13/09/2023
THỨ TƯ TUẦN 23 THƯỜNG NIÊN
Thánh Gioan Kim Khẩu, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Lc 6,20-26
NHỮNG NGƯỜI ĐƯỢC CHÚC PHÚC
Khi ấy, Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó… Khốn cho các ngươi là những kẻ giàu có.” (Lc 6,20-26)
Suy niệm: Khác với Tin Mừng Mát-thêu khi công bố Hiến Chương Nước Trời, Tin Mừng Lu-ca hôm nay khi ghi lại lời công bố các mối phúc của Chúa thì có kèm theo những lời “chúc dữ” nữa. Ở bản văn Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su đưa ra lời chúc phúc để khuyến thiện và thúc đẩy mọi người sống thánh thiện bằng cách vui vẻ đón nhận cuộc sống hiện tại với những nghịch cảnh, khó khăn và coi đây là những cách thế để sống tốt lời Chúa mời gọi nên thánh. Đồng thời Chúa Giê-su cũng nêu lên những lời cảnh cáo khi đưa ra các “mối họa” để các tín hữu cần cảnh giác để phòng tránh trên bước đường hoàn thiện của mình.
Mời Bạn: Bước theo Chúa Giê-su là bạn đang đi con đường dẫn tới sự thánh thiện. Tuy nhiên, cuộc đời lữ thứ có nhiều thử thách gian nan và chúng ta được mời gọi để “thánh hóa” những nghịch cảnh đó để nên phương tiện đạt tới Nước Trời. Đồng thời chúng ta cũng được nhắc nhở hãy cẩn trọng trước những thực tại trần gian bởi đó có thể là mối nguy, là sự cản trở chúng ta trên bước đường theo Chúa.
Sống Lời Chúa: Mời bạn chọn một trong bốn mối phúc để làm phương châm cho cuộc sống với hai điều quyết tâm: một điều cần tránh và một điều phải làm để thăng tiến trên con đường nên thánh.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giê-su, trên đường về quê trời, chúng con theo Chúa với nhiều thách thức và cơ hội. Xin cho chúng con luôn biết chọn Chúa và thánh ý Chúa trong mỗi ngày sống của mình. Amen.
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
THỨ TƯ TUẦN 23 THƯỜNG NIÊN
Ca nhập lễ
Lạy Chúa, Chúa là Đấng công minh và xét xử chính trực; Xin Chúa đối xử với tôi tớ Chúa theo lượng từ bi của Chúa.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng, nhờ Ðức Kitô Con Một Chúa, Chúa đã thương cứu chuộc chúng con và nhận làm nghĩa tử, xin lấy tình cha mà âu yếm đoái nhìn; này chúng con là những kẻ tin kính Ðức Kitô, xin cho chúng con được trở nên những người tự do đích thực và đáng hưởng gia nghiệp muôn đời. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: (Năm I) Cl 3, 1-11
“Anh em đã chết với Ðức Kitô. Vậy anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em”.
Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côlôxê.
Anh em thân mến, nếu anh em đã sống lại với Ðức Kitô, anh em hãy tìm những sự trên trời, nơi Ðức Kitô ngự bên hữu Thiên Chúa. Anh em hãy nghĩ đến những sự trên trời, chứ đừng nghĩ đến những sự dưới đất. Vì anh em đã chết, và sự sống anh em được ẩn giấu với Ðức Kitô trong Thiên Chúa. Khi Ðức Kitô là sự sống anh em xuất hiện, bấy giờ anh em sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang.
Vậy anh em hãy kiềm chế các chi thể anh em, tức là những điều trần tục: là sự gian dâm, ô uế, dục tình, đam mê xấu xa và hà tiện, tức là sự thờ phượng thần tượng. Vì những tội ấy mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những người con phản nghịch. Xưa kia anh em cũng đã sống trong những tội ấy, khi anh em sống trong những thói hư nết xấu đó. Nhưng bây giờ, anh em hãy loại bỏ tất cả những điều đó, là sự giận dữ, phẫn nộ, độc ác, phạm thượng, và lời tục tĩu bởi miệng anh em. Anh em chớ nói dối với nhau; anh em hãy lột bỏ người cũ cùng các việc làm của nó, và mặc lấy người mới, con người được đổi mới theo hình ảnh của Ðấng đã tạo thành nó: ở đấy không còn Hy-lạp hay Do-thái, cắt bì hay không cắt bì, người man rợ hay người Scytha, nô lệ hay tự do nữa; nhưng Ðức Kitô là mọi sự và ở trong mọi sự.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 144, 2-3. 10-11. 12-13ab
Ðáp: Chúa hảo tâm với hết mọi loài (c. 9).
Xướng: Hằng ngày con sẽ chúc tụng Chúa, và con sẽ khen ngợi danh Chúa tới muôn đời. Chúa vĩ đại và rất đáng ngợi khen, sự vĩ đại của Chúa không thể đo lường được.
Xướng: Lạy Chúa, mọi công cuộc của Chúa hãy ca ngợi Chúa, và các thánh nhân của Ngài hãy chúc tụng Ngài. Thiên hạ hãy nói lên vinh quang nước Chúa, và hãy đề cao quyền năng của Ngài.
Xướng: Ðể con cái loài người nhận biết quyền năng và vinh quang cao cả nước Chúa. Nước Ngài là nước vĩnh cửu muôn đời; chủ quyền Ngài tồn tại qua muôn thế hệ.
Bài Ðọc I: (Năm II) 1 Cr 7, 25-31
“Ngươi bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cách tháo gỡ. Ngươi không còn ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cưới vợ nữa”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.
Anh em thân mến, về những người đồng trinh, tôi không có lời Chúa truyền dạy nào, nhưng tôi đã được Chúa thương, nên tôi cho ý kiến như một người đáng tin cậy. Vậy tôi nghĩ rằng đó là một điều tốt theo nhu cầu hiện tại. Phải, người ta ở vậy quả là một điều tốt. Ngươi bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cách tháo gỡ. Ngươi không còn bị ràng buộc với vợ ư? Ngươi đừng tìm cưới vợ nữa. Nhưng nếu ngươi cưới vợ, ngươi chẳng có tội gì. Và nếu kẻ đồng trinh kết bạn, thì chẳng có tội gì. Nhưng những người thể ấy, sẽ chuốc lấy khốn khổ vào thân. Phần tôi, tôi muốn cho anh em tránh được điều đó.
Anh em thân mến, tôi nói cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có vợ, hãy ăn ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 44, 11-12. 14-15. 16-17
Ðáp: Xin hãy nghe, thưa nương tử, hãy coi và hãy lắng tai (c. 11a).
Xướng: Xin hãy nghe, thưa nương tử, hãy coi và hãy lắng tai, hãy quên dân tộc và nhà thân phụ, để Ðức Vua Người sủng ái dong nhan: chính Người là Chúa của cô nương, hãy phục vụ Người.
Xướng: Tất cả huy hoàng là nàng công chúa đi vào cung nội, áo nàng dệt bằng những sợi chỉ vàng. Bận áo gấm sặc sỡ, nàng được dẫn tiến Ðức Vua, theo sau nàng là những cô trinh nữ bạn bè, họ cũng được bệ kiến long nhan.
Xướng: Họ bước đi trong niềm hân hoan vui vẻ, tiến vào trong cung điện Ðức Vua. Người sẽ có con nối gót tiên vương liệt vị, và phong họ làm quan trên cả sơn hà.
Alleluia: Ep 1, 17-18
Alleluia, alleluia! – Xin Chúa Cha của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cho mắt tâm hồn chúng ta được sáng suốt, để chúng ta biết thế nào là trông cậy vào ơn Người kêu gọi chúng ta. – Alleluia.
(Hoặc đọc: Alleluia. alleluia! – Chúa nói: Anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.- Alleluia)
Phúc Âm: Lc 6, 20-26
“Phúc cho những kẻ nghèo khó. Khốn cho các ngươi là kẻ giàu có”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Khi ấy, Chúa Giêsu đưa mắt nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho các ngươi là những kẻ nghèo khó, vì nước Thiên Chúa là của các ngươi. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ đói khát, vì các ngươi sẽ được no đầy. Phúc cho các ngươi là những kẻ bây giờ phải khóc lóc, vì các ngươi sẽ được vui cười. Phúc cho các ngươi, nếu vì Con Người mà người ta thù ghét, trục xuất và phỉ báng các ngươi, và loại trừ các ngươi như kẻ bất lương, ngày ấy các ngươi hãy hân hoan và reo mừng, vì như thế, phần thưởng các ngươi sẽ bội hậu trên trời. Chính cha ông họ cũng đã đối xử với các tiên tri y như thế.
“Nhưng khốn cho các ngươi là kẻ giàu có, vì các ngươi hiện đã được phần an ủi rồi. Khốn cho các ngươi là kẻ đã được no nê đầy đủ, vì các ngươi sẽ phải đói khát. Khốn cho các ngươi là kẻ hiện đang vui cười, vì các ngươi sẽ ưu sầu khóc lóc. Khốn cho các ngươi khi mọi người đều ca tụng các ngươi, vì chính cha ông họ cũng từng đối xử như vậy với các tiên tri giả”.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Thiên Chúa uy linh cao cả, Chúa làm cho chúng con biết nhiệt thành phụng sự Chúa và sống hoà thuận thương yêu nhau. Ước chi của lễ này giúp chúng con tôn thờ Chúa cho phải đạo và ước chi tiệc Thánh chúng con cùng nhau chia sẻ thúc đẩy chúng con nên ý hợp tâm đầu. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Như nai rừng khát mong nguồn nước, hồn tôi khát Chúa, Chúa trời ôi, hồn tôi khát Chúa Trời, Chúa trời hằng sống.
Hoặc đọc:
Chúa phán: Ta là sự sáng thế gian; ai theo Ta sẽ không đi trong tối tăm, nhưng sẽ có ánh sáng ban sự sống.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Chúa đã dùng lời Chúa và Bánh Thánh để dưỡng nuôi và thêm sức mạnh cho chúng con; xin cho chúng con biết tận dụng những hồng ân này hầu đáng được thông phần sự sống của Ðức Kitô luôn mãi. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
Suy Niệm
CÁC MỐI PHÚC THẬT (Lc 6,20-26)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
1. Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Lu-ca nêu lên bốn mối phúc và bốn mối họa như một lời báo trước cuộc phán xét của Đức Giê-su trong ngày cánh chung. Bốn mối phúc như là những đòi buộc của Chúa đối với các môn đệ chân chính. Bốn mối họa không phải là lời nguyền rủa nhưng là lời khuyến cáo và tha thiết kêu gọi thống hối ăn năn. Chúng ta đã sống thế nào trước lời nhắn nhủ chân thành của Chúa?
2. Bài giảng được kể là HIẾN CHƯƠNG NƯỚC TRỜI trong Tin Mừng Mát-thêu kể ra 8 cái phúc (Bát phúc), hôm nay đến lượt Tin Mừng Lu-ca thu lại chỉ còn 4 cái phúc và 4 cái khốn. Theo Mát-thêu, đây là bài giảng trên núi, bao gồm 8 mối phúc thật, nhấn mạnh đến sự “nghèo khó tâm linh”, sự đói khát công lý, sự đau khổ nội tâm: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó”. Còn Lu-ca, đây là bài giảng ở chỗ đất bằng, trình bấy 4 lời chúc phúc kèm theo 4 cái khốn, như những phản đề đối chiếu dành cho người nghèo và kẻ giàu, người đói khát và kẻ no đầy. Đó là hai thành phần xã hội, hai giai cấp đối chọi nhau mà Tin Mừng muốn mô tả và để cho người tín hữu lựa chọn.
3. Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ nghèo khó”, Chúa Giê-su không hề có ý muốn biến thế giới thành một thế giới nghèo đói, bần cùng. Của cải vật chất là phương tiện cần thiết để cho con người được sống xứng phẩm giá con người; Thiên Chúa đã tạo dựng con người để nó thống trị và hưởng dùng mọi sự trong vũ trụ. Khi tuyên bố: “Phúc cho những kẻ khó nghèo”, Chúa Giê-su nhắc nhở cho con người bậc thang giá trị đích thực trong cuộc sống. Của cải vật chất là phương tiện, chứ không phải là cứu cánh của cuộc sống. Người nghèo khó như Chúa Giê-su đã từng sống là người sống theo bậc thang giá trị ấy. Người sống nghèo khó như Chúa Giê-su là người biết sống cho những giá trị vĩnh cửu, là yêu thương, quảng đại, liên đới, tình người (Mỗi ngày một tin vui).
4. “Phúc cho anh em là những người nghèo khó, vì Nước Trời là của anh em (Lc 6,20).
Xóa đói giảm nghèo là mục tiêu chung của cả toàn cầu, đặc biệt với các nước đang phát triển như Việt Nam chúng ta. Nghèo đói thường đi với cực khổ và cũng thường gắn liền với tự ti mặc cảm. Do đó, đối với nhiều người, coi nghèo khó là hạnh phúc như lời Đức Giê-su thật là điều nghịch lý! Thật ra, Chúa không đề cao tình trạng khố rách áo ôm hay chạy ăn từng bữa, nhưng cổ võ cho lối sống phó thác cậy trông nơi Thiên Chúa, trong tinh thần liên đới với người lân cận. Nghèo khó mà Đức Gisu muốn dạy chúng ta là tinh thần nghèo khó, lấy Chúa làm nền tảng của mọi giá trị, cùng đích cho cuộc đời mình, chứ không dựa vào của cải. Đức Giê-su đã sống triệt để mối phúc nghèo khó qua cuộc sống hoàn toàn phó thác nơi Cha: “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu” (5 phút Lời Chúa).
5. Vậy hạnh phúc ở đâu?
“Ermann Coen được mệnh danh là thánh Au-gút-ti-nô của thời đại chúng ta. Ngài là một người Do thái rất giàu có. Thời trai trẻ, ngài chỉ biết ăn chơi và chạy theo thế gian. Sự nhàm chán cứ đè nặng trên vai ngài. Ngày kia, ngài từ chối tất cả và xin vào tu viện. Trong bài giảng Mùa vọng tại Đền thờ Đức Bà ở Paris, ngài nói:
Tôi đã đi khắp cả mặt đất. Tôi đã yêu thế gian. Tôi đã biết thế giới và tôi đã học được một điều không có hạnh phúc ở trên thế gian này. Tôi đã tìm nó ở những nơi tôi tưởng có nó: ở những nụ cười, ở những cuộc giải trí, ở những ngày lễ, ở vàng bạc, ở sắc đẹp… Ôi! lạy Chúa, những điều con mơ ước ấy con đã tìm ở đâu? Và con đã chỉ tìm được nó trong Chúa và tình yêu Chúa”.
6. Truyện: Hạnh phúc của dân làng Aman.
Không có dấu hiệu bên ngoài nào chứng tỏ dân làng Aman giàu có. Nhưng niềm vui tươi nở trên mặt, chứng tỏ cái nghèo vật chất không cản họ sống hạnh phúc thực sự.
Phải, tất cả mọi người trong làng đánh cá Aman này đều sống trong yên vui.
Nhưng rồi một ngày kia, hai anh em đánh cá trong làng là Sôpôt và Sôpa lưới lên một thùng thật nặng. Khi thuyền về đến bờ, họ mở thùng ra và rất đỗi ngạc nhiên, khi thấy thùng chứa đầy những viên ngọc quí. Hai anh em không biết làm gì với kho tàng, bèn đem nhau đến hỏi ý kiến nhà hiền triết Akian sống gần bên. Sôpốt hỏi:
– Thưa ngài, chúng tôi phải làm gì với những hạt ngọc này? Số lượng đủ để phân phát cho dân trong làng chúng tôi, mỗi người một hột và như thế mỗi người chúng tôi sẽ trở thành giàu có.
Nghe thế, nhà hiền triết trả lời cách khô khan:
– Hãy nên đổ lại xuống biển.
BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Thánh Gioan Kim Khẩu, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh
Ca nhập lễ
Miệng người hiền thuyết đức khôn ngoan, và lưỡi người nói điều đoan chính; luật Thiên Chúa ở trong lòng người.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, là nguồn sức mạnh cho những kẻ cậy trông, Chúa đã ban cho Giáo Hội một khuôn mặt sáng chói là thánh giám mục Gio-an Kim Khẩu, nhờ tài hùng biện lạ lùng và lòng can đảm hiên ngang trước mọi cơn thử thách. Xin Chúa cũng ban cho chúng con được thấm nhuần lời thánh nhân giảng dạy và có sức chịu đựng như người. Chúng con cầu xin…
Bài đọc
Phụng vụ Lời Chúa – (theo ngày trong tuần)
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin dủ thương chấp nhận của lễ chúng con hoan hỷ dâng lên Chúa nhân ngày lễ kính thánh Gio-an Kim Khẩu. Trung thành với giáo huấn của thánh nhân, chúng con muốn hiến trọn thân mình cùng với của lễ đang dâng tiến Chúa đây. Chúng con cầu xin…
Ca hiệp lễ
Chúng tôi rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh, Chúa Kitô là quyền năng và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, trong ngày lễ kính thánh Gio-an Kim Khẩu, chúng con vừa chia sẻ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô. Ước chi bí tích này làm cho chúng con ngày càng thêm lòng yêu mến Chúa, và giúp chúng con can đảm làm chứng cho Chúa là sự thật. Chúng con cầu xin…
Ghi nhận lịch sử – phụng vụ
Lễ Thánh Gioan Kim khẩu được định vào 13 tháng 9, áp ngày qua đời, phù hợp truyền thống Giáo hội Antiochia. Thực thế, thánh nhân qua đời ngày 14 tháng 9 năm 407 tại Comane miền Pont, trên đường đi tới bờ Đông Biển Đen nơi phát vãng. Xác người ban đầu được đưa về Constantinople vào năm 438, về sau, theo truyền thuyết, đưa về Roma trong thế kỷ VIII.
Thánh Gioan Kim Khẩu sinh tại Antioche (Thổ Nhĩ Kỳ) vào khoảng năm 349, trong một gia đình công giáo quí tộc. Thân phụ, ông Secundus là sĩ quan. Thân mẫu Antousa là một phụ nữ đáng khâm phục: chồng qua đời lúc mới hai mươi tuổi, bà ở vậy lo việc giáo dục con trai và sẽ được tuyên phong thánh nữ. Gioan được hưởng một nền giáo dục tinh tế tại trường học giáo dục nổi tiếng Libanios, nhờ thế Ngài hòa hợp được văn hóa Hy-lạp với Kitô giáo. Là thành viên cộng đoàn công giáo do Đức giám mục Mélèce phát động, Ngài được rửa tội năm 368 vào quãng mười tám tuổi. Nhập môn khoa chú giải Thánh Kinh của thầy Diodore de Tarse, Gioan nhận chức đọc sách, rồi phó tế năm 381, cuối cùng thụ phong linh mục năm 386 do Đức gíam mục Flavien. Từ 372 đến 378, Gioan đã sống sáu năm đời tu sỹ trong cảnh tịch liêu, gần Antiochia.
Sau khi thụ phong linh mục, Cha Gioan giảng ở Antiochia trong mọi trường hợp. Các bài giảng của Ngài vừa sống động vừa ngôn phong hoa mỹ làm cho Ngài nhanh chóng nổi tiếng ở Đông Phương. Ngài ưu tiên giải thích Kinh thánh, áp dụng vào cuộc sống đời thường. Ngài tố cáo những lạm dụng, tấn công tật xấu các nhà giàu có, người quyền thế, bênh vực kẻ nghèo hèn. Dân chúng được Ngài chia sẻ niềm vui, khổ cực, nên yêu mến gọi Ngài là Kim Khẩu. Loạt bài giảng về các tượng thánh nhân dịp dân chúng Antiochia tức giận vì nạn cướp bóc, vùng dậy lật đổ các tượng thuộc gia đình hoàng gia, chứng tỏ nhiệt tình mục tử của Ngài không chấp nhận quá khích, nhưng nương nhẹ và nâng đỡ dân chúng.
Néctaire qua đời, Jean Chrysostome, nhờ nổi tiếng, được công bố làm giáo chủ Constantinople, Tòa giám mục thứ nhất tại thủ đô phương Đông. Nhưng vị tuyên úy cung đình trước hết vẫn là tu sỹ và chủ chăn, nhà cải cách; thánh Gioan đả kích tật xấu, thói xa hoa, các lạc giáo, tệ bất công, vậy là Ngài bị chống đối quyết liệt. Hai bài giảng của thánh nhân về sự thất sủng của Entrope, nguyên bộ trưởng đầy quyền thế của Arcadius, là thành công tốt đẹp nhất của Ngài trong nghệ thuật thuyết giảng, chống lại tính cách hão huyền của quyền lực nhân loại. Tuy nhiên đối với thánh Gioan thì đây là thời kỳ nhen nhúm sự chống đối và thù nghịch chỉ kết thúc bằng sự cô đơn và lưu đày của Ngài. Chạm tự ái vì một bài giảng về vấn đề xa hoa, hoàng hậu Endoxie cho đày thánh nhân lần thứ nhất đi Bithynie, có sự đồng lõa của Téophile, giáo chủ Alexandria qua Công đồng Chêne năm 403. Vừa tới nơi, có lệnh của hoàng đế và thư của hoàng hậu gọi Ngài về lại và người ta đón Ngài như kẻ chiến thắng. Tuy nhiên chỉ mấy tháng sau, Ngài lại phải bị lưu đày lần nữa đến Cucuse, sát biên giới Arménie, theo lệnh hoàng đế Arcadius. Thánh Gioan rời Constantinople ngày 20 tháng sáu năm 404. Sau hết năm 407, Ngài bị chuyển đến một nơi xa hơn, trên bờ Đông Biển Đen, tại Pityonte. Dọc đường, Ngài qua đời do kiệt sức vì cuộc hành trình. Trút hơi thở cuối cùng, Ngài nói: “Nguyện Chúa được tôn vinh trong mọi sự. Amen.
Thông điệp và tính thời sự
Các kinh nguyện trong Thánh lễ đưa ra ánh sáng một số điểm đặc trưng trong cuộc đời thánh Gioan Kim khẩu.
a. Lời nguyện trong ngày nhấn mạnh “Tài hùng biện diệu kỳ” và “đức can đảm lớn lao” của thánh Gioan. Giáo lý do nhà giảng thuyết này (xứng đáng để Công đồng Chalcédoine công bố Ngài là tiến sĩ Hội thánh), được phát hiện qua số lượng tác phẩm rất nhiều – ở phương Tây chỉ thánh Augustin sánh bằng -, cũng như các bài giảng trong tư cách chủ chăn và bài dạy giáo lý dân chúng. Thánh Gioan Kim khẩu thường chú trọng nghĩa từ nguyên của bản văn Thánh kinh theo trường phái thần học Antiochia; trong các chú giải Kinh Thánh, Ngài để lại một di sản bao la gồm cả về Cựu và Tân Ước. Ngài đặc biệt yêu thích các thư thánh Phaolô, mỗi tuần Ngài đọc lại đến hai lần. Bản chú giải thư gửi tín hữu Roma là tác phẩm tuyệt tác của Ngài. Về “đức can đảm lớn lao” của Ngài biểu lộ trong các thử thách, chỉ cần đọc các thư của Ngài. Bị phát lưu bất công, xa Giáo hội mình bằng vũ lực, trong khi ốm đau, thay vì trốn lánh đau khổ, Ngài xem đó như ơn Chúa: “Tôi bay lên vì vui, nhảy lên vì mừng, tôi sẽ để dành được một kho báu lớn” (Thư IX). Chúng ta cũng gặp dư âm đức can đảm anh hùng của Ngài trong bài giảng trước khi lên đường lưu đày năm 401 và phụng vụ bài đọc trích lại một đoạn: “Tôi không sợ nghèo, không mong giàu; tôi không sợ chết, cũng không thiết sống nếu không phải để giúp anh em tiến bộ. Bất kể nơi đâu Chúa muốn cho tôi, tôi đều chúc phúc nó”.
b. Lời nguyện trên lễ vật khuyến khích giáo dân “dâng hiến mình trọn vẹn” khi cử hành lễ Thánh thể, theo giáo huấn Thánh Gioan Kim khẩu. Chúng ta gặp lại giáo lý Thánh thể của Ngài trong các tài liệu chú giải Kinh Thánh, trong rất nhiều thư tín, nhưng nhất là trong cuốn luận về chức tư tế. Theo Thánh Gioan, việc dâng hiến mình đó đòi hỏi chúng ta phải được nuôi nấng bằng tình yêu Thiên Chúa và tình yêu con người: “Nếu được nhiệt tình thiêu đốt, chỉ cần một người đủ để cải tạo cả một dân tộc… Đức Kitô đang chết đói trước cửa nhà bạn… Hãy giải thoát Chúa khỏi đói, khỏi các nhu cầu, khỏi tù tội, trần truồng!” Cốt lõi sứ điệp và đường lối cơ bản trong hành động của Ngài chính là: thánh hóa đích thực hệ tại việc phục vụ tha nhân; qui luật vàng cho Kitô hữu là quên mình để đến với người khác.
c. Lời nguyện tạ lễ nhấn mạnh tư tưởng về việc làm chứng cho chân lý: “Lạy Chúa, xin làm cho việc rước lễ này biến chúng con thành chứng nhân trung thành cho chân lý”. Việc làm của thánh Gioan trước tiên là công việc một người đầy tớ trung thành với lời Chúa. Thực thế, trong cuốn Luận về chức tư tế, Ngài viết: “Bạn không biết thân thể này (Giáo hội Chúa Ki-tô) bị nhiều tật bệnh, nguy hiểm hơn thân xác chúng ta sao? Nhưng không kể các công việc, chỉ có một cách, một phương pháp chữa lành, đó là việc giáo huấn lời. Đó là dụng cụ, đó là lương thực, đó là bầu khí tốt nhất… cho dầu có phải tự thiêu đốt, dầu có phải bị chặt, bị chém, cứ phải dùng phương tiện đó” (IV, 3).
Qua sức mạnh của lời giảng, sự thánh thiện cuộc đời và công việc chủ chăn, thánh Gioan Kim Khẩu vừa là thầy, là cha tinh thần và nhà cải cách. Loan báo Tin Mừng mọi nơi mọi lúc, Ngài đã thành công trong việc đưa sứ điệp phúc âm nhập thể vào xã hội thời mình. Gương mẫu của Ngài thúc đẩy chúng ta, lời Ngài kêu gọi chúng ta: “Nầy bạn, người thuần khiết, ít mạnh mẽ hơn nhưng thắng được người khác há chẳng tốt hơn điềm nhiên tọa thị mãi trên đỉnh nếu nhìn anh em hư mất sao? (Bài giảng VI, 4).
ENZO LODI
(Lm hạt Xóm Chiếu dịch)
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn