LƯỢC SỬ GIÁO XỨ CHÂU NINH
Năm thành lập: 1957
Bổn mạng Giáo xứ: Đức Mẹ Sầu Bi
Địa chỉ: Xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp, Bình Phước
Bổn mạng: Đức Mẹ Sầu Bi
Số Giáo dân: 1808
Số Gia đình: 442
(theo thống kê của VP.TGM năm 2022)
Lược sử Giáo xứ Châu Ninh
Sau hiệp định Genève (20.7.1954), chia đôi đất nước thành hai miền Nam – Bắc.
Theo đoàn người di cư vào Nam, có sự đồng hành của cha Hilario Đỗ Tri Tâm do cha Bề Trên Dòng Đồng Công sai đi, đã đưa dân đến Quận Bố Đức, tỉnh Phước Long, giáp biên giới Campuchia, mà đa số là người tín hữu Công Giáo. Nay là Huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước.
Số lượng giáo dân ngày khai sinh lập ấp, con số đã lên đến 400 gia đình giáo dân. Giữa mênh mông rừng cây, liêu xiêu bước trên những mảnh đất xì xụp ngập nước, được sự chấp thuận của chính quyền thời bấy giờ, giáo dân quyết tâm khai hoang, bới đất lật cỏ để mưu sinh và xây dựng đời sống. Những đồng lúa, những rẫy hoa mầu xanh tươi, dần dần bảo đảm cho cuộc sống. Bên cạnh những lao đao vất vả mưu tìm ổn định đời sống, người giáo dân hằng đêm vẫn không quên tụ tập bên nhau trong giờ kinh nguyện để nuôi dưỡng đời sống tâm linh. Ngôi Nhà thờ tạm được làm bằng gỗ tạp, mái lợp tranh. (trên mảnh đất hiện nay là Trường Tiểu học của Ấp 4, xã Thiện Hưng).
Còn có sự góp sức của cha Augustino Maria Nguyễn Hữu Tân CMC, nhưng không nhớ rõ vào thời điểm nào…?
Năm 1957, cha Giuse Maria Phạm Quang Thiều CMC, đưa thêm 500 gia đình dân từ Bắc vào, cùng ở lại vùng đất này gây dựng đời sống.
Song song với việc mưu sinh, đời sống tâm linh dần đi vào nề nếp. Đức Cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, Giám mục Giáo phận Đà Lạt đã thiết lập Giáo xứ với tên gọi: Giáo xứ Châu Ninh, nhận Mẹ Sầu Bi là Bổn mạng của Giáo xứ. Lúc đó, ông … Nguyên, là chủ tịch hội đồng Giáo xứ.
Giáo xứ được chia thành 4 giáo họ: Giáo họ Mẹ Lên Trời; Giáo họ Bắc Tinh; Giáo họ Thiên Môn; Giáo họ Sao Mai.
Năm 1958, khởi công xây dựng Thánh Đường, và hoàn tất năm 1959. Thánh đường là bằng cột gỗ, vách ghép ván… Đến nay, số cột gỗ ấy vẫn còn đứng vững đánh dấu bước khởi đầu dài, đầy gian lao.
Năm 1960, Giáo xứ mời các Soeurs Dòng Trinh Vương về cộng tác. Trường học và nhà giáo lý được xây dựng và hình thành công cuộc đào tạo đức tin cho mọi thành phần Dân Chúa.
Năm 1962, Cha …Thịnh được bổ nhiệm về thay. Ngài đem theo thêm 300 gia đình gia đình di cư. Tổng cộng cho đến thời điểm này là 1.200 gia đình.
Sinh hoạt Giáo xứ khởi sắc với việc thành lập các hội đoàn: Nghĩa Binh Thánh Thể; Hội Con Đức Mẹ, Hội Thánh Giuse; Hội Cecilia; Ca đoàn. Tổ chức Chầu Thánh Thể; các dịp lễ trọng có Rước kiệu trọng thể… Thêm vào đó, các cha thường xuyên tổ chức Tuần Đại Phúc, mời các cha thuộc Dòng Đồng Công về giảng Tĩnh Tâm…
Năm 1963, theo sổ Gia đình công giáo của một giáo dân, còn có sự hiện diện, ban Bí tích Rửa tội của Cha A. Vitte, Quản xứ Lộc Ninh – thuộc Giáo phận Sàigòn, vào những năm 1958; của cha Luca Phạm Duy Từ, vào năm 1963.
Đến năm 1967, Giáo phận Ban Mê Thuột được thành lập, tách ra từ Giáo phận Kon Tum, Đức Cha Phêrô Nguyễn Huy Mai, Giám mục Tiên Khởi Giáo phận Ban Mê Thuột. Ngài đã tìm cách đến vùng sâu hẻo lánh này, đã sai các thầy đến làm việc mục vụ quanh vùng đất này, nhưng vì thời cuộc, mất an ninh, nên các công việc gặp phải nhiều trắc trở, không thể tiếp cận và phát huy gì được.
Biến cố Tết Mậu Thân 1968, giáo dân sơ tán một phần lớn.
Năm 1970, Đức Cha Phêrô Nguyễn Huy Mai đã để lại dấu chân của Ngài nơi vùng đất hẻo lánh này. Ngài đã đến ban Bí tích Thêm sức tại đây, ngày 16 tháng 3 năm 1970.
Năm 1972, chiến cuộc xảy đến ác liệt, không thể ở lại, tay xách nách mang, giáo dân mỗi người chạy mỗi ngã… ly tan không hẹn ngày hội ngộ.
……
Năm 1975, đất nước Việt Nam thống nhất.
Dân chúng về đây tìm đất sinh sống, Nhà thờ bị hư hại nặng nề, và trở thành nhà kho, nhà máy xay xát lương thực.
Năm 1980, ông Đôminicô Phạm Văn Chước đứng đơn xin lại Nhà thờ với chứng tích là Cây Thánh Giá trên đỉnh nóc, và một tháp chuông bằng gỗ cũng đã bị sập. Ông xin đưa được một quả chuông về nhà cất giữ, nay đang sử dụng tại Giáo xứ. Còn một quả khác, do phòng lương thực giữ. Sau này Giáo họ Sơn Giang – Phước Long mượn cho đến nay. Đời sống đạo thời gian này lặng lẽ tại các gia đình, chỉ tụ tập đọc kinh khi gia đình giáo dân có tang gia hoặc ngày giỗ. Năm 1982, có sự giới thiệu và chấp thuận của Đức Cha giáo phận Phú Cường, ông Đôminicô Chước, được phép Đức Cha cất giữ Mình Thánh Chúa tại nhà, để phòng cho những người già, hấp hối.
…
Năm 1990, đất nước đã có nhiều đổi mới, có 7 vị, đại diện giáo dân đứng ra làm đơn xin chính quyền giao trả lại Nhà thờ. Nhà thờ đã được trả lại cho Giáo hội, cùng với Nhà thờ Lộc Ninh, Nhà thờ Bình Long, do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ký giấy xác nhận. Ban chấp hành Giáo xứ gồm 5 vị, và trước mặt chính quyền và giáo quyền, đã nhận lại ngôi Nhà thờ với diện tích đất là 5.215 m2. . Tiếp đó, xin cha Phaolo Lê Vinh Đởm, hàng năm về dâng Lễ Giáng sinh hoặc đôi khi về chứng hôn cho các đôi hôn phối. Còn việc lãnh nhận các bí tích Rửa tội hoặc Thêm sức của trẻ em… thường thì phải qua Giáo xứ Lộc Ninh hoặc ra Giáo xứ Long Điền.
Năm 1990 – 1992, số giáo dân nghe biết có nơi thờ tự, gọi mời nhau đến dọn dẹp vệ sinh, tạm thời dùng các tấm bạt che kín chung quanh tránh nắng bụi, gió mưa. Và cũng từ đó bắt đầu những giờ kinh sớm chiều lại được vang lên đầy thành kính.
Năm 1992, qua đơn xin của giáo dân và được sự chấp thuận của chính quyền, Giáo phận bổ nhiệm cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hậu, Quản xứ Long Điền, đồng thời làm quản nhiệm Giáo xứ Châu Ninh.
Năm 2000, Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hậu, mời gọi giáo dân sửa sang lại Nhà thờ. Chính quyền còn cấp 1.880 m2 để làm nghĩa trang Giáo xứ. Việc sửa sang Nhà thờ chưa hoàn chỉnh, cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hậu chuyển đi nhận Giáo xứ mới. Cha Gioan Baotixita Trần Đức Châu về làm Quản xứ Giáo xứ Long Điền và quản nhiệm Giáo xứ Châu Ninh.
Năm 2001, cha Gioan Baotixita Trần Đức Châu, được bổ nhiệm về làm Quản xứ. Giáo xứ Châu Ninh chính thức có vị chủ chăn hiện diện, ngày đêm dìu dắt yêu thương đoàn chiên Chúa.
Các cơ sở được xây dựng, nhà xứ, nhà khách, đáp ứng cho những việc liên quan đến dạy dỗ, mục vụ hoặc giải quyết những nhu cầu khác nữa cho mọi tín hữu; tượng đài Đức Mẹ Sầu Bi – bổn mạng Giáo xứ đặt trước ngôi thánh đường, tượng đài Mẹ La Vang trong khu vực nhà xứ; và tháp chuông làm bằng khung sắt cũng đã được hoàn thành, sáng tối vang xa như tiếng Thiên Chúa gọi mời, đồng thời nhắc nhở tín hữu gần xa hướng lòng lên Đấng Tối Cao.
Tháng 7 năm 2011, cha Phanxico Xavie Nguyễn Ngọc Hoàng, nhận bài sai về làm Quản xứ Giáo xứ Châu Ninh cho đến nay…
Tháng 12 Năm 2012, cha Đa Minh Lê Văn Đức SVD, về làm phó xứ đến năm 2014.
Năm 2013, sửa sang lại khu vực tượng đài Đức Mẹ La Vang, ấm cúng cho những giờ kinh, cầu nguyện chung, hoặc một nhóm nhỏ, hay cá nhân… và đã hoàn thành khép kín 4 mặt chung quanh Nhà thờ bằng tường xây.
Con đường xây dựng và mở mang Nước Chúa tại Giáo xứ còn rộng dài, mênh mông phía trước, dự tính đến cuối năm, có thể khởi công xây dựng nhà Giáo Lý? Có chăng “Lúa chín đầy đồng, mà thiếu thợ gặt”… tha thiết mỗi ngày, nguyện xin Chúa hoàn tất mọi công trình đã khởi đầu…
Châu Ninh, ngày 23 tháng 8 năm 2016
Lm PX. Nguyễn Ngọc Hoàng
LƯỢC SỬ SỞ PHƯỚC THIỆN, ĐỒNG XOÀI, PHƯỚC LONG
(Lấy ở cuốn Hồi ký Cha Bề Trên Đaminh Maria Trần Đình Thủ)
* Lý Do và Thực Hiện
Đầu năm 1962, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo khởi xướng thành lập các khu dinh điền khai phá rừng thuộc tỉnh Phước Long giáp quận Tân Uyên tỉnh Bình Dương làm khu dinh điền trồng cao su.
Cha Bề Trên Đaminh Maria Trần Đình Thủ nhờ Cha Thiều và Thầy Cương xin chính quyền khai thác 3.500 mẫu đất rừng quận Đôn Luân (Đồng Xoài) từ cây số 10, 5 đến 13,5 tính từ quận Đôn Luân (Đồng Xoài) đi Bù Đăng thuộc quyền Đức Cha Hiền ở giữa lô đất (1.500 mẫu) của Dòng Trinh Vương và Dòng Đaminh (1500 mẫu).
Đức Cha Hiền đồng ý cho đưa Nhà Dòng lên đất mới. Cha con rủ nhau lên cắm đất ở Đồng Xoài, 70 mẫu cho tu viện rồi cho “quân quốc” ồ ạt lên xây dựng. Tuy vất vả lao nhọc nhưng đã trồng được hơn 100 cây chôm chôm, mấy chục cây sầu riêng, hơn mẫu mía, gần 30 mẫu cao su. Và xây dựng được 2 chiếc nhà, mỗi cái 6, 7 căn lợp lá, vây gỗ. Dựng một nhà nguyện bằng gỗ, một hội quán và vài lớp học, và được hơn chục gia đình giáo dân tới sinh sống.
Thật là may, chưa kịp đưa toàn bộ phận lên thì chiến tranh bùng nổ tại quận lỵ Đôn Luân cách đất nhà dòng 6, 7 cây số. Cứ đêm đến các “bác” vào mua gạo, dấm muối làm cho mọi người teo tim quặn ruột, nhưng cũng cứ tiếp tục trồng tỉa đất đai cho tới 1964 mới rút khỏi Đồng Xoài hoàn toàn, vì giao thông bế tắc, không sống nổi, kéo nhau về Thủ Đức.
DƯỚI ĐÂY LÀ LỊCH SỬ GIÁO XỨ CHÂU NINH
VÀ TU VIỆN THÁNH GIA BỐ ĐỨC
(rút ra ở cuốn hồi ký Cha Bề Trên Đaminh Maria Trần Đình Thủ)
Khoảng năm 1969, tôi đưa một số thày lên lao động và sản xuất tại tỉnh Phước Long, quận Bố Đức, có ý lập ở đây một khu vực trồng tỉa để nuôi dưỡng anh em Dòng Đồng Công và quý Cha già hưu dưỡng ở Giáo sĩ Dưỡng đường Đồng Công.
Rừng lồ ô tràn lan, anh em khai phá rất vất vả, công phu quá xá, máy cày, máy ủi chả có, toàn làm bằng cuốc xẻng. Thế mà cũng đã khai phá được 2 mẫu tây lồ ô và đã trồng được mấy ngàn gốc bí xanh. Không có nước tưới thế là thất bại, kết cục cuối năm chỉ thu được vài tấn bí chở về Thủ Đức. Tại đây cũng đã trồng được gần mẫu cam chanh, hàng năm thu hoạch để lấy tiền nuôi anh em ở đây. Tại đây đã lập được một tu viện nhỏ gồm 2 dãy nhà, một rẫy 5, 6 căn, một dãy 3, 4 căn, đó là khu vực tu viện.
Cũng tại đây đã lập được một Giáo xứ (gần một ngàn giáo dân Bắc), gồm một Nhà thờ gỗ lớn, lợp tôn do Linh mục Hilariô Maria Đỗ Tri Tâm kiến thiết, một ngôi trường trung tiểu học, một nhà hội quán. Tại đây vốn có một Linh mục coi xứ và làm đầu trong tu viện. Linh mục đầu tiên là Luca Mria Phạm Quang Thiều lên khai thác và làm Cha xứ gần một năm khai thác thì về Thủ Đức. Linh mục đầu tiên vừa làm Cha xứ vừa làm đầu tu viện là Linh mục Đỗ Tri Tâm. Linh mục Tâm đổi đi thì Linh mục Nguyễn Hiến Tân thay thế. Sau đến Linh mục Phạm Đức Thịnh; cuối cùng là Linh mục Trần Thế Hào.
Cũng tại đây, quản lý Lê An Lạc vào số Tổ phụ đầu tiên của Dòng Đồng Công đã lên ở và trồng được gần 30 mẫu cao su, làm lụng thật công phu vất vả tới 3, 4 năm; gần ngày lấy mủ thì phải bỏ về vì mất an ninh. Thế là cao su cũng thất bại ráo trọi: “Chiến tranh nguy ngập quá, đành phải bỏ mặc cho Đức Mẹ. Linh mục Hào và mấy anh em bỏ chạy về Thủ Đức hết, khoảng năm 1972. Còn sót lại thày Gioan Maria Nguyễn Lương Cửu bị tù mấy năm rồi về giúp lại xứ Châu Ninh. Sau giải phóng mấy năm cũng tìm về tới Thủ Đức.
DANH SÁCH Linh mục
Phục vụ tại Giáo xứ Châu Ninh
1/ Linh mục Luca Maria Phạm Quang Thiều
Sinh năm 1918 tại Bạch Long, Tiền Hải, Thái Bình
Thuộc Giáo xứ Bạch Long, Giáo phận Thái Bình
Học tiểu chủng viện Ninh Cường.
Học Đại chủng viện Quần Phương.
Thụ phong Linh mục năm 1948 tại Bùi Chu.
Phục vụ tại Giáo xứ Châu Ninh 1962-1963
Công trình đã thực hiện: xây dựng nhà xứ.
Năm 1963, cha chuyển sang giáo phận Xuân Lộc
Qua đời tại Giáo xứ Ngọc Lâm năm 2004
2/ Linh mục Hilariô Maria Đỗ Tri Tâm
Sinh năm 17/10/1918 tại Trung Lễ, Bùi Chu
Thuộc Giáo xứ Liên Thủy, Gp. Bùi Chu
Học tiểu chủng viện Ninh Cường năm 1933
Học ĐCV Quần Phương năm 1937
Thụ phong Linh mục ngày 4/8/1945 do Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn tại Bùi Chu
Phục vụ tại Giáo xứ Châu Ninh 1963-1964
Công trình đã thực hiện: dựng xây ngôi Nhà thờ bằng gỗ và trường học.
Năm 1993 nghỉ hưu. Qua đời ngày 17/12/2000 tại Dòng Đồng Công, Thủ Đức.
3/ Linh mục Augustinô Maria Nguyễn Hiến Tân
Sinh năm 26/3/1922 tại Cao Xá, Hưng Yên
Thuộc Giáo xứ Cao Xá, Gp Thái Bình
Học tiểu chủng viện Ninh Cường năm 1938.
Học ĐCV Quần Phương năm 1942
Thụ phong Linh mục ngày 01/6/1951 do Đức Cha Phạm Ngọc Chi tại Bùi Chu
Phục vụ tại Giáo xứ Châu Ninh 1964- 1968.
Nghỉ hưu năm 1996
Qua đời ngày 01/10/2010 tại Dòng Đồng Công
Công trình đã thực hiện: dựng nhà giáo lý, mời dòng Trinh Vương cộng tác
4/ Linh mục Philipphê Maria Phạm Đức Thịnh
Sinh năm 21/02/1920 tại Nghĩa Hưng, Nam Định
Thuộc Giáo xứ Lý Nghĩa, GP. Bùi Chu
Học tiểu chủng viện Ninh Cường
Học Đại chủng viện Quần Phương và Thánh Giuse Sài Gòn
Thụ phong Linh mục ngày 21/11/1966 tại Quy Nhơn.
Phục vụ tại Giáo xứ Châu Ninh 1968-1969.
Bị bệnh và qua đời ngày 10/09/1990 tại Dòng Đồng Công
5/ Linh mục Tôma Maria Trần Thế Hào
Sinh năm 20/03/1900 tại Hải Hậu, Nam Định
Thuộc Giáo xứ Ninh Mỹ, Giáo phận Bùi Chu
Học tiểu chủng viện Ninh Cường năm 1918
Học Đại chủng viện Trung Linh – Khoái Đồng, Nam Định năm 1922
Thụ phong Linh mục ngày 21/05/1932 do Đức Cha Trung ở Khoái Đồng.
Phục vụ tại Giáo xứ Châu Ninh 1969-1972.
Năm 1975 sang Hoa Kỳ và qua đời ngày 04/11/1984 tại Tỉnh Dòng Đồng Công Hoa Kỳ.
6/ Linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hậu
Sinh ngày: 20/04/1961
Linh mục: 24/08/1995
Quản xứ Hòa Bình (hạt Giang Sơn)
Địa chỉ: xã Hòa Thắng, Tp. BMT, tỉnh Đăk Lăk
Điện thoại: 0919.075.080
Email: jbhau61@yahoo.com.vn
Năm 1992, cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hậu, Quản xứ Long Điền, đồng thời làm quản nhiệm Giáo xứ Châu Ninh.
Năm 2000, Cha Gioan Baotixita Nguyễn Văn Hậu, chuyển đi nhận Giáo xứ mới.
7/ Linh mục Gioan Baotixita Trần Đức Châu
Sinh ngày: 02/06/1956
Linh mục: 07/01/1998
Hưu dưỡng tại Tòa Giám mục
Địa chỉ: 104 Phan Chu Trinh, Tp. BMT, tỉnh Đăk Lăk
Điện thoại: 0974 326 748
Email: gbducchau@yahoo.com
Năm 2000, Cha Gioan Baotixita Trần Đức Châu về làm Quản xứ Giáo xứ Long Điền và quản nhiệm Giáo xứ Châu Ninh.
Năm 2001, cha Gioan Baotixita Trần Đức Châu, được bổ nhiệm về làm Quản xứ. Giáo xứ Châu Ninh chính thức có vị chủ chăn hiện diện, ngày đêm dìu dắt yêu thương đoàn chiên Chúa.
8/ Linh mục Phanxicô Xaviê Nguyễn Ngọc Hoàng
Sinh ngày: 30/03/1959
Linh mục: 12/03/1998
Quản xứ Châu Ninh (hạt Phước Long)
Địa chỉ: xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước
Điện thoại: 0271.3557.164 - 0905.702.992
Email: F.X.hoangnguyen98@yahoo.com
- Tháng 7 năm 2011, cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Ngọc Hoàng, nhận bài sai về làm Quản xứ Giáo xứ Châu Ninh
- Tháng 9/2019, Cha PX. Nguyễn Ngọc Hoàng chuyển về Quản xứ Nam Thiên – hạt Buôn Hô.
9/ Linh mục Phêrô-Khoa Phạm Văn Hùng, CMR
Sinh ngày: 07/08/1963
Linh mục: 11/09/2008
Quản xứ Giáo xứ Châu Ninh (hạt Phước Long)
Địa chỉ: xã Thiện Hưng, huyện Bù Đốp, tỉnh Bình Phước
Điện thoại: 0369 386 432
Email: pkmhung@gmail.com
- Tháng 9/2019, Cha Phêrô-Khoa Phạm Văn Hùng, CMR được bổ nhiệm Quản xứ Châu Ninh - hạt Phước Long.