TIN MỪNG CHÚA NHẬT - LỄ TRỌNG

CN34TNb - Đức Giêsu Kitô, Vua Vũ Trụ

“Quan nói đúng: Tôi là Vua”. (Ga 18, 33b-37)
Đọc các tin khác ➥
TÌM KIẾM

Mây Bay Về Ngàn (1)

Chủ nhật - 14/11/2021 23:51 | Tác giả bài viết: Lm Lã Mộng Thường |   1058
Cuốn truyện Mây Bay Về Ngàn rất khó đọc bởi nó là tổng hợp một số “Informations” từ các đạo học, chẳng hạn Phật học, Ấn học, Lão học, Điểm Đạo Ai Cập, và Phúc Âm.
Mây Bay Về Ngàn (1)

Mây Bay Về Ngàn (1)
Lm Lã Mộng Thường

Cuốn truyện Mây Bay Về Ngàn rất khó đọc bởi nó là tổng hợp một số “Informations” từ các đạo học, chẳng hạn Phật học, Ấn học, Lão học, Điểm Đạo Ai Cập, và Phúc Âm. Riêng Điểm Đạo Ai Cập, các đấng Công Giáo rất sợ nó và thường gọi nó là Tam Điểm (tôn giáo). Mây Bay Về Ngàn được viết về những chi tiết để một người nghiệm xét, nghiệm chứng bằng cách