TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

CN34TNb - Đức Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ

“Quan nói đúng: Tôi là Vua”. (Ga 18, 33b-37)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Lời Chúa THỨ SÁU TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN

Thứ hai - 22/01/2024 13:34 |   493
Khi đã đến ngày thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa. (Lc 2, 22-40)

02/02/2024
THỨ SÁU TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN
Đức Mẹ Dâng Chúa Trong Đền Thánh

lễ nến

Lc 2, 22-40

để dâng hiến con cho chúa
Khi đã đến ngày thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa. (Lc 2,22)

Suy niệm: Luật Mô-sê qui định người mẹ sinh con trai sau bốn mươi ngày phải được thanh tẩy và dâng hy lễ tạ tội là một con chiên hoặc “một đôi chim gáy hay cặp bồ câu non” (Lv 12,1-8). Còn trong trường hợp sinh con trai đầu lòng thì phải dâng hiến cho Thiên Chúa và rồi chuộc lại bằng 5 đồng sê-ken (Xh 13,13; Ds 18,15-16). Tưởng chừng như thánh cả Giu-se và Đức Ma-ria chỉ cố làm trọn những gì lề luật buộc, nhưng Tin Mừng lại soi rọi cho thấy công việc đó mang những ý nghĩa cao cả: - không chỉ riêng người mẹ được thanh tẩy mà đây chính là “việc thanh tẩy của các ngài”; - việc đó được liên kết với việc dâng hiến con đầu lòng; - hai ngài bồng cả Giê-su con mình theo dù luật không buộc; và Phúc Âm không nói đến việc nộp 5 đồng sê-ken để chuộc con. Nếu như người con là hồng ân Chúa ban tặng được dâng lại cho Chúa như của lễ tạ ơn thì chính cha mẹ cũng cần được thanh tẩy để hiến lễ tạ ơn đó được thực sự xứng đáng.

Mời Bạn: Có ý kiến cho rằng thời nay các gia đình thường không đông con nên không khuyến khích con cái đi tu và đó là một trong những lý do làm cho ơn gọi tu trì sút giảm. Khi đặt ngày lễ dâng Chúa trong đền thánh làm Ngày Đời Sống Thánh Hiến hẳn Giáo Hội muốn nhắc nhở rằng để có những người con sẵn sàng tận hiến cuộc đời cho Chúa thì trước hết cần có những người cha mẹ thánh thiện và quảng đại.

Sống Lời Chúa: Dâng lên Chúa một hy sinh, từ bỏ một món ăn ưa thích, và xin ơn quảng đại đáp lại tiếng Chúa.

Cầu nguyện: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.


 


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
THỨ SÁU TUẦN 4 THƯỜNG NIÊN


Ca nhập lễ

Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng tôi, xin cứu độ chúng tôi, từ khắp muôn dân, xin thu họp chúng tôi về, để chúng tôi được ca tụng thánh danh Chúa, và được vinh dự ngợi khen Chúa.

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Chúa, xin cho tất cả chúng con biết hết lòng thờ phượng Chúa, và thành tâm yêu mến mọi người. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: (Năm I): Dt 13, 1-8

“Ðức Giê-su Ki-tô hôm qua, hôm nay và cho đến muôn đời vẫn như thế”.

Trích thơ gửi tín hữu Do-thái.

Anh em thân mến, tình bác ái huynh đệ phải tồn tại trong anh em. Anh em đừng lãng quên việc cho khách đỗ nhà: vì khi làm như vậy, có kẻ không ngờ mình đã đón tiếp các thiên thần. Anh em hãy nhớ đến những tù nhân như chính anh em bị tù đày chung với họ, và hãy nhớ đến những kẻ đau khổ, vì chính anh em cũng đang ở trong thân xác như họ. Mọi người phải tôn trọng hôn nhân, hãy giữ phòng the cho tinh khiết, vì Thiên Chúa sẽ đoán phạt các người tà dâm và ngoại tình. Trong nếp sống, anh em đừng tham lam; hãy bằng lòng với những gì đang có, vì Chúa đã phán: “Ta sẽ không để mặc ngươi và không bỏ rơi ngươi đâu”, đến nỗi chúng ta có thể tin tưởng mà thưa rằng: “Chúa là Ðấng phù trợ tôi, tôi chẳng sợ người đời làm gì được tôi”. Anh em hãy nhớ đến các vị lãnh đạo anh em, là những người đã rao giảng lời Chúa cho anh em. Hãy nhìn xem đời họ kết thúc ra sao mà noi gương đức tin của họ. Ðức Giê-su Ki-tô hôm qua, hôm nay, và cho đến muôn đời vẫn như thế.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 26, 1. 3. 5. 8b-9abc

Ðáp: Chúa là sự sáng và là Ðấng cứu độ tôi (c. 1a).

Xướng: Chúa là sự sáng, là Ðấng cứu độ tôi, tôi sợ chi ai? Chúa là Ðấng phù trợ đời tôi, tôi sợ gì ai? 

Xướng: Nếu thiên hạ đồn binh hạ trại để hại tôi, lòng tôi sẽ không kinh hãi, nếu thiên hạ gây chiến với tôi, tôi vẫn tự tin. 

Xướng: Vì ngày tai hoạ, Chúa sẽ che chở tôi trong nhà Chúa, Chúa sẽ giấu tôi trong nơi kín đáo ở Ðền Người, trên tảng đá vững chắc Người sẽ cất nhắc tôi lên. 

4) Và lạy Chúa, con tìm ra mắt Chúa. Xin Chúa đừng ẩn mặt xa con, xin đừng xua đuổi tôi tớ Ngài trong thịnh nộ. Chúa là Ðấng phù trợ con, xin đừng hất hủi con. 

Bài Ðọc I: (Năm II): Hc 47, 2-13

“Ðavít đã thành tâm ca tụng và yêu mến Thiên Chúa”.

Trích sách Huấn Ca.

Như miếng mỡ lóc ra khỏi thịt con vật tế lễ thế nào, thì Ða-vít được chọn giữa con cái Israel như vậy. Người dỡn với sư tử như dỡn với chiên con và đùa với gấu như đùa với những chiên con. Khi còn trẻ, nào người đã chẳng hạ sát tên khổng lồ và rửa nhục cho dân, khi vung dây ném đá đánh ngã tên Go-li-át kiêu căng đó sao? Vì người đã kêu cầu Thiên Chúa toàn năng, và Chúa đã ban sức mạnh cho người để hạ sát tên chiến sĩ hùng dũng, để nâng cao lòng can đảm của dân người. Nhờ thế, người được tôn vinh như đã giết mười ngàn, được ca tụng vì những lời Chúa chúc lành, và được người ta trao tặng triều thiên vinh quang, vì người đã tiêu diệt quân thù chung quanh, đã thanh toán bọn giặc Phi-li-tinh cho đến ngày nay, đã đập tan sức mạnh chúng đến muôn đời. Trong mọi việc, người dùng lời ca khen mà tuyên xưng Ðấng Thánh Tối Cao; người thành tâm ca tụng Chúa, và yêu mến Thiên Chúa đã sáng tạo người, đã cho người quyền năng chống lại quân thù. Người thành lập ca đoàn trước bàn thờ Chúa, để hoà nhịp những bài thánh ca. Người tổ chức những cuộc lễ huy hoàng, quy định đầy đủ chu kỳ thời gian, để họ ca tụng thánh danh Chúa, và từ sáng sớm, họ biểu dương sự thánh thiện của Thiên Chúa. Chúa đã thứ tha tội lỗi của người, và tán dương sức mạnh của người đến muôn đời. Chúa đã ban cho người giao ước vương quốc và ngôi báu vinh quang trong Ít-ra-en.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 17, 31. 47 và 50. 51.

Ðáp: Tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi (c. 47b).

Xướng: Ðường lối Thiên Chúa là đường thanh khiết, lời của Chúa được luyện trong lửa đỏ, chính Người là khiên thuẫn che kẻ nương nhờ Người. 

Xướng: Chúa hằng sống, chúc tụng Ðá Tảng của tôi, tán tụng Thiên Chúa là Ðấng cứu độ tôi! – Bởi vậy, con sẽ ca tụng Ngài giữa chư dân, lạy Chúa, và con sẽ xướng ca khen ngợi danh Ngài.

Xướng: Ngài đã ban cho vương nhi Ngài đại thắng, đã tỏ lòng từ bi với Ðấng được xức dầu của Ngài, với Ðavít và miêu duệ ông cho tới muôn đời.

Alleluia: Mt 4, 4b

Alleluia, alleluia! – Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. – Alleluia.

Phúc Âm: Mc 6, 14-29

“Ðó chính là Gio-an Tẩy Giả trẫm đã chặt đầu, nay sống lại”.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo Thánh Mác-cô.

Khi ấy, vua Hê-rô-đê nghe nói về Chúa Giê-su, vì danh tiếng Người đã lẫy lừng, kẻ thì nói: “Gio-an Tẩy giả đã từ cõi chết sống lại, nên ông đã làm những việc lạ lùng”; kẻ thì bảo: “Ðó là Ê-li-a”; kẻ khác lại rằng: “Ðó là một tiên tri như những tiên tri khác”. Nghe vậy, Hê-rô-đê nói: “Ðó chính là Gio-an trẫm đã chặt đầu, nay sống lại”. Vì chính vua Hê-rô-đê đã sai bắt Gio-an và giam ông trong ngục, nguyên do tại Hê-rô-đi-a, vợ của Phi-líp-phê anh vua mà vua đã cưới lấy. Vì Gio-an đã bảo Hê-rô-đê: “Nhà vua không được phép chiếm lấy vợ anh mình”. Phần Hê-rô-đi-a, nàng toan mưu và muốn giết ông, nhưng không thể làm gì được, vì Hê-rô-đê kính nể Gio-an, biết ông là người chính trực và thánh thiện, và giữ ông lại. Nghe ông nói, vua rất phân vân, nhưng lại vui lòng nghe. Dịp thuận tiện xảy đến vào ngày sinh nhật Hê-rô-đê, khi vua thết tiệc các quan đại thần trong triều, các sĩ quan và những người vị vọng xứ Ga-li-lê-a. Khi con gái nàng Hê-rô-đi-a tiến vào nhảy múa, làm đẹp lòng Hê-rô-đê và các quan khách, thì vua liền nói với thiếu nữ ấy rằng: “Con muối gì, cứ xin, trẫm sẽ cho”, và vua thề rằng: “Con xin bất cứ điều gì, dù là nửa nước, trẫm cũng cho”. Cô ra hỏi mẹ: “Con nên xin gì?” Mẹ cô đáp: “Xin đầu Gio-an Tẩy Giả”. Cô liền vội vàng trở vào xin vua: “Con muốn đức vua ban ngay cho con cái đầu Gio-an Tẩy Giả đặt trên đĩa”. Vua buồn lắm, nhưng vì lời thề và vì có các quan khách, nên không muốn làm cho thiếu nữ đó buồn. Và lập tức, vua sai một thị vệ đi lấy đầu Gio-an và đặt trên đĩa. Viên thị vệ liền đi vào ngục chặt đầu Gio-an, và đặt trên đĩa trao cho thiếu nữ, và thiếu nữ đem cho mẹ. Nghe tin ấy, các môn đệ Gio-an đến lấy xác ông và mai táng trong mồ.

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, chúng con xin kính cẩn dâng những lễ vật này lên bàn thờ Chúa để tỏ lòng thần phục suy tôn; cúi xin Chúa nhân từ chấp nhận và làm cho trở thành bí tích đem lại ơn cứu chuộc muôn đời. Chúng con cầu xin…

Ca hiệp lễ

Xin cho tôi tớ Chúa được thấy long nhan dịu hiền, xin cứu độ tôi theo lượng từ bi của Chúa. Lạy Chúa, xin đừng để tôi phải hổ ngươi vì đã kêu cầu Chúa.

Hoặc đọc:

Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì nước trời là của họ. Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Nước làm cơ nghiệp.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, Chúa đã lấy lương thực cứu độ để nuôi dưỡng chúng con; xin Chúa dùng sức mạnh dồi dào của bí tích này làm cho đức tin chân chính được tiến triển luôn mãi. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

TÌNH YÊU CHUNG THUỶ
Lm. Antôn Trần Văn Phú

Yêu là chung thuỷ. Từ khi Thiên Chúa tạo dựng con người, tình yêu hôn nhân luôn là mối dây liên kết giữa người nam và người nữ. Họ không còn phải là hai, nhưng là một xương một thịt. Mối dây liên kết này được chính Chúa Giêsu đóng ấn: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, thì loài người không được phân ly” (Mt 19,6). Để bảo vệ chân lý vĩnh cửu này, Gio-an Tẩy Giả đã can đảm nói sự thật cho vua Hê-rô-đê: “Ngài không được phép lấy vợ của anh ngài” (Mc 6,18). Ngay cả vua Hê-rô-đê với tất cả quyền hành trong tay cũng không có quyền huy bỏ giao ước tình yêu vĩnh cửu. Nói một cách đơn giản, Hê-rô-đê không được phép ngoại tình. Cũng vậy, không ai được phép ngoại tình. Hơn nữa, tình yêu chung thuỷ xuất phát từ sự trung tín của Thiên Chúa với giao ước, và sự trung tín của Đức Ki-tô với Hội Thánh. Thiên Chúa hằng yêu thương nhân lại. Người lập giao ước vĩnh cửu với chúng ta qua Con Một yêu quý. Quả thật, tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại được cụ thể hoá một cách mĩ mãn trong tình yêu của chính Đức Giê-su. Như thánh Gio-an khẳng định: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Đức Kitô đã tự hiến chính thân mình trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Mặc dù nhân lại tội lỗi có khước từ tình yêu Chúa, thì Chúa vẫn trung tín cho đến cùng. Người không bỏ rơi con người, như lời Người đã hứa: “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20). Tóm lại, Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng tình yêu vĩnh cửu. Thế nên, tình yêu giữa người vợ với người chồng phải luôn phản ánh tình yêu của một Thiên Chúa trung tín. Tình yêu hôn nhân không đơn thuần là sự thoả thuận của người nam và người nữ được luật pháp nhìn nhận. Hôn nhân là một ơn gọi, một lối sống, và một sứ mạng được Chúa mời gọi và trao ban cho người nam và người nữ, ngõ hầu họ trở nên chứng nhân của giao ước tình yêu vĩnh cửu của Chúa giữa lòng đời hôm nay.

 

THÁNH GIO-AN BỊ TRẢM QUYẾT (Mc 6,14-29)
Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

1. Trong bài Tin Mừng hôm nay, thánh Mác-cô thuật lại cho chúng ta cuộc tử nạn của thánh Gio-an Tẩy Giả. Khi ấy, danh tiếng Chúa Giê-su lẫy lừng vì những lời giảng và hành động thật uy quyền đã đến tai Hê-rô-đê khiến ông ta sống bất an, lương tâm cắn rứt và nghĩ rằng chính Gio-an Tẩy Giả tiếp tục sống trong Đức Giê-su. Những ray rứt của kẻ giết người lại nổi lên trong con người ông và lên án chính ông. Đây chính là tâm trạng của những kẻ gây ra những điều gian ác. Tâm hồn họ đã đánh mất sự hiện diện của Thiên Chúa. Tiếng lương tâm cắn rứt chính là dấu chỉ Thiên Chúa vẫn luôn mời gọi họ hối cải.

2. Gio-an Tẩy Giả không phải là ánh sáng, nhưng chỉ đến làm chứng cho ánh sáng. Dù biết rằng mình sẽ phải chấp nhận cái bi đát nhất của cuộc đời, Gio-an vẫn nói lên tiếng nói bất khuất của vị tiên tri. Mọi tiên tri đều phải trả giá cho lời minh chứng của mình. Gio-an Tẩy Giả đã sống anh dũng, can trường với lời nói của mình. Cái đầu phải trả giá là giá nặng nề và đáng nguyền rủa nhất của vị tiên tri sau cái chết đóng đinh nơi thập giá đối với người Do-thái lúc đó. Gio-an Tẩy giả đã tự xóa mình để cho Đấng Cứu độ lớn lên trong lịch sử nhân loại. Lời chứng và cái chết của Ngài, đã nói lên sự thật muôn đời là Gio-an đã hoàn toàn đáp trả lời mời gọi của Thiên Chúa: “Ngài không sợ hãi, lớn tiếng trước mặt các vua chúa. Ngài đã hiến mạng sống cho công bình và chân lý.

3. Còn vua Hê-rô-đê, ông là hình ảnh của những con người yếu đuối, hướng chiều theo tội lỗi. Sở dĩ ông tống ngục ông Gio-an Tẩy Giả là cũng vì nghe lời Hê-rô-đi-a-đê xúi giục, chứ riêng ông thì ông nể sợ Gio-an Tẩy Giả vì biết Gio-an là người công chính thánh thiện. Mác-cô viết: Ông che chở Người. Khi nghe ông nói, nhà vua rất phân vân nhưng lại thích nghe”. Hê-rô-đê chính là mẫu người yếu đuối, buông theo sự dễ dãi đến khi muốn trở lại thì đã quá trễ, không thể làm lại được nữa.

Hê-rô-đê để cho mình bị thú vui nhục dục che khuất, loạn luân, rơi vào cái bẫy “mỹ nhân kế” của mẹ con bà Hê-rô-đi-a-đê bầy ra, rồi lỡ miệng thề thốt trong cơn say, cuối cùng để bảo vệ danh dự, ông đã phạm vào tội ác giết người vô tội. Cũng vậy, xã hội ngày hôm nay, và cách riêng mỗi người chúng ta, giữa những cám dỗ thế tục, những thú vui nơi các cuộc ăn chơi – tụ điểm múa nhảy, rồi kéo theo những hệ lụy sau đó không còn kiểm soát được. Rồi một khi, ai đó dám cảnh tỉnh chúng ta, thì thay vì quay đầu sửa lỗi, lại tìm cách ám hại người nhắc nhở mình, thậm chí sẵn sàng ám hại người khác để bịt đầu mối và bảo vệ danh dự của mình.

4. Còn bà Hê-rô-đi-a-đê từng là vợ của tiểu vương Hê-rô-đê Phi-líp-phê (cũng là một trong ba người con của Hê-rô-đê Cả), do bị thánh Gio-an Tẩy Giả can ngăn, làm ảnh hưởng đến chuyện tư tình của mình với Hê-rô-đê An-ti-pa, nuôi lòng thù hận và đã bầy ra trò mỹ nhân kế của cô con gái rồi dùng bàn tay tình nhân để hãm hại người công chính. Bà là mẫu gương sống theo sự dữ. Đã phạm tội loạn luân, lấy em chồng của mình thì chớ, lại còn căm thù ông Gio-an và muốn giết ông…

Giữa xã hội hôm nay cũng thế, nhiều người không ngại dùng nhiều thủ đoạn thậm chí còn tàn độc hơn cả Hê-rô-đi-a-đê để trả thù những ai dám cản trở những cuộc tình mờ ám hay những việc làm sai trái của mình.

5. Gio-an Tẩy Giả đã lên tiếng tố cáo bất công và sẵn sàng chết cho công lý. Trong ý nghĩa ấy, ngài là vị tiền hô của Chúa Giê-su, ngài qua đi nhưng tinh thần ngài vẫn còn sống mãi trong các môn đệ của ngài, và một cách nào đó, ngài cũng sống trong chính con người Chúa Giê-su và nơi mỗi người Ki-tô hữu. Từ 2000 năm qua, Giáo hội vẫn sống trong niềm xác tín đó. Chính tinh thần Gio-an Tẩy Giả, của các Tông đồ, của các thánh Tử đạo, đã sống mãi trong Giáo hội và trở thành dây liên kết mọi Ki-tô hữu. Điều này luôn được Giáo hội thể hiện qua cử chỉ hôn kính hài cốt của các thánh được đặt trên bàn thờ.

Tập san Giáo hội Á châu do hội Thừa sai Paris xuất bản tháng 12/1995, có ghi lại chứng từ của một vị Giám mục: “Chúng tôi đã cất giữ hài cốt của vị Giám mục tiên khởi của Giáo hội chúng tôi. Chúng tôi tin rằng hài cốt này là thánh thiêng đối với chúng tôi, là dấu chỉ mà chúng tôi không  bao giờ được phép quên lãng. Hài cốt này là sợi dây liên kết Giáo hội mọi thời, mọi nơi. Chúng tôi đã luôn nghĩ rằng chúng tôi không thể cất khỏi sợi dây liên kết hữu hình ấy. Đây là một dấu chỉ nối kết chúng tôi trực tiếp với Chúa Ki-tô. Làm sao người ta có thể đánh mất Chúa Ki-tô? Chúng tôi cất giữ hài cốt này, chúng tôi vẫn tiếp tục yêu mến Chúa Ki-tô và kết hợp với Người mãi mãi” (Mỗi ngày một tin vui).

6. Truyện: Một học sinh can đảm.

Suy niệm gương thánh Gio-an Tẩy Giả: tôi có can đảm và sống Lời Chúa bất chấp mọi khó khăn, mất mát không?

Một học sinh Nhật là Ki-tô hữu duy nhất trong ngôi trường có 150 học sinh. Trước mỗi bữa ăn, em thường mạnh dạn làm dấu thánh giá và đọc kinh. Các học sinh đến tố cáo với thầy giáo là em có “hành vi ma thuật”. Nghe thấy thế, thầy cho gọi em lên đứng giữa lớp, hỏi xem em đã làm gì. Em thẳng thắn nói rằng em chỉ cám ơn Chúa đã ban lương thực hằng ngày. Nghe vậy, thầy giáo gục xuống bàn, nước mắt ràn rụa nói: “Này con, ta cũng là Ki-tô hữu, nhưng ta không can đảm tỏ ra cho mọi người biết. Giờ thì cảm ơn Chúa, ta đã biết là Kitô hữu, mình phải làm gì” (Góp mặt).


BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ
Đức Mẹ Dâng Chúa Trong Đền Thánh

Làm phép và kiệu nến

Hình thức 1: kiệu nến giáo dân tụ họp ngoài nhà thờ

Chủ tế chào giáo dân như thường lệ và đọc:

Anh chị em thân mến, cách đây bốn mươi ngày, chúng ta đã hân hoan cử hành lễ Chúa Cứu Thế giáng sinh. Hôm nay chúng ta mừng ngày Chúa Cứu Thế được Thân Mẫu và thánh Giu-se dâng cho Thiên Chúa Cha trong đền thánh.

Nhìn từ bên ngoài, ta thấy Người làm theo luật dạy, nhưng thực ra, qua biến cố này, Người đến gặp dân Người. Quả vậy, cụ già Si-mê-on và nữ ngôn sứ An-na, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, đã tới đền thánh. Cũng chính nhờ Chúa Thánh Thần soi sáng mà các ngài đã nhận ra em bé Giêsu chính là Chúa của mình và hoan hỷ loan báo cho những người khác.

Phần chúng ta hôm nay cũng vậy, chúng ta đã được Chúa Thánh Thần quy tụ nơi đây, và chúng ta sẽ cùng nhau tiến về nhà Chúa gặp Ðức Ki-tô. Chắc chắn chúng ta sẽ gặp Người, sẽ nhận ra Người khi bẻ bánh, trong lúc đợi chờ Người trở lại vinh quang.

Làm phép nến:

Lạy Chúa là nguồn ánh sáng thật và là Ðấng tạo thành ánh sáng. Chúa đã chỉ cho cụ già Si-mê-on nhận ra Ðức Ki-tô chính là ánh sáng soi đường cho dân ngoại. Chúng con tha thiết nài xin Chúa ban phúc lành mà X thánh hoá những cây nến này. Xin nhận lời dân Chúa đang tụ họp, miệng ca mừng Thánh Danh, tay cầm đèn cháy sáng: Ước gì chúng con luôn thẳng đường ngay lối tiến đến cùng Ðức Ki-tô là ánh sáng chẳng bao giờ tàn lụi. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.

Chủ tế thinh lặng rảy nước thánh.

Chủ tế nhận nến và bắt đầu đi kiệu, ngài nói:

Chúng ta cùng an vui tiến bước để chào đón Chúa Ki-tô.

Sau khi đi kiệu thì hát kinh vinh danh thánh lễ như thường

Hình thức 2: nghi thức nhập lễ trọng thể; giáo dân tụ họp trong nhà thờ.

Chủ tế đến nơi đã định ngoài cung thánh; chào khuyên, làm phép nến, đi kiệu như hình thức I.

Ca nhập lễ

Lạy Chúa, chúng tôi tưởng nhớ lại lòng thương xót của Chúa, ngay trong đền thánh Chúa. Lạy Chúa, cũng như thánh danh Chúa, lời khen ngợi Chúa sẽ vang cùng cõi đất; tay hữu Chúa đầy đức công minh

Lời nguyện nhập lễ

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Con Một Chúa đã mang kiếp người phàm và hôm nay được tiến dâng trong đền thánh. Chúng con khiêm tốn nài xin Chúa cho tâm hồn chúng con cũng nên trong sạch hầu xứng đáng dâng mình trước thánh nhan. Chúng con cầu xin…

Bài Ðọc I: Ml 3, 1-4

“Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, đến trong đền thánh Người”.

Trích sách Tiên tri Malakhi.

Này đây Chúa là Thiên Chúa phán: “Ðây Ta sai thiên thần Ta đi dọn đường trước mặt Ta!” Lập tức Ðấng Thống Trị mà các ngươi tìm kiếm, và thiên thần giao ước mà các ngươi mong ước, đến trong đền thánh Người. Chúa các đạo binh phán: “Này đây Người đến”. Ai có thể suy tưởng đến ngày Người đến, và có thể đứng vững để trông nhìn Người? Vì Người sẽ như lửa thiêu đốt, như thuốc giặt của thợ giặt. Người sẽ ngồi như thợ đúc và thợ lọc bạc, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi, và làm cho chúng nên sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình. Lễ tế của Giuđa và Giêrusalem sẽ đẹp lòng Chúa, như ngày xưa và như những năm trước. Ðó là lời Chúa toàn năng phán.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 23, 7. 8. 9. 10

Ðáp: Vua hiển vinh là ai vậy?

Xướng: Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên; vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu! để Vua hiển vinh Người ngự qua.

Xướng: Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa dũng lực hùng anh, đó là Chúa anh hùng của chiến chinh.

Xướng: Các cửa ơi, hãy ngẩng đầu lên, vươn mình lên, hỡi cửa ngàn thu, để vua hiển vinh Người ngự qua.

Xướng: Nhưng Vua hiển vinh là ai vậy? Ðó là Chúa đạo thiên binh, chính Người là Hoàng Ðế hiển vinh. 

Bài Ðọc II: Dt 2, 14-18

“Người phải nên giống anh em mình mọi đàng”.

Trích thư gửi tín hữu Do-thái.

Vì các con trẻ cùng chung thân phận máu thịt, chính Chúa Giêsu cũng giống như chúng, cũng thông phần điều đó, để nhờ cái chết của Người mà Người huỷ diệt kẻ thống trị sự chết là ma quỷ, và để giải thoát tất cả những kẻ sợ chết mà làm nô lệ suốt đời. Vì chưng Người không đến cứu giúp các thiên thần, nhưng đến cứu giúp con cái Abraham. Bởi thế, Người nên giống anh em Mình mọi đàng, ngõ hầu trong khi phụng sự Chúa, Người trở thành đại giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa, để đền tội cho dân. Quả thật, bởi chính Người đã chịu khổ hình và chịu thử thách, nên Người có thể cứu giúp những ai sống trong thử thách.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Lc 2,32

Alleluia, alleluia! – Ánh sáng đã chiếu soi muôn dân, và là vinh quang của Israel dân Chúa. – Alleluia.

Phúc Âm: Lc 2, 22-32 [hoặc 22-40]

“Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.

Khi ấy, đủ ngày thanh tẩy theo luật Môsê, cha mẹ Chúa Giêsu liền đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Lề luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng sẽ được gọi là người thánh thuộc về Chúa”. Và cũng để dâng lễ vật cho Chúa, như có nói trong Luật Chúa, là một đôi chim gáy, hay một cặp bồ câu con.

Và đây ở Giêrusalem, có một người tên là Simêon, là người công chính, kính sợ Thiên Chúa, và đang đợi chờ niềm ủi an của Israel. Thánh Thần cũng ở trong ông. Ông đã được Thánh Thần trả lời rằng: Ông sẽ không chết, trước khi thấy Ðấng Kitô của Chúa. Ðược Thánh Thần thúc giục, ông vào đền thờ ngay lúc cha mẹ trẻ Giêsu đưa Người đến để thi hành cho Người những tục lệ của Lề luật. Ông bồng Người trên cánh tay mình, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

“Lạy Chúa, giờ đây, Chúa để cho tôi tớ Chúa ra đi bình an theo như lời Chúa đã phán: vì chính mắt con đã nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân, là Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israel dân Chúa”.

