Chúa Nhật – XVII – TN – C
Hãy vui sống lời Kinh Lạy Cha…
Như chúng ta được biết, để có người tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng, Đức Giê-su đã tuyển chọn Mười Hai vị môn đệ. Tuyển chọn Mười Hai vị môn đệ, Đức Giê-su sai họ ra đi loan báo Tin Mừng. Sự ra đi của Nhóm Mười Hai đã đạt được thành quả nhất định. Những thành quả đó là: “Các ông trừ được nhiều quỷ, xức dầu cho nhiều người đau ốm, và chữa họ khỏi bệnh” (x.Mc 6, 13).
Tuy nhiên, những thành quả (nêu trên) của các ông, không phải lúc nào cũng đạt được kết quả mỹ mãn. Chuyện được kể rằng: một lần nọ, một người kia có đứa con trai “bị quỷ ám”. Ông ta đã đem cháu bé đó đến gặp các môn đệ của Đức Giê-su “để (nhờ) họ trừ tên quỷ ấy”, thế nhưng, các môn đệ “không làm nổi”.
Các môn đệ không-làm-nổi, nhưng Đức Giê-su đã làm nổi. Hôm ấy, Ngài đã “quát mắng tên quỷ: ‘Thần câm điếc kia, Ta truyền cho ngươi: ra khỏi đứa bé và không được nhập vào nó nữa’ Quỷ thét lên, lay nó thật mạnh, rồi ra khỏi.”
Thế là, khi Thầy và trò về nhà, các ông mới hỏi riêng Ngài: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Tại sao ư! Thưa, hôm đó, Đức Giê-su trả lời rằng: “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi.”
Chỉ-có-cầu-nguyện... Vâng, đó là điều Đức Giê-su đã nói với các môn đệ của mình. Đức Giê-su không chỉ khuyến cáo các môn đệ phải cầu nguyện, mà có lần Ngài còn dạy các ông “cách cầu nguyện”. Sự kiện này đã được ghi lại trong Tin Mừng thánh Luca. (x.Lc 11, 1-4).
**
Theo Tin Mừng thánh Luca ghi lại: “Có một lần Đức Giêsu cầu nguyện (và khi) Người cầu nguyện xong, thì có một người trong nhóm môn đệ nói với Người: Thưa Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện, cũng như ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông”.
Ông Gio-an đã dạy môn đệ của ông. Mà, “chúng con…”, chẳng phải là trong chúng con cũng có người là môn đệ ông Gio-an! Thế thì, sao không cầu nguyện như ông Gio-an đã dạy, mà lại xin-Thầy-dạy! (Vâng, đây là một chút thắc mắc của người viết.)
Mà, không thắc mắc sao được! “Người trong nhóm môn đệ này” hẳn phải là người Do Thái. Và, đã là người Do Thái, hẳn anh ta phải được dạy cách cầu nguyện ngay từ thuở nhỏ theo đúng truyền thống chứ!
Với truyền thống Do Thái: “Cha mẹ Do Thái phải dạy con cái của họ về một số kinh cầu nguyện cơ bản. Phụ huynh Do Thái còn phải dạy những gì mà Kinh Torah cấm, khi con của họ còn trong tuổi thơ”, kia mà!
Hầu hết các tín hữu Do Thái đều biết cầu nguyện. Theo truyền thống, họ cầu nguyện ba lần mỗi ngày và bốn lần trong ngày lễ Sabát hoặc các ngày lễ quan trọng khác. Ngoài các buổi cầu nguyện chung, người tín hữu Do Thái còn cầu nguyện riêng và đọc kinh tạ ơn cho những sinh hoạt khác, trong ngày.
Thế thì, cớ gì người môn đệ này lại xin Đức Giêsu dạy cầu nguyện? Thưa, thánh Luca không nói rõ lý do. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu cặn kẽ cách cầu nguyện của người Do Thái thời đó, chúng ta sẽ hiểu “vì cớ gì”.
Vâng, Do Thái giáo có nhiều hệ phái khác nhau và tùy theo mỗi hệ phái, cách thức cầu nguyện cũng khác nhau. Các khác biệt có thể kể đến như: “kinh đọc, mức độ thường xuyên của các buổi cầu nguyện, số lượng kinh cầu trong các buổi phụng vụ, cách sử dụng nhạc cụ và thánh ca, các lời kinh cầu theo ngôn ngữ tế lễ truyền thống hoặc tiếng địa phương” (nguồn: internet).
Và, Nhóm Mười Hai môn đệ là một tập hợp của nhiều vùng miền khác nhau, rất có thể, giữa các ông, với sự bảo thủ theo hệ phái, đã không có một sự thống nhất trong việc cầu nguyện.
Lại còn chuyện, sau nhiều lần chứng kiến hình ảnh Thầy-của-mình cầu nguyện với một tâm hồn ngây ngất hướng lòng lên Chúa Cha… Vâng, rất có thể hình ảnh linh thiêng đó đã in đậm vào tâm trí các ông với những câu hỏi “vì sao”?
Vì sao! Vì sao mỗi lần Thầy Giêsu cầu nguyện, trời và đất như có sự tâm giao? Vì sao chỉ một lời Thầy Giêsu cầu nguyện “thì trời mở ra và Thánh Thần ngự xuống trên Người…” (Lc 3, 22).
Vì sao cứ hỏi vì sao! Vì sao cứ hỏi “vì sao trên trời”, hay sao! Thế nên, gộp hết tất cả lý do nêu trên, hôm ấy có một-người-trong-nhóm-môn-đệ đã đến với Thầy Giê-su ngỏ lời thỉnh cầu với tất cả lòng mong ước: “Thưa Thầy, xin dạy chúng con… cầu nguyện.”, thì cũng không có gì phải thắc mắc.
Mà, thật vậy. Hôm ấy, Đức Giê-su đã chăm chú lắng nghe lời thỉnh cầu của người môn đệ, và Ngài không một chút thắc mắc. Ngài đã bảo với người môn đệ đó rằng: “Khi cầu nguyện, anh em hãy nói: Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển. Triều đại Cha mau đến, xin Cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy; xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con, và xin đừng để chúng con xa chước cám dỗ” (x.Lc 11, 2-4).
***
“Lạy Cha, xin làm cho danh thánh Cha vinh hiển… và xin đừng để chúng con xa chước cám dỗ”. Vâng, đó là nội dung lời kinh cầu nguyện Đức Giê-su đã dạy cho các môn đệ của mình.
Thế còn lời kinh cầu nguyện do ông “Gio-an tu rừng” đã dạy cho các môn đệ của ông nội dung như thế nào, nhỉ! Thưa, chúng ta không biết vì không có một ai ghi lại. Không ai ghi lại, nhưng rất có thể những lời kinh nguyện đó đã được ngài Gio-an Tẩy Giả lấy nguồn cảm hứng từ sách Thánh Vịnh chăng!
Tưởng chúng ta nên biết, đối với Do Thái giáo “Một trăm năm mươi (150) Thánh Vịnh là các tuyển tập thánh ca của Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Các Thánh Vịnh đã từng nuôi dưỡng lòng đạo của người Do Thái, đã từng là lời cầu nguyện của Chúa Giê-su.”
Chưa hết, ngày nay “Thánh Vịnh còn là thành phần căn bản của ‘Các Giờ Kinh Phụng Vụ’ mà biết bao tu sĩ nam sữ, linh mục và phó tế, và cả người giáo dân nữa, đang cầu nguyện hằng ngày. Chúng ta sẽ ngỡ ngàng khi đọc Thánh Vịnh và khám phá ra những khát vọng sâu thẳm của lòng mình nơi những lời kinh này.” (nguồn: internet).
Thì đây, chúng ta hãy nghe, hãy đọc Thánh Vịnh 51 (50). Hãy nghe và hãy đọc để thấy rằng đây là những lời cầu nguyện không thể không có trong đời sống đức tin của mình. “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xóa tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm… tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy.” (c. 3-4)
Vâng, có khác gì lời cầu nguyện Đức Giê-su đã dạy: “xin tha tội cho chúng con…”
Thế nên, nghĩ rằng bài cầu nguyện mà ngài Gio-an Tẩy Giả “đã dạy môn đệ của ông” lấy nguồn cảm hứng từ Thánh Vịnh, có gì là sai trái, nhỉ!
