TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

Chúa Nhật XVIII Thường Niên -Năm C

“Những của ngươi tích trữ sẽ để lại cho ai?” (Lc 12, 13-21)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Lời Chúa THỨ HAI TUẦN 18 THƯỜNG NIÊN

Thứ năm - 31/07/2025 14:35 |   39
Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!” (Mt 14,13-21)

04/08/2025
Thứ hai tuần 18 THƯỜNG NIÊN
Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục

t2 t19 TN

Mt 14,13-21


góp phần nhỏ bé
Đức Giê-su bảo: “Họ không cần phải đi đâu cả, chính anh em hãy cho họ ăn.” Các ông đáp: “Ở đây, chúng con chỉ có vỏn vẹn năm cái bánh và hai con cá!”
(Mt 14,13-21)

Suy niệm: Các môn đệ ngạc nhiên vì từ năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa đã làm phép lạ cho đám đông dân chúng hơn 5.000 người ăn no nê mà vẫn còn thu lại được 12 giỏ đầy những mẩu bánh còn dư. Thực ra, Chúa có thể làm phép lạ mà không cần đến sự đóng góp ít ỏi đó. Điều Chúa muốn nói là Ngài vì “chạnh lòng thương” dân chúng nên đã dùng quyền năng làm phép lạ lớn lao từ sự đóng góp nhỏ bé. Giờ đây Ngài muốn chúng ta, với tấm lòng yêu thương và chân thành, góp phần nhỏ bé của mình để Chúa tiếp tục thực thi những phép lạ lớn lao cho Nước Chúa được thể hiện trên trần gian này.

Mời Bạn: Chúa Giê-su chạnh lòng thương dân chúng thế nào thì Ngài cũng muốn bạn chạnh lòng thương những người đang sống bên bạn như vậy. Thánh Tê-rê-sa Hài Đồng chia sẻ: “Tôi không thể làm những việc lớn, nhưng tôi có thể làm những việc nhỏ với tình yêu lớn.” Bạn không cần lo lắng vì mình không thể làm những việc to tát, lớn lao. Chúa muốn bạn hãy bắt đầu thực thi tình yêu thương bác ái bằng những việc nhỏ bé cụ thể. Đó là những tâm tình cảm thông, sự chia sẻ quảng đại, những lời nói tích cực chân thành đem lại niềm vui và hy vọng cho những người bé mọn sống quanh bạn.

Sống Lời Chúa: Luôn quan tâm để sẵn sàng phục vụ những ai đang cần sự trợ giúp về vật chất cũng như tinh thần.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, con tạ ơn Chúa đã ban Thánh Thể cho con, xin cho con biết góp phần nhỏ bé của con để Chúa làm nhiều phép lạ cho tha nhân.

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thứ hai tuần 18 THƯỜNG NIÊN

Ca nhập lễ

Ôi Thiên Chúa, xin Chúa vui lòng giải thoát tôi, Lạy Chúa, xin Ngài hãy mau mau giúp đỡ tôi. Chúa là Đấng giúp đỡ và giải thoát tôi; Ôi lạy Chúa, xin Ngài chớ nên chậm trễ.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, chúng con tự hào vì được Chúa dựng nên và hướng dẫn; xin Chúa hằng dủ thương nâng đỡ chúng con, cùng ban ơn đổi mới và gìn giữ mọi loài Chúa dựng nên cho chúng con được hưởng nhờ. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: (Năm I) Ds 11, 4b-15

“Một mình tôi không mang nổi dân này”.

Trích sách Dân Số.

Trong những ngày ấy, con cái Israel nói rằng: “Ai sẽ cho chúng tôi thịt ăn? Chúng tôi nhớ lại hồi còn ở Ai-cập, cá thì được ăn không, rồi có dưa chuột, dưa gang, rau cải, hành tỏi. Giờ thì chúng tôi suy nhược, thiếu hết mọi thứ: quay đi ngó lại chỉ thấy manna”.

Manna hình giống hạt ngò, sắc giống hạt châu. Dân chúng đi rảo quanh mà hốt, rồi cho vào cối mà xay hoặc lấy chày mà giã; sau cùng, bỏ vào nồi nấu thành bánh. Mùi vị nó như bánh chiên dầu. Cứ thường đêm, khi sương sa xuống trại thì manna cũng rơi xuống.

Môsê nghe dân chúng than khóc, nhà nào cũng đứng ở cửa lều. Chúa bừng bừng nổi giận. Môsê rất đỗi bực mình. Ông thưa cùng Chúa rằng: “Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa? Sao con không được nghĩa với Chúa? Sao Chúa bắt con phải mang cả dân này? Con đâu có cưu mang cả đám dân này, con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: “Hãy ẵm nó vào lòng, như vú nuôi ẵm trẻ thơ, hãy mang nó vào đất Ta đã thề hứa ban cho tổ tiên nó?” Con biết tìm đâu ra thịt để cho cả đám dân này? Họ kêu khóc với con rằng: “Hãy cho chúng tôi ăn thịt”. Một mình con không mang nổi dân này vì là gánh nặng nề đối với con. Nếu Chúa muốn xử với con như thế, thì xin giết con đi, và cho con được nghĩa với Chúa, kẻo con phải khốn cực dường này”.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 80, 12-13. 14-15. 16-17

Ðáp: Hãy reo mừng Thiên Chúa là Ðấng phù trợ chúng ta

Xướng: Dân tộc của Ta chẳng có nghe Ta; Israel đã không vâng lời Ta răn bảo. Bởi thế nên Ta để mặc cho chúng cứng lòng, để chúng sinh hoạt tuỳ theo sở thích. 

Xướng: Phải chi dân tộc của Ta biết nghe lời Ta, Israel biết theo đường lối của Ta mà ăn ở, thì lập tức Ta sẽ triệt hạ kẻ thù của chúng, và để đập tan quân địch của chúng, Ta sẽ trở tay. 

Xướng: Quân thù của chúng sẽ phải xưng tụng chúng, và vận mạng của chúng sẽ bền vững muôn đời. Ta sẽ lấy tinh hoa lúa mì nuôi dưỡng chúng, và cho chúng ăn no mật từ hốc đá chảy ra.

Bài Ðọc I: (Năm II) Gr 28, 1-17

“Hỡi Hanania, Chúa không hề sai anh, anh đã làm cho dân tin tưởng sự giả dối”.

Trích sách Tiên tri Giêrêmia.

Năm ấy, vào đầu triều đại Sêđêcia, vua Giuđa, tháng năm, năm thứ tư, có tiên tri Hanania, con của Azur, quê ở Gabaon, nói với Giêrêmia trong Ðền thờ Chúa, trước mặt các tư tế và toàn dân rằng: “Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Israel phán thế này: “Ta đã bỏ ách của vua Babylon. Còn hai năm nữa thì tất cả những đồ dùng trong Ðền thờ Chúa, mà Nabucôđônosor, vua Babylon, đã đoạt đem qua Babylon, Ta sẽ đem về nơi này. Giêcônia, con Gioakim, vua Giuđa, cùng tất cả những người Giuđa bị lưu đày đi Babylon, Ta cũng sẽ đem về nơi này: vì Ta bỏ ách vua Babylon. Chúa phán như thế”.

Bấy giờ tiên tri Giêrêmia trả lời tiên tri Hanania trước mặt các tư tế và toàn dân đang đứng trong Ðền thờ Chúa. Tiên tri Giêrêmia nói: “Ðược, Chúa cứ làm như vậy. Chúa cứ thực hiện những lời anh đã nói tiên tri. Ngài cứ đem các đồ dùng trong Ðền thờ Chúa và mọi người lưu đày từ Babylon về nơi này. Nhưng anh hãy nghe lời tôi nói cho anh và toàn dân nghe: Các tiên tri trước anh và tôi, đã nói tiên tri từ lâu, cho nhiều xứ và vương quốc vĩ đại biết có chiến tranh, cơ cực và đói khát. Nhưng tiên tri nào nói tiên tri cho biết có hoà bình, khi ứng nghiệm lời mình nói, thì mới được nhận là tiên tri thật Chúa sai đến”.

Bấy giờ tiên tri Hanania giật cái ách nơi cổ của tiên tri Giêrêmia mà bẻ đi. Rồi Hanania nói trước mặt toàn dân rằng: “Chúa phán thế này: Hai năm nữa, Ta sẽ bẻ ách của Nabucôđô-nosor, vua Babylon, nơi cổ mọi dân tộc như thế đó”. Và tiên tri Giêrêmia bỏ đi. Nhưng sau khi tiên tri Hanania giật cái ách nơi cổ tiên tri Giêrêmia mà bẻ đi, thì có lời Thiên Chúa phán cùng Giêrêmia rằng: “Hãy đi nói với Hanania rằng: Chúa phán thế này: “Ngươi đã bẻ ách gỗ, thì Ta sẽ lấy ách sắt thay vào”. Vì Chúa các đạo binh, Thiên Chúa Israel phán: “Ta đã đặt ách sắt vào cổ mọi dân tộc này, để chúng làm tôi Nabucô-đônosor, vua Babylon. Chúng sẽ làm tôi vua ấy, và cả đến thú vật ngoài đồng, Ta cũng nạp cho vua ấy”.

Tiên tri Giêrêmia liền nói với tiên tri Hanania rằng: “Hỡi Hanania, hãy nghe đây: Chúa không hề sai anh. Anh đã làm cho dân này tin tưởng sự giả dối. Vì vậy, Chúa phán thế này: ‘Ðây Ta sẽ cất ngươi khỏi mặt đất: năm nay ngươi sẽ chết, vì ngươi đã nói chống lại Chúa’ “. Và tiên tri Hanania đã chết trong tháng bảy năm ấy.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 118, 29. 43. 79. 80. 95. 102

Ðáp: Lạy Chúa, xin dạy bảo con những thánh chỉ của Chúa (c. 68b).

Xướng: Xin đưa con xa cách con đường gian dối, và rộng tay ban luật pháp của Ngài cho con.

Xướng: Xin Chúa đừng rút lời chân lý khỏi miệng con, vì con trông cậy vào sắc dụ của Ngài.

Xướng: Tâm hồn chúng như mỡ đặc, vô cảm giác; phần con biết sướng vui do luật pháp của Ngài.

Xướng: Nguyện cho lòng con trọn vẹn hướng về thánh chỉ, để con không bị xấu hổ thẹn thùng.

Xướng: Những tên ác nhân đợi chờ để thủ tiêu con, nhưng con vẫn quan tâm đến lời Ngài nghiêm huấn.

Xướng: Con không bước trật đường thánh dụ của Ngài, bởi vì chính Ngài dạy bảo con.

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! – Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia.

Phúc Âm: Mt 14, 13-21

Mọi người đều ăn no”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu nghe tin Gioan Tẩy Giả đã chết, thì Người rời bỏ nơi đó xuống thuyền đi đến nơi hoang địa vắng vẻ. Dân chúng nghe biết, thì từ các thành phố đi bộ theo Người. Ra khỏi thuyền, Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ và chữa những người bệnh tật trong họ.

Chiều tới, các môn đệ đến gần thưa Người rằng: “Ðây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn”.

Nhưng Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Họ chẳng cần phải đi, các con hãy cho họ ăn”. Các ông thưa lại rằng: “Ở đây chúng con chỉ có năm chiếc bánh và hai con cá”. Người bảo các ông rằng: “Hãy đem lại cho Thầy”.

Khi Người đã truyền cho dân chúng ngồi trên cỏ, Người cầm lấy năm chiếc bánh và hai con cá, ngước mắt lên trời, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ, các ông này phân phát cho dân chúng. Mọi người đều ăn no. Và người ta thu lượm được mười hai thúng đầy những miếng bánh vụn. Số người ăn là năm ngàn người đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.

Ðó là lời Chúa.

(Trong năm A, khi bài Tin Mừng trên được đọc trong lễ Chúa Nhật 18, thì bài Tin Mừng sau đây sẽ được đọc trong thánh lễ hôm nay).

Phúc Âm: Mt 14, 22-36

“Xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

Khi dân chúng đã ăn no, lập tức Chúa Giêsu giục môn đệ trở xuống thuyền mà qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi cầu nguyện một mình. Ðến chiều, Người vẫn ở đó một mình. Còn thuyền thì đã ra giữa biển, bị sóng đánh chập chờn vì ngược gió.

Canh tư đêm tối, Người đi trên mặt biển mà đến với các ông. Thấy Người đi trên mặt biển, các ông hoảng hồn mà nói rằng: “Ma kìa” và các ông sợ hãi kêu la lớn tiếng. Lập tức, Chúa Giêsu nói với các ông rằng: “Hãy yên tâm. Thầy đây, đừng sợ”. Phêrô thưa lại rằng: “Lạy Thầy, nếu quả là Thầy, thì xin truyền cho con đi trên mặt nước mà đến cùng Thầy”. Chúa phán: “Hãy đến”. Phêrô xuống khỏi thuyền bước đi trên mặt nước mà đến cùng Chúa Giêsu. Khi thấy gió mạnh, ông sợ hãi và sắp chìm xuống nên la lên rằng: “Lạy Thầy, xin cứu con”. Lập tức, Chúa Giêsu giơ tay nắm lấy ông mà nói: “Người hèn tin, tại sao lại nghi ngờ?” Khi cả hai đã lên thuyền thì gió liền yên lặng. Những người ở trong thuyền đến lạy Người mà rằng: “Thật, Thầy là Con Thiên Chúa!”

Khi đã sang qua biển hồ, các ngài lên bộ và ghé vào Ghênêsarét. Nhận ra Ngài, dân địa phương liền loan tin đi khắp cả vùng xung quanh, và người ta đem đến cho Ngài hết mọi kẻ ốm đau. Họ nài xin Ngài cho họ rờ đến tua áo choàng của Ngài thôi, và ai đã rờ đến thì đều được chữa lành.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, xin thánh hóa và chấp nhận của lễ này là biểu hiện lễ tế thiêng liêng của Giáo Hội; xin Chúa cũng thương tình biến đổi chúng con thành của lễ muôn đời đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Lạy Chúa, xin ban cho chúng tôi bánh bởi trời, có đủ mọi mùi thơm ngon và mọi hương vị ngọt ngào.

Hoặc đọc:

Chúa phán: Chính Ta là bánh ban sự sống. Ai đến với Ta sẽ không hề đói, ai tin vào Ta sẽ không hề khát bao giờ.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, chúa không ngừng ban ơn phù trợ và lấy bánh bởi trời bồi dưỡng chúng con; xin tiếp tục chở che nâng đỡ để chúng con xứng đáng hưởng nhờ ơn cứu chuộc muôn đời. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

CHÚA DƯỠNG NUÔI DÂN CHÚA (Mt 14, 13-21)
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Đứng trước cảnh dân Do Thái mệt mỏi chán trường trên hành trình thoát khỏi ách nô lệ Ai- cập. Hồi tưởng lại củ hành củ tỏi, mớ cải mở dưa. Mơ về thân nô lệ. Mô-sê thưa cùng Chúa: “Sao Chúa làm khổ tôi tớ Chúa?… Con đâu có sinh ra nó, mà Chúa bảo con: “Hãy ẵm nó vào lòng” (Ds 11,11-12 ). Ông thoái thác trách nhiệm đến nỗi kêu cầu Chúa: “xin giết con đi” (Ds 11,15).

Một cảnh tương tự xảy ra thời Chúa Giê-su. Người thấy dân chúng đông đảo, thì thương xót họ liền bảo các môn đệ: “Các con hãy cho họ ăn”(Mt 14,16). Các ông thưa: “Đây là nơi hoang địa, mà giờ đã chiều rồi: xin Thầy giải tán dân chúng, để họ vào các làng mạc mà mua thức ăn” (Mt 14,15).

Chúa là Mục Tử Nhân Lành đầy lòng từ bi và thương xót, luôn ước muốn dưỡng nuôi dân Chúa. Đám đông không chạnh lòng thương Chúa, nhưng Chúa chạnh lòng thương họ. Thời Cựu Ước, Chúa đã lấy manna nuôi sống dân Chúa. Thời Tân Ước Người đã mời gọi các môn đệ cộng tác với Người vào công trình cứu chuộc và yêu thương. Ngày nay Người vẫn tiếp tục mời gọi chúng ta.

Đối diện với nhu cầu của biết bao người anh em nghèo đói, thiếu thốn chung quanh ta và rộng lớn hơn là trên thế giới, chúng ta có thể nói: không thể nào đương đầu với những tình trạng như vậy, và thế là sự co cụm, thiếu tình liên đới, nhất là tuyệt vọng bắt đầu xâm chiếm tâm hồn chúng ta. Một lần nữa sứ điệp Lời Chúa nói với chúng ta rằng: “Các con hãy cho họ ăn” (Mt 14, 16).

Chúa muốn loại bỏ sự vô trách nhiệm, phủi tay nơi con người. Ước gì mỗi người chúng ta hãy cố gắng thực hành lời Chúa dạy, cùng nhau xây dựng một xã hội văn minh tình thương như lòng Chúa mong ước. Amen.

 

PHÉP LẠ HÓA BÁNH RA NHIỀU (Mt 14,13-21)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

1. Tìm hiểu Tin Mừng, chúng ta thấy Đức Giê-su có mọi đức tính  đáng ca tụng: khiêm nhường, công bình, can đảm, tế nhị… nhưng nổi bật nhất là lòng thương xót. Đức Giê-su đến trần gian để thực hiện chương trình cứu rỗi. Tình thương của Người được thể hiện bằng cách giảng dạy và cứu con người khỏi bệnh hoạn tật nguyền, cũng như ban bánh nuôi sống họ.

Còn chúng ta, đối với anh em chung quanh, ta có thái độ nào? Yêu thương giúp đỡ hay lãnh đạm dửng dưng? Cách đối xứ  của ta đối với tha nhân sẽ là bằng chứng cho thấy chúng ta có phải là Kitô hữu đích thực hay chỉ là giả hiệu.

2. Dân chúng say mê nghe Chúa giảng, quên ăn quên uống, nhưng dù sao dạ dầy của họ cũng phải nổi loạn khi không được cung cấp thức ăn thức uống cho nó. Bóng chiều đang xuống dần mà dân còn đang ở nơi hoang vắng xa làng mạc thành thị, họ ra về, đường còn xa sợ có người đói lả dọc đường. Chúa Giê-su muốn các môn đệ cho họ ăn. Nhưng trong hoang địa này lấy đâu ra lương thực cho ngần ấy người ăn. Ở đây chỉ có thằng nhỏ có 5 chiếc bánh và 2 con cá. Bằng ấy thực phẩm thì nhằm nhò gì với một biển ngươi như vậy! Nhưng Chúa Giê-su cứ bảo họ ngồi xuống thảm cỏ để cho Người làm việc. Thánh Mát-thêu kể: “Người cầm lấy 5 chiếc bánh và 2 con cá, ngước mắt lên trời, dâng lời chúc tụng, bẻ ra, trao cho các môn đệ, và môn đệ trao cho đám đông. Ai nấy đều ăn và được no nê. Những mẩu bánh còn thừa, người ta thu được 12 giỏ đầy”.

3. Đọc Tin Mừng chúng ta thấy rất nhiều lần Chúa Giê-su chạnh lòng thương khi gần gũi dân chúng của Người”. Mặc dầu họ không phải là bà con, bạn hữu hay những người quen biết, nhưng thấy họ thì cảm xúc đầu tiên của Người là thương, và vì thương nên Người chữa bệnh, giảng dạy và cho họ ăn. Xem như mọi người  đều là đối tượng cho tình thương của Chúa.

Tại sao Chúa lại yêu thương đến thế?

Khi muốn làm cho người ta hiểu tại sao Chúa lại yêu con người như thế, thì các nhà tư tưởng của Ai cập xưa đã viết nên một câu chuyện thật đẹp như sau: Thiên Chúa xuống tận bờ sông Ni-lô, lấy tay nhào bùn và đắp nên hình người. Nhưng thật không may cho Chúa là khi Người thọc tay vào đất thì đúng vào một cái hang của một con cua. Tay của Người bị cua kẹp chảy máu ra. Các thiên thần sợ quá muốn băng bó cho Chúa nhưng Người không cho mà nói: ”Cứ để vậy! Cứ để cho máu của Ta hòa với máu của con người để cho con người biết Ta yêu nó như thế nào”. Thiên Chúa yêu con người là vì Thiên Chúa tìm thấy sự sống của chính mình trong con người (Mỗi ngày một tin vui).

4. Chúa Giê-su ra lệnh cho các Tông đồ: Họ không cần phải đi đâu cả, chính các con hãy liệu cho họ ăn”. Chúa không để cho các Tông đồ phải tự sức mình mà lo, Ngài chỉ cần các ông cộng tác và đóng góp những gì có thể, dù chỉ là một phần nhỏ so với nhu cầu bao la. Chỉ với 5 chiếc bánh và 2 con cá, Chúa đã thực hiện phép lạ nuôi sống 5000 đàn ông, không kể đàn bà và con trẻ.

5. Thánh Au-gút-ti-nô viết: “Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa không cần con người, nhưng để cứu độ con người, Thiên Chúa cần con người cộng tác”.

Trong sứ điệp Lời Chúa hôm nay, Chúa Giê-su đòi hỏi các môn đệ cộng tác với Người trong việc phục vụ tha nhân khi nói: Chính anh em cho họ ăn”. Với quyền năng vô biên, Chúa Giê-su có thể tự mình làm phép lạ nuôi sống mọi người chứ không cần sự giúp đỡ của các môn đệ. Tuy nhiên, Chúa Giê-su vẫn mời gọi các ông cộng tác, để từ đó, Người dọn ra một bữa ăn no nê cho dân chúng.

Lời Chúa Giê-su nói với các môn đệ ngày xưa: Chính anh em hãy cho họ ăn” cũng chính là lời Người mời gọi chúng ta  dấn thân phục vụ trong thế giới ngày nay. Tôi có gì để cho tha nhân? Thưa, đó là tất cả những gì tôi đang có: sức khỏe, tài năng, những ơn Chúa ban… Chúa muốn tôi sử dụng những hồng ân đó để phục vụ và chăm sóc mọi người.

6. Truyện: Lời cầu xin của người đàn bà.

Truyện kể một người đàn bà nghèo về vật chất, nhưng lại giàu về lòng tin. Người chủ căn phòng, nơi bà thuê là một người đàn ông giàu có, nhưng keo kiệt và vô đạo, ông thường đem lòng tin của người đàn bà làm trò cười, đùa giỡn.

Một hôm, người đàn bà cầu nguyện lớn tiếng với Chúa rằng hiện trong nhà không còn lấy một hột gạo. Để cho người đàn bà một bài học về sự mê tín dị đoan, kẻ vô đạo liền lấy một ổ bánh mì, rón rén đặt trước cửa người đàn bà bấm chuông rồi chạy vội về phòng mình.

Người đàn bà mở cửa phòng lấy ổ bánh mì, trở lại phòng và cầu nguyện tạ ơn: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa vì con biết rằng lúc nào Chúa cũng nhận lời con cầu xin”.

Người đàn ông rất tâm đắc khi nghe một lời cầu nguyện như thế. Ông bèn đến gõ cửa phòng người đàn bà và nói vọng vào: “Hỡi người đàn bà ngu xuẩn kia, bà tưởng rằng Thiên Chúa đã nhận lời cầu xin của bà ư? Chính tôi là người đã mang ổ bánh đặt trước cửa phòng bà đó”.

Làm như thể không để ý đến lời nói của ông ta, người đàn bà nghèo lại tiếp tục cầu nguyện: “Lạy Chúa, chúc tụng Chúa, vì Chúa luôn trợ giúp con trong lúc túng ngặt; Chúa dùng ngay cả một tên quỷ để đáp lại lời cầu xin của con”.

BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thánh Gioan Maria Vianney, linh mục

Ca nhập lễ

Thánh Thần Chúa ngự trên tôi, vì thế ngài đã xức dầu cho tôi, sai tôi đi rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó, chữa lành những người đau khổ trong tâm hồn.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, Chúa đã làm cho thánh linh mục Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê nên một tấm gương tuyệt vời về lòng tận tụy hy sinh của một người mục tử. Vì lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, xin cho chúng con hằng noi theo lòng bác ái của người mà cố gắng đem nhiều anh em về với Ðức Kitô để muôn đời cùng nhau hưởng nguồn vinh phúc. Chúng con cầu xin…

Bài đọc

Phụng vụ Lời Chúa – (theo ngày trong tuần)

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng vĩnh cửu, xin đổ tràn Thần Khí xuống của lễ chúng con dâng tiến Chúa đây, và nhờ lời thánh Gio-an Ma-ri-a Vi-a-nê chuyển cầu, xin cho chúng con được xác hồn trong trắng để cử hành mầu nhiệm thánh này. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Này là đầy tớ trung thành và khôn ngoan, mà Chúa đã đặt lên coi sóc gia nhân mình, để đúng giờ phân phát lúa thóc cho họ.

Lời nguyện hiệp lễ

Phúc cho người đầy tớ, khi Chúa đến, thấy nó đang tỉnh thức: Thầy bảo thật các con, Chúa sẽ đặt kẻ ấy lên coi sóc tất cả gia sản của Người.

Suy niệm

Thánh Gioan Maria Vianey và toà giải tội
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Đức Giáo Hoàng Piô XII viết về cha thánh Gioan Maria Vianney một câu thật ngắn gọn: “Một chuyên viên thành thạo nhất về các tội nhân”.

Công việc mục vụ ngồi tòa, giải tội là sứ vụ đức ái mục tử đẹp nhất trong cuộc đời của cha thánh, là hoạt động sáng chói nhất trong nhiệm vụ của một mục tử.

Thời trẻ Gioan có một tâm nguyện: “Nếu một ngày nào đó tôi được làm Linh mục, tôi sẽ đưa nhiều linh hồn về cho Chúa”. Khi làm Linh mục, ngài đã thực hiện tâm nguyện ấy. Tòa giải tội là nơi ngài đưa các linh hồn về cho Chúa nhiều nhất. Tòa giải tội đã thu hút biết bao hối nhân tìm đến với xứ Ars. Tòa giải tội là phép lạ lớn nhất trong cuộc đời của thánh nhân.

1. Thời gian ở tòa giải tội

Một phần lớn cuộc đời Linh mục của cha Vianney trôi qua trong tòa giải tội. Trong 30 năm dài, một làn sóng người hành hương không ngừng đổ về ngôi nhà thờ cũ kỷ của họ Ars. Mùa đông rét buốt, số người đến đây không ít hơn các mùa ấm áp.

Từ tháng 11 đến tháng 3, cha sở phải ngồi tòa trung bình không dưới 12-13 giờ mỗi ngày. Người ta đứng thành hàng dài, từ trong nhà thờ ra bên ngoài, nối đuôi nhau không ngớt chờ đợi tới phiên mình.

Trong năm 1845, có ngày số người hành hương đến Ars lên tới ba hay bốn trăm. Tại nhà ga lớn nhất của Lyon, người ta mở một văn phòng hoạt động 24/24 để bán vé tàu cho khách đi Ars, vé có giá trị tám ngày, đó là thời gian trung bình người ta phải đợi cho đến phiên mình vào tòa xưng tội với vị Linh mục thánh thiện nổi tiếng.

Vào mười năm cuối đời, Thánh Vianney phải giải tội từ mười sáu đến mười tám tiếng một ngày! Còn khách hành hương nói chung phải đợi ba mươi, năm mươi, bảy mươi giờ trước khi được lãnh nhận bí tích hòa giải. Cũng có khi người ta mua lại chỗ đứng của người nghèo. Ai muốn đi ra ngoài phải thỏa thuận vời người bên cạnh hoặc với người bảo vệ nhà thờ. Đêm thì sao? Khi cửa nhà thờ đóng lại, người ta đánh số chỗ của mình. (x.Linh mục, người loan báo Tin Mừng, Lm Nguyễn Hồng Giáo, OFM).

2. Ai đến với tòa giải tội?

Họ gồm đủ mọi thành phần và lứa tuổi: có giáo dân, tu sĩ, linh mục và đôi khi cả giám mục nữa; họ là quý tộc và bình dân, kẻ vô chủ nghĩa và người học thức, người thành thị và người thôn quê,… Có khi nguyên một gia đình ngồi trên xe ngựa đến từ những tỉnh xa xôi. Từ những vùng lân cận, người ta tuôn về đây bằng đôi chân hay bằng xe, theo đường bộ hay đường thủy. Năm cuối cùng của cuộc đời cha Vianney (1858-1859), số khách hành hương lên tới tám mươi ngàn, chỉ tính riêng số người dùng các phương tiện chuyên chở công cộng; còn tính chung có lẽ là khoảng một trăm ngàn đến một trăm hai mươi ngàn.

Đám đông này rất trật tự và nghiêm trang. Họ đến là để nhìn một vị thánh, để xưng tội, để cầu nguyện hay để hoàn thành một lời khấn với thánh nữ Philomêna. Có những người vào làng Ars như vào một đền thánh; vừa nhìn thấy tháp chuông nhà thờ, họ liền cất nón mũ xuống và làm dấu thánh giá. Một nhân chứng kể lại quang cảnh họ nhìn thấy vào tháng ba năm 1859: đông đảo những người ngoài họ Ars đứng trong nghĩa trang cũ và đến tận trong những con đường nhỏ kế cận chờ đến phiên vào tòa giải tội.

Buổi sáng vào khoảng chín giờ, Cha Vianney dành một số thời gian cho các tu sĩ và linh mục. Ngài giải tội cho họ ở một tòa đặt sau bàn thờ chính. Có lần Đức Giám mục địa phận nhà cũng ngồi chờ phiên mình. Cha giải tội cũng dành một số ngoại lệ cho giáo dân con chiên cha, người bệnh, người tản tật và những hối nhân không thể chờ đợi. Đối với trường hợp cuối cùng này, ngài thường dùng ơn “nhìn thấy trong tâm hồn” để nhận ra từ trong dòng người chờ đợi, rồi ưu tiên cho họ.(sđd, trang 62-63).

3. Cha Vianney khuyên bảo các hối nhân như thế nào?

Nói chung, ngài mạnh mẽ thẳng thắn, nhân từ nhưng không yếu đuối. Ngài biết cần phải “đánh” điểm nào cho trúng đích. Đọc một số lời khuyên còn ghi lại, tôi thấy ngài thường ngắn gọn, đầy tâm tình chứ không máy móc lạnh lùng.

Để lay tỉnh những “đại tội nhân”, khá nhiều khi ngài tung ra một câu đanh thép: “này con, con bị luận phạt đời đời”. Phát ra từ môi miệng một vị thánh mà người ta tin là ngài đọc được tương lai, câu đó giống như một lời phán quyết khủng khiếp. Nhưng thật ra ngài chỉ muốn nói: “nếu con không xa lánh dịp tội ấy, nếu con cứ duy trì cái thói quen tội lỗi ấy, nếu con không nghe theo lời khuyên dạy thì con sẽ bị luận phạt”.

Đối với những người đạo đức, ngài không cần nhiều lời. Nhưng ngay cả với trường hợp này, vẫn là những mũi tên nóng bỏng đâm thấu tận con tim: “xin Đức Cha yêu thương các Linh mục của ngài!”. Đó là lời duy nhất ngài nói với Đức cha De Langalerie, Giám mục địa phận Belly đang quỳ gối trước mặt ngài. Một cộng sự viên gần gũi của ngài xưng thú: “con đã lười biếng làm điều này nhưng tận đáy lòng, con vẫn thiện chí”, cha giải tội đáp lại duy nhất một câu “Ồ! thiện chí, thiện chí … hỏa ngục cũng lót toàn thiện chí”. Linh mục Monnin kể: “tôi đã xưng tội với ngài hai lần. Lần nào cũng thế, sau mỗi tội tôi xưng ra dù là tội nhẹ nhất, ngài đều nói: ‘đáng tiếc quá’. Từ một người khác, đó có thể là một cách nói thông thường, nhưng từ môi miệng của Cha Sở họ Ars, Linh mục Monnin coi như là tiếng kêu của lòng tin, lòng thương xót và sự ghê tởm đối với tội lỗi; ngài thêm: “Nhất là giọng nói đầy âu yếm đã đánh động tôi” (sđd, trang 64).

4. Cha Vianney yêu thương tội nhân

Cha Vianney ghê tởm tội lỗi bao nhiêu thì yêu mến người tội lỗi bấy nhiêu. Ngài có một lòng cảm thương vô bờ đối với hối nhân. Tình yêu ấy được biểu lộ qua những nhân đức sau đây.

a. Cầu nguyện cho tội nhân.

Xen lẫn với kinh nguyện hằng ngày, ngài thường khóc lóc mà thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa không muốn kẻ có tội phải chết… Những người có tội thật đáng thương. Ước gì con có thể thú tội thay cho họ”. Một người thân tín nói với ngài: “Cha cầu nguyện cho họ ít đi một tí được không? Thấy cha vất vả đau khổ quá!. Ngài trả lời: “Biết sao được. Cha đã hứa cầu nguyện cho họ, cha không thể bỏ…”. Lần khác ngài tâm sự: “Tôi chỉ thực sự là tôi khi tôi cầu nguyện cho những người tội lỗi”.

b. Đền tội thay cho họ.

Ngài ăn chay hãm mình để đền bù tội lỗi và mong cho tội nhân hối cải. Trong những năm cuối đời, ngài thường ra việc đền tội nhẹ cho hối nhân. Ngài nói: “Tôi ra việc đền tội nhẹ cho họ, phần đền tội còn lại, tôi sẽ làm thay”. Và ngài làm thay bằng chính sự khổ chế của mình. Tất nhiên, không phải lúc nào cũng vậy. Đối với những lỗi nặng mà cứ tái phạm mãi, ngài bắt hối nhân phải làm những việc đền tội nặng, để họ chứng tỏ sự chân thành và quyết tâm sửa đổi, hầu đem lại lợi ích cho chính họ. Cha Vianney nhiều khi còn khóc trong tòa giải tội nữa. Ngài khóc vì người ta xúc phạm tới Chúa, ngài cũng khóc vì thương các linh hồn… Chính sự thánh thiện của ngài mang lại cho lời khuyên răn và nước mắt của ngài có sức mạnh và hiệu lực. Có người hỏi: “sao cha khóc thế?” ngài đáp ngắn gọn: “tôi khóc vì các ông các bà không khóc cho đủ”.

c. Yêu thương tội nhân

Đối với những tội nhân cứng lòng, ngài tìm hết cách giúp họ thống hối như gặp gỡ, khuyên nhủ, khi nặng khi nhẹ, và ngay cả bằng nước mắt. Nước mắt và Thánh giá, nhờ ngài, có thể làm cho một trái tim chai đá trở thành trái tim thịt mềm. Có người lúc trước đã trả lời thẳng thừng: “Tôi không muốn xưng tội”, hoặc: “Tôi không đến đây để làm cái chuyện đạo đức của mấy bà”. Mặc kệ. Cuối cùng tất cả đều quỳ xuống dưới chân ngài và xưng thú. Chúa đã ban cho ngài một trực giác lạ lùng để nhận ra giữa đám đông hoặc giữa những người đi qua, ai là kẻ cần được đưa về với Chúa nhất để giúp họ, trước sự ngạc nhiên của chính họ. Do đó mà khi có người buột miệng hỏi: “Mỗi năm cha bắt được bao nhiêu cá lớn?”, ngài trả lời ngay, không lưỡng lự: “Hơn 700”. Không nhớ con số sao được đối với những con cá như thế!

d. Luôn nhẫn nại

Mặc dù vất vả ngồi tòa và có những chuyện dễ làm người ta bực mình, nhưng ngài thì không. Ngược lại, ngài tỏ ra đặc biệt nhẫn nại. Đây là một trong những đức tính nổi bật nhất nơi ngài. Một linh mục đã nhận xét : Tôi đã từng quan sát kỹ xem ngài có tỏ ra bất nhẫn bực tức lúc nào không, mà không thấy. Đem chuyện này hỏi ngài thì được ngài trả lời: “Phải nhẫn nại mới có thể cho cái người ta cần chứ! Bất nhẫn thì được cái gì?” Ngài cũng nói với một cha bạn: “Hãy học tập sự nhẫn nại của Chúa”.

e. Hiền hòa, kính trọng hối nhân.

Vào thời kỳ cao điểm, bình quân mỗi ngày có từ 300 đến 400 người xếp hàng xưng tội. Công việc vất vả và liên tục trong 30 năm này đã làm cho ngài kiệt lực, đến nỗi có lần ngài tự thú: “Khi tôi rời tòa giải tội, tôi phải lấy tay sờ vào đùi xem nó có còn ở đấy không. Đôi khi ra khỏi nhà thờ, tôi phải vịn vào tường mà đi cho khỏi ngã. Đầu tôi nặng trĩu. Thực sự tôi đã không biết mình chống lại như thế nào”.

Suốt ngày bị công việc mục vụ dồn ép như thế, ngồi nghe hối nhân hàng giờ như thế mà ngài vẫn không mất kiên nhẫn, không la lối nạt nộ ai bao giờ, thật là lạ lùng.

Ngài luôn hiền hòa, tế nhị, kính trọng đối với hối nhân, bất kể là ai. Có Linh mục sa ngã nặng đến xưng tội vẫn được ngài yêu mến, kính trọng. Lời khuyên dành cho Đức Giám Mục Giáo Phận đến xưng tội với ngài là : xin Đức cha hãy yêu thương các Linh mục của Đức cha.

Dù có đông người xếp hàng bên tòa giải tội, ngài vẫn dành cho mỗi người một thời gian cần thiết, bởi người nào cũng có vấn đề riêng của mình. Ngài không khuyên dài, nhiều khi chỉ một lời thôi, nhưng là lời làm cho hối nhân phải động tâm suy nghĩ, một lời tác động mạnh trên họ có khi cả đời. Chính sự thánh thiện và yêu thương đem lại sức mạnh và hiệu năng cho lời đó. (x. Thánh Gioan Maria Vianney, bổn mạng các Linh mục, Lm Micae Trần Đình Quảng; simonhoadalat.com).

5. Theo gương cha thánh, Linh mục cử hành Bí Tích Hòa Giải

Giải tội là một tác vụ khó khăn nhất, đòi hỏi nhất, nhưng đó là một tác vụ cao đẹp nhất, an ủi nhất của Linh mục trong đời mục vụ. (x.Chân dung Linh mục trang 39, ĐGM Giuse Vũ Duy Thống).

Là tác vụ khó khăn nhất bởi lẽ, ngồi tòa giải tội giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Với một tư thế không đổi là lắng nghe, phân định, khuyên nhủ, ban phép giải tội. Nghe đi nghe lại đủ thứ tội luỵ trần gian. Linh mục Nguyễn Tầm Thường đã dùng hình ảnh “cái bô rác” để nói về lỗ tai các Linh mục, chứa đựng mọi rác rưới tội lỗi hồng trần, nhưng Linh mục không để mình bị lây nhiễm rác rưới.Trí óc luôn làm việc căng thẳng. Một tư thế ngồi, tay cầm tràng hạt, tay chống trán, đầu tựa vào tòa nghe chăm chú. Có khi cơ thể mệt mỏi ê ẩm mà không được nghĩ ngơi.

Là tác vụ đòi hỏi nhất bởi lẽ, trước khi ngồi tòa, Linh mục đã phải chuẩn bị bằng cách trang bị kiến thức tương hợp; trong khi giải tội, linh mục phải vận dụng khôn ngoan để phân định, cương nghị để khuyên can, nhân từ để xá giải; sau khi đã ra khỏi tòa hòa giải, Linh mục phải trung tín với ấn tòa giải tội. Nếu điều Linh mục phải nhớ trong ngày là sách nguyện, thì điều Linh mục phải quên chính là tội người ta xưng.

Là một tác vụ cao đẹp nhất và an ủi nhất bởi lẽ, qua trung gian Linh mục, hối nhân gặp được trái tim đầy thương xót của Thiên Chúa. Và đó là hạnh phúc. Người ta bảo trên đời có ba bóng dáng hạnh phúc tinh ròng: mẹ đem con đi rửa tội về, người lành tạ thế và hối nhân từ tòa giải tội bước ra.

Nếu như hạnh phúc của người truyền giáo là có một người được rửa tội thì hạnh phúc của Linh mục giải tội là có một tội nhân được giao hòa với Chúa, được tìm lại ơn thứ tha và nguồn bình an, niềm vui tâm hồn. Hối nhân càng nhiều tội lỗi, càng lâu năm xa cách nguội lạnh mà được ơn trở lại thì Linh mục càng dâng đầy hạnh phúc. Có những hối nhân đã khóc nức nở khi sám hối về tội lỗi của mình và nhận ra lòng thương xót của Chúa. Họ quỳ đó, khóc chân thành với những dòng lệ ăn năn. Nước mắt hạnh phúc của người con trở về với Cha nhân từ. Những nổi đau thể xác, tâm hồn được bộc bạch. Có những người mẹ, người vợ thổ lộ tâm sự của gia đình, tâm tư không thể nói cùng ai chỉ trừ Cha giải tội. Thanh niên nam nữ với những thao thức tuổi trẻ xin linh hướng. Thiếu nhi đón nhận lời thăm hỏi khuyên bảo.

Có nhiều tâm hồn trong sáng, thánh thiện đến tòa giải tội đã làm gia tăng lòng đạo đức của linh mục.

Thi hành tác vụ cao đẹp ấy, Linh mục là người diễn dịch lòng yêu thương nhân từ của Thiên Chúa (Thư Thứ Năm Tuần Thánh 2002, số 3).

Để có thể thi hành tác vụ của lòng thương một cách hữu hiệu, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II khuyên Linh mục phải sống khả tín và khả ái.

– Khả tín: “Thật vậy, dù ơn Chúa ban có thể hoàn tất công trình cứu rỗi qua những thừa tác viên bất xứng, nhưng thường tình Thiên Chúa muốn tỏ ra những việc lạ lùng của Ngài qua những vị sẵn sàng đi theo sự thúc giục và hướng dẫn của Thánh Thần hơn, bằng kết hợp mật thiết với Chúa Kitô và bằng một đời sống thánh thiện” (PO, 12)

– Khả ái: “Người ta thường muốn được nhận biết và chăm sóc, vì chính trong tư thế gần gũi này mà họ có thể cảm nghiệm được tình yêu Thiên Chúa một cách mạnh mẽ hơn” (Thư TNTT số 9). Linh mục phải làm hết cách để lòng thương xót của Thiên Chúa được sáng lên giữa những cử hành”Nghiêm nhặt quá làm cho dân chúng bị dằn vặt tháo lui. Dễ dãi qúa gây hiểu lầm và ngộ nhận. Đấng giải tội rập theo gương Chúa Chiên lành mà tha tội phải diễn đạt đúng mực thước lòng đã sẵn có và sự tha thứ hầu mang lại an bình và chữa lành” (Thư TNTT số 8).

Nhân ngày lễ kính thánh Gioan Maria Vianney (ngày 4 tháng 8), đọc lại nét tiêu biểu cuộc đời thánh nhân nơi tòa giải tội. Như người ta đã nói: phép lạ lớn nhất của cha Vianney thánh thiện là tòa giải tội của ngài bị bao vây suốt ngày đêm. Cũng có thể nói cách khác: phép lạ tiêu biểu của ngài là sự hoán cải của những người tội lỗi. Các Linh mục noi gương cha thánh thực thi sứ vụ khó khăn và cao đẹp này. Mỗi lần ban ơn xá giải là Linh mục thấy mình được cộng hưởng trên đường nên thánh.

 

Ghi nhận lịch sử – phụng vụ

jean-marie-vianney

Lễ thánh Jean-Marie Vianney được mừng vào ngày Ngài qua đời là 4 tháng 8 năm 1859. Được phong thánh năm 1925 và Đức Giáo Hoàng Piô XI tuyên bố là bổn mạng các Cha xứ khắp thế giới, năm 1929.

Jean-Marie Vianney sinh ngày 8 tháng 5 năm 1786 ở làng Dardilly gần thành phố Lyon trong một gia đình nông dân. Mặc dầu có những dặt dè về phía ông bố, Gioan vẫn muốn làm linh mục và mãi tới 20 tuổi mới bắt đầu đi học ở nhà trường do linh mục Balley thành lập gần Ecully. Được nhận vào chủng viện Verrières, rồi chủng viện Lyon, Gioan gặp rất nhiều thử thách. Vì từ chối đăng ký theo lệnh Napoleon, Gioan phải trốn tránh trong vòng một năm rưỡi. Lại thêm ít khả năng học tập, Gioan bị đuổi khỏi chủng viện Lyon với lời phê “debilissimus” (rất yếu). Tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ của linh mục Balley, người đã nhận ra ơn gọi của học trò mình, Gioan được chấp thuận cho thụ phong linh mục tại Grenoble ngày 13 tháng 8 năm 1815, lúc 29 tuổi, tân linh mục được chỉ định làm cha phó tại Ecully, bắt đầu thực tập công tác mục vụ với Balley, về sau được bổ nhiệm làm cha sở giáo xứ Ars, năm 1818. Cha ở lại giáo xứ bé nhỏ miền Dombes này suốt bốn mươi hai năm, cho đến ngày qua đời, mặc dù đã có những lần thử trốn trách nhiệm giáo xứ để sống đời chiêm tu.

Cha Gioan Maria Vianney đã từ bỏ chức kinh sĩ, bán chiếc áo khoác kinh sĩ lấy tiền giúp người nghèo cũng như cả cái huy hiệu Bảo Quốc huân chương nhận được năm 1843. Ngài qua đời vì kiệt sức ở tuổi bảy mươi tư, mà theo lời một người chứng kiến, “trong ánh mắt biểu lộ một vẻ tin tưởng và đơn sơ lạ thường”. Trong những năm cuối đời của thánh Gioan, khách hành hương đến Ars ngày càng đông, có thể đến trăm nghìn người.

Thông điệp và tính thời sự

a. Lời nguyện trong ngày khẳng định thánh Gioan Maria Vianney thực là một “linh mục đáng khâm phục, tận hiến cho chức vụ”. Qủa thế, Ngài đã tận hiến cho sứ mệnh linh mục cho đến kiệt sức, tự đặt ra cho mình những việc đền tội nặng nề với mục đích cải tạo giáo xứ mình, và luôn sẵn sàng ngồi tòa cáo giải đến mười sáu giờ hoặc mười tám giờ mỗi ngày. Các bài giảng của Ngài, buổi đầu chịu ảnh hưởng của chủ trương nghiêm ngặt phái Jansenime, nên khá nghiêm khắc, về sau trở nên quân bình hơn, nhờ sự dịu dàng và đơn sơ. Ngài đã viết trong cuốn Giáo lý (xem Phụng vụ bài đọc): “Cầu nguyện không gì khác hơn là hiệp nhất với Chúa”.

b. Lời nguyện trong ngày cũng xin Chúa cũng ban cho chúng ta một đức bác ái có khả năng chinh phục các linh hồn về cho Chúa. Qủa thật, miền ưu tư là một mục tử tốt của giáo dân trong xứ đã thúc đẩy Cha thánh xứ Ars thực hiện một công cụ dạy giáo lý liên tục bằng những lời dạy cũng như những thúc giục đánh đông lòng tín hữu. Họ thường bảo: “Chưa bao giờ có linh mục nào nói với chúng tôi như thế”. Hoạt động mục vụ của Cha cũng thực hiện cả trong lĩnh vực giáo dục những bé gái nhà nghèo, nên năm 1824 Cha đã mở một trường nữ miễn phí cho các em. Cha cũng lập một nhà mồ côi và tới đây dạy giáo lý mỗi ngày. Hoạt động mục vụ của vị linh mục Thánh thiện này cũng nhằm chiến đấu chống phong trào xa rời Kitô giáo của dân chúng, không còn thánh hóa Chúa nhật và đôi khi còn sa đà vào rượu chè, trụy lạc. Còn việc chiến đấu với ma quỷ– Ngài thường gọi là Grappin, Ngài phải chịu đựng khá lâu năm, từ 1824 đến 1858.

c. Lời nguyện tạ lễ nhắc chúng ta nhớ rằng Cha thánh xứ Ars đã chịu đựng “một mâu thuẫn chống đối không sờn lòng”. Quả thế, Ngài từng là nạn nhân chính của một số anh em linh mục, thậm chí người ta còn vu oan cho Ngài, nhưng Ngài đã chịu đựng tất cả một cách rất Kitô giáo, đón nhận sức mạnh và can đảm trong sự sùng kính cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu và nơi Thánh Thể. Vào cuối đời, vị mẫu gương lớn trong việc truyền giáo, người mục tử lớn sẽ nói rằng: “Tốt lành biết bao được chết sau khi từng sống trên thập giá!”

ENZO LODI

(Lm Xóm Chiếu dịch)

CHÚC TỤNG – BẺ RA – TRAO CHO
(THỨ HAI - THÁNH GIOAN MARIA VIANÊ 04/08)
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Lễ Thánh Gioan Maria Vianê hôm nay, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã làm cho thánh linh mục Gioan Maria nên một tấm gương tuyệt vời về lòng tận tụy hy sinh của người mục tử. Vì lời thánh nhân cầu thay nguyện giúp, xin Chúa cho chúng ta hằng noi theo lòng bác ái của người, mà cố gắng đem nhiều anh em về với Đức Kitô, để muôn đời cùng nhau hưởng nguồn vinh phúc. Thánh nhân sinh năm 1786 tại Lyông. Sau biết bao khó khăn gian khổ, người làm linh mục và được giao phó nhiệm vụ làm cha sở họ Ácxơ thuộc giáo phận Benle. Người quả là vị mục tử gương mẫu: hoàn toàn lo việc loan báo Lời Thiên Chúa, giải tội, cầu nguyệnhãm mình. Có nhiều lúc, khuôn mặt người rạng rỡ khác thường, nhờ tình yêu bắt nguồn từ bí tích Thánh Thể mà người đem hết lòng sốt sắng để vừa cử hành, vừa thờ phượng. Người qua đời năm 1859.

Noi theo lòng bác ái, đem nhiều người về với Đức Kitô, tuân giữ luật Chúa, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, trích sách ngôn sứ Amốt: Tội ác của Giuđa và của Ítraen. Cả Ítraen nữa, cũng sẽ bị Thiên Chúa hạch tội cách gắt gao. Đã ký giao ước với Thiên Chúa thì phải sống tinh tuyền, thánh thiện, nhưng, khi từ chối nghe lời Thiên Chúa, thì, Dân Chúa đã để cho bất tín bất trung nở rộ trong xã hội của mình. Thái độ cực kỳ vô ơn đó đòi hỏi một hình phạt nghiêm khắc hơn nữa… Chính Ta đã đem các ngươi lên khỏi đất Aicập, dẫn các ngươi đi trong sa mạc bốn mươi năm trường. Ta đã nói: Đây là dân tâm hồn lầm lạc. Chúng nào biết đến đường lối của Ta! Xưa Ta đã từng cho xuất hiện những ngôn sứ từ hàng con cái các ngươi. Thế mà các ngươi đã ra lệnh cho các ngôn sứ: Các ông không được nói tiên tri.

Noi theo lòng bác ái, đem nhiều người về với Đức Kitô, hướng về trời cao, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Gioan Maria Vianê nói về: Cầu nguyệnyêu mến: phận sự cao quý của con người… Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại sẽ mang lại cho chúng ta, cả một khối vinh quang vô tận, tuyệt vời. Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người.

Noi theo lòng bác ái, đem nhiều người về với Đức Kitô, tựa nương vào Chúa, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, trích sách Dân Số: Một mình con không thể gánh cả dân này được nữa. Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 80, vịnh gia cho thấy: Reo lên mừng Thiên Chúa, Đấng trợ lực chúng ta! Ôi dân Ta mà đã nghe lời, Ítraen chịu theo đường Ta chỉ, thì hết những địch thù của chúng, những kẻ hà hiếp chúng xưa nay, Ta tức khắc trở tay quật ngã.

Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay là: Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra. Trong bài Tin Mừng, thánh Mátthêu tường thuật phép lạ hóa bánh ra nhiều: Ngước mắt lên trời, Đức Giêsu dâng lời chúc tụng,bẻ ra, trao cho môn đệ, còn các môn đệ trao cho dân chúng. Chúng ta sống nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra. Lời Chúa là Bánh Hằng Sống. Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó là, điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Người. Một chút gian truân tạm thời trong hiện tại, sẽ mang lại cho ta cả một khối vinh quang vô tận, ấy thế mà, chúng ta cũng như Dân xưa: tụm năm tụm bảy mà kêu khóc, khiến ông Môsê lấy làm khổ tâm. Chúng ta là Dân Chúa, Chúa sẽ nuôi ta bằng lúa mì tinh hảo, mật ong rừng, ta sẽ được hưởng thỏa thuê. Ước gì ta biết bắt chước thánh Gioan Vianê kết hợp với Chúa trong cầu nguyện, tựa hai khối sáp nóng chảy hòa vào nhau, không thể tách rời, để ta trở nên chứng nhân cho Chúa giữa thế gian này. Ước gì ta hằng noi theo lòng bác ái của thánh nhân, mà cố gắng đem nhiều anh em về với Đức Kitô, để muôn đời cùng nhau hưởng nguồn vinh phúc. Ước gì được như thế!

 

PowerPoint-t2-t18-TN

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây