TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Chúa Nhật XXXII Thường Niên – Năm B

“Bà góa nghèo này đã bỏ nhiều hơn hết”. (Mc 12, 38-44)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Hiếu Ca

Thứ tư - 12/05/2021 08:48 | Tác giả bài viết: Lm Giuse Hoàng Kim Toan |   1154
Hiếu Ca

Hiếu Ca
Hiếu ca là một bản nhạc dân tộc từ hơn ngàn năm để lại trên mảnh đất hiếu đạo tại Việt Nam. Là lời ca ru con từ tấm bé, là bài học cho con ghi lòng tạc dạ từ thưở phôi thai, ai lớn khôn mà chẳng nhớ ít lời mẹ ru. Con đường hiếu ca làm nên hiếu đạo ngay từ trong tâm thức để kiến tạo gia đình, một làng và cả một nước. 

 

“Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm,

 

ai kính mẹ thì tích trữ kho báu.

 

Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái,

 

khi cầu nguyện, họ sẽ được lắng nghe.

 

Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ,

 

ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ làm cho mẹ an lòng”. (Hc 3, 3 – 6).

 

Hiếu đạo một con đường của tự nhiên xuất phát từ cội rễ: “uống nước nhớ nguồn” để dẫn tới hiếu đạo siêu nhiên, nhận ra Thiên Chúa tác tạo nên chính mình, cha mẹ là những người trực tiếp cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa.

 

Lược lại một số ca dao trong nguồn kho tàng đất Việt để nhận ra lời dạy của Thiên Chúa mạc khải trong Thánh Kinh, người Kitô hữu chúng ta sẽ khám phá ra mảnh đất của Thánh Kinh đã được Thiên Chúa chuẩn bị cho trên mảnh đất Việt dễ dàng đón nhận.

 

Công ơn:

 

Ghi nhận đầu tiên nơi mọi con người sống là “ơn nghĩa sinh thành”. “Không cha không mẹ, làm sao có mình”, quy luật của tự nhiên của sự sống con người là quy luật bất biến được Thiên Chúa chúc lành trên người cha, người mẹ: “Hãy sinh sôi nảy nở cho đầy mặt đất”. Lời chúc phúc này dù hồng thuỷ hay tội lỗi cũng không xoá bỏ được.

 

"Công cha như núi Thái sơn,

 

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

 

Một lòng thờ mẹ kính cha,

 

Cho tròn chữ Hiếu, mới là đạo con".

 

 

 

hay:

 

"Công cha nghĩa mẹ cao vời,

 

học nhằn chẳng quản suốt đời vì ta.

 

Nên người con phải xót xa,

 

Đáp đền nghĩa nặng như là trời cao.

 

Đội ơn chín chữ cù lao,

 

Sanh thành kể mấy non cao cho vừa".

 

 

 

hay là:

 

"Tu đâu cho bằng tu nhà,

 

Thờ cha kính mẹ mới là chân tu".

 

 

 

"Một lòng thờ mẹ kính cha,

 

Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con".

 

 

 

"Công cha đức mẹ cao dầy,

 

Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ

 

Nuôi con khó nhọc đến giờ,

 

Trưởng thành con phải biết thờ song thân".

 

 

 

"Mẹ già ở tấm lều tranh,

 

Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con".

 

 

 

"Đêm khuya trăng rụng xuống cầu,

 

Cảm thương cha mẹ, giãi dầu ruột đau".

 

 

 

hay là:

 

 

 

"Biển đông còn lúc đầy vơi,

 

Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng".

 

 

 

"Đêm đêm khấn nguyện Phật trời,

 

Cầu cho cha mẹ sống đời với con".

 

 

 

"Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá,

 

Ngó ra ngoài biển, thấy cặp cá đang đua,

 

Đi về lập miếu thờ Vua,

 

Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha".

 

 

 

"Muốn cho gần mẹ gần cha,

 

Khi vào thúng thóc, khi ra quan tiền".

 

Ai về tôi gửi buồng cau,

 

Buồng trước kính Mẹ, buồng sau kính Thầy.

 

Ai về tôi gửi đôi giầy,

 

Phòng khi mưa gió để Thầy Mẹ đi".

 

 

 

"Ơn hoài thai, to như bể!

 

Công dưỡng dục, lớn tợ sông!

 

Em nguyện ở vậy không chồng,

 

Lo nuôi cha mẹ hết lòng làm con".

 

 

 

Người con gái đi lấy chồng xa cũng bị trách:

 

"Chim đa đa đậu nhánh đa đa,

 

Chồng gần không lấy, để lấy chồng xa.

 

Mai sau cha yếu, mẹ già.

 

Bát cơm đôi đũa, kỹ trà ai dâng?"

 

 

 

"Nếu mình hiếu với mẹ cha

 

Chắc con cũng hiếu với ta khác gì.

 

Nếu mình ăn ở vô nghì

 

Đừng mong con hiếu làm gì uổng công".

 

 

 

hay là:

 

"Hiếu thuận sinh ra con hiếu thuận

 

Ngỗ nghịch nào con có khác chi!

 

Xem thử trước thềm mưa xối nước

 

Giọt sau giọt trước chẳng sai gì".

 

 

 

"Ở đời ai cũng có lần

 

Làm cha mẹ mới biết ơn sinh thành.

 

Người xưa khó nhọc nuôi mình

 

Khác chi mình đã hết tình nuôi con".

 

 

 

Nhưng người con cũng biết cha mẹ thương con không phải giống nhau, cha có lòng thương của người cha, mẹ có lòng thương của mẹ, nên người con cũng biết phân biệt:

 

 

 

"Mẹ dạy thì con khéo,

 

Bố dạy thì con khôn".

 

 

 

"Mồ côi cha ăn cơm với cá,

 

Mồ côi mẹ, lót lá mà nằm".

 

 

 

"Lên non mới biết non cao,

 

Nuôi con mới biết công lao mẫu từ".

 

 

 

"Ai rằng công mẹ như non,

 

Thật ra công mẹ lại càng lớn hơn".

 

 

 

"Lòng mẹ như bát nước đầy,

 

Mai này khôn lớn, ơn này tính sao".

 

 

 

"Nhớ ơn chín chữ cù lao,

 

Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình".

 

 

 

"Con ho lòng mẹ tan tành,

 

Con sốt lòng mẹ như bình nước sôi".

 

 

 

"Nuôi con chẳng quản chi thân,

 

Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo con lăn".

 

 

 

"Mẹ ngảnh đi, con dại,

 

Mẹ ngảnh lại con khôn".

 

 

 

"Mẹ giàu con có, mẹ khó con không".

 

 

 

"Mẹ già như chuối ba hương,

 

Như xôi nếp một, như đường mía lau".

 

 

 

"Bồng cho con bú một hồi,

 

Mẹ đã hết sữa, con vòi con la".

 

 

 

"Nuôi con buôn tảo bán tần,

 

Chỉ mong con lớn nên thân với đời".

 

 

 

"Những khi trái nắng trở trời,

 

Con đau mà mẹ đứng ngồi không yên".

 

 

 

"Trọn đời vất vả triền miên,

 

Chăm lo bát gạo đồng tiền nuôi con".

 

 

 

"Chiều chiều ra đứng ngõ sau,

 

Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều".

 

 

 

"Giữa đêm ra đứng giữa trời,

 

Cầm tờ giấy bạch chờ lời mẹ răn".

 

 

 

"Trải bao gian khổ không sờn,

 

Muôn đời con vẫn nhớ ơn mẹ hiền".

 

 

 

"Mẹ già ở túp lều tranh,

 

Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con".

 

 

 

"Tôm càng lột vỏ bỏ đuôi,

 

Giã gạo cho trắng mà nuôi mẹ già".

 

 

 

"Đói lòng ăn đọt chà là,

 

Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng".

 

 

 

"Đói lòng ăn trái ổi non,

 

Nhịn cơm nuôi mẹ, cho tròn nghĩa xưa".

 

 

 

"Dấn mình gánh nước làm thuê,

 

Miễn nuôi được mẹ quản gì là thân".

 

 

 

"Vô chùa thấy Phật muốn tu,

 

Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền".

 

 

 

"Nuôi con chẳng quản chi thân

 

Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.

 

Biết lấy gì đền nghĩa khó khăn,

 

Lên non xắn đá, xây lăng phụng thờ".

 

 

 

"Đây bát cơm đầy nặng ước mong,

 

Mẹ ôi, đây ngọc với đây lòng,

 

Đây tình con nặng trong tha thiết,

 

Ơn nghĩa sanh thành, chưa trả xong".

 

 

 

Ai không làm tròn bổn phận người con đối với mẹ, thì được nghe lời trách móc:

 

 

 

"Đi đâu bỏ mẹ ở nhà,

 

Gối nghiên ai sửa, chén trà ai dâng".

 

 

 

"Năm xưa tôi còn nhỏ, Mẹ tôi đã qua đời.

 

Lần đầu tiên tôi hiểu,

 

Thân phận kẻ mồ côi".

 

"Quanh tôi ai cũng khóc,

 

Im lặng tôi sầu thôi,

 

Để dòng nước mắt chảy,

 

Là bớt khổ đi rồi...".

 

"Độ nhỏ tôi không tin,

 

Người thân tôi sẽ mất

 

Hôm ấy tôi sững sờ

 

Và nghi ngờ trời đất".

 

"Từ nay tôi hết thấy

 

Trên trán mẹ hôn con

 

Những khi con phải đòn

 

Đau lòng mẹ la lẫy".

 

"Kìa nhà ai sung sướng

 

Mẹ con vỗ về nhau

 

Tìm mẹ con không có

 

Khi buồn biết trốn đâu".

 

“Hoàng hôn phủ trên mộ,

 

Chuông chùa lạnh rơi rơi,

 

Tôi thấy tôi mất mẹ,

 

Mất cả một bầu trời!".

 

 

 

"Con có cha như nhà có nóc,

 

Con không cha như nòng nọc đứt đuôi".

 

 

 

"Khôn ngoan nhờ ấm ông cha,

 

Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ,

 

Đạo làm con chớ hững hờ,

 

Phải đem kính yếu mà thờ từ nghiêm".

 

 

 

"Còn cha gót đỏ như son,

 

Một mai cha mất, gót con đen sì".

 

 

 

"Cha tôi tuy đã già rồi,

 

Nhưng còn làm lụng để nuôi cả nhà,

 

Sớm hôm vừa gáy tiếng gà,

 

Cha tôi đã dậy để ra đi làm".

 

 

 

"Nghiêng bình mở hộp nút ra,

 

Con ơi, con bú cho cha yên lòng".

 

 

 

"Mẹ đánh một trăm, không bằng cha ngăm một tiếng".

 

 

 

Qua Truyền Ký

 

 

 

Vai trò giáo dục của người cha lại càng nổi bật hơn trong câu chuyện của Nguyễn Trãi được cha là Phi Khanh khuyên bảo; nhờ vậy, trở thành là một nhà ái quốc văn võ kiêm toàn, phò hộ cho Lê Lợi đánh đuổi quân Minh và xây dựng tổ quốc Việt Nam.

 

Phi Khanh, thân sinh của Nguyễn Trãi, vì phò Hồ Quý Ly chống lại quân Minh, nên khi Hồ Quý Ly thất trận bị bắt, Phi Khanh cũng bị bắt theo và áp giải đi Nam Kinh để tù đày. Hai con trai của Phi Khanh là Nguyễn Trãi và Phi Hùng cũng đi tiễn đưa Phi Khanh lên đến cửa Nam Quan. Bây giờ Phi Khanh đã biết thân mình già yếu, nước mất nhà tan, lại bị tù đày chắc sống cũng không bao lâu. Thấy hai con lẽo đẽo theo sau từ xa, thương cha đều khóc đỏ ngầu cả hai con mắt.

 

Phi Khanh biết Nguyễn Trãi có chí lớn, có khả năng làm nên đại sự sau này, nên khuyên Nguyễn Trãi như sau: "Ta già rồi, chết cũng không hối hận nữa. Duy bình sinh, ta rất ưa thích sơn thủy núi Bái Vọng ở chốn cố hương. Vậy để một mình em con đi theo ta, hễ ta có chết thì nó nhặt lấy xương đem về chôn ở núi ấy là đủ rồi; còn con, ta khuyên con nên trở về. Lâu nay xem thiên văn, ta biết sau đây hơn mười năm, tất có một vị chân chúa nổi lên ở phương Tây, con là người có học có tài, bây giờ nên đi theo vị chân chúa để rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới chính là đại hiếu. Lọ là phải cứ đi theo cha, khóc thút thít như đàn bà ấy mới là hiếu sao?"

 

 

 

Nhờ lời khuyên của cha là Phi Khanh, Nguyễn Trãi trở về, sau tìm Lê Lợi phò giúp, đánh đuổi được quân Minh, dành lại độc lập tự do cho xứ sở, vừa trả thù được cho cha.

 

Người cha đã đóng đúng vai trò giáo dục của mình là giáo dục con cái trở thành những người công dân giúp nước lợi dân. (Nguyễn Trãi, Trúc Khê, Tao Đàn, trang 15).

 

 

 

Qua các câu ca dao, các câu cách ngôn, các mẩu chuyện, chúng ta đã thấy lòng người Việt Nam đối với cha mẹ như thế nào, lòng thương cha mến mẹ của người Việt Nam đã được truyền thống dân tộc Việt Nam hun đúc, tác thành, ăn sâu vào tâm khảm của người Việt Nam.

 

Giữ lấy được truyền thống là giữ được nước nhà.

Xin Chúa cho con cháu chúng con luôn được nhắc nhớ đến công đức tổ tiên. Biết gìn giữ và sống đẹp lòng Chúa và ông bà tổ tiên.

 

 

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây