11/07/2025
Thứ sáu tuần 14 THƯỜNG NIÊN
Thánh Bênêđictô, viện phụ
Mt 10,16-23
can đảm sống “khác”
“Vì Danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét. Nhưng kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát.” (Mt 10,16-23)
Suy niệm: Bị bách hại là số phận thường tình của người môn đệ. Trong thế gian luôn xảy ra cuộc chiến giữa sự thiện và sự ác. Cuộc chiến ấy ở ngay trong lòng ta, trong gia đình ta, trong môi trường ta đang sống và trên toàn thế giới. Sự ác chống lại sự thiện, bóng tối không chấp nhận ánh sáng. Là Ki-tô hữu nghĩa là thuộc về Chúa Ki-tô, nghĩa là khác với thế gian dù đang ở giữa thế gian. Vì thế khi lãnh nhận sứ mạng rao giảng Tin Mừng, người môn đệ chấp nhận bị bách hại: bị bắt bớ, đánh đòn, tù đày, chống đối, thù ghét… vì người Ki-tô hữu được kêu mời sống “khác”, như “con chiên giữa bầy sói”.
Mời Bạn: Là con người, chúng ta cũng sợ phải tù đày, roi vọt, chống đối và thù ghét. Không ai điên để đưa cổ ra chịu chém vì một lý do lãng xẹt. Nhưng nếu vì Danh Chúa Ki-tô mà phải chịu bách hại thì dù có phải trả giá lớn mấy đi nữa, hạnh phúc đạt được còn lớn hơn bội phần. Bạn hãy luôn xác tín rằng: những gian nan và ngược đãi đó, là cơ hội để ta hiệp thông với cuộc khổ nạn của Chúa, nhờ đó đau khổ của người tông đồ sẽ trở nên hy lễ đem lại nhiều hoa trái.
Sống Lời Chúa: Để sẵn sàng sống “khác” theo Tin Mừng, luôn tâm niệm loại bỏ tính hưởng thụ ích kỷ, thay vào đó bằng tinh thần quan tâm, chia sẻ.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, xin ban Thánh Thần xuống trên chúng con. Xin cho chúng con một tinh thần đơn sơ và khôn ngoan, một niềm tin sắt đá, một đức cậy vững vàng và một lòng mến sắt son, để chúng con được can đảm sống Tin Mừng và trung thành làm chứng cho Chúa. Amen.
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thứ sáu tuần 14 THƯỜNG NIÊN
Ca nhập lễ
Lạy Chúa, chúng tôi tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong đền thánh Chúa. Lạy Chúa, cũng như thánh danh Chúa, lời khen ngợi Chúa sẽ vang đến tận cùng trái đất; tay hữu Chúa đầy đức công minh.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, nhờ con Chúa hạ mình xuống, Chúa đã nâng loài người sa ngã lên, xin rộng ban cho các tín hữu Chúa niềm vui thánh thiện này: Chúa đã thương cứu họ ra khỏi vòng nô lệ tội lỗi, xin cũng cho họ được hưởng phúc trường sinh. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: (Năm I) St 46, 1-7. 28-30
“Cha chết cũng vui lòng, vì Cha đã trông thấy mặt con”.
Trích sách Sáng Thế.
Trong những ngày ấy, ông Israel ra đi, đem theo tất cả những gì ông có và đến Giếng Thề; tại đây ông dâng hy tế lên Thiên Chúa của Isaac, cha của ông. Ban đêm trong một thị kiến, ông nghe Chúa gọi ông và nói với ông rằng: “Hỡi Giacóp, Giacóp!” Ông liền thưa: “Này con đây”. Thiên Chúa nói tiếp: “Ta là Thiên Chúa rất hùng mạnh của cha ngươi, nên ngươi đừng sợ, hãy xuống xứ Ai-cập, vì ở đó Ta sẽ làm cho ngươi nên một dân tộc vĩ đại. Ta sẽ xuống đó với ngươi. Cũng chính Ta sẽ đưa ngươi trở về, (sau khi) tay Giuse đã vuốt mắt cho ngươi”.
Bấy giờ Giacóp bỏ Giếng Thề mà đi: các con cái đưa ông và vợ con lên các xe Pharaon đã phái đến rước cha già và tất cả những gì ông có ở Canaan; ông sang Ai-cập với tất cả dòng dõi ông, gồm con trai, con gái và cháu chắt.
Bấy giờ Giacóp sai Giuđa đi trước báo tin cho Giuse biết mà đón rước cha tại Ghêsen. Khi ông đến đó, thì Giuse thắng xe đi đón cha tại Ghêsen. Vừa thấy cha, ông ôm cổ cha mà khóc. Giacóp nói với Giuse rằng: “Cha chết cũng vui lòng, vì cha đã trông thấy mặt con và biết con còn sống”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 36, 3-4. 18-19. 27-28. 39-40
Ðáp: Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ
Xướng: Hãy trông cậy Chúa và hãy làm lành, để được cư ngụ trong đất nước, thọ hưởng an ninh. Hãy hân hoan tin tưởng vào Chúa, Người sẽ ban cho sự lòng bạn thỉnh cầu.
Xướng: Chúa chăm lo cho mạng sống người nhân đức, và phần gia nghiệp họ còn mãi muôn đời. Ngày tai hoạ, những người đó không tủi hổ, và trong nạn đói, họ sẽ được ăn no.
Xướng: Hãy tránh ác và hãy làm lành, hầu được an cư tới ngàn thu, bởi vì Chúa yêu điều chân lý, và không bỏ rơi những tôi tớ trung thành.
Xướng: Người hiền được Chúa ban ơn cứu độ: trong cơn khốn khó, Người là chỗ họ dung thân, Chúa bang trợ và giải thoát họ. Người giải thoát và cứu họ khỏi lũ ác nhân, vì họ đã nương tựa vào Người.
Bài Ðọc I: (Năm II) Hs 14, 2-10
“Chúng tôi sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra”.
Trích sách Tiên tri Hôsê.
Ðây Chúa phán: “Hỡi Israel, hãy trở về với Chúa là Thiên Chúa ngươi, vì ngươi đã gục ngã trong đường tội ác. Các ngươi hãy mang lời Chúa và trở về với Chúa; các ngươi hãy thưa rằng: ‘Xin hãy xoá bỏ mọi tội ác, và nhận điều lành. Chúng tôi dâng lên Chúa của lễ ca tụng. Assurô sẽ không giải thoát chúng tôi; chúng tôi sẽ không cỡi ngựa và sẽ không còn nói rằng: Thần minh chúng tôi là sản phẩm do tay chúng tôi làm ra, vì nơi Chúa, kẻ mồ côi tìm được sự thương xót’.
“Ta sẽ chữa sự bất trung của họ và hết lòng yêu thương họ, vì Ta đã nguôi giận họ. Ta sẽ như sương sa, Israel sẽ mọc lên như bông huệ, và đâm rễ như chân núi Liban. Các nhánh của nó sẽ sum sê, vẻ xinh tươi của nó như cây ôliu và hương thơm của nó như hương thơm núi Liban. Thiên hạ sẽ đến ngồi núp dưới bóng mát của nó, họ sống bằng lúa mì và lớn lên như cây nho. Nó sẽ được lừng danh như rượu Liban.
“Hỡi Ephraim, tượng thần giúp ích gì cho ngươi không? Chính Ta sẽ nhậm lời và săn sóc ngươi, cho ngươi mọc lên như cây hương nam xinh tươi. Nhờ Ta, ngươi sẽ sinh hoa kết quả. Ai là người khôn ngoan hiểu được các việc này, ai là người sáng suốt biết được các việc đó? Vì chưng đường lối của Chúa là đường ngay thẳng và những người công chính sẽ đi trên đó, còn các người gian ác sẽ gục ngã trên đó”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 50, 3-4. 8-9. 12-13. 14 và 17
Ðáp: Miệng con sẽ loan truyền lời ca khen Chúa (c. 17b).
Xướng: Lạy Chúa, nguyện thương con theo lòng nhân hậu Chúa, xoá tội con theo lượng cả đức từ bi; xin rửa con tuyệt gốc lỗi lầm, và tẩy con sạch lâng tội ác.
Xướng: Nhưng Chúa ưa sự thật trong tâm khảm, và trong đáy lòng, Chúa dạy con điều khôn. Xin dùng cành hương thảo rảy con thanh khiết; xin tẩy rửa cho con được hơn tuyết trắng tinh.
Xướng: Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa, chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con.
Xướng: Xin ban lại cho con niềm vui ơn cứu độ, với tinh thần quảng đại, Chúa đỡ nâng con. Lạy Chúa, xin mở môi con, miệng con sẽ loan truyền lời ca khen.
Alleluia: Tv 129, 5
Alleluia, alleluia! – Con hy vọng rất nhiều vào Chúa, linh hồn con trông cậy vào Chúa. – Alleluia.
Phúc Âm: Mt 10, 16-23
“Không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các Tông đồ rằng: “Này, Thầy sai các con đi như những con chiên ở giữa sói rừng. Vậy các con hãy ở khôn ngoan như con rắn và đơn sơ như bồ câu. Các con hãy coi chừng người đời, vì họ sẽ nộp các con cho công nghị, và sẽ đánh đập các con nơi hội đường của họ. Các con sẽ bị điệu đến nhà cầm quyền và vua chúa vì Thầy, để làm chứng cho họ và cho dân ngoại được biết. Nhưng khi người ta bắt nộp các con, thì các con đừng lo nghĩ phải nói thế nào và nói gì? Vì trong giờ ấy sẽ cho các con biết phải nói gì; vì chưng, không phải chính các con nói, nhưng là Thánh Thần của Cha các con nói trong các con.
“Anh sẽ đem nộp giết em, cha sẽ nộp con, con cái sẽ chống lại với cha mẹ và làm cho cha mẹ phải chết. Vì danh Thầy, các con sẽ bị mọi người ghen ghét, nhưng ai bền đỗ đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu độ. Khi người ta bắt bớ các con trong thành này, thì hãy trốn sang thành khác. Thầy bảo thật các con: Các con sẽ không đi khắp hết các thành Israel trước khi Con Người đến”.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin Chúa dùng của lễ chúng con dâng tiến để thanh tẩy và hướng dẫn chúng con, cho chúng con ngày càng biết sống chân tình với Chúa. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi, cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; Phúc cho ai tìm nương tựa ở nơi Chúa.
Hoặc đọc:
Chúa phán: “Hỡi tất cả những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến cùng Ta, Ta sẽ mang đỡ bổ sức cho các ngươi”.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa chúng con vừa lãnh nhận hồng ân cao cả; xin cho chúng con được hưởng ơn cứu độ dồi dào và không ngừng chúc tụng tạ ơn Chúa. Chúng con cầu xin…
Suy niệm
BÁO TRƯỚC NHỮNG CUỘC BÁCH HẠI (Mt 10,16-23)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
1. Sau khi huấn dụ các Tông đồ về mục đích, tinh thần và cách thế của người tông đồ đi truyền giáo, Chúa Giê-su tiên báo những cuộc bách hại mà các Tông đồ gặp phải trên bước đường truyền giáo.
Trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng, các Tông đồ sẽ gặp muôn vàn khó khăn: bị ghen ghét, bắt bớ… Chúa Giê-su đã trấn an họ đừng lo, vì Thiên Chúa ở bên cạnh để giúp đỡ họ. Để bền chí đến cùng, người môn đệ phải luôn có đời sống tin tưởng phó tác và cầu nguyện.
2. “Này, Thầy sai anh em đi như chiên đi vào giữa bầy sói”.
Hình ảnh bầy sói ám chỉ những bách hại và thử thách mà các Tông đồ phải đương đầu, đồng thời cũng có thể hiểu Chúa muốn nói đến các tiên tri giả để cảnh giác các Tông đồ trước những chống đối hiểm độc của những kẻ nhân danh chân lý, nhân danh lời Chúa để phá hoại Tin Mừng.
Trước âm mưu xảo quyệt và ngụy biện như thế, người môn đệ phải khôn như con rắn. Rắn có tài tránh nguy hiểm và luôn luôn giữ cái đầu cho khỏi bị đánh. Người tông đồ đừng để mình bị lọt vào tròng của những ông tiến sĩ giả, nếu cần thì phải tránh đụng độ với họ. Tuy nhiên vẫn phải giữ tâm hồn và thái độ đơn sơ hiền lành như con chim bồ câu, loài chim hơi nghe tiếng động là bay đi và vẫn được coi là hiền lành (Trần Hữu Thành).
3. “Vì danh Thầy, anh em sẽ bị mọi người thù ghét”.
Sự bách hại là số phận không thể tránh được của các môn đệ, bởi vì nếp sống và sứ điệp của người môn đệ sẽ phơi bầy tật xấu của thế gian. Chúa Giê-su cho biết lý do của sự thù nghịch giữa thế gian và người môn đệ Chúa: “Nếu thế gian ghét các con, các con hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như các con thuộc về thế gian, thì thế gian yêu thích những gì thuộc về nó. Nhưng vì các con không thuộc về thế gian, và Thầy đã chọn, đã tách các con khỏi thế gian, nên thế gian ghét các con”.
Trong chuyến hành hương Lộ Đức vào tháng 8 năm 1981, Đức Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II đã có nhắc đến những hình thức bách hại đạo tại một vài nơi trên thế giới.
Ngài nói: “Có những tín hữu bị bắt buộc phải hội họp một cách lén lút, bởi vì cộng đoàn tôn giáo của họ không được phép hoạt động. Có những Giám mục, Linh mục, tu sĩ bị cấm thi hành chức vụ trong nhà thờ hay tại những nơi công cộng. Có những nữ tu bị phân tán không thể tiếp tục cuộc sống hiến thân của họ. Có những người trẻ quảng đại nhưng không thể thực hiện ơn gọi của họ. Có những tín hữu bị tước đoạt cả quyền có thể tận hiến cho một cuộc sống chung để cầu nguyện và thực thi bác ái. Có những bậc cha mẹ bị người ta khước từ quyền được bảo đảm cho con em một nền giáo dục dựa trên niềm tin của mình”.
4. Thông thường, trong những lời hứa hẹn ít khi thấy bóng dáng khó khăn thử thách. Chúa Giê-su đã hành động vượt ngoài qui luật này: môn đệ Ngài sẽ là người không còn đất sống, bị người đời ghét bỏ. Hội đường kết án, ngay cả người thân cũng phản bội họ
Đối diện với viễn ảnh, xem ra đen tối này, người môn đệ phải trang bị bằng những hiểu biết cụ thể, và xác tín rằng họ không đơn độc trong cuộc chiến. Nếu trong xã hội loài người, họ không có chỗ đứng, thì trong Nước Trời họ đã có chỗ Chúa dành sẵn cho họ; và cho dù thế gian có đổ dồn bách hại lên họ, họ vẫn không bị nghiền tán, vì đã có sự trợ lực của Chúa Thánh Thần.
Điều quan trọng là họ phải trung thành: trung thành với Thánh Thần bằng cách giữ tâm hồn đơn sơ chân thật; trung thành với con đường đã chọn, vì Thiên Chúa không để họ quá mức chịu đựng: “Các con sẽ không đi hết các thành của Israel trước lúc Con Người đến” (Mỗi ngày một tin vui).
5. Người môn đệ được đồng hóa với Chúa Giê-su và chia sẻ số phận của Ngài. Người môn đệ chẳng những là kẻ sống tinh thần khó nghèo, mà còn là kẻ luôn cảm thấy mình yếu đuối, không thể tự mình chống lại những bách hại. Nhưng sự yếu đuối của các môn đệ lại là sức mạnh của Thiên Chúa, bởi vì ý thức mình yếu đuối, nên người môn đệ hết lòng tin tưởng và gắn bó với Chúa.
6. Truyện: Cái bạt tai tôi xin vui lòng lãnh nhận.
Năm 1227, bá tước Schavenbourg nguyên là thiếu tướng trong quân đội hoàng gia Phổ, đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa. Ông xin vào tu Dòng Những Anh Em Hèn Mọn của thánh Phan-xi-cô. Bề trên trao cho thầy một bộ quần áo nghèo hèn, một chiếc bị và một cái bát để khất thực ngay giữa nơi thành thị đông đúc cho người nghèo và cũng là để tự nuôi sống.
Một hôm, đang trên đường đi xin ăn, ông gặp một vị hoàng thân quí tộc đang dạo phố. Ông đến ngửa tay xin bố thí, nhưng vị hoàng thân chẳng màng lưu tâm. Nhà tu hành tiếp tục theo sau nhỏ nhẹ nài van một cách kiên trì nhẫn nhục. Bực quá, vị hoàng thân quay phắt lại, tát cho thầy tu vốn là cựu bá tước một cái tát nảy lửa.
Thầy thấy bị xúc phạm ghê gớm, lòng tức giận chỉ chực trào lên như trong những ngày oai phong xưa kia. Thế nhưng, thầy đã kịp bình tĩnh lại và khiêm hạ nói, tay vẫn ngửa ra: “Vâng, thưa ngài, phần cái bạt tai thì tôi xin vui lòng lãnh nhận, nhưng còn phần dành cho những người nghèo khổ đáng thương hơn tôi, thì xin ngài đừng quên bố thí”.
THẦN KHÍ CỦA CHA ANH EM NÓI
(THỨ SÁU – THÁNH BIỂN ĐỨC 11/07)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Biển Đức hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã đặt Thánh Viện Phụ Biển Đức làm tôn sư lỗi lạc, dạy những ai muốn hiến thân phục vụ Chúa, xin cho chúng ta hằng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, để tâm hồn được thảnh thơi mà rảo bước trên con đường theo Chúa. Chào đời quãng năm 480 tại Noócxia (Umria), sau một thời gian theo học ở Rôma, Biển Đức rút lui vào một hang ở Xubiacô và bắt đầu sống đời ẩn sĩ, chiêu mộ các đồ đệ rồi chuyển đến Montê Cátxinô. Tại đây, người lập một đan viện thời danh, chính người soạn Tu Luật cho đan viện. Sau này Tu Luật mang tên người được phổ biến khắp Châu Âu, nên người được mệnh danh là “Tổ phụ của nếp sống đan tu ở phương Tây”. Người qua đời ngày 21 tháng 3 năm 547. Từ cuối thế kỷ VIII, người đã được kính nhớ vào ngày 11 tháng 7. Ngày 24 tháng 10 năm 1964, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI ra tông thư “Sứ Giả Hoà Bình” (Pacis nuntius), đặt người làm Bổn Mạng toàn Châu Âu.
Yêu mến Chúa trên hết mọi sự, Chúa sẽ can thiệp đúng lúc để đảo ngược tình thế, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách Các Vua Quyển I nói về: Salômôn được vua Đavít chọn để kế vị. Sau khi âm mưu nơi cung cấm bị bẻ gãy, vua Đavít đặt người Chúa chọn là Salômôn lên ngôi báu. Cùng với tân vương, vương quốc Ítraen sẽ đạt tới hoàng kim thời đại. Tuy nhiên, vua cũng có những lầm lỗi khiến vua không trung thành với sứ mạng đến nỗi các ngôn sứ sẽ phải nặng lời quở trách. Các thiếu nữ Xion, hãy ra chiêm ngưỡng vua Salômôn: người đội triều thiên hoàng thái hậu đã đội cho người trong ngày vui nhất của lòng người. Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, để Người xét xử dân Ngài theo công lý và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.
Yêu mến Chúa trên hết mọi sự, Chúa sẽ tặng ban cho ta chính Chúa làm gia nghiệp, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Biển Đức: Tuyệt đối không coi gì trọng hơn Đức Kitô… Giã từ cha, không màng chi gia sản, chỉ ôm ấp trong lòng một nỗi đam mê là làm vui lòng Chúa, Biển Đức dấn thân vào cuộc đời chiêm niệm và trong nơi thanh vắng, người sống dưới cái nhìn của Đấng thấu suốt những gì bí ẩn. Người rút lui khỏi thế giới loài người, giàu sang danh vọng không ham, mánh khoé mưu mô chẳng thiết.
Yêu mến Chúa trên hết mọi sự, Chúa sẽ giải cứu và cho được toại lòng, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Sáng Thế, ông Giacóp nói: Cha chết cũng được, sau khi đã thấy mặt con. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 36, vịnh gia cho thấy: Người công chính được Chúa thương cứu độ. Cứ tin tưởng vào Chúa và làm điều thiện, thì sẽ được ở trong đất nước và sống yên hàn. Hãy lấy Chúa làm niềm vui của bạn, Người sẽ cho được phỉ chí toại lòng.
Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn, và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu nói: Không phải chính anh em nói, mà là Thần Khí của Cha anh em nói. Thần Khí sẽ dẫn ta đến sự thật toàn vẹn, làm cho ta nhớ lại mọi điều Đức Kitô đã nói, và Thần Khí sẽ nói thay cho ta trước mặt vua chúa quan quyền, vì thế, sống theo Thần Khí, ta sẽ an toàn tiến bước về bến bờ bình an. Ước gì ta cũng biết bắt chước thánh Biển Đức, luôn sống theo sự hướng dẫn của Thần Khí, coi người khác trọng hơn mình, kiên nhẫn chịu đựng những yếu đuối xác hồn của nhau, thi đua vâng lời nhau, đem lòng yêu mến mà kính sợ Chúa, tuyệt đối không quý gì hơn Đức Kitô. Chúa đã đặt Thánh Viện Phụ Biển Đức làm tôn sư lỗi lạc, dạy những ai muốn hiến thân phục vụ Chúa, ước gì chúng ta hằng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, để tâm hồn được thảnh thơi mà rảo bước trên con đường theo Chúa. Ước gì được như thế!
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thánh Bênêđictô, viện phụ
Ca nhập lễ
Đây là các vị thánh đã được ơn chúc phúc của Chúa, và được Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ thương xót, vì đây là dòng dõi những người tìm kiếm Chúa.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa đã đặt thánh viện phụ Biển Đức làm tôn sư lỗi lạc để dạy những ai muốn hiến thân phục vụ Chúa. Xin cho chúng con hằng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, để tâm hồn được thảnh thơi rảo bước trên con đường theo Chúa. Chúng con cầu xin…
Bài đọc
Phụng vụ Lời Chúa – (theo ngày trong tuần)
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin thương nhận của lễ chúng con dâng trong ngày lễ kính thánh Biển Đức. Xin cho chúng con dõi theo gương người để chỉ tìm kiếm và phụng sự một mình Chúa mà thôi, nhờ vậy chúng con sẽ được sống bình an và hiệp nhất. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Các bạn hãy nếm thử và hãy nhìn coi cho biết Chúa thiện hảo nhường bao; phúc cho người trông cậy vào Chúa.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa lãnh nhận Mình và Máu Thánh Con Một Chúa là bảo chứng cuộc sống muôn đời. Xin cho chúng con biết theo lời thánh Biển Đức chỉ dạy là trung thành thờ phượng Chúa và hết tình yêu mến anh em. Chúng con cầu xin…
Ghi nhận lịch sử – phụng vụ
Thánh Grêgoriô Cả trong cuốn Đối thoại của mình, khi kể về tiểu sử và phép lạ của Viện Phụ Biển Đức khả kính, không nhắc tới ngày qua đời của Người tại núi Cassin, vào khoảng năm 547, sau khi đến sống ở đây từ năm 529. Lễ kính được cử hành theo ngày mà bản phụng vụ cổ nhất các nước francs ghi lại, ngày 11 tháng Bảy. Ngày này trùng ngày hài cốt của Người có thể đã được chuyển từ núi Cassin về Flenry trên bờ sông Loire vào năm 703 như lời một tác giả vô danh thế kỷ VIII ghi lại. Tuy nhiên, các tu sĩ Núi Cassin, những người vẫn còn giữ di hài được coi là của Thánh Biển Đức thì vẫn không đồng ý với truyền thuyết đó.
Ngày 11 tháng Bảy đã thế chỗ cho ngày chết của Người, vì theo niên biển của núi Cassin, ngày đó chính là 21 tháng Ba.
Biển Đức (theo tiếng Latinh là Benedictus có nghĩa là được chúc phúc), sinh tại Norcia (Ombrie), vào khoảng năm 480, trong một gia đình La Mã dòng họAnicia, bảy mươi năm sau khi quân đội Wisigotho của Alaric vây hãm thành và bốn năm trước Odoacre, vua người Hérules, hạ bệ vị hoàng đế La Mã cuối cùng và chứng kiến sự xuống dốc của nền văn minh phương Tây do làn sóng tràn ngập của các dân man di, đặc biệt của người Goths do Totila lãnh đạo. Trong bối cảnh đó, Biển Đức, sau thời gian theo học tại Roma, muốn rút lui khỏi thế gian. Biển Đức thử nghiệm nhiều hình thức tu dòng khác nhau sau khi đã từng ẩn tu trong một hang núi gần Subiaco miền Latium ba năm: ban đầu Ngài sống cuộc đời bán-đơn tu tại Effide (nay là Affile), sau sống độc tu gần Aniene, nơi đây chỉ có một tu sĩ tên là Romain biết Ngài và mang thức ăn cho Ngài. Tuy nhiên những người chăn cừu cũng đã biết và họ đã thường lui tới với Người. Sau này, Biển Đức trở thành bề trên một tu viện gần đấy theo yêu cầu của các tu sĩ sống tại đây. Thế nhưng vì không đồng tình với kỷ luật cải cách của thánh nhân, một số tu sĩ tìm cách đầu độc Ngài. Biển Đức bỏ đi, đến sống ở Subiaco như một tu sĩ cộng đoàn và đã thành lập mười hai tu viện nhỏ cho các tu sĩ dưới quyền. Ngài rời Subiaco đến sống ở núi Cassin khoảng năm 529.
Thánh Grêgoriô Cả viết tiểu sử Thánh Biển Đức thành ba mươi tám chương theo văn phong khoa trương thời đại, kể lại ba mươi bảy năm của thánh nhân ở Norcia. Tác giả trình bày cho chúng ta một Biển Đức chọn câu “Ora et labora” (cầu nguyện và lao động) làm châm ngôn sống, lấy chiếc cày và thập giá làm biểu tượng. Thánh Biển Đức là người bảo vệ nền văn minh phương Tây bằng cách đối đầu với vua Totila người Ostrogoths. Khi sắp qua đời, Ngài yêu cầu được đưa tới nhà nguyện, nơi đây “đứng lên, hai tay hướng về trời, ngài cầu nguyện và trút hơi thở cuối cùng”. (Grêgoriô Cả, Tiểu sử …37, 3).
Thông điệp và tính thời sự
Các kinh cầu nguyện trong Thánh Lễ hôm nay rút từ bản Qui luật của Thánh Biển Đức, tất cả đều nhắc tới giáo huấn của vị thầy cao cả trên đường tu đức này, người đã từ bỏ việc học hành sách vở, bỏ gia đình và tài sản thân phụ để lại, chỉ để làm vui lòng Chúa.
Lời nguyện của ngày nhắc tới bản Qui luật (lời nói đầu 45 và 49): “Lạy Chúa, Chúa đã làm cho Thánh Biển Đức trở thành nhà hướng dẫn cho những ai đang học cách phụng sự Ngài, chúng con xin Chúa đừng để chúng con coi trọng điều gì hơn tình yêu Chúa và chúng con sẽ được tiến bước trên con đường các giới răn của Ngài với tâm hồn không gì vướng bận”. Qui luật của Thánh Biển Đức dung hòa kinh nghiệm tu đức của Thánh Basile với sự khôn ngoan của người Roma và sự kín đáo Phúc Âm “ngu dốt một các sáng suốt”, hầu biến nó trở nên bản hiến chương cho cái thành trì mới tức là tu viện này. Tại đây, viện phụ là hiện thân cho quyền cha của Thiên Chúa trong một thế giới được xây dựng trong an bình nhờ các sợi dây nối kết của tình ái Đức Kitô. Chúng ta có thể đọc thấy tinh thần Qui luật trong Phụng vụ Bài đọc: “Họ sẽ tuyệt đối không ưa chuộng gì hơn Đức Kitô”. Qui tắc này không phải chỉ dành cho các tu sĩ, nhưng liên hệ mọi tín hữu, vì mỗi người ai cũng có thể noi gương Thánh Biển Đức “nhanh nhẩu bước đi trên những nẻo đường Phúc Âm, trong sự êm ái của tình yêu và con tim không hề vướng bận” (xem Đáp ca của Phụng vụ Bài đọc). Lời nguyện sau hiệp lễ nhắc tới một khía cạnh khác của tinh thần Biển Đức (xem Qui luật, 72): “Ước gì chúng con có thể vâng theo lời giáo huấn của Thánh Biển Đức, biết trung thành phụng sự Chúa trong việc cầu nguyện và bác ái với anh em”. Các khu vực thuộc dòng Biển Đức luôn tìm cách lan tỏa tình bác ái huynh đệ ra chung quanh bằng việc giúp con người tự hoàn thiện nhờ lao động (kể cả lao động chân tay) và lòng hiếu khách. Lời nguyện trên lễ vật (lấy tư tưởng từ Tông Hiến của Đức Phaolô VI khi công bố Thánh Biển Đức làm bổn mạng Châu Âu) thì cầu xin “ơn hiệp nhất và an bình”. Roma được hưởng một giai đoạn an bình với Théodoric và Cassiodore cho đến năm 526. Chiến thắng của Kitô giáo Roma đối với làn sóng man di đứng đầu là Totila trở thành biểu tượng của sự hiệp nhất tan rã nay đã tìm lại được. Việc tìm lại các giá trị nhân bản và giá trị của Kitô giáo đã cứu vãn nền văn hóa Châu Âu, trong khi hoàng đế Justinien cùng với những cuộc chiến chinh dữ dội và bất tận của ông cũng như nghị sĩ Cassiodore đã thất bại. Cassiodore vẫn sống trong ảo tưởng rằng nền văn hóa La Mã cũng như nền triết học của nó sẽ muôn đời vĩnh tồn.
Một ca vãn của Pierre le Vénérable viện phụ Cluny viết rằng: Thánh Biển Đức đã dạy “muôn dân biết phục tùng luật lệ và các ước nguyện của Đức Kitô”. Tinh thần qui hướng vào Đức Ki-tô của Thánh Biển Đức vốn cũng là một thứ nhân bản đích thực đã dung hoà tính siêu việt của lời cầu nguyện (ora) với việc làm của con người (labora), vì như Thánh Grêgoriô viết: Thánh Biển Đức “nhờ biết cân nhắc mọi sự cách chín chắn, đã nắm được đầy đủ tinh thần tất cả những người ngay lành”. (Tiểu sử … II, 8, 9).
Enzo Lodi
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn