Với vị thượng tế già, bao năm cầu xin cho một người con nối dõi, lời cầu ấy dần mòn theo thời gian. Điều ông từng khẩn khoản xin có lẽ đã trở thành ký ức nhiều hơn là hy vọng.
Niềm tin, nếu chỉ được nuôi bằng mong đợi thấy kết quả, có thể cạn kiệt khi thời gian kéo dài. Niềm tin cần trải qua thời gian kiên trì cầu nguyện.
Dacaria không ngừng cầu nguyện, nhưng sâu thẳm trong lòng, ông đã học cách sống chung với việc không được nhậm lời. Ông trung tín với bổn phận, mọi chuyện phó thác. Và chính trong trạng thái ấy, khi con người đã trải qua mòn mỏi đợi trông, Thiên Chúa lại bắt đầu hành động.
Thiên Chúa thường “làm ú tim” như thế.
Không phải để thử thách cho bằng để giải thoát con người khỏi những điểm tựa giả tạo như: khả năng, thời gian, kinh nghiệm, công trạng. Khi mọi những bảo đảm sụp đổ, khi hy vọng thuần mong ước không còn, thì đức tin mới có cơ hội trở thành đức tin tinh ròng.
Ta không thể dựa vào những gì làm được, những công trạng ta thực hiện, những gì ta có thể nghĩ Chúa sẽ trả công cho. Lòng thương xót của Chúa không dựa vào những điều ấy. Lòng thương xót của Chúa vừa thử thách vừa huấn luyện ta trưởng thành trong đức tin, cậy và yêu mến. Khi các nhân đức đã đủ chín mùi, Thiên Chúa sẽ ban cho.
Thiên Chúa không đến khi con người còn nắm chặt,
Ngài đến khi đôi tay đã trống rỗng.
Niềm tin cần trải nghiệm, bởi chỉ trong trải nghiệm ta mới biết mình thực sự tin ai: tin vào lời hứa của Thiên Chúa hay chỉ tin vào điều có thể xảy ra. Dacaria đã phải đi qua thinh lặng, qua sự bất lực, để học rằng ân sủng không bao giờ chỉ là phần thưởng cho sự kiên trì, mà còn là quà tặng nhưng không.
“Phúc cho người tin tưởng nơi Chúa” – phúc không phải vì họ thấy ngay kết quả, nhưng vì họ dám đặt đời mình trong tay Đấng trung tín, ngay cả khi mọi dấu hiệu bên ngoài đều mâu thuẫn.
Và chính nơi điểm tận cùng của hy vọng con người,
Thiên Chúa bắt đầu viết nên câu chuyện cứu độ.
L.m Giuse Hoàng Kim Toan






