[Cha mẹ Người đều kinh ngạc về những điều đã nói về Người. Simêon chúc lành cho hai ông bà và nói với Maria mẹ Người rằng: “Ðây trẻ này được đặt lên, khiến cho nhiều người trong Israel phải sụp đổ hay được đứng dậy, và cũng để làm mục tiêu cho người ta chống đối. Về phần bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thấu tâm hồn bà để tâm tư nhiều tâm hồn được biểu lộ!”

Lúc ấy, cũng có bà tiên tri Anna, con ông Phanuel, thuộc chi họ Asê, đã cao niên. Mãn thời trinh nữ, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi thủ tiết cho đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời khỏi đền thờ, đêm ngày ăn chay cầu nguyện phụng sự Chúa. Chính giờ ấy, bà cũng đến, bà liền chúc tụng Chúa, và nói về trẻ Giêsu cho tất cả những người đang trông chờ ơn cứu chuộc Israel.

Khi hai ông bà hoàn tất mọi điều theo Luật Chúa, thì trở lại xứ Galilêa, về thành mình là Nadarét. Và con trẻ lớn lên, thêm mạnh mẽ, đầy khôn ngoan, và ơn nghĩa Thiên Chúa ở cùng Người.]

Ðó là lời Chúa.

Lời nguyện tiến lễ

Lạy Chúa, Chúa đã muốn Con Một Chúa dâng mình cho Chúa như Con Chiên tinh tuyền để thế gian được sống. Xin cho của lễ Hội Thánh đang hoan hỷ tiến dâng cũng được Chúa chấp nhận. Chúng con cầu xin…

Lời tiền tụng

Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi, mọi lúc thật là chính đáng phải đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con. Hôm nay, con Chúa, Ðấng hằng hữu, được dâng tiến trong đền thờ và được Chúa Thánh Thần công bố là vinh quang của Ít-ra-en và là ánh sáng soi đường cho muôn dân. Vì thế, khi vui mừng nghênh đón Ðấng Cứu Ðộ, chúng con hiệp với các Thiên thần và các thánh ca tụng Chúa mà không ngừng tung hô rằng:

Thánh! Thánh! Thánh!…

Ca hiệp lễ

Chính mắt tôi đã thấy ơn cứu độ mà Chúa đã sắm sẵn trước mặt muôn dân.

Lời nguyện hiệp lễ

Lạy Chúa, Chúa đáp lại lòng mong đợi của ông Si-mê-on là không để ông lìa đời trước khi đón nhận Ðức Kitô. Xin cho bí tích thánh thể chúng con vừa lãnh nhận kiện toàn ơn Chúa nơi chúng con, và khi đến ngày đi gặp Ðức Kitô, xin cho chúng con được sống muôn đời. Chúng con cầu xin…

Suy niệm

ÁNH SÁNG MUÔN DÂN 

LỄ DÂNG CHÚA GIÊSU TRONG ĐỀN THỜ (Lc 2, 22-32)
+ TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Từ truyền thống xa xưa, ngày lễ được cử hành vào ngày 2-2 dương lịch được gọi là “Lễ Nến”, bởi trong thánh lễ có nghi thức làm phép Nến. Có một thời, người ta coi ngày lễ này là lễ kính Đức Maria, dựa trên trình thuật của Thánh Luca về việc Đức Maria mang lễ vật dâng vào đền thờ, để được thanh tẩy như luật định. Từ năm 1969 lễ này không còn thuần ý nghĩa lễ dành kính Đức Maria, nhưng được đổi thành lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ, với mục đích quy hướng chúng ta về Chúa Giêsu, Đấng Thiên sai đã đến trần gian để cứu độ nhân loại

Khi gọi ngày lễ này là lễ “Dâng Chúa Giêsu vào Đền thờ”, phụng vụ muốn nhắc tới sự kiện Đức Mẹ và Thánh Giuse thực hiện điều được quy định trong luật Môi-sen. Đây là những quy định chúng ta có thể đọc thấy trong sách Xuất Hành, sách Lêvi và sách ngôn sứ Isaia ( Xh 13,11-16; Lv 12,1-8; Is 88,14f;42,6). Nội dung những khoản Luật này nói về nghi thức dâng con đầu lòng cho Chúa vào thời điểm khoảng 40 ngày sau khi con trẻ được sinh ra. Nghi thức này vừa khẳng định những trẻ nam đầu lòng thuộc về Chúa, vừa là nghi thức thanh tẩy đối với người phụ nữ sau khi sinh. Bởi lẽ, theo quan niệm Do Thái xưa kia, sau khi sinh con, người phụ nữ trở thành “ô uế”.

Đức Mẹ và Thánh Giuse cũng làm theo luật đã ghi chép, tức là đem Hài Nhi Giêsu dâng cho Chúa. Theo Thánh Luca, nghi thức dâng Chúa Giêsu trong đền thờ Giêrusalem theo luật định lại trở nên cuộc gặp gỡ kỳ diệu: Hai người đạo đức Ông già Simêon và Bà Anna được hạnh phúc bồng bế hài nhi Giêsu trên tay mình. Họ là những người từ nhiều năm hằng trông đợi Đấng Cứu Thế mà Thiên Chúa đã hứa. Qua cuộc gặp gỡ này họ đã nhận ra hài nhi Giêsu là “ánh sáng cho mọi dân tộc” (Lc 2,22-40). Phụng vụ Kitô giáo diễn tả nghi lễ này như một cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với Dân của Người. Lần đầu tiên, Chúa Giêsu hiện diện trong Đền thờ, là trung tâm của Do Thái giáo, biểu tượng cho sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Dân Ngài. Việc Chúa đến mở ra một giai đoạn mới trong chương trình cứu độ. Ngài sẽ trở nên ánh sáng muôn dân và thánh hóa con người. Người cũng làm cho những hy lễ dâng tôn thờ Thiên Chúa Cha mang một ý nghĩa mới. Đây cũng là điều chúng ta đọc trong Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Isaia. Vị ngôn sứ đã thông báo: “Này đây Người đến. Khi Người đến, Người sẽ thanh tẩy con cái Lêvi và làm cho chúng thanh sạch như vàng bạc. Chúng sẽ hiến dâng lễ tế cho Chúa trong công bình”. Chúa Giêsu xuất hiện trong Đền thờ để thân thưa với Chúa Cha: “Này con đến để thực thi ý Chúa”. Sau này, Người còn đến Đền thờ nhiều lần, không phải để thi hành công việc tế tự, nhưng để thanh tẩy Đền thờ. Trong giáo huấn của Người, Chúa cũng kịch liệt lên án một thứ phụng tự chuộng hình thức, xa rời tình yêu và thiếu vắng thương xót, để kêu gọi mọi người hãy tôn thờ Chúa trong tinh thần và Chân lý.

Qua nghi lễ dâng Hài Nhi Giêsu dâng trong Đền thờ, Đức Maria và Thánh Giuse đã chu toàn những điều Luật dạy. Phụng vụ Kitô giáo cũng nhìn thấy ở đây sự hạ mình của Con Thiên Chúa. Đức Giêsu mang lấy thân phận con người và sống như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Tác giả thư Do Thái khẳng định: Chúa Giêsu trở nên giống như anh em mình mọi đàng, nhờ đó, Người trở thành vị Đại Giáo trưởng nhân lành và trung tín với Chúa. Vì là người như chúng ta, Đức Giêsu cảm thông với chúng ta, chia sẻ những tâm tư của phận người, nâng đỡ những ai chịu thử thách và đem cho họ ơn niềm vui ơn cứu độ (Bài đọc II).

“Ánh sáng chiếu soi các lương dân, và vinh quang của Israen Dân Chúa”. Đó là lời ca tụng của cụ già Simêôn. Lời ca tụng này diễn tả chủ đề chính yếu của Phụng vụ hôm nay. Chủ đề “Ánh Sáng” được nhấn mạnh trong phụng vụ lễ Giáng Sinh, Lễ Hiển Linh và Lễ Chúa Giêsu chịu phép Rửa. Ngày hôm nay, một lần nữa, chủ để này lại được nhắc tới. Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian. Người đến để chiếu soi đêm tối nơi lòng người. Đó là đêm tối của hận thù, chia rẽ, tội lỗi và sự chết. Tác giả Tin Mừng thứ bốn giới thiệu với chúng ta: “Ngôi Lời là ánh sáng thậtánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người” (Ga 1,9). Chính Chúa Giêsu khẳng định: “Chính tôi là ánh sáng cho trần gian, ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Người đã chữa cho người mù từ khi mới sinh, không chỉ con mắt thể lý, mà còn con mắt tâm hồn. Nhờ đó anh trở nên sáng mắt và sáng suốt nhận ra Người là Đấng Thiên sai và Đấng Cứu độ trần gian.

Năm 1997, thánh Gioan Phaolô II Giáo Hoàng đã thiết lập lễ Dâng Chúa Giêsu trong Đền thờ là ngày Quốc tế của đời sống thánh hiến, với ước nguyện những ai dấn thân sống đời tu trì trở nên giống Chúa Giêsu và trở thành ánh sáng cho trần gian.

Trở nên ánh sáng là ơn gọi của các Kitô hữu, như Chúa đã nói. Tuy vậy, những người sống đời thánh hiến lại tình nguyện sống triệt để lời gọi này qua việc khấn giữ ba nhân đức Phúc âm, đó là Khó nghèo, Khiết tịnh và Vâng lời. Đức Thánh Cha Phanxicô mong ước, ở đâu có tu sĩ, ở đó có niềm vui. Ngài cũng khích lệ các tu sĩ nam nữ: anh chị em hãy đánh thức thế giới bằng đời sống thánh thiện và hy sinh của mình. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những ai sống đời sống thánh hiến, biết tỏa sáng xung quanh bằng sự thánh thiện đơn sơ, với lòng yêu mến chân thành và nhiệt huyết tông đồ. Chúa Giêsu đã dạy: “Anh em là ánh sáng thế gian…Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ nhìn thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).

Một câu chuyện do chính Mẹ Têrêxa kể lại: một ngày kia tại Melbourne, Úc, Mẹ đến thăm viếng một người đàn ông nghèo nàn không được một ai quan tâm đến. Ông ta sinh sống dưới tầng hầm, trong một căn phòng dơ dáy, hôi tanh, không có ánh sáng. Mẹ bắt đầu bằng việc thu dọn và sắp xếp lại căn phòng. Ban đầu, ông ta cự tuyệt:

– “Bà cứ để mọi sự như cũ. Tôi quen như vậy rồi”.

Dù thế, Mẹ vẫn cứ xúc tiến công việc dọn dẹp và gợi chuyện để nói với ông. Tình cờ, dưới một đống rác, Mẹ phát hiện ra một cây đèn dầu phủ đầy bụi bặm. Mẹ lấy cây đèn ra lau chùi, và nhận thấy nó khá đẹp. Mẹ nói với ông ta:

– “Ở đây, ông có một cây đèn rất đẹp. Sao ông không bao giờ thắp sáng nó lên vậy?”.

Người đàn ông này đáp:

– “Tôi không bao giờ thắp sáng cây đèn đó vì có ai đến thăm tôi đâu!”

Hai trong số các nữ tu của Mẹ Têrêxa bắt đầu thường xuyên đến thăm ông. Mọi sự dần dần được cải thiện đối với ông ta. Mỗi lần các nữ tu đến thăm, thì ông ta đều thắp đèn lên. Thế rồi một ngày kia, ông nói với các nữ tu:

– “Thưa các Sơ, kể từ nay, tôi có thể tự xoay sở được rồi. Xin nói dùm với người nữ tu đầu tiên đến thăm tôi rằng, ánh sáng mà bà đã thắp lên trong cuộc đời tôi hiện vẫn còn đang cháy sáng”.

Cây đèn bên ngoài đã được thắp lên, vì ngọn đèn trong tim ông đã sáng lên. Ánh sáng đó được truyền qua nhờ lòng nhân ái của Mẹ Têrêxa và các nữ tu của Mẹ.

Lạy Chúa Giêsu là Ánh Sáng trần gian, xin cho chúng con tiếp nhận từ nơi Chúa ánh sáng thiêng liêng, để chúng con biết đường đi đến Chân Lý, đồng thời trở nên ánh sáng cho những người xung quanh. Amen.

 

CHÚA VÀO NHÀ THỜ
Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Cha mẹ Chúa Giêsu đem Người lên Giêrusalem để hiến dâng cho Chúa”.

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ khá bất ngờ khi lễ Dâng Chúa Vào Đền Thánh hay ‘Chúa vào nhà thờ’ được ví như chiếc kính vạn hoa với những tên gọi, những ý nghĩa và những truyền thống khác biệt chồng ghép lên nhau tựa hồ những mảnh hoa muôn màu nhảy múa trong kính vạn hoa.

Với mỗi vòng xoay, kính tỏ hiện vẻ đẹp sâu sắc này đến vẻ đẹp sâu sắc khác. Xoay nhẹ vòng đầu tiên, lễ Thanh Tẩy Của Đức Mẹ; xoay tiếp, lễ Chúa Tỏ Mình, lễ Hiển Linh của anh em Đông Phương; và xoay nữa, lễ Nến, Chúa Giêsu là ánh sáng xua tan bóng tối.

Đằng sau tất cả những tên gọi giàu ý nghĩa ấy, Luca coi biến cố ‘Chúa vào nhà thờ’ là việc chu toàn luật của Maria sau bốn mươi ngày sinh con. Chúa Giêsu sẽ vào đó lần nữa khi còn là một cậu bé và về sau, trưởng thành, Ngài vẫn vào đó. Ngài còn coi thân xác mình như một đền thờ sẽ được dựng lại trong ba ngày. Như thế, từ ấu thời cho đến cuối đời, cuộc sống Chúa Giêsu là sự tự hiến liên lỉ cho Chúa Cha. Cha mẹ Ngài không mang con lên núi, xuống biển hay tìm một khu rừng huyền hoặc, nhưng trong đền thờ, nơi Thiên Chúa ngự. Để từ đây, Thiên Chúa không chỉ ở trong đền thờ nhưng còn ở trong Con Một.

Giêrusalem tráng lệ, nơi Chúa Giêsu vào lần đầu đã bị thiêu huỷ năm 70. Đền thờ trần gian bị hủy, nhưng Đền Thờ Thân Mình Ngài sẽ tồn tại muôn đời. Kitô giáo chưa bao giờ có một nơi thiêng thánh so với đền thờ của người Do Thái hay Kaaba của người Hồi ở Mecca. Đức tin Kitô giáo có tính lịch sử và phạm vi toàn cầu; nó không được phép gieo trồng ở một nền văn hoá hay chỉ ở một địa điểm. Nó được định sẵn cho mọi nền văn hoá thuộc mọi thời đại. Mỗi nhà thờ Công giáo, với Thánh Thể, đã có đầy đủ những mầu nhiệm sâu xa nhất của niềm tin. Không cần hành hương đến Rôma hoặc Giêrusalem một lần trong đời, chúng ta ‘hành hương’ đến nhà thờ giáo xứ ít nữa mỗi tuần một lần để dự Lễ.

Giáo Hoàng không sống ở Giêrusalem, chiếc nôi của đức tin; Phêrô không nhất thiết phải ở lại đó mới thể hiện lòng trung thành với Thầy. Chúa Kitô ở đâu, Giáo Hội ở đó. Vì thế, lễ ‘Chúa vào nhà thờ’ nhắc chúng ta tìm Chúa Giêsu trong nhà thờ giáo xứ mình. Charles Swindoll nhận định, “Sự bận rộn ức hiếp các mối tương quan. Nó nuôi sống cái tôi nhưng bỏ đói con người bên trong; lấp đầy lịch, nhưng phá vỡ một gia đình; vun trồng một chương trình vốn cày xới các ưu tiên. Nhiều nhà thờ tự hào về chương trình dày đặc, ‘Một điều gì đó mỗi tối cho mọi người’. Xấu hổ! Việc tập hợp với mục đích tốt có thể tạo bầu khí mà nó được thiết kế ‘để hạn chế’ việc yêu mến và ước ao gặp gỡ Đấng ngự trong nhà thờ, ngự trong lòng người đến nhà thờ, và cả trong lòng những người ở ngoài nhà thờ!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Swindoll có lý! Lễ ‘Chúa vào nhà thờ’ nhắc chúng ta rằng, Chúa Giêsu đang ở đó, ước ao chúng ta tiếp nhận Ngài; ra khỏi nhà thờ, chúng ta tiếp tục đón Ngài, yêu mến Ngài trong anh chị em mình. ‘Chúa vào nhà thờ’ còn nói rằng, chúng ta là ‘Đền Thờ sống động và di động’ của Ngài. Mỗi ngày, Ngài đến trong chúng ta để chúng ta ngày càng nên giống ‘Giêsu hơn’; ‘thêm chất Chúa, bớt chất người’. Qua chúng ta, Ngài ở giữa dân Ngài, gặp gỡ họ; và qua chúng ta, Giêsu, “Ánh Rạng Ngời Chân lý” xua tan bóng tối, soi tỏ trần gian.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ước gì, con là chiếc ‘kính vạn hoa Giêsu’, nơi anh chị em con có thể nhìn thấy muôn vẻ lộng lẫy và huyền nhiệm của Chúa!”, Amen.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây