí trong nội tâm, linh hồn sẽ có thái độ nội tâm thích hợp, đó là “hoàn toàn chú tâm vào việc lắng nghe Thần Khí”[26]. Nhờ đó, linh hồn sẽ nhận được tác động của Thần Khí và “chỉ cần làm theo sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần là Đấng sẽ ở lại và cư ngụ trong họ”[27].
Lắng nghe Thần Khí là thái độ tất yếu trong cầu nguyện cũng như trong mọi hoạt động của nội tâm. Chính Thần Khí Đức Giêsu Kitô không ngừng thôi thúc những tâm hồn luôn khao khát tìm kiếm Thiên Chúa và hướng dẫn họ cách thức thờ phượng đẹp lòng Ngài. “Thiên Chúa là Thần Khí, và những kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng trong Thần Khí và Sự Thật” (Ga 4,23-24). Việc lắng nghe Thần Khí cũng là cách thức tìm kiếm Thiên Chúa trong Thần Khí và Chân Lý, giúp các tâm hồn thiện chí dễ dàng đi vào trong tương quan mật thiết với Thiên Chúa, qua Con Một yêu dấu của Ngài, được chìm sâu trong sự hiện diện của Ngài, được tan biến trong Ngài và liên lỉ được Thần Khí của Ngài linh hoạt.
Cũng chính trong Thần Khí và Chân Lý mà mọi tâm tình, trạng thái, hoạt động của con người được hướng dẫn đến một sự kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa. Trong hành trình thừa sai cũng như trong các hoạt động truyền giáo, Đức Cha Lambert luôn chú tâm tìm kiếm sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Đối với ngài, mỗi chặng dừng chân trên hành trình truyền giáo là một dịp tĩnh tâm để lắng nghe Thần Khí[28].
2.2. Chiêm ngắm Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh
Tình yêu đối với Đấng chịu đau đớn, hấp hối và chết trên giá gỗ còn gợi lên trong tâm trí Đức Cha Lambert tước hiệu đặc biệt của Chúa Giêsu Kitô trên Thánh Giá. Ba chữ “Chịu-Đóng-Đinh” là sáng kiến đầy ý nghĩa đã được ngài thêm vào sau tên Chúa Giêsu, trong khẩu hiệu ngài thường viết đầu lá thư: “Chúa Giêsu-Kitô Chịu-Đóng- Đinh phải là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta”[29]. Quả vậy, kinh nghiệm thiêng liêng của Đức Cha Pierre Lambert là một kinh nghiệm về tình yêu phi thường dành riêng cho Đức Kitô Chịu-Đóng- Đinh. Chính tình yêu ấy là linh hồn và động lực của đời sống chiêm niệm, khổ chế và tông đồ của ngài.
Với khuynh hướng tập trung vào đối tượng duy nhất là Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh, Đức Cha Lambert còn tìm ra những nguyên tắc hữu hiệu cho đời sống nội tâm, những phương pháp cầu nguyện đặc biệt, đồng thời cũng khám phá được những bí quyết thánh thiêng, mới mẻ, đem lại lợi ích thiêng liêng cho tâm hồn: “Thật vậy, chúng ta hãy nhìn xem ở đâu mình có thể nhận được nhiều ánh sáng hơn để chiếu soi cho trí hiểu, nhiều tình yêu hơn để nung nấu ý chí, và nhiều đề tài hơn để nhắc chúng ta nhớ lại nghĩa vụ của mình đối với Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta? Có gì có thể sánh với việc liên lỉ nhìn thấy Chúa hiện diện, chịu đau đớn, hấp hối và chết trên giá gỗ? Nếu chúng ta muốn giục lòng tin, cậy, mến là ba nhân đức hướng thần, điều gì có khả năng gây nhiều ấn tượng hơn là việc liên lỉ nhìn ngắm cảnh tượng đó”[30].
Việc chiêm ngắm ấy cũng đem lại cho đời sống thiêng liêng một hiệu quả chắc chắn, đó là khi linh hồn chỉ tập trung vào Đức Giêsu- Kitô Chịu-Đóng-Đinh, chỉ nhìn thấy những đau đớn của Người trên Thánh Giá, thì sẽ kết hợp với Thiên Chúa một cách rất đặc biệt[31]. Mặt khác, nhờ ân sủng nhận được qua việc chiêm ngắm ấy, chúng ta sẽ học được cách làm chủ hoàn toàn mọi đam mê của mình, “để từ nay chỉ làm vui lòng Chúa Chịu-Đóng-Đinh, và chỉ tìm kiếm những điều có thể làm cho mình yêu mến Chúa hơn”[32]. Thật vậy, đây là cách thực hành thánh thiện của người môn đệ Chúa Giêsu trong việc nguyện ngắm, là bí quyết lớn nhất của đời sống nội tâm và trọn lành, và là nét đặc thù trong linh đạo của Đức Cha Lambert.
2.3. Tâm thế thụ động
Việc liên lỉ chiêm ngắm Đấng Chịu-Đóng-Đinh trên Thánh Giá không những làm phát sinh nơi Đức Cha những trực giác hoặc những kinh nghiệm thiêng liêng sâu sắc, mà còn hình thành nơi ngài một phương pháp nguyện ngắm đặc biệt. Đó là nguyện ngắm thụ động. Đức Cha quan niệm rằng: “Sự trọn lành của nguyện ngắm hệ tại việc kết hợp hiện tại và thụ động với Thiên Chúa luôn hiện diện nơi linh hồn [...]. Bởi vì linh hồn khi bị lôi kéo vào sự nguyện ngắm thụ động, thì luôn luôn tìm được những đề tài mới mẻ để tập trung vào các thuộc tính của Thiên Chúa, mang lại cho linh hồn một sự vui thích và mãn nguyện không thể tưởng tượng được”[33].
Tâm thế thụ động trong lúc nguyện ngắm là thái độ nội tâm cần thiết, là yếu tố quyết định cho sự kết hợp trọn vẹn với Đức Kitô. Đặc biệt, theo kinh nghiệm của Đức Cha Lambert, trong trạng thái cho Chúa Kitô mượn lấy thân xác, để Người tiếp tục thực hiện việc hãm mình đền tội cho nhân loại, Đức Cha nhận thấy rằng: “Thiên Chúa, Cha của Người khi nhìn vào thân xác và cánh tay Người mượn, thì chỉ thấy trực diện các đau đớn của Con mình; sự kiện Chúa Cha hằng hữu ưng nhận như thế, phải là quy tắc hướng dẫn tôi về cách ứng xử đối với trường hợp đó và dạy tôi phải giữ tâm thế hoàn toàn thụ động cả bề trong lẫn bề ngoài”[34].
Trong chiều kích chiêm niệm của Đức Cha Lambert, tâm thế thụ động là một đề tài quan trọng, xuyên suốt trong các kinh nghiệm thiêng liêng và quan niệm tu đức của ngài. Đó là thái độ của một tâm hồn luôn đặt mình dưới tác động của Thần Khí để “hoàn toàn mặc lấy Chúa Kitô, hoàn toàn tan biến trong Người và liên lỉ được Thần Khí của Người linh hoạt, hoàn toàn bị hủy ra không và luôn luôn giữ vai trò thụ động chứ không phải vai trò chủ động trong mọi sinh hoạt”[35].
Tinh thần chiêm niệm của Đức Cha Lambert cũng được diễn tả trong các bản luật mà ngài soạn thảo cho Hiệp Hội Nam Nữ Tín Hữu Mến Thánh Giá Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng Ta cũng như cho Dòng Nữ Mến Thánh Giá, và trong chính lá thư mà ngài viết cho hai chị nữ tu Mến Thánh Giá đầu tiên. Mức tối thiểu ngài đòi hỏi các nữ tu Mến Thánh Giá là suy niệm mỗi ngày một giờ, theo bài soạn sẵn đọc cho mọi người nghe. Đối với Hiệp Hội Nam Nữ Tín Hữu Mến Thánh Giá, ngài xin anh chị em suy niệm mỗi ngày nửa giờ về cuộc đời đau khổ của Chúa Giêsu[36]. Ngài cũng khuyến khích các tín hữu khác suy niệm về sự thương khó Chúa, ít nhất vào các ngày lễ buộc[37].
Như được trình bày trên đây, chiều kích chiêm niệm của Đức Cha Lambert diễn tả tình yêu phi thường đối với Đấng Chịu Đóng- Đinh, là động lực thúc đẩy những ai muốn bước theo linh đạo Mến Thánh Giá trong những hành động cụ thể: thông phần cuộc khổ nạn của Đức Kitô và tiếp nối cuộc đời đau khổ của Người. Đó là khía cạnh thực tiễn của tình yêu trong linh đạo của Đức Cha Lambert, là chiều kích khổ chế mà chúng ta sẽ bàn tới sau đây.
II. CHIỀU KÍCH KHỔ CHẾ
Với bản chất yếu đuối và với khuynh hướng thích tìm sự dễ dãi, trong một thế giới của khoái lạc, hưởng thụ như hiện nay, con người khó chấp nhận sự khuôn mình theo những đòi hỏi hiển nhiên thường tình trong cuộc sống. Tuy nhiên, trong mọi thời đại và trong mọi hình thức sống, việc thực hành khổ chế luôn là điều cần thiết và có giá trị cho sự thăng tiến, phát triển của con người, cả về mặt tinh thần lẫn thể xác, phương diện nhân bản lẫn tu đức, đời sống tự nhiên lẫn đời sống siêu nhiên.
Trong lãnh vực đời sống đức tin, khổ chế là cách thức giúp người Kitô hữu quy hướng cuộc sống của mình về Đức Kitô, Đấng đã chết và sống lại vì họ, để qua Người họ đạt đến sự trọn lành, đến cùng đích tuyệt đối của mình là Thiên Chúa. Quan điểm này có thể được minh chứng nơi cuộc đời của Vị Đại diện Tông Tòa tiên khởi Đàng Trong và là Đấng Sáng Lập Dòng Mến Thánh Giá.
Sau khi cảm nghiệm tình yêu phi thường của Đức Giêsu Kitô trên Thánh Giá, Đức Cha Lambert được thôi thúc đáp lại tình yêu ấy bằng những thực hành thiết thực, để diễn tả tình yêu đặc biệt và lớn nhất của ngài dành riêng cho Đấng Chịu-Đóng-Đinh. Đó là ý nghĩa và giá trị của chiều kích khổ chế trong linh đạo Đức Cha Lambert được thể hiện qua những đặc điểm sau đây.
1. Khổ chế biểu hiện tình yêu thực tiễn đối với Thánh Giá Con Thiên Chúa
Trong Bản Luật viết cho Hiệp Hội Nam Nữ Tín Hữu Mến Thánh Giá Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng Ta, Đức Cha Lambert đã nêu lên một chân lý: “Mọi ân sủng và thánh đức nơi hết thảy mọi người [...] là hoa quả của Thánh Giá Đức Giêsu Kitô mà thôi”. Theo đó, “lòng đạo đức chân thật và vững chắc dựa trên Thánh Giá Chúa Cứu Thế, mà mỗi người phải vác cả trong tâm hồn lẫn ngoài thể xác, [...] là con đường cứu độ diễm phúc và chắc chắn...”[38]. Chân lý ấy là nền tảng cho những quan niệm tu đức của Đức Cha về việc thực hành khổ chế trong đời sống Kitô hữu cũng như trong hành trình bước theo Đấng Chịu-Đóng-Đinh của những người yêu mến Thánh Giá Đức Giêsu Kitô.
1.1. Tình yêu đối với Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh
Trong Tông huấn Vita Consecrata, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II xác nhận: “Việc chiêm ngưỡng Đức Kitô chịu đóng đinh là một nguồn cảm hứng cho tất cả các ơn gọi, là khởi điểm của mọi ân điển, tiên vàn là ơn Thánh Thần được trao ban, cũng như ơn sống đời thánh hiến” (VC 23). Cũng vậy, trong kinh nghiệm của Đức Cha Lambert, việc chiêm ngắm Chúa Giêsu Kitô trên Thánh Giá đã khơi nguồn cảm hứng và làm phát sinh nơi ngài một tình yêu đặc biệt đối với Đấng Chịu-Đóng-Đinh: “Tôi đã có một ước nguyện lớn lao là chứng tỏ một tình yêu phi thường đối với Chúa Giêsu Kitô. Thế nên, tôi xin Người soi tỏ cho biết có thể làm cách nào để biểu lộ mối tình ấy”[39].
Tình yêu đối với Chúa Giêsu trên Thánh Giá chiếm một vị trí quan trọng và tuyệt đối trong tâm hồn cũng như trọn cuộc sống của Đức Cha Lambert. Theo ngài, tất cả mọi ước muốn của con người đều phải đạt đến cùng đích là làm cho mình yêu mến Chúa hơn[40]. Đó quả là thú vui chân thật, thánh thiện và duy nhất của những tâm hồn hằng chiêm ngắm Đức Kitô trên Thánh Giá và ước ao được sống kết hợp với Người cách đặc biệt.
1.2. Phổ biến tình yêu thực tiễn đối với Thánh Giá Con Thiên Chúa
Tình yêu phi thường đối với Chúa Giêsu Kitô còn thúc đẩy Đức Cha thành lập các Hiệp Hội Những Người Yêu Mến Thánh Giá, để “phổ biến khắp nơi tình yêu thực tiễn đối với Thánh Giá Con Thiên Chúa”[41]. Ngài cũng thao thức cho các tín hữu tại các nơi thuộc miền truyền giáo của các thừa sai, hằng ngày chuyên cần cầu nguyện và nhiệt tình thực hành những hy sinh để diễn tả tình yêu dành cho Đức Kitô trong một cách thức sống động và thiết thực nhất[42]. Nhiều lần trong lúc nguyện ngắm, Đức Cha Lambert được soi sáng để thấy rằng: “... trên đời này không có gì làm sáng danh Thiên Chúa hơn việc thành lập Hội Tông Đồ và Hiệp Hội Những Người Mến Thánh Giá...”[43].
Trong thư gửi Đức Giáo Hoàng Clêmentê IX, ngày 12/10/1670, Đức Cha viết: “Con cũng đệ trình lên Đức Thánh Cha bản luật sống của hai tổ chức: Một tổ chức đã được khởi xướng để giúp ích cho dân Kitô Giáo trong những địa sở của các miền truyền giáo. Thật vậy, vì có những người mang nặng một tình yêu đặc biệt đối với cái Chết và Thập Giá của Chúa Giêsu, nên không có gì hợp lý bằng việc cổ võ lòng sùng kính vững chắc như thế”[44].
Đức Cha thật sự tâm đắc và say mê đời sống của Những Người Mến Thánh Giá mà ngài được soi sáng và được thúc đẩy để thành lập. Đối với ngài, đời sống của họ “là một hoạ ảnh hoàn hảo của cuộc đời Chúa Giêsu Kitô khi còn ở trần gian”[45].
2. Khổ chế mang tính cách tự nguyện
Khổ chế mang tính cách tự nguyện nơi Đức Cha Lambert là nhằm thông phần Thập Giá Đức Kitô, bằng những đau đớn vất vả bên ngoài và tâm tình vâng phục bên trong đối với thánh ý Thiên Chúa. Theo đó, tình yêu dành riêng cho Đức Kitô Chịu-Đóng-Đinh phải là một động lực phi thường thúc đẩy con tim hướng đến sự hy sinh tự nguyện và yêu mến.
2.1. Thông phần Thập Giá Đức Kitô
Chúa Giêsu nói với các môn đệ: “Sở dĩ Chúa Cha yêu mến Thầy, là vì Thầy hy sinh mạng sống mình [...]. Mạng sống của Thầy không ai lấy đi được, nhưng chính Thầy tự hy sinh mạng sống mình” (Ga 10,18). Khổ chế là cách thức chết đi trong mọi sự để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. Đó là cách thức mà Đức Cha Lambert đã tự nguyện thực hành trong suốt cuộc đời. Càng đau khổ, Đức Cha càng sống tinh thần khổ chế cách triệt để hơn trong sự thông phần với Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Ngài luôn xác tín, Thiên Chúa đòi hỏi ngài phải đi theo con đường hẹp cho đến chết, cả về lý thuyết lẫn thực hành[46].
Với niềm say mến đặc biệt Đức Kitô trên Thập Giá, Đức Cha cảm nhận được từ trong nội tâm, một sự ràng buộc ngày càng chặt hơn vào Thánh Giá của Người. “Ơn hướng chiều và trực giác đặc biệt về Thánh Giá” là quà tặng ân sủng Thiên Chúa ban đã thúc đẩy ngài có những thực hành cụ thể như ngài đã từng chia sẻ với Đức Cha Pallu, người bạn đồng hành của mình. Chúng tôi “nguyện ngắm mỗi đêm hai tiếng đồng hồ, từ một đến ba giờ sáng, để suy gẫm về những đau khổ của Chúa và những lý do thúc đẩy Người chịu đựng vì chúng tôi. Sau đó, chúng tôi thông dự phần nào vào những đau khổ của Người như một của lễ hy sinh bé nhỏ, đó là khi đọc mỗi câu trong Thánh vịnh Sám Hối (Tv 50) thì đánh tội năm roi. Chúng tôi nhận được nhiều ơn, và tiếc rằng không được biết việc đạo đức này sớm hơn”[47].
Đức Cha còn được nhận biết: “Ý định của Con Thiên Chúa trong việc thành lập Hội Tông Đồ và Hiệp Hội Những Người Mến Thánh Giá Đức Giêsu Kitô Chúa Chúng Ta, là để tái hiện sự đau đớn và ân sủng gắn liền với cuộc Thương Khó của Người”[48], bằng việc “chuyên chú suy gẫm cuộc Thương Khó và thông dự những nỗi khổ đau của Người hằng ngày trong suốt cuộc đời”[49].
2.2. Tâm tình vâng phục bên trong
Để thông phần với Thập Giá của Đấng Cứu Thế, người tông đồ sống khổ chế không chỉ bằng những thực hành mang tính tự nguyện như thế, mà còn sẵn lòng đón nhận những khó khăn, thử thách trong cuộc sống và do sứ vụ. Là một thừa sai Tông Tòa, Đức Cha cũng nhận thức được rằng: “Vì lòng mến Chúa Giêsu Kitô, chúng ta sẽ chịu đói, chịu khát, chịu mệt mỏi; chịu người ta thù ghét, nói xấu và hất hủi bằng ngàn cách mà các tôi tớ Chúa đang rao giảng Phúc Âm trong Thần Khí của Người được vinh dự lãnh nhận.. .[Và với thái độ] hoàn toàn tuân phục thánh ý Thiên Chúa thì còn cái chết nào đáng được ngưỡng mộ và thầm kín hơn cái chết do bị ám sát, bị đói, chết do cùng cực, bệnh tật hoặc đầu độc vì Thiên Chúa của mình”[50].
Trong thư gửi cha Simon Hallé, năm 1671, Đức Cha đã bộc lộ tình trạng nội tâm của mình trước quyết định của Tòa Thánh trong việc bác bỏ Hội Tông Đồ. Mặc dù vui lòng chấp nhận, nhưng ngài vẫn cảm thấy được thôi thúc phải “khuôn mình một cách sâu sát theo thái độ bên trong và bên ngoài của Đức Giêsu Kitô đau khổ,” để “sát tế tất cả các năng khiếu của linh hồn và thân xác”, chứ không chấp nhận sống một đời sống tầm thường[51]. Và trong tâm thế tùng phục triệt để thánh ý Chúa, ngài sẵn lòng đón nhận thập giá mà Thiên Chúa đã dọn sẵn nơi miền truyền giáo Đàng Trong: “Ngày mai con sẽ lên đường đi tới nơi thực hiện dự tính ấy, và con rùng mình khi thấy những thập giá được dọn sẵn cho con tại đó. Tuy nhiên, con thấy rõ rằng, Chúa Cứu Thế muốn con chịu đựng các thập giá ấy, vì những động lực làm con say mê. Con xin tùng phục triệt để thánh ý Chúa”[52].
Thật vậy, do lời khấn vâng phục nội tâm mà người thừa sai có được một tâm thế sẵn sàng cần thiết để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa. Bởi vì khi “tự ràng buộc vào đức vâng lời tột cùng, người ấy không bao giờ được hành động theo sự thúc đẩy của bản tính tự nhiên và lý trí, nhưng chỉ do sự thúc đẩy nội tâm”[53].
3. Khổ chế gắn liền với nhân đức thờ phượng
3.1. Suy tôn Thánh Giá Con Thiên Chúa và kết hợp với công nghiệp cứu độ của Người
Trong sự kết hợp với Thánh Giá Con Thiên Chúa, khổ chế diễn tả thái độ thờ phượng sâu thẳm và đầy tâm tình sốt mến của tâm hồn khát khao tìm kiếm để làm đẹp lòng Thiên Chúa. Theo cách thực hành khổ chế của Đức Cha Lambert, các việc hy sinh, hãm mình, đánh tội... luôn được thực hiện vào giờ nguyện ngắm buổi chiều hay ban đêm, trong sự kết hợp với các kinh nguyện đặc biệt, để long trọng suy tôn Hy Lễ Thánh Giá cao cả của Chúa, để tưởng niệm những cực hình đau đớn Con Thiên Chúa đã chịu, và dâng sự hy sinh ấy như của lễ thơm tho ngào ngạt, kết hợp với ý hướng của Chúa chúng ta khi Người chịu hành hình. Đặc biệt, vào Chúa Nhật Lễ Lá và bốn ngày tiếp theo, việc đền tội như trên phải làm gấp đôi, vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, phải làm gấp ba, để tôn kính đặc biệt hơn thời gian cực thánh và ngày Con Thiên Chúa chịu Thương Khó và chịu Chết[54].
Đó là những thực hành mà Đức Cha Lambert quy định cho mình và cho Những Người Mến Thánh Giá cũng như cho con cái tinh thần của ngài. Mục đích của Dòng Nữ Mến Thánh Giá cũng được Đức Cha xác định rõ ràng, là đặc biệt chuyên chú tưởng nhớ và noi theo cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu Kitô mỗi ngày như phương thế thuận lợi nhất để đạt tới sự hiểu biết và yêu mến Người[55].
3.2. Thờ phượng Thiên Chúa trong Thần Khí và Chân lý (Ga 4,23)
“Vì chúng ta không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu nguyện thay cho chúng ta, bằng những tiếng rên xiết khôn tả” (Rm 8,26). Theo Đức Cha Lambert, Chúa Kitô đóng vai trò chủ động trong những hoạt động của chúng ta bằng sự linh hoạt của Thần Khí Người. Chúng ta cần có thái độ nội tâm xứng hợp đó là giữ vai trò thụ động trong mọi sinh hoạt, nghĩa là chỉ làm theo quan điểm đức tin, theo sự thôi thúc thuần tuý của ân sủng và Thần Khí Đức Giêsu Kitô đang sống trong ta. Ý tưởng này được Đức Cha đề cập nhiều lần trong các Bút Tích của ngài.
Khi sống trong ân sủng, chính Thần Khí cư ngụ trong tâm hồn chúng ta để tiếp nối những hoạt động mà Người đã thực hiện trong nội tâm Chúa Giêsu Kitô[56]. Cũng chính Thần khí Đức Kitô thôi thúc chúng ta thực hiện việc tôn thờ Thiên Chúa cách tuyệt hảo[57]. Dựa vào nền tảng trên đây, chúng ta có thể hiểu được quan niệm của Đức Cha Lambert: những thực hành hy sinh, đánh tội nhằm suy tôn Thánh Giá Con Thiên Chúa và kết hợp với công nghiệp cứu độ của Người là thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và Chân Lý theo đúng cách Người muốn.
Đức Cha cũng xác tín rằng: “Khi một tâm hồn tìm kiếm Thiên Chúa trong Thần Khí và Chân Lý, thì chắc chắn sẽ gặp được Ngài”[58]. Những thực hành khổ chế hay việc hãm mình bề trong và bề ngoài như là những phương thế tuyệt đối cần thiết để đến với Thiên Chúa, và như những tâm thế hữu hiệu để Thần Khí Đức Kitô có thể linh hoạt cách trọn vẹn trong linh hồn những người chỉ ước ao yêu mến và tôn thờ Thiên Chúa hơn nữa[59].
4. Khổ chế bổ túc điều duy nhất còn thiếu nơi hy tế bàn thờ là phải có sự đau khổ
4.1. Hiệp nhất với hy tế bàn thờ của Con Thiên Chúa
Sự tiếp nối cuộc đời lữ thứ hy sinh của Đức Kitô trong một thân xác có khả năng chịu đựng đau khổ là cách thức để bổ túc hy tế bàn thờ của Con Thiên Chúa. Chính thân xác do Chúa Kitô mượn lấy để thực hành những việc hãm mình đền tội sẽ trở thành những lễ vật được thần hoá. Bởi Chúa Cha, khi nhìn vào thân xác do Chúa Kitô mượn lấy, thì chỉ thấy trực diện các đau đớn của Con mình[60].
Khi linh hồn kết hợp với Chúa Kitô và để cho tinh thần liên lỉ thâm nhập vào tinh thần của Chúa Kitô, hoàn toàn tan biến trong Người, thì chính Chúa Kitô, không những chiếm lấy các năng lực của linh hồn, mà còn trở thành chủ nhân của thân xác người ấy, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ và đau khổ nhờ những hy sinh lao nhọc mà Người thực hiện theo ý muốn qua các lễ vật được thần hóa đó[61]. Và bằng sự kết hợp với những lễ vật thánh như thế mà Chúa Kitô sẽ hoàn tất hy lễ hoàn hảo của Người.
Là một thừa sai Tông Toà, Đức Cha ý thức sâu xa những đòi hỏi của bậc sống và số phận của người môn đệ Chúa Giêsu. Ngài cảm thấy hạnh phúc được “trở nên một lễ vật hiến dâng, một lễ vật được chiếu nhận và với số phận sẽ bị tan biến vào một ngày nào đó...”[62]. Ý thức ấy luôn hướng dẫn Đức Cha có thái độ sẵn sàng khuôn mình theo ý muốn của Thiên Chúa trong mọi tình huống và trong mọi sự để dâng tiến hy tế bé mọn của mình hiệp với hy tế của Con Thiên Chúa trên bàn thờ.
4.2. Tiếp nối cuộc đời đau khổ của Đức Kitô
“Mọi hạng người đều có nghĩa vụ tối cần: phải biết ơn Chúa Cứu Thế, Đấng đã gánh chịu nhiều nỗi đau thương. Vậy, không một ai phải bị loại trừ, bất luận thuộc phái tính hay địa vị nào, miễn là họ nhiệt tình khao khát uống chén đắng Con Thiên Chúa”[63]. Trong kinh nghiệm thiêng liêng của mình, nhiều lần Đức Cha được thúc đẩy thực hành những việc hãm mình đền tội hoặc dâng những hy sinh phi thường trong một khoảng thời gian nhất định để cầu xin Chúa Giêsu “vui lòng tiếp nối nơi ngài các việc hy sinh trong cuộc đời đau khổ của Người”. Đức Cha tin rằng: “Con Thiên Chúa tiếp tục cuộc đời đau khổ của Người bằng con đường tuyệt vời ấy”[64]. Cũng vậy, Đức Cha Lambert nhắn nhủ con cái mình: “mục đích chính của Tu Hội các con là tiếp nối nơi bản thân mình cuộc đời đau khổ của Chúa Giêsu Kitô...”[65].
Tiếp nối cuộc đời lữ thứ hy sinh lao nhọc của Chúa Kitô là yếu tố quan trọng được nhận biết từ trong kinh nghiệm thiêng liêng và trong quan niệm tu đức của Đức Cha Lambert. Đức Cha đề cập đến yếu tố này nhiều lần và diễn tả nhiều cách trong một số Bút Tích của ngài.
5. Khổ chế theo mục đích luân lý tu đức
5.1. Sống đời đền tội công khai
Phát xuất từ nhận thức sâu xa về sự yếu hèn, tội lỗi của mình, Đức Cha Lambert cảm thấy cần phải quyết tâm sống đời đền tội công khai bằng những thực hành cụ thể. Vì thế, tất cả những việc hy sinh, đánh tội của chính Đức Cha Lambert hay của Những Người Mến Thánh Giá, được thực hành trong ý thức là để hãm mình, đền tội cho chính mình và cầu nguyện cho tha nhân[66]. Theo Đức Cha, “chúng ta phải hối tiếc đến hơi thở cuối cùng vì đã hiểu biết quá ít, yêu mến quá ít, tôn thờ quá ít, tạ ơn quá ít Đấng Tạo Hóa của chúng ta”[67]. Mỗi ngày chúng ta phải xét xem, “chúng ta đã dành bao nhiêu giờ để nguyện ngắm, làm việc hãm mình đền tội và hy sinh cho mục đích đó?”[68].
Hơn nữa, sự quyết tâm sống đời đền tội toàn diện là để có được bí quyết “chết đẹp và sống tuyệt vời”[69] cho Chúa Kitô. Thế nên, sống đời khổ hạnh, sống đời đền tội công khai còn là điều kiện thiết yếu để chúng ta đạt tới sự trọn lành theo bậc sống của mình[70].
5.2. Chế ngự thân xác
Mục đích luân lý tu đức của những thực hành khổ chế là làm cho thân xác phục tùng tinh thần và tinh thần phục tùng Thiên Chúa[71]. Việc chế ngự thân xác là cách thức cụ thể và là đòi hỏi căn bản để đạt được những mục tiêu thiêng liêng hay những giá trị tinh thần của khổ chế. Nếu một người sống theo bản tính tự nhiên hoặc theo lý trí thuần tuý, không thể gọi là một Kitô hữu đích thực. Do đó, trong ý hướng của Đức Cha Lambert, Những Người Mến Thánh Giá được mời gọi mỗi ngày thông phần các đau khổ của Đức Giêsu Kitô bằng việc chế ngự thân xác[72].
Chế ngự thân xác còn là để chết đi đối với chính mình, chết đi đối với thế gian, “nghĩa là đối với các giác quan, bản tính tự nhiên và lý trí người đời”[73], để chỉ sống cho một mình Thiên Chúa. “Bởi lẽ chúng ta thường yêu mến Thiên Chúa nhiều hơn khi phải chết đi đối với một xu hướng xấu, so với khi chịu chết để tuyên xưng Đức Tin, lý do là đề tài này không quan trọng và ràng buộc bằng sự tử vì đạo. Và chính trong nghĩa này mà người ta có thể nói rằng cả cuộc đời người Kitô hữu là một cuộc tử vì đạo liên lỉ, bởi không thể là một môn đệ hoàn hảo của Đức Giêsu Kitô, nếu không từ bỏ mình và chết đi trong mọi hoàn cảnh đối với những ước muốn của bản thân và cái tôi của mình”[74].
Không chỉ là việc chế ngự thân xác, khổ chế còn là việc sẵn sàng đón nhận những đau khổ vất vả, là những thập giá hàng ngày của thân phận con người, như những phương thế đích thực để đạt được thiên đàng. Vì không gì làm ta xa sự dính bén thế gian và không gì làm ta chạy đến Chúa liên lỉ bằng những đau khổ. Cho nên phương thế duy nhất để thắng bản tính tự nhiên là cố gắng sống một cách phù hợp với Vị Thủ-Lãnh Đội-Mão-Gai, để Thiên Chúa hoàn toàn thống trị trong ta[75].
6. Khổ chế mang ý hướng tông đồ
6.1. Chứng tá Phúc Âm
Khi đặt chân đến Ayutthaya, Thái Lan, Đức Cha Lambert được thôi thúc để thành lập một Hiệp Hội gồm những người tông đồ đích thực, những nhà truyền giáo chân chính và những Kitô hữu hoàn hảo, để cải tổ Kitô Giáo tại đây và cách riêng để chấn chỉnh đời sống sa sút của các thừa sai trong miền truyền giáo. Những ai gia nhập Hiệp Hội này phải có một đời sống trổi vượt và “nhiệm vụ chính yếu của các tâm hồn thánh thiện ấy là năng trao đổi với Thiên Chúa về những phương thế làm sáng danh Ngài và cứu độ anh chị em đồng loại. Hãm mình đền tội cho chính mình và cho muôn dân”[76].
Vị thừa sai Tông Tòa là hình ảnh sống động của Đức Giêsu Kitô. Theo gương Thánh Phaolô Tông Đồ, ngài chỉ biết một mình Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào Thập Giá (x. 1Cr 2,2), vì thế ngài không thể trở thành một thừa sai Tông Tòa đích thực, nếu không là một hy lễ đau khổ xứng với bậc sống của mình. Khổ chế là yếu tố thuộc căn tính của nhà thừa sai và là phương thế hữu hiệu cho lời chứng của ngài về Chúa Kitô và về Phúc Âm của Người[77].
6.2. Phương thế chuyển cầu
Chuyển cầu cho lương dân cùng người tội lỗi ăn năn trở lại và cho Giáo Hội được mọi điều cần thiết là một trong những mục đích của Đức Cha Lambert từ khi có ý tưởng về Hiệp Hội mang tên Những Người Mến Thánh Giá.
Trong bản xét mình của các thừa sai, nhiệm vụ chuyển cầu cũng được đề cập đến: “Chúng ta có cầu xin Thiên Chúa chấm dứt các cuộc ly giáo, lạc giáo và ban ơn hoán cải cho tội nhân và lương dân, cách riêng cho những người được trao phó cho chúng ta không?”[78]. Về phần mình, để góp phần làm sáng danh Thiên Chúa và cứu rỗi anh chị em đồng loại, Đức Cha cũng ý thức, ngài phải mang trong nội tâm “một tinh thần liên lỉ sám hối đền tội, tạ ơn và chuyển cầu hơn nữa cho muôn dân đạt được sự hoàn thiện”[79]. Chuyển cầu cho lương dân cùng người tội lỗi ăn năn trở lại cũng là đặc nét trong sứ mạng của người nữ tu Mến Thánh Giá.
Khổ chế là yếu tố quan trọng trong linh đạo của Đức Cha Lambert, linh đạo Mến Thánh Giá. Những người tập sự sẽ tìm thấy nơi đây phương thế tuyệt vời giúp chế ngự tật xấu và rèn luyện nhân đức; những người đang tấn tới sẽ tìm thấy phương thế kết hợp với Thiên Chúa mỗi ngày một hơn; những người thành toàn sẽ tìm thấy phương thế đạt tới sự hiệp nhất mật thiết với Đức Giêsu Kitô chịu Khổ Nạn”[80]. Dù hình thức khổ chế nào, thì đó cũng là một đòi hỏi thực tiễn của đời sống chiêm niệm, vì trái tim phải được thanh luyện để có khả năng lắng nghe, chiêm ngắm Chúa và kết hợp với Người. Nơi Đức Cha Lambert, khổ chế cũng như cầu nguyện, luôn là điều kiện và phương thế cần thiết cho hoạt động tông đồ, như chúng ta sẽ thấy trong phần trình bày về chiều kích tông đồ trong linh đạo của Đức Cha Pierre Lambert.
III. CHIỀU KÍCH TÔNG ĐỒ
Khi lãnh nhận thiên chức linh mục, nhất là chức Giám Mục Đại Diện Tông Toà, Đức Cha Pierre Lambert ý thức mình là người tông đồ của Chúa Kitô qua sự ủy nhiệm của Giáo Hội. Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris do ngài cùng với Đức Cha Francois Pallu và Nhóm Bạn Hiền sáng lập, là một hội đời sống tông đồ. Cũng thế, Đại Gia Đình Mến Thánh Giá do Chúa soi sáng riêng cho ngài lập ra, là một Dòng gồm những người tông đồ. Đức Cha Pierre Lambert là khuôn mặt tiêu biểu nhất cho cả hai tổ chức đó, vì ngài có một tâm hồn nhiệt thành, sống chết cho ơn gọi thừa sai và có ý niệm trổi vượt về đời sống người tông đồ. Chính quan niệm và kinh nghiệm của ngài về lãnh vực này đã đúc kết nên tinh thần thâm thúy cho người tông đồ thừa sai và làm mẫu mực cho con cái của ngài.
1. Hồn tông đồ
1.1. Chiêm niệm
Theo Đức Cha Pierre Lambert, chiêm niệm và hoạt động bổ túc cho nhau và đan kết vào nhau. Chiêm niệm phải là linh hồn của hoạt động và hoạt động là kết quả của việc kết hiệp sâu xa với Thiên Chúa. Khi nói đến những đức tính cần có của các thừa sai, Đức Cha khẳng định, họ phải quyết tâm cách chân thành vươn tới sự trọn lành của người Kitô hữu, và phải thực hành quyết tâm ấy trước khi dấn thân vào những nghĩa vụ cao cả của người tông đồ. Do những đòi hỏi cần thiết đối với đức tính của người tông đồ, nên đối với Đức Cha “một người có thiện chí, sốt sắng và đạo đức thì chưa đủ, nhưng còn cần phải trải qua 10 năm liên tục chuyên chăm nguyện ngắm thân tình với Chúa và phục vụ tha nhân, bằng không thì e rằng đời sống nội tâm của các thừa sai ấy sẽ sa sút”[81]. Trong kinh nghiệm bản thân, nhiều lần Đức Cha Lambert cũng đã khuyên dạy các thừa sai của mình: “Trước khi gieo vãi hạt giống Phúc Âm, anh em hãy dùng lời cầu nguyện làm cho mưa móc từ trời sa xuống trên cánh đồng”[82]. Đức Cha còn tự nhủ rằng: “Người tông đồ thừa sai hãy làm mọi việc trong khuôn khổ ơn gọi của mình theo sự thúc đẩy nội tâm. Sự thúc đẩy này luôn gắn liền với bậc sống của người được Chúa kêu gọi thật sự vào đời sống tông đồ”[83].
Với Đức Cha Lambert, nguyện ngắm không chỉ là một phương thế cần thiết và hữu hiệu để kết hiệp với Đức Kitô Chịu-Đóng-Đinh và Thiên Chúa Ba Ngôi, cùng đạt tới sự trọn lành nội tâm, nhưng còn là một nguồn cung cấp ánh sáng soi dẫn hành động thực tiễn trong lãnh vực tông đồ. Suốt đời, ngài đã triệt để áp dụng nguyên tắc: luôn hành động dưới sự thôi thúc của Chúa Thánh Thần, biểu hiện trong những trực giác và xác tín nội tâm mà ngài cảm nhận được khi nguyện ngắm.
Một yếu tố khác chứng tỏ tính thực tiễn, trong phương pháp nguyện ngắm theo linh đạo của Đức Cha Lambert, là thái độ nài xin trước mặt Thiên Chúa để chuyển cầu cho tha nhân. Việc chuyển cầu này là một nhiệm vụ chính yếu của người nữ tu Mến Thánh Giá. Chính Đức Cha Lambert đã truyền dạy cho con cái ngài: “...hằng ngày dâng việc suy gẫm cầu nguyện của các con, nước mắt của các con, các việc làm của các con và các hy sinh của các con, để cầu xin [Thiên Chúa] ban cho lương dân và những Kitô hữu bất hảo được ơn ăn năn trở lại”[84]..
1.2. Đời sống trổi vượt phi thường
Để có thể đạt tới sự trọn lành, người tông đồ “phải sống đời đền tội hơn, khổ hạnh hơn và nguyện ngắm nhiều hơn; nếu không, [người ấy] không thể chu toàn các nghĩa vụ của một thừa sai Tông Tòa đích thực”[85]. Đức Cha Lambert còn nhận thấy rằng: “Tôi sẽ không đạt được sự trọn lành cao độ mà Chúa Giêsu Kitô đòi hỏi nơi tôi, nếu tôi không thể hiện ra bên ngoài ý nghĩa của ba lời khấn nội tâm mà tôi tuân giữ hết sức mình với sự trợ giúp của ơn thánh Chúa.. ,”[86]. Đó là cách thức mà Đức Cha tin rằng: Thiên Chúa đòi hỏi những thực hành hy sinh, hãm mình để sống đời đền tội công khai của ngài, phải mang lại hiệu quả thiết thực. Sự nhận biết này thôi thúc ngài thực hành những việc hãm mình: “Kiêng thịt và ăn chay suốt đời”, để đền bù phạt tạ lòng nhân lành của Thiên Chúa “bị xúc phạm mọi ngày quanh năm”[87].
Như thế, người tông đồ thừa sai còn phải là người có đời sống trổi vượt. Một đời sống phóng túng hoặc tầm thường sẽ không xứng đáng và không có ích gì trong một bậc sống phi thường của vị thừa sai. Đời sống trổi vượt ấy sẽ không ngừng thúc đẩy người tông đồ “liên lỉ dâng lên Thiên Chúa những hy sinh để được thông dự vào nhân tính thánh thiện, đau khổ, chịu đóng đinh, hiến tế của Chúa Kitô và mang đầy tư tưởng của Thiên Chúa, hầu xứng đáng nhận lãnh vinh dự lớn lao và lòng thương xót tột đỉnh, là được chết trên cây gỗ do tay một lý hình với mục đích bảo vệ Phúc Âm thánh của Người, vì phần rỗi của tha nhân và vì tình yêu tinh tuyền dành cho Thiên Chúa”[88].
Do những đòi hỏi của đời sống phi thường như thế mà tình yêu của nhà thừa sai Tông Tòa đích thực không bao giờ được phép tàn lụi. Để có thể trung thành với ơn kêu gọi trong bậc sống thánh thiện này, người tông đồ phải luôn tự nguyện đặt mình dưới sự thôi thúc của tình yêu đối với Đấng Chịu-Đóng-Đinh. Nhờ đó, họ có thể hoàn toàn phó thác cho sự quan phòng của Thiên Chúa, chấp nhận bị chi phối bởi tình yêu tinh tuyền dành cho Chúa và tha nhân.
1.3. Sự từ bỏ
Từ bỏ là điều kiện tất yếu thuộc bản chất ơn gọi của người tông đồ. Thật vậy, để đạt tới một đời sống trổi vượt của một bậc sống phi thường, người tông đồ phải trả giá bằng chính bản thân và tất cả những gì mình sở hữu. Đó “không phải là những của cải bên ngoài, nhưng chính là những năng lực của linh hồn mà Thiên Chúa đòi hỏi phải từ bỏ”[89]. Nói cách khác, “cốt lõi của sự từ bỏ phải là từ bỏ mọi hoạt động của tinh thần để chỉ làm theo thánh ý Thiên Chúa do Ngài tỏ cho thấy qua sự thôi thúc nội tâm, là điều không bao giờ thiếu, nếu vị ấy trung thành với ân sủng. Không có sự từ bỏ này vị ấy không thể làm được gì mang tính anh hùng trong các nghĩa vụ do Thiên Chúa giao phó”[90].
Người tông đồ thực hành sự từ bỏ là để có thể hành động trong sự lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa Kitô và sẵn sàng vâng theo mệnh lệnh của Người. Thêm nữa, việc “từ bỏ các của cải bên trong”, như đã mô tả trên đây, sẽ giúp người tông đồ dễ dàng phó thác mọi sự trong tay Thiên Chúa khi phải đối diện với những khó khăn thử thách mà Đức Cha Lambert nói rõ là những “sự dữ bên ngoài và bên trong”[91].
Đòi hỏi lớn lao của sự từ bỏ là một cuộc chết đi liên lỉ, “chết đi trong mọi hoàn cảnh đối với những ước muốn của bản thân và cái tôi của mình”[92]. Sự chết đi như thế là thái độ dứt khoát để khước từ những gì không phù hợp với bậc sống của người tông đồ, và để nhờ đó mà người tông đồ có thể đạt tới sự trọn lành như Chúa muốn. Ngược lại, nếu không từ bỏ, người tông đồ sẽ trở nên kẻ bất trung trong chính bậc sống của mình. Đức Cha Lambert đã quả quyết: “Thập giá lớn nhất và là một trong những sự bất trung nghiêm trọng nhất mà những người đã được Chúa kêu gọi trong những con đường
bí nhiệm của Chúa đã vấp phải, là không hành động bằng tất cả sự từ bỏ như Chúa mong ước, theo cách Chúa hành động trong họ”[93].
1.4. Sống theo Thần Khí
Từ bỏ hay ghét bỏ chính mình giúp người tông đồ khám phá ra “một phương thế để trút bỏ bản tính hoàn toàn hư đốn và thay vào đó một con người phù hợp với bản tính Thiên Chúa”[94], bằng không, người ấy sẽ không được Thần Khí của Ngài linh hoạt trọn vẹn. Đối với những người sống theo Thần Khí, Thiên Chúa đòi hỏi sự lệ thuộc hoàn toàn nơi Ngài qua Đức Giêsu Kitô. Để một khi đã kết hợp với Chúa Giêsu Kitô bằng một sự hiệp nhất rất đặc biệt trong một bậc sống phi thường, vị thừa sai không còn tự mình hành động nữa. Hoặc “nếu phải hành động, linh hồn sẽ hỏi Thần Khí Chúa Giêsu Kitô đang ngự trong mình, điều gì Thần Khí muốn nó thực hiện nhờ Người”[95].
Thật vậy, người tông đồ phải “hoàn toàn luỵ phục sự soi sáng hướng dẫn của Chúa Thánh Thần” và không được làm gì theo ý riêng là ý của xác thịt. Như thế “hành động một cách thụ động trong nội tâm” có nghĩa là ngoan ngùy đón nhận tác động của Chúa Thánh Thần với một trái tim đã được thanh luyện. Nói cách khác, Thiên Chúa đòi hỏi nơi người tông đồ thái độ nội tâm cần thiết, là “...chết đi đối với chính mình và mọi sự trên thế gian, [và] chỉ sống trong Đức Giêsu Kitô”[96], đến độ như Thánh Phaolô khẳng định: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi sống mà là Chúa Kitô sống trong tôi” (Gl 2,20). Đó là “bí quyết chết đẹp và sống tuyệt vời”, đòi hỏi người tông đồ phải quyết tâm sống đời đền tội toàn diện; để trong mọi sự, người ấy “chỉ làm theo quan điểm đức tin, theo sự thôi thúc thuần túy của ân sủng và Thần Khí Đức Giêsu Kitô”[97].
Theo Đức Cha Lambert: “Người ấy phải luôn luôn hành động một cách thụ động trong thâm tâm, vì tự coi mình như một thừa tác viên được linh hoạt bởi Thần Khí của Chúa Giêsu Kitô và Hội Thánh; và với tư cách đó, linh hồn phải cẩn thận không tự ý làm gì cả, nhưng phải đi theo hoặc làm theo những trực giác được ban cho mình, do sự kết hợp với dòng ảnh hưởng thần bí đáng tôn thờ này”[98]. Đức Cha cũng quả quyết: “Nếu không đi theo đường hướng đó, chắc chắn các hoạt động của nhà truyền giáo sẽ tiêm nhiễm xu hướng sống theo bản tính tự nhiên hoặc theo sự khôn ngoan thế gian là kẻ thù của đời sống Phúc Âm”[99].
2. Sống sứ vụ tông đồ thừa sai
2.1. Đặc tính Kitô trung tâm
Người tông đồ phải đặt Chúa Kitô làm trung tâm của mọi hoạt động. Từ quan điểm Kitô trung tâm quen thuộc, Đức Cha Pierre Lambert nhìn người tông đồ trong mối liên hệ mật thiết với Chúa Kitô, trong sự tiếp nối sứ mạng cứu thế của Người. Vì Chúa Kitô đã cứu độ thế giới bằng hy sinh, thì người tông đồ cũng có sứ mạng “tiếp nối cuộc đời lữ thứ và hy sinh của Người cho đến tận thế”, bằng cách tự nguyện và chủ động “dâng tiến, trao gởi và cống hiến thân xác (tôi) cho Đức Giêsu Kitô”[100] vì mục đích ấy. Theo đó, đời sống của người tông đồ sẽ luôn tập trung vào Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn bằng một tình yêu thực tiễn.
2.2. Hoàn tất mọi việc thay cho Chúa Kitô
Trong quan điểm Kitô trung tâm như vừa trình bày trên đây, mọi sinh hoạt của người tông đồ sống linh đạo của Đức Cha Lambert là tiếp nối và “hoàn tất những gì còn thiếu trong các nỗi gian truân Đức Kitô phải chịu cho thân mình Người là Hội Thánh” (Cl 1,24). Đức Cha Pierre Lambert ý thức mình đang đi trong linh đạo của Thánh Phaolô, là linh đạo đặc biệt thích hợp cho linh đạo của Đức Cha Pierre Lambert: tập trung vào Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh.
Theo linh đạo này, Đức Cha Lambert quan niệm, chính Đức Kitô sử dụng người tông đồ để tiếp nối công cuộc cứu chuộc của Người bằng đời sống đức tin, bằng những thực hành hãm mình, đền tội; bằng những hy sinh cho công cuộc rao giảng Tin Mừng. Các khía cạnh này của đời sống người tông đồ đều bao hàm đau khổ và gian truân thử thách. Trong cái nhìn của đức tin, đời sống ấy luôn luôn được bao trùm dưới bóng Thánh Giá Đức Kitô Cứu Thế, như yếu tố cần thiết đem lại hiệu năng của việc tông đồ. Đức Cha Lambert cũng cảm nghiệm: “Thiên Chúa thường gắn liền sự ăn năn trở lại của nhiều người với những hy sinh hãm mình, kinh nguyện và đức bác ái phi thường của thừa tác viên”[101].
2.3. Thông dự vào tinh thần trung gian với Đức Kitô
Thiên Chúa đã dùng Đức Kitô làm trung gian giao ước mới và vĩnh cửu, đem lại cho loài người ơn tha tội, ơn nghĩa tử, ơn bình an và hiệp nhất để làm thành Nhiệm Thể Người là Hội Thánh. Người tông đồ sống theo linh đạo của Đức Cha Lambert được mời gọi thông dự vào tinh thần trung gian của Đức Kitô. Tinh thần đó phải được thể hiện trong đời sống cụ thể bằng cách phấn đấu liên lỉ, để sống trong trạng thái được giải hòa với Thiên Chúa và mọi người; thực thi giới luật bác ái và tha thứ, cách riêng đối với kẻ thù ghét và làm hại mình; đồng thời kiến tạo hòa bình và hòa giải trong môi trường mình sống và hoạt động[102].
2.4. Tinh thần Phúc Âm
Người tông đồ cũng phải có tinh thần canh tân, thích nghi, khổ chế, nghèo khó, để chung mọi của cải và sẵn sàng hy sinh vì đoàn chiên. Không cậy dựa vào tiền bạc và sự thông thái của mình hoặc thế lực quan quyền vua chúa. Trái lại, người tông đồ chỉ dùng mọi phương thế chứa đựng trong Phúc Âm, đó là rao giảng lời Thiên Chúa với lòng tín thác vô biên vào sức mạnh thần linh, với tinh thần bác ái vô hạn dành cho mọi người, kể cả những kẻ chống đối, với tinh thần sẵn sàng hiến dâng mạng sống để minh chứng tình yêu và với tâm hồn cầu nguyện liên lỉ.
Đức Cha Pierre Lambert cũng nhấn mạnh rằng: người tông đồ thấm nhuần tinh thần Phúc Âm sẽ có thái độ hiền lành, khiêm nhường khi tiếp xúc với tín đồ các tôn giáo bạn; nên đối xử với những Phật tử như “những người đã có màu sắc chân lý Kitô Giáo” và phải kính trọng, bắt chước những đức tính cao quý của họ[103]. Chính Đức Cha đã sống Phúc Âm đến cực điểm và thể hiện ở mức độ trổi vượt mẫu người tông đồ phác họa trên đây. Ngài là một trong những vị thừa sai nổi bật của thời đại mới[104].
Đến đây, chúng ta đã phân biệt ba chiều kích làm nên linh đạo của Đức Cha Pierre Lambert, nhưng trong thực tế, ba chiều kích ấy gắn liền và đan xen với nhau, không thể tách rời. Thật vậy, tinh thần chiêm niệm dẫn tới tinh thần khổ chế và tinh thần tông đồ một cách tất yếu. Tinh thần khổ chế là bí quyết và động lực cần thiết cho đời sống chiêm niệm và hoạt động tông đồ. Mỗi chiều kích cũng như toàn bộ linh đạo của Đức Cha Lambert đều mang đặc tính Kitô trung tâm, tập trung vào Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh và cuộc Thương Khó của Người. Cả ba hình thức: chiêm niệm - khổ chế - tông đồ của linh đạo Đức Cha Lambert đều được thôi thúc bởi tình yêu dành cho Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng-Đinh trong sự hiến dâng trọn vẹn để nên đồng hình đồng dạng với Người.
Tất cả những điều trình bày trên đây chứng tỏ linh đạo của Đức Cha Lambert tập trung cái nhìn và trái tim vào dung nhan Đức Kitô Chịu-Đóng-Đinh. Bởi đó, linh đạo này không bị mai một với thời gian, nhưng luôn sống động và được truyền lại cho hậu duệ của Đức Cha Pierre Lambert, những người sống theo linh đạo Mến Thánh Giá.
Đời sống và sức phát triển kỳ lạ của Dòng Mến Thánh Giá, trong lòng Giáo Hội Việt Nam và Châu Á qua suốt dòng lịch sử đầy thử thách, là một dấu hiệu chứng tỏ sự thích hợp linh đạo của Đức Cha Lambert với tâm hồn người phụ nữ Việt Nam và Châu Á, là mẫu người có sự bén nhạy đặc biệt đối với huyền nhiệm tình yêu và đau khổ, là hai yếu tố có khả năng cộng tác vào ơn cứu độ con người. Thập Giá Đức Kitô chính là quyển sách mạc khải huyền nhiệm ấy.
[1] HĐGMVN, Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Ban Từ Vựng Công Giáo, “Linh Đạo” trong Từ Điển Công Giáo, Tôn Giáo, 2016, tr.533.
[2] Đức Cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Dẫn Vào Lịch Sử Linh Đạo, trang mạng Giáo Phận Đà Lạt, simonhoadalat.com, truy cập 06/2020
[3] X. Hiến chế Tín Lý về Giáo Hội - Lumen Gentium 46,1.
[4] X. Nhóm NCLĐMTG, “Những Trực Giác Mới Của Một Nhà Thừa Sai Nhận Được Trong Lúc Nguyện Ngắm..., 1668” (Bài Tự Sự), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., I,4, tr.58.
[5] Vua Louis XIII của Pháp, tại wikipedia.org
[6] Ch. Duffy, Siege Warfare: The fortress in the early modern world, 1494-1660, p.247.
[7] Nhóm NCLĐMTG, Tiểu Sử-Bút Tích Đức Cha Phêrô-Maria Lambert de la Motte, 1998, số 2, tr.8.
[8] D. Poinsenet, France Religieuse du XVII siècle, Paris, 1952, p.363.
[9] X. Nhóm NCLĐMTG, “Luật Tu Hội Các Trinh Nữ Và Phụ Nữ Đạo Đức...” (Luật Tiên Khởi), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., IV,6, tr.30.
[10] Cf. A. Launay, Histoire de la mission de Cochinchine, Documents historiques I (1658-1728), Paris, Téqui, 1923, p.96.
[11] AMEP, vol. 118, p.332.
[12] P. Pourrat, La spiritualité Chrétienne III. Les Temps Modernes, Première Partie: de la Renaissance au Jansénisme, Paris, 1947, pp.127.154.
[13] D. Poinsenet, France Religieuse du XVII siècle, op.cit., p.16.
[14] J. Ch. Brisacier, sđd., số 14.
[15] P. Pourrat, op.cit., pp.60-61.
[16] Cf. J. Guennou, Missions Étrangères de Paris, Paris, Fayard, 1986, pp.103-104.
[17] Cf. H. Bremond, Histoire littéraire du sentiment religieux France, tome III: la Conquête mystique, L'école Franẹaise, Paris 1935, pp.641-644.
[18] Cf. J. Guennou, op.cit., p.110.
[19] X. Nhóm NCLĐMTG, “Suy Nghĩ Về Cuộc Hành Trình Bất Thành Sang Trung Hoa, 1663” (Suy Nghĩ 2), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 14-18, tr.138.
[20] X. J. Ch. Brisacier, sđd., số 22.
[21] Cf. H. Chappoulie, Aux origines d'une Église. Rome et les missions Indochine au XVII siècle, Paris, 1943, pp.141-142.
[22] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., I,1, tr.58.
[23] Nhóm NCLĐMTG, “Thư Gửi Cha Hallé, 15/03/1661” (Thư I Hallé), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 3-5, tr.108.
[24] X. Nhóm NCLĐMTG, “Suy Nghĩ Về Các Đức Tính..., 1661” (Suy Nghĩ 1), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 3, tr.115.
[25] Nhóm NCLĐMTG, “Một Thừa Sai Phải Hành Động Thế Nào? 1665” (Hành Động), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 9, tr.162.
[26] Nhóm NCLĐMTG, “Việc Nguyện Ngắm Của Một Thừa Sai Tông Toà” (Nguyện Ngắm 4), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 12, tr.151.
[27] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Nguyện Ngắm, 06/09/1662” (Nguyện Ngắm 1), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 5, tr.46.
[28] X. Nhóm NCLĐMTG, Tiểu Sử-Bút Tích Đức Cha Phêrô-Maria Lambert de la Motte (Tiểu Sử), sđd., 8, tr.15.
[29] Đây là khẩu hiệu mà ngài kế thừa của linh đạo trường phái Pháp: “Chúa Giêsu-Kitô phải là đối tượng duy nhất của lòng trí chúng ta” (J. Guennou, op.cit.,p.112).
[30] Nhóm NCLĐMTG, “Sự Tập Chú Nội Tâm Và Liên Lỉ... 1665” (Tập Chú Nội Tâm), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 7-9, tr.168.
[31] X. nt., 4, tr.167.
[32] Nt., 12, tr.169.
[33] Nt., 3-4, tr.167.
[34] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”,sđd., I,11, tr.59.
[35] Nhóm NCLĐMTG, “Cảnh Báo Về Những Cám Dỗ..., 1662” (Cảnh Báo 1), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 3, tr.119.
[36] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., V,3, tr.66.
[37] X. Nghị quyết Công Nghị Đàng Ngoài 1670, điều 21, trong A. Launay, Histoire de la mission du Tonkin, Documents Historiques, tome I, Paris, Téqui, 1927, p.97.
[38] Nhóm NCLĐMTG, “Luật Hiệp Hội Nam Nữ Tín Hữu Mến Thánh Giá.., 1668” (Luật Tại Thế), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., I,1-4, tr.87.
[39] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., 1,1-2, tr.58.
[40] X. Nhóm NCLĐMTG, “Tập Chú Nội Tâm”, sđd., 13, tr.169.
[41] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., III,1, tr.64.
[42] X. nt., III,1-2, tr.64; “Luật Tại Thế”, II,1-2, tr.88.
[43] X. Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., VII,1, tr.71.
[44] Nhóm NCLĐMTG, “Thư Đệ Trình Đức Giáo Hoàng Clêmemtê IX, 1670” (Thư Clêmemtê), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 22-24, tr.99.
[45] Nhóm NCLĐMTG, “Nguyện Ngắm 1”, sđd., 11, tr.47.
[46] X. Nhóm NCLĐMTG, “Thư Gửi Đức Cha Héliopolis, 1668” (Thư Pallu), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., III, tr.80.
[47] Nt., III,2, tr.79.
[48] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., VI,1, tr.68.
[49] Nhóm NCLĐMTG, “Luật Tiên Khởi” sđd., I,4, tr.28.
[50] Nhóm NCLĐMTG, “Dốc Lòng Của Một Thừa Sai Tông Tòa, 1663” (Dốc Lòng 2), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 28.33, tr.132-133.
[51] X. Nhóm NCLĐMTG, “Thư Gửi Cha Hallé, 1671” (Thư II Hallé), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 3-5, tr.190.
[52] Nt., 9-11, tr.191.
[53] Nhóm NCLĐMTG, “Nguyện Ngắm 4”, sđd., 6, tr.140.
[54] X. Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., I,7.V,4, tr.59.66.
[55] X. Nhóm NCLĐMTG, “Luật Tiên Khởi”, sđd., II, tr.28.
[56] X. Nhóm NCLĐMTG, “Hành Động”, sđd., 9, tr.162.
[57] X. Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., VI,11, tr.70.
[58] Nhóm NCLĐMTG, “Động Lực Thúc Đẩy Một Thừa Sai Tông Tòa..., 1663” (Động Lực), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 1, tr.124.
[59] X. Nhóm NCLĐMTG, “Vài Trực Giác Nhận Được Trong Cuộc Tĩnh Tâm..., 1663” (Trực Giác), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 4, tr.142.
[60] X. Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., I,4.11, tr.58-59.
[61] X. nt., VI,9, tr.69.
[62] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Nguyện Ngắm, ngày 07/09/1662” (Nguyện Ngắm 2), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 1, tr.48.
[63] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., IV,1-3, tr.
[64] Nt., VII.5.8, tr.71.72.
[65] Nhóm NCLĐMTG, “Thư Gửi Bà Anê và Bà Paula, 1670” (Bức Tâm Thư), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 8, tr.41.
[66] X. Nhóm NCLĐMTG, “Nguyện Ngắm 1”, sđd., 7, tr.46.
[67] Nhóm NCLĐMTG, “Dốc Lòng 2”, sđd., 39, tr.133.
[68] Nhóm NCLĐMTG, “Bản Xét Mình Của Một Thừa Sai Tông Tòa, 1666” (Xét Mình), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 26, tr.174.
[69] Nhóm NCLĐMTG, “Suy Nghĩ 2”, sđd., 21, tr.139.
[70] X. Nhóm NCLĐMTG, “Hiệu Quả Tình Yêu Tinh Tuyền Trong Tâm Hồn , 1664” (Tình Yêu Tinh Tuyền), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 21, tr.158.
[71] Nhóm NCLĐMTG, Tiểu Sử - Bút Tích Đức Cha Phêrô - Maria Lambert de la Motte,1998, số 31, tr.56.
[72] X. Nhóm NCLĐMTG, “Thư II Hallé”, sđd., 4, tr.190.
[73] Nhóm NCLĐMTG, “Bức Tâm Thư”, sđd., 10, tr.41.
[74] Nhóm NCLĐMTG, “Tình Yêu Tinh Tuyền”, sđd., 9-10, tr.156.
[75] X. Nhóm NCLĐMTG, “Thư Gửi Giáo Đoàn Đàng Trong, 1664” (Thư I Đàng
Trong), trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 20.27, tr.146-147.
[76] Nhóm NCLĐMTG, “Nguyện Ngắm 1”, sđd., 7, tr.46.
[77] X. Nhóm NCLĐMTG, “Đau Khổ”, sđd., 1-2, tr.181.
[78] Nhóm NCLĐMTG, “Xét Mình”, sđd., 24, tr.
[79] Nhóm NCLĐMTG, “Nguyện Ngắm 2”, sđd., 2, tr.48.
[80] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., VII,19-21, tr.74-75.
[81] Nhóm NCLĐMTG, “Suy Nghĩ 1”, sđd., 3, tr.115.
[82] Nhóm NCLĐMTG, Tiểu Sử - Bút Tích Đức Cha Phêrô-Maria Lambert de la Motte, sđd, số 31, tr.57.
[83] H. Chappoulie, op.cit., p.l42.
[84] Nhóm NCLĐMTG, “Bức Tâm Thư”, sđd., 8, tr.41.
[85] Nhóm NCLĐMTG, “Tình Yêu Tinh Tuyền”, sđd., 21, tr.158.
[86] Nhóm NCLĐMTG, “Nguyện Ngắm 2”, sđd., 3, tr.49.
[87] Nt., 4, tr.49.
[88] Nhóm NCLĐMTG, “Động Lực”, sđd., 25, tr.127-128.
[89] Nhóm NCLĐMTG, “Dốc Lòng 2”, sđd., 13, tr.130.
[90] Nt., 18-19, tr.131.
[91] Nt., 27, tr.132.
[92] Nhóm NCLĐMTG, “Tình Yêu Tinh Tuyền”, sđd., 10, tr.156-157.
[93] Nhóm NCLĐMTG, “Kinh Tạ Ơn, 1670”, trong Tuyển Tập Bút Tích (Di Cảo) Đức Cha Pierre Lambert de la Motte..., sđd., 2, tr.188.
[94] Nhóm NCLĐMTG, “Động Lực”, sđd., 9, tr.125.
[95] Nhóm NCLĐMTG, “Nguyện Ngắm 4”, sđd., 4, tr.149.
[96] Nhóm NCLĐMTG, “Suy Nghĩ 2”, sđd., 13-14, tr.138.
[97] Nt., 21-23, tr.139.
[98] Nhóm NCLĐMTG, “Trực Giác”, sđd., 6, tr.142.
[99] Nhóm NCLĐMTG, “Suy Nghĩ 2”, sđd., 18, tr.139.
[100] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., I,4, tr.58.
[101] J. Guennou, op.cit., p.142.
[102] X. Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., V,6, tr.67.
[103] Cf. B. Jacqueline, L'esprit missionnaire chez Mgr. Lambert de la Motte, Saint- Lô, 1996, pp.223-224.
[104] Cf. J. Guennou, op.cit., p.208.
NĂM THÁNH MỪNG 350 NĂM
THÀNH LẬP DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
BÀI 7: SỨ MẠNG DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
WHĐ (16-06-2020) – Được mời gọi sống sứ mạng tông đồ theo tinh thần của Đức Cha Pierre Lambert de la Motte, người nữ tu Mến Thánh Giá đặt trọng tâm việc truyền giáo vào mầu nhiệm Thập Giá và ý thức rằng: người tông đồ tiếp nối sứ mạng Cứu Thế của Chúa Kitô. Ơn gọi căn bản Dòng Mến Thánh Giá là sống mầu nhiệm tình yêu, hàm chứa sứ mạng tông đồ, vì Chúa Kitô mà người nữ tu Mến Thánh Giá chuyên chú tìm hiểu, yêu mến và bắt chước, là vị tông đồ hoàn hảo của Chúa Cha. Vậy người nữ tu Mến Thánh Giá phải trở nên tông đồ của Chúa Kitô và thông dự vào hành động cứu thế của Người, nghĩa là cứu thế bằng hy sinh và bằng tinh thần trung gian.
Chúa Kitô là trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Người chuyển cầu không chỉ bằng lời kinh cầu nguyện cho mỗi người và mọi người, mà bằng cả cuộc đời phục vụ, với đỉnh cao là hành động hiến dâng mạng sống trên Thánh Giá làm giá chuộc cho muôn người. Đức Cha Lambert muốn các nữ tu Mến Thánh Giá phải nhận thức rõ ân huệ đặc biệt Chúa Kitô ban cho họ là được thông dự vào vai trò trung gian và tiếp nối cuộc đời lữ thứ hy sinh của Người để chuyển cầu cho phần rỗi và hạnh phúc của anh chị em đồng loại.
Theo ý hướng của Đấng Sáng Lập, “tinh thần trung gian” mà các nữ tu Mến Thánh Giá nhận được từ Chúa Kitô phải được thể hiện trong hai sứ vụ quan trọng là tiếp nối nơi bản thân mình cuộc đời lữ thứ hy sinh của Chúa, và chuyển cầu cho lương dân cùng các Kitô hữu bất hảo được ơn hoán cải[1].
I. SỨ MẠNG DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
1. Tiếp nối nơi bản thân mình cuộc đời lữ thứ hy sinh của Chúa Kitô
Người nữ tu Mến Thánh Giá được Chúa Kitô tuyển chọn và ban đầy tinh thần của Người là tinh thần trung gian, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ hy sinh của Người cho đến tận thế, vì thân xác Chúa đã phục sinh vinh hiển nên không còn trực tiếp cảm nhận đau đớn và đau khổ nữa.
Sứ vụ “tiếp nối” này làm cho các nữ tu Mến Thánh Giá hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu Kitô, vì đã dâng mình trọn vẹn cho Người, qua việc tuyên khấn và sống ba lời khuyên Phúc Âm, sống thành cộng đoàn, và “thực hành mọi việc thay cho Chúa Kitô”[2]. Đây là hành vi đáp trả đầy yêu thương của người được Thiên Chúa tuyển chọn cách đặc biệt.
Theo Đức Cha Lambert, người nữ tu Mến Thánh Giá đồng hóa mình với Đức Kitô để tiếp nối sứ mạng cứu rỗi của Người, để “Thiên Chúa, Cha của Người khi nhìn vào thân xác và cánh tay Người mượn, thì chỉ thấy trực diện các đau đớn của Con mình; sự kiện Chúa Cha hằng hữu ưng nhận như thế, phải là quy tắc hướng dẫn tôi về cách ứng xử đối với trường hợp đó và dạy tôi phải giữ tâm thế hoàn toàn thụ động cả bề trong lẫn bề ngoài”[3], nghĩa là chết đi với chính mình, để sống cho Đức Kitô.
Việc chết đi đối với chính mình là cần thiết cho Chúa Giêsu tiếp tục trong chúng ta sứ mạng cứu độ của Người. Đức Cha Lambert thường nói: Đời sống người tông đồ là một cuộc chết đi liên lỉ, “chết đi đối với chính mình và đối với thế gian”[4], nghĩa là đối với “các giác quan, bản tính tự nhiên và lý trí người đời, [để] sống bằng giáo huấn, gương sáng và sự sống của Đức Kitô”[5].
Như thế, căn tính của người tông đồ Mến Thánh Giá là hoàn toàn chết đi cho mình và sống trọn vẹn cho Thiên Chúa, nhất là để Chúa Giêsu sử dụng cuộc đời của họ để tiếp nối hy lễ Thập Giá của Người, nhằm sinh ơn cứu độ cho con người. Nói cách khác, căn tính này hệ tại việc họ làm cho tình yêu của Đức Giêsu-Kitô Chịu-Đóng- Đinh phản chiếu cách trung thực trong tư tưởng, lời nói và việc làm của mình. Đức Cha Lambert diễn tả thực tại ấy như sau: “khi đã tuyên khấn ba lời khấn của đời sống trọn lành là nghèo khó, khiết tịnh và vâng lời nội tâm, con người mất hết chỗ dựa, trở thành một người hành khất đích thực do bậc sống”[6].
Để có thể “tiếp nối” và “làm thay” cho Chúa Kitô, người nữ tu Mến Thánh Giá phải ý thức và xác tín như Đức Cha Lambert: Tôi “trao gởi và cống hiến thân xác tôi cho Đức Giêsu Kitô để Người dùng mà thực hành những việc đền tội hãm mình và Người có thể tiếp nối sự hy sinh lao nhọc hằng ngày trong một thân xác có khả năng chịu đau khổ do Người mượn lấy và tuyển chọn cho mục đích đó”[7]. Mặt khác, chị em phải ý thức mình là họa ảnh của Đức Kitô, để hằng ngày chiêm ngắm mầu nhiệm tự hủy, vâng phục, nghèo khó của Người, và để cho Chúa Cứu Thế không những chiếm lấy các năng khiếu tâm linh của linh hồn, mà còn trở thành chủ nhân của thân xác mình, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ và đau khổ nhờ những hy sinh lao nhọc mà Người thực hiện theo ý muốn qua những lễ vật được thần hóa đó[8].
Sứ mạng tiếp nối cuộc đời đau khổ của Chúa Giêsu cũng mời gọi chị em Mến Thánh Giá đón nhận niềm vui và đau khổ từ Thiên Chúa với cùng một thái độ yêu thương và tạ ơn, vì Chúa Giêsu là Đấng đáng mến tại núi Sọ cũng như tại núi Tabor. Tuy nhiên, Chúa Giêsu “bày tỏ những dấu chứng lớn lao về tình yêu của Người trên núi Sọ hơn là trên núi Tabor”[9]. Chính vì lý do này, bí mật tuyệt vời của ơn gọi Mến Thánh Giá hệ tại ở việc “yêu mến Chúa Giêsu Kitô trong những lúc tối tăm, những thập giá, những hy sinh của chúng ta và trong mức độ Người cho chúng ta uống chén đắng của Người, cũng như khi Người lấp đầy chúng ta bằng những ân tình dịu dàng”[10]. Thật vậy, trong đau khổ tột cùng mà tình yêu của chúng ta dành cho Thiên Chúa và anh chị em vẫn không suy giảm chứng tỏ rằng tình yêu chúng ta mạnh hơn sự chết.
2. Sứ mạng chuyển cầu
Người nữ tu Mến Thánh Giá thực thi sứ mạng chuyển cầu nơi nguyện đường và trong cuộc sống qua năm nhiệm vụ được Đức Cha Pierre Lambert ấn định trong Luật Tiên Khởi: nhiệm vụ thứ nhất là chuyển cầu trong nguyện đường, bốn nhiệm vụ còn lại là chuyển cầu trong cuộc sống.
2.1 Chuyển cầu nơi nguyện đường
Việc chuyển cầu nơi nguyện đường được thể hiện qua nhiệm vụ thứ nhất: “Nhiệm vụ đầu tiên của tất cả những người đi theo nếp sống này là phải liên lỉ kết hợp nước mắt, việc suy gẫm cầu nguyện và hãm mình đền tội với công nghiệp của Đức Kitô, để cầu xin Thiên Chúa ban ơn ăn năn trở lại cho lương dân trong ba miền truyền giáo thuộc quyền các vị đại diện Tông Tòa, cách riêng ở Đàng Ngoài”[11].
Qua nhiệm vụ này, Đấng Sáng Lập cho thấy: đời sống chiêm niệm và khổ chế chiếm vị trí ưu tiên và phải đi trước mọi hoạt động truyền giáo của chị em Mến Thánh Giá. Ngài khuyên nhủ: “Trước khi gieo vãi hạt giống Phúc Âm, hãy dùng lời cầu nguyện làm cho mưa móc sa xuống trên cánh đồng”[12]. Nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa mà người tông đồ có thể hành động với một tinh thần thực sự tự do. Sự tự do này là để cho tinh thần của người tông đồ liên lỉ thâm nhập vào tinh thần của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa không ngừng linh hoạt tinh thần và bao bọc chúng ta, đến nỗi chúng ta không còn tự sức mình hoạt động, nhưng Thiên Chúa hoàn toàn ngự trị trong chúng ta.
Đức Cha Lambert nhấn mạnh: “Để sở hữu, bảo tồn và gia tăng tối ưu bí quyết sống và chết trong Đức Kitô, người kế vị các tông đồ hoặc môn đệ Chúa, dường như cần phải quyết tâm sống đời đền tội toàn diện; phải thực hành khổ chế không chỉ trong sự ăn uống và những việc hãm mình bề ngoài, mà nhất là trong các hành động của con người, nghĩa là trong phạm vi đời sống thể lý và những sinh hoạt của lý trí”[13].
Như thế, cầu nguyện và khổ chế rất cần thiết cho đời sống tông đồ của người nữ tu Mến Thánh Giá. Theo Đức Cha Lambert, chỉ mình Thiên Chúa mới có khả năng hoán cải các tâm hồn, và việc kết hợp hy sinh với cầu nguyện là điều cơ bản khi thi hành sứ vụ tông đồ. Thật vậy, “Thiên Chúa thường gắn liền sự ăn năn trở lại của nhiều người với những hy sinh hãm mình, kinh nguyện và đức bác ái phi thường của các thừa tác viên”[14].
Theo ý hướng của Đấng Sáng Lập, hằng ngày chị em Mến Thánh Giá dâng những hy sinh và lời cầu nguyện để cầu xin Thiên Chúa cho lương dân được ơn biết Chúa, cho các tín hữu sống xa lìa Chúa được ơn hoán cải, cho các nhu cầu của Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương.
2.2. Chuyển cầu trong cuộc sống
Việc chuyển cầu trong nguyện đường phải dẫn tới việc chuyển cầu trong cuộc sống, bằng sự dấn thân phục vụ tha nhân, mà đối tượng ưu tiên là giới nữ và giới trẻ, trong các lãnh vực văn hoá, xã hội, y tế, luân lý và đức tin.
Công việc bác ái của các nữ tu Mến Thánh Giá được thể hiện qua các nhiệm vụ:
- “Dạy các thiếu nữ, giáo cũng như lương, những điều nữ giới cần biết. Nếu vì tình huống hiện nay xảy đến cho đạo Thánh không thể làm được, chị em hãy nhớ rằng khi hoàn cảnh cho phép, thì đó là một trong những nhiệm vụ chính của mình”[15]. Sứ vụ này hoàn toàn mang tính cách mạng trong bối cảnh văn hóa Việt Nam của thế kỷ XVII. Qua đó ta cũng thấy Đức Cha Lambert có một cảm thức sâu xa về phẩm giá con người. Ngài ý thức rằng không thể có tiến bộ xã hội hoặc đơn giản không thể có sự phát triển nhân bản, nếu không có một mức tối thiểu kiến thức và giáo dục. Ngài cũng biết rằng các bà mẹ không thể giáo dục con cái cách đúng đắn, nếu họ bị trói chặt trong sự ngu dốt là nguồn gốc của sự cùng khổ và tình trạng nô lệ. Ngài quan tâm thăng tiến nữ giới, không phân biệt lương giáo, vì được học là một quyền cơ bản của con người, của nhiều người và mọi người. Hành động đầu tiên của công cuộc truyền giáo phải là hành động biểu lộ cụ thể sự quan tâm và tình thương của Thiên Chúa dành cho mọi người, bất luận thuộc phái tính hay địa vị nào[16].
- “Săn sóc những phụ nữ, thiếu nữ đau ốm bệnh tật cả giáo lẫn lương. Nhờ cơ hội đó khuyên bảo họ lo phần rỗi và trở lại với Chúa”[17]. Mối bận tâm tông đồ đối với Đức Cha Lambert là tìm cách đem người ta về với Chúa. Khi bệnh tật làm cho con người lo âu trước viễn ảnh cái chết, thì họ dễ dàng đón nhận sứ điệp cứu độ và niềm hy vọng hướng về đời sống vĩnh cửu. Đó cũng chính là lúc nảy sinh nhu cầu khẩn thiết phải hoán cải[18].
- “Rửa tội nơi giếng Thánh cho những trẻ nhỏ lâm cơn nguy tử”[19]. Một công tác tông đồ mang tính cổ điển nhưng được thúc đẩy bởi thao thức truyền giáo.
- “ Dùng mọi cách kêu gọi những người phụ nữ và thiếu nữ trụy lạc”[20] trở về đời sống lương thiện.
Từ những nhiệm vụ mà Đấng Sáng Lập đã đề ra cho Dòng Nữ Mến Thánh Giá trong Luật Tiên Khởi và trong Bức Tâm Thư, ta thấy Đức Cha Lambert có một tầm nhìn toàn diện. Thật vậy, bản luật tuy ngắn gọn, nhưng súc tích, phản ánh được tinh hoa của các linh đạo mà Đức Cha Pierre Lambert từng hấp thụ, vừa thích nghi với môi trường xã hội Việt Nam, vừa mang tính “cách mạng” so với não trạng chung thời đó. Tác giả Fauconnet-Buzelin nhận định rằng: “Trong những mục đích mà ngài ấn định cho Tu Hội đầu tiên của các nữ tu bản xứ Châu Á, Đức Cha Lambert đã áp dụng các trực giác thiêng liêng cấp tiến nhất của thời đại ngài, và đi xa hơn nữa, bằng cách liên kết làm một, không tách rời ra được: đời sống chiêm niệm, ơn gọi thừa sai và công tác bác ái là ba trục lớn của những phụ nữ Công Giáo cấp tiến thế kỷ XVI và XVII, nhưng thích nghi cho phù hợp với điều kiện đặc thù của Giáo Hội Việt Nam [...] và đặt chúng dưới ánh sáng của linh đạo Thánh Giá, linh đạo riêng của ngài”[21].
Ngoài ra, các nhiệm vụ cũng cho thấy sứ mạng Dòng Mến Thánh Giá bao gồm đầy đủ các hoạt động chính yếu của một đời dâng hiến, cả trong tương quan chiều dọc với Thiên Chúa, và cả trong tương quan chiều ngang với xã hội và tha nhân. Mọi tu hội đều mang sứ vụ tông đồ nhưng mỗi tu hội thường chọn điểm nhấn ưu tiên của mình, hoặc thiên về chiêm niệm hoặc thiên về hoạt động. Điều đặc biệt nơi Đức Cha Lambert là ngài liên kết làm một đời sống chiêm niệm, ơn gọi thừa sai và công tác bác ái. Ngài đặt chiêm niệm và khổ chế lên hàng đầu. Nhưng ngài cũng nhấn mạnh đến ơn gọi thừa sai như trong thư gửi cho hai nữ tu Anê và Paula: “Để cầu xin Thiên Chúa cho lương dân và tín hữu tội lỗi được ơn ăn năn trở lại”[22]. Như vậy, trong đối tượng của truyền giáo, lương dân là ưu tiên nhưng cũng không quên các tín hữu tội lỗi.
Ngày nay, khi nhìn lại sứ mạng của nữ tu Dòng Mến Thánh Giá, nhất là về bốn hoạt động bên ngoài mà đối tượng chủ yếu là phụ nữ, chúng ta sẽ cho rằng đó cũng là lẽ thường tình. Nhưng nếu đặt vào bối cảnh xã hội Việt Nam thế kỷ XVII, trong đó vai trò của phụ nữ rất mờ nhạt, có chăng là “tam tòng, tứ đức” trong nếp nhà, thân phận phụ nữ thấp kém như kiểu “thập nữ viết vô”, không được học hành, trong một cơ cấu xã hội do nam giới thống trị, chúng ta mới thấy tầm nhìn cách mạng của Đức Cha Lambert về vai trò của phụ nữ, cụ thể ở đây là vai trò của các nữ tu Mến Thánh Giá. Các chị được giao những nhiệm vụ xã hội như dạy dỗ các thiếu nữ, săn sóc phụ nữ ốm đau, cải hóa phụ nữ trụy lạc. Đó là các đối tượng mà ngài muốn con cái mình ưu tiên phục vụ. Tính chất cách mạng trong tầm nhìn của Đức Cha Lambert còn được thể hiện qua lòng khoan dung bao quát, không phân biệt, “lương cũng như giáo”. Khi đọc lại những trực giác và chủ trương này của Đức Cha Lambert, nhất là về việc giao cho nữ tu trách nhiệm giáo dục phụ nữ, tác giả Fauconnet-Buzelin đã ít nhất hai lần nhận định: “Đó là một biện pháp hoàn toàn cách mạng trong bối cảnh văn hóa của Việt Nam thế kỷ XVII. [...] Vào thế kỷ XVII, ở Pháp, ý tưởng này đã trở nên bình dân nhờ linh mục Vincent de Paul; nhưng trong bối cảnh xã hội Châu Á, đó quả là một cuộc cách mạng đích thực”[23]. Chúng ta có thể gọi Đức Cha Pierre Lambert là vị tiên phong đề cao nữ quyền và giải phóng phụ nữ ở Việt Nam, trong Giáo Hội cũng như ngoài xã hội.
Sứ mạng Dòng Mến Thánh Giá được đặt trong mối tương quan với đặc sủng sống sứ vụ tông đồ thừa sai rất phù hợp với tinh thần của Công Đồng Vatican II: “Nhà truyền giáo là con người cầu nguyện, hy sinh, mang trong mình cuộc tử nạn của Chúa, tận hiến chính bản thân, gia tăng tình yêu Thiên Chúa và tha nhân bằng việc thi hành nhiệm vụ hằng ngày”[24].
II. NGƯỜI NỮ TU MẾN THÁNH GIÁ SỐNG SỨ MẠNG TÔNG ĐỒ
Trải qua bao biến cố thăng trầm, chị em Mến Thánh Giá vẫn trung thành bảo toàn ơn gọi và thi hành sứ mạng đặc biệt của Dòng với sự sáng tạo, thích nghi cần thiết, tuỳ hoàn cảnh địa phương và khả năng của mình. Mọi sáng tạo thích ứng đó luôn trung thành với con người và thời đại, Đức Kitô và Phúc Âm của Người, Giáo Hội và sứ mạng của Giáo Hội trong thế giới, đời sống tu trì và đặc sủng của Dòng. Chúng ta sẽ lược qua những sinh hoạt tông đồ của các nữ tu Mến Thánh Giá từ lúc mới thành lập Dòng cho đến hôm nay.
1. Giai đoạn hậu bán thế kỷ XVII
Có thể nói, ngay từ những ngày đầu khai sinh, Dòng Mến Thánh Giá đã hiện diện trong hoàn cảnh xã hội vô cùng khó khăn, gian nan thử thách. Mặc cho nguy nan bao vây tứ bề, các nữ tu Mến Thánh Giá vẫn hòa nhập vào nhịp sống của Giáo Hội và xã hội bằng sự dấn thân không biết mệt mỏi. Các chị đã không ngừng thi hành sứ mạng truyền giáo theo tinh thần Đấng Sáng Lập trong sự âm thầm và lòng yêu mến Giáo Hội. Hình ảnh các “Bà Mụ Mến Câu Rút” ở Đàng Ngoài và các “Dì Nhà Phước Mến Thánh Giá” ở Đàng Trong đã khá quen thuộc với đa số giáo dân Việt Nam. Hình ảnh quen thuộc nhất có lẽ là từng nhóm hai người Nhà Mụ quẩy gánh thuốc viên, hoặc hai Dì Nhà Phước tay mang tay nải đầy thuốc gia truyền, rảo khắp các nẻo đường bán thuốc chữa bệnh cho người bình dân, như một kế sinh nhai khiêm tốn, và thi hành sứ mạng tông đồ là tìm trẻ nhỏ lâm cơn nguy tử để rửa tội, và khuyên bảo người ta chăm lo phần rỗi linh hồn...
2. Thế kỷ XVIII - XIX
Dù trong hoàn cảnh nào, các chị Mến Thánh Giá vẫn luôn dấn thân phục vụ Tin Mừng. Đặc biệt trong cơn bách hại, các chị cũng đã chịu chung số phận như các tín hữu khác, rất nhiều nữ tu hiến mình chịu chết vì đức tin. Ngoài ra, vai trò và những việc làm khác của các chị không kém phần ý nghĩa khi so với hành động tử vì đạo, vì những việc làm này vừa thể hiện sức mạnh của đức tin, vừa giúp bảo vệ hàng ngũ lãnh đạo của Giáo Hội, vừa củng cố và duy trì cộng đoàn các tín hữu. Các Tu Viện trở thành nơi ẩn núp cho các vị thừa sai và linh mục bản xứ. Các nữ tu nhờ y phục thường dân, dễ ra vào nơi lao tù để thăm viếng, tiếp tế lương thực, nhất là đem Mình Thánh Chúa cho các đấng anh hùng tuyên xưng đức tin; liên lạc, trao thư từ cho các thừa sai và linh mục bản xứ đang phải ẩn trốn. Những nơi mà linh mục không thể vào được, thì các chị mạnh dạn đi tới để an ủi kẻ đau khổ, cứu giúp người yếu đuối, nâng dậy các kẻ đã chối đạo. Các chị đã đồng hành cùng các chứng nhân đức tin từ tòa án đến pháp trường. Khi các sắc chỉ cấm đạo của Nhà Vua ban ra, các Tu Viện bị phá huỷ, các chị phân tán về gia đình nhưng vẫn gan dạ vào làng rửa tội cho trẻ em nguy tử. Vì thế, rất nhiều chị em đã bị bắt, bỏ tù, bị đi đày đến cả đổ máu đào vì Chúa và Tin Mừng[25].
Về giáo dục thiếu nữ, chúng ta biết rằng đa phần phụ nữ thời đó đều thất học và trẻ nữ cũng ít được học hành, nên hoạt động “giáo dục thiếu nữ” đã không thể bao hàm hoạt động giáo dục học đường như ngày nay. Nhưng chắc hẳn các nữ tu Mến Thánh Giá cũng đã tham gia dạy đạo, cộng tác với các linh mục và thừa sai, dẫu cho việc làm này có thể gây nguy hại cho các chị. Một thừa sai xác nhận vào năm 1715: “Các nữ tu Mến Thánh Giá, tuy nhút nhát tự nhiên theo giới tính, đã bí mật thực hành công việc của một người dạy giáo lý cho phụ nữ và thiếu nữ Công Giáo. Bão tố sớm đến với các chị. Chỉ riêng trong tỉnh Nghệ An, ba nhà đã bị phá hủy [...]. Một số trong các nữ tỳ nhiệt thành này của Đức Kitô đã bị bắt và chịu những khổ cực kéo dài trong tù đày; những người khác phải về tá túc ở nhà cha mẹ, và những người khác nữa phải đi ăn xin”[26].
Các nữ tu Mến Thánh Giá thời kỳ này đã thực hiện một nếp sống tu trì mẫu mực, theo sát tinh thần và quy định của Luật Tiên Khởi. Ngoài lao động chân tay nhằm bảo đảm cho một cuộc sống thanh đạm và khổ chế, các chị cũng đã tham gia công việc truyền giáo theo khả năng và phương cách riêng của các chị. Đức Cha Néez nhận định: “Các nữ tu Mến Thánh Giá cộng tác vào công cuộc truyền giáo bằng nhiều việc. Những việc làm này tuy nhỏ bé và âm thầm nhưng được đánh giá là giúp ích rất lớn”[27].
Qua những việc dấn thân phục vụ này, các nữ tu Mến Thánh Giá “thường được các tín hữu và cả lương dân yêu mến và quý trọng”[28]. Đức Cha Retord kể lại trong thư gửi cho cha Laurent ở Lyon vào tháng 01/1846: “Họ đi thăm viếng và an ủi những người đau yếu, giúp chúng tôi dạy dỗ các phụ nữ dự tòng.”[29].
Một trong những hoạt động tông đồ của chị em Mến Thánh Giá là rửa tội cho trẻ em nguy tử, nhất là trong những năm đói kém, dịch bệnh[30]. Riêng năm 1812, “các chị rảo khắp nơi và rửa tội cho khoảng 51.000 sinh linh bé bỏng, nay cũng là từng ấy thiên thần nhỏ, ngời sáng vẻ vô tội và niềm hạnh phúc trước Tòa Thiên Chúa”[31]. Theo linh mục Đinh Thực, “từ năm 1835 đến năm 1844, ở Đàng Trong có 23.445 trẻ em đã được rửa tội; trong năm 1854, 13.581 trẻ em đã được rửa tội trong cùng miền truyền giáo này. Chỉ tại Qui Nhơn, mỗi năm các chị Mến Thánh Giá rửa tội trung bình 10.000 trẻ em trong những năm trước năm 1886”[32].
Trong những lúc đồng bào gặp cảnh đói khổ vì thiên tai, các nữ tu hy sinh một phần nhà của mình để đón tiếp các phụ nữ đau yếu và các trẻ mồ côi[33].
Một đóng góp hữu ích của các nữ tu Mến Thánh Giá là công việc dạy dỗ các thiếu nữ. Trong thư ngày 02/06/1830 gửi cho Hội Truyền Bá Đức tin, Đức Cha Taberd cho biết đang có 16 Nhà dòng Mến Thánh Giá, “tất cả các nhà này sẽ đón nhận các người cùng giới để dạy dỗ và đào tạo họ các công việc thích hợp”. Về hiệu quả của công việc này, Đức Cha Taberd viết: “Thật là một lợi ích lớn lao cho các họ đạo khi có các nữ tu, ngay cả cho các họ đạo lân cận. Chỉ những người ở rất xa mới không được hưởng lợi. Phương cách duy nhất để làm cho các trường này nên hữu ích cho cả miền truyền giáo là cung cấp một số trợ giúp cho các nữ tu, qua đó, các chị có thể ở trong tình trạng đón nhận miễn phí một vài người của mỗi họ đạo. Những người trẻ này, sau khi về lại nhà mình, sẽ trở thành những người mẹ tốt của gia đình, và qua gương sáng cũng như qua những lời dạy dỗ của họ, sẽ là gương mẫu và sự nâng đỡ cho bạn hữu”[34].
Như vậy, sự hiện diện của các nữ tu Mến Thánh Giá trong đời sống của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, được đánh giá là “rất quý báu, nhất là trong những cuộc bách hại”[35]. Dù có khó khăn ra sao, trong khi làm những việc tông đồ, các nữ tu Mến Thánh Giá chú tâm phục vụ ưu tiên cho giới nữ, đây chính là điều mà Đức Cha Lambert thao thức và đặt kỳ vọng vào những nữ tu Mến Thánh Giá. Trong Luật Tiên Khởi ngài viết cho những người con tinh thần của ngài: “Dạy những thiếu nữ, giáo cũng như lương, những điều nữ giới cần biết. Nếu vì tình huống hiện nay xảy đến cho đạo thánh không thể làm được, chị em hãy nhớ rằng khi hoàn cảnh cho phép, thì đó là một trong những nhiệm vụ chính của mình”[36]. Đó là một trong những nhiệm vụ chính của nữ tu Mến Thánh Giá. Tình yêu của Đấng Sáng Lập đã thâm nhập sâu xa vào đời sống của người Việt, ngài hiểu thế nào là vị thế của người nữ trong văn hóa Việt, ngài hiểu đâu là những thiệt thòi mà nữ giới phải chịu, và đâu là tầm quan trọng nếu người nữ trong gia đình có được sự giáo dục tốt.
Suốt một quá trình dài, tinh thần tu trì và đời sống phục vụ của các nữ tu Mến Thánh Giá đã được xây nên bằng máu, nước mắt và đức hạnh. Các chị là những người thuộc về những thế kỷ trước, nhưng nền móng của các chị dựng nên vẫn còn vững bền cho đến hôm nay và mai sau.
3. Thế kỷ XX đến nay: Thời kỳ phục hưng và phát triển
Trong hoàn cảnh còn khó khăn của những năm sau thời kỳ kháng chiến, chị em Mến Thánh Giá vẫn duy trì truyền thống của các vị tiền bối trong ý hướng của Đấng Sáng Lập và còn làm cho tinh thần ấy thêm ngời sáng, cụ thể hơn trong đời sống cầu nguyện và trong những hoạt động mục vụ của mình. Khi tình thế ổn định hơn, các Hội Dòng tuỳ theo hoàn cảnh và khả năng của mình, đã tìm ra những đường hướng mới nhằm phục vụ cho đời sống đức tin của giáo dân, nhất là trong công cuộc truyền giáo cho lương dân và tham gia nhiều hơn trong công tác tông đồ xã hội. Cũng với sứ mạng của mình, chị em luôn sẵn sàng cộng tác chặt chẽ với Hàng Giáo Sĩ địa phương trong các lãnh vực, với ước mong cho mọi người được ơn cứu độ.
Trong bầu khí canh tân, trở về nguồn sau Công Đồng Vatican II, chị em ý thức hơn về đặc sủng Mến Thánh Giá của mình trong việc loan báo Tin Mừng. Như các môn đệ được Chúa sai đi, chị em cũng thực hiện những cuộc thăm viếng bằng cách len lỏi vào các khu xóm lao động, nơi mà sự nghèo đói, túng quẫn, đau đớn thể xác lẫn tinh thần luôn chồng chất lên cuộc sống con người.
3.1. Giai đoạn từ năm 1975 - 1985
Sau biến cố năm 1975, nhiều cơ sở, trường học của các Tu Viện bị đóng cửa, các hoạt động tông đồ cũng bị hạn chế rất nhiều. Đây là giai đoạn Chúa mời gọi chị em sống sứ mạng truyền giáo theo tinh thần Mến Thánh Giá cách sâu đậm hơn bằng đời sống cầu nguyện, hy sinh âm thầm, bằng sự hiện diện chứng nhân giữa cộng đoàn dân Chúa nơi môi trường sống và phục vụ của mình. Các chị len lỏi vào các vùng xa xôi hẻo lánh, thiếu linh mục để dạy giáo lý, an ủi người hoạn nạn, nâng đỡ đời sống đức tin cho các tín hữu, chia sẻ cuộc sống nghèo và tìm cách giúp đỡ họ theo khả năng của mình.
3.2. Giai đoạn canh tân từ năm 1985
Với sự phát triển của đất nước, con người và xã hội cũng có nhiều biến đổi, các Hội Dòng cũng cố gắng tìm những hướng đi mới trong việc truyền giáo, để có thể đáp lại những thao thức của Giáo Hội nói chung và cách riêng trong từng Giáo Phận. Đặc biệt, từ khi chị em Mến Thánh Giá có chung một Hiến Chương, việc dấn thân tông đồ của chị em được định hướng rõ rệt qua các lãnh vực:
Giáo dục đức tin: Gắn bó với Giáo Hội địa phương trong công cuộc loan báo Tin Mừng, chị em dấn thân trong các sinh hoạt mục vụ tại các giáo xứ: dạy giáo lý thiếu nhi các cấp, giáo lý dự tòng và hôn nhân, hướng dẫn giáo lý viên, trao Mình Thánh Chúa, thăm viếng kẻ liệt, phục vụ phòng thánh, phụ trách ca đoàn, ban lễ sinh, các hội đoàn...
Giáo dục văn hóa: Song song với việc giáo dục đức tin là việc giáo dục văn hoá. Đó cũng là nhiệm vụ tông đồ cụ thể Đấng Sáng Lập đã đề ra. Ý thức tầm quan trọng ấy, chị em dấn thân nhiều hơn trong lãnh vực này qua việc cộng tác giảng dạy tại các trường trung học, tiểu học, các lớp tình thương, phổ cập, xoá mù chữ, trường mầm non và các nhóm trẻ gia đình tại các nhiệm sở, cơ sở, nơi chị em công tác mục vụ giáo xứ. Trong việc dạy văn hóa cho các cháu mầm non, ngoài việc giúp các cháu về mặt nhân bản, chị em cũng giới thiệu Chúa cho các cháu cũng như các phụ huynh qua sự tận tâm dạy dỗ, phục vụ đơn sơ, khiêm tốn của người nữ tu Mến Thánh Giá nhằm phản chiếu các giá trị Tin Mừng. Bên cạnh đó, chị em còn tìm cách giúp đỡ những em thuộc gia đình nghèo hoặc có hoàn cảnh đáng thương.
Công tác xã hội và y tế: Chị em góp phần xoa dịu nỗi đau của đồng bào với cả tấm lòng yêu mến qua những công việc cụ thể: giúp những học sinh nghèo có điều kiện đến trường; thăm viếng, trao quà cho người già neo đơn; giúp những gia đình nghèo vùng sâu vùng xa, không phân biệt lương giáo; bảo vệ sự sống: giúp những thiếu nữ lỡ lầm, trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, chôn cất thai nhi.
Các Hội Dòng cũng đã mở rộng lãnh vực công tác xã hội chuyên biệt: chăm sóc, nuôi dạy trẻ em khiếm thị, khiếm thính; tham gia hoạt động xã hội tại các mái ấm, trường khuyết tật; phục vụ các bệnh nhân tâm thần, bệnh nhân AIDS tại trung tâm cai nghiện và các bệnh nhân tại các bệnh viện.
Hoạt động truyền giáo: Theo tinh thần của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Hãy đi ra đến vùng ngoại biên”, người nữ tu Mến Thánh Giá được mời gọi luôn mang trong mình niềm say mến Chúa Giêsu và đầy nhiệt huyết truyền giáo, đặc biệt truyền giáo cho đồng bào dân tộc thiểu số. Chị em hiện diện tại các giáo điểm vùng cao với châm ngôn 3 cùng: cùng làm, cùng ăn và cùng sống với người dân.
Ngoài ra còn có những công việc phục vụ mới trong hoàn cảnh thực tế hiện nay như: mục vụ di dân, thăm viếng tù nhân...
Những sinh hoạt đa dạng của nữ tu Mến Thánh Giá nhằm phục vụ hạnh phúc cho con người, giúp phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Người nữ tu Mến Thánh Giá luôn có một ý hướng, một ước nguyện xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu cho những người mình tận tình phục vụ, để tình yêu của Đấng Chịu-Đóng-Đinh được chuyển trao đến những con tim đang khao khát chân lý và yêu thương. Vì thế, các hoạt động phải được thực hiện với tâm tình cầu nguyện và tinh thần trung gian, để trở thành lời chuyển cầu trong cuộc sống, nối dài lời chuyển cầu trong nguyện đường.
Nhìn chung, các Hội Dòng Mến Thánh Giá đều cố gắng góp phần nhỏ bé của mình trong việc thi hành sứ mạng tông đồ là mục vụ và truyền giáo, để làm cho Giáo Hội mỗi ngày thêm phong phú và mạnh mẽ hơn. Trong âm thầm và khiêm tốn, chị em hiện diện và phục vụ hầu hết ở các Giáo Phận trong nước và một số cộng đoàn ở hải ngoại, từ thành thị đến thôn quê, nơi cao nguyên rừng sâu đến miền quê hẻo lánh để loan báo Tin Mừng. Hiện nay có 30 Hội Dòng Mến Thánh Giá đang phục vụ trong nhiều quốc gia và đây cũng là nguồn năng lực cho công cuộc truyền giáo của Giáo Hội.
Qua mọi thời, dù dấn thân bên ngoài hay âm thầm phục vụ trong cộng đoàn, người nữ tu Mến Thánh Giá ý thức sống cách tích cực và thể hiện đặc tính của Dòng là chiêm niệm trong hoạt động, sống sứ mạng thừa sai, gắn bó với Giáo Hội địa phương, đồng thời phát huy những đức tính của người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, trung hậu, quả cảm, quên mình trong cuộc đời hiến dâng, để sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc và phục vụ hạnh phúc của mọi người[37]. Hành trang chị em mang là tình yêu say mến đối với Chúa Giêsu-Kitô Chịu- Đóng-Đinh, sự khao khát cho phần rỗi các linh hồn và lòng thương cảm sâu xa đối với tha nhân.
Sử gia Francoise Fauconet-Buzelin khẳng định: “Chính chị em Mến Thánh Giá cứu vãn lý tưởng truyền giáo của Đức Cha Lambert và bảo đảm sự trường tồn cho lý tưởng ấy; và trải qua thăng trầm lịch sử, Dòng Mến Thánh Giá vẫn bảo toàn được căn tính thừa sai đặc sắc của mình, nếu không luôn luôn đúng trong thực hành, thì ít nhất luôn đúng trong tinh thần”[38].
Trước nhu cầu cấp bách của việc truyền giáo trong bối cảnh văn hóa xã hội ngày nay, thời đại 4.0 với những phát minh vĩ đại và ứng dụng khoa học kỹ thuật, chị em Mến Thánh Giá không ngừng nỗ lực để phục vụ cách hiệu quả và đáp ứng những nhu cầu của thời đại. Ước mong mầu nhiệm Thánh Giá đã thấm sâu vào con người Đức Cha Lambert, Đấng Sáng Lập Dòng thế nào, thì linh đạo ấy cũng trở nên men làm dậy bột cho đời sống thánh hiến và phục vụ của chị em Mến Thánh Giá hôm nay như vậy. Để qua đời sống cầu nguyện, hy sinh khổ chế và sứ vụ tông đồ của các chị, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục cứu độ cho đến tận thế, hầu nhiều người được ơn hoán cải và lương dân được đón nhận Tin Mừng.
[1] X. Nhóm NCLĐMTG, “Bức Tâm Thư”, sđd., 8, tr.41.
[3] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., I,11, tr.59.
[4] Nhóm NCLĐMTG, “Suy Nghĩ 2”, sđd., 13, tr.138.
[5] Nhóm NCLĐMTG, “Bức Tâm Thư”, sđd., 10, tr.41.
[6] Nhóm NCLĐMTG, “Nguyện Ngắm 4”, sđd., 1, tr.148-149.
[7] Nhóm NCLĐMTG, “Bài Tự Sự”, sđd., I,4, tr.58.
[9] Nhóm NCLĐMTG, “Tình Yêu Tinh Tuyền”, sđd., 3, tr.155.
[11] Nhóm NCLĐMTG, “ Luật Tiên Khởi” sđd., III,1, tr.29.
[12] Nhóm NCLĐMTG, Tiểu Sử - Bút Tích Đức Cha Phêrô-Maria Lambert de la Motte, sđd., số 31, tr.57.
[13] Nhóm NCLĐMTG, “Suy Nghĩ 2”, sđd., 21-22, tr.139.
[14] Nhóm NCLĐMTG, “Trực Giác”, sđd., 1, tr.141.
[15] Nhóm NCLĐMTG, “Luật Tiên Khởi”, sđd., III,2, tr.29.
[16] X. F. F. Buzelin, Quá Trình Hình Thành Dòng Nữ Mến Thánh Giá, phần I, số 20.
[17] Nhóm NCLĐMTG, “Luật Tiên Khởi”, sđd., III,3, tr.29.
[18] X. F. F. Buzelin, Quá Trình Hình Thành Dòng Nữ Mến Thánh Giá, sđd., số 20, số 21.
[19] Nhóm NCLĐMTG, “Luật Tiên Khởi”, sđd., III,4, tr.29.
[21] F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.430.
[22] Nhóm NCLĐMTG, “Bức Tâm Thư”, sđd., 8, tr.41.
[23] X. F. F. Buzelin, Người Cha Bị Lãng Quên..., sđd., tr.432.
[24] Sắc lệnh Đến Với Muôn Dân - Ad Gentes, số 25.
[25] Đinh Thực, sđd., tr.93.
[26] AMEP, vol. 131, p.571.
[27] Ibib.,vol. 1100, p.412.
[28] Ibib.,vol. 690, p.613.
[29] bib.,vol. 697, pp.830-831.
[30] Cf. Nouvelles Lettres Édifiantes des Missions de la Chine et des Indes Orientales (NLE), vol. 8, Paris, le Clerc, 1821, pp.319-320.
[31] Abbé Migne, sđd., col. 94-95.
[32] Đinh Thực, sđd., tr.91.
[33] Cf. NLE, vol. 8, p.289.
[34] APF, vol. 5, 1831, p.396.
[35] L'Ami de la religion, journal ecclésiastique, politique et littéraire, tome 127, Paris, Le Clerc, 1845, p.584.
[36] Nhóm NCLĐMTG, “Luật Tiên Khởi”, sđd., III,2, tr.29.
[37] X. Hiến Chương Bảy Hội Dòng Mến Thánh Giá Tổng Giáo Phận TP.HCM, 2000, điều 6,3.
[38] F. F. Buzelin, Quá Trình Hình Thành Dòng Nữ Mến Thánh Giá Trong Tư Tưởng Của Đức Cha Lambert, phần I, số 11.12