Một ngày nọ, Đức Giê-su có nói: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5, 17).
Kiện toàn như thế nào? Thưa, chúng ta cùng xem Đức Giê-su kiện toàn qua lời tuyên phán: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Hãy yêu đồng loại và ghét kẻ thù. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em. Như vậy, anh em mới được trở nên con cái của Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (x.Mt 5, 43-45).
Không chỉ kiện toàn lề Luật, Đức Giê-su còn kiện toàn lời cầu nguyện. Qua bài cầu nguyện (kinh Lạy Cha), Đức Giêsu đã cho các môn đệ biết rằng, Thiên Chúa không phải là một “ông thần” xa lạ và ngăn cách, nhưng là một Thiên Chúa rất gần gũi với con người, một Thiên Chúa là “Cha”, một người Cha không còn bị ngăn cách bởi “các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe”, nhưng là một người Cha sẵn sàng ban cho những ai đến “cầu xin”, sẵn sàng tiếp đón những ai đến “tìm” và sẵn sàng tiếp nhận những ai đến “gõ cửa”.
Thật vậy, Đức Giê-su đã có lời tuyên phán: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ thì sẽ mở cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11, 9-10).
Và, như một cách nhấn mạnh cho lời tuyên phán, Đức Giê-su đã làm một so sánh rất thực tế vẫn xảy ra trong đời thường. Hôm ấy, Ngài nói: “Ai trong anh em là một người cha, mà khi con xin cá, thì thay vì cá lại lấy rắn mà cho nó? Hoặc nó xin trứng lại cho nó bò cạp? Vậy nếu anh em vốn là những kẻ xấu mà còn biết cho con cái mình của tốt lành, phương chi Cha trên trời lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?” (Lc 11, 11-13).
Vâng, một bài cầu nguyện với lời khấn nguyện “tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con”… ai… ai dám phủ nhận đây là một bài cầu nguyện kiện toàn, từ trước tới giờ và từ giờ về sau, không thể có được!
****
“Lạy Cha chúng con ở trên trời”. Vâng, hôm nay chúng ta cũng được Đức Giê-su, qua Giáo Hội, dạy lời kinh nguyện mẫu mực này.
Sẽ không thể là một người Kitô hữu đúng nghĩa, nếu một ai đó trong chúng ta không biết, không thuộc bài kinh cầu nguyện này. Vâng, có hạnh phúc không khi đọc bài kinh cầu nguyện này, chúng ta được gọi Thiên Chúa là “Abba – Cha ơi”!
Nói về hạnh phúc được gọi Thiên Chúa là “Abba – Cha ơi”, Lm. Charles E.Miller có lời chia sẻ: “Anh chị em hãy nghĩ đến sự khác biệt giữa lời cầu xin của ông Apraham và Đức Giê-su. Với tư cách là tổ phụ dân được tuyển chọn và là tổ phụ của chúng ta trong đức tin, ông đánh bạo đến gần ĐỨC CHÚA và nài xin Người dung thứ cho dân hai thành sa đọa là Sô-đôm và Gô-mô-ra. Ông cả gan mặc cả với ĐỨC CHÚA, song vẫn không dám xưng hô với Người theo cách Đức Giê-su (đã xưng hô). Có lẽ ông cho là phạm thượng nếu mở miệng nói với Thiên Chúa: ‘Thôi nào, bố! Xin bố thông cảm mà nhẹ tay cho Sô-đôm và Gô-mô-ra’. Không ai dám gọi Thiên Chúa “’là Abba, là bố’, ngoại trừ một Đấng: Đức Giê-su”.
Cũng liên quan đến việc gọi Thiên Chúa là “Abba – Cha ơi”, thánh Phao-lô có lời truyền dạy: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: Abba, Cha ơi! Vậy anh em không còn là nô lệ nữa, mà là con…” (Cl 4, 6-7).
Là con. Là con cái của Thiên Chúa, và đó là lý do chúng ta hãy “ghi khắc” bài kinh cầu nguyện này (kinh Lạy Cha) vào trong con tim của mình. Đừng quên rằng, khi đọc Kinh Lạy Cha dù là ở “tư thế đứng, có lúc dang tay ra, có lúc ngước mắt lên trời, có lúc nắm tay người bên cạnh… bất luận tư thế hay cử chỉ của chúng ta là thế nào trong lúc đọc kinh Lạy Cha, anh em phải nhận ra mình được diễm phúc biết bao khi xưng hô với Thiên Chúa, theo cách của Chúa Giêsu (đã xưng hô trong vườn cây dầu) khi gọi Thiên Chúa là “Abba, Lạy Cha”. (trích lời giảng của Lm Charles E. Miller).
“Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng, nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời. Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày, và tha nợ chúng con, như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con. Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ, nhưng cứu chúng con cho khỏi sự dữ. Amen”.
Hãy nhớ, mỗi khi đọc bài kinh cầu nguyện này, đừng đọc như một “con vẹt”, như là để “trả bài” trước mặt Thiên Chúa. Đọc như thế, có thể nói rằng, chúng ta đang biến mình thành “cái máy cassette tụng kinh”, đọc như thế có khác nào “lải nhải như dân ngoại, họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời”.
Đức Giêsu nói: “Đừng bắt chước họ”. (Mt 6, 8). Đúng, đừng đọc kinh như thế. Đọc như thế, dù chúng ta đọc hàng triệu lần, thì cũng chỉ như: “Dã tràng se cát biển đông. Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì”. Nói, theo cách nói nhà đạo, “chẳng sinh ơn ích gì”.
Khi đọc kinh, những bài kinh mẫu, Giáo Hội dạy rằng: “miệng đọc lòng suy”. Cũng đừng quên lời thánh Phaolô dặn dò rằng, hãy đem tất cả tâm tình của một người con trải-lòng-ra “cầu khẩn, van xin và tạ ơn mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều (chúng ta) thỉnh nguyện” (Pl 4, 6).
Một khi chúng ta đọc kinh nguyện với một tâm tình như thế, hãy tin, không có lý do gì Cha-chúng-ta-là-Đấng-ở-trên-trời, lại không nhậm lời, và như lời Đức Giêsu đã nói: “Lại không ban Thánh Thần cho những kẻ kêu xin Người sao?”
Đức Giê-su đã có lời phán hứa như thế. Tuy nhiên, muốn lời phán hứa này trở thành hiện thực, ngoài việc phải đọc trong tâm tình sốt mến, chúng ta còn phải sống một đời sống trọn vẹn lời kinh Lạy Cha.
Sống trọn lời kinh Lạy Cha, Lm Antôn Nguyễn Trường Thăng, đã chia sẻ niềm tin của ngài về lối sống này, rằng: “Họ đã bước một chân vào Thiên Đàng, không phải sau khi lâm tử mà ngay ngày hôm nay, trên cõi hồng trần này.” Cuối cùng, ngài Lm An-tôn có lời kết luận: “Phúc cho ai tin vào Thiên Chúa và vui sống lời kinh Lạy Cha. Amen”.
Đúng. Đúng là phúc. Vì vui sống lời kinh Lạy Cha, cũng lời Lm. An-tôn Trường Thăng nói: “chính là chúng ta sống trọn vẹn tám mối phúc thật”. Mà, sống trọn vẹn tám-mối-phúc-thật thì sao nhỉ! Thưa, Đức Giê-su nói: “Nước Trời là của họ”.
Nước Trời là của tôi, của anh, của chị, của chúng ta. Thế thì, thì sao nhỉ! Thưa, hãy đến bên Thánh Giá Đức Giê-su, và xin Ngài dạy, không phải là dạy Kinh Lạy Cha, nhưng là dạy… là truyền dạy chúng ta: “Hãy vui sống lời Kinh Lạy Cha”.
Vâng, hôm nay, chúng ta không chỉ đọc Kinh Lạy Cha, nhưng còn phải “Hãy vui sống lời Kinh Lạy Cha”.
Petrus.tran
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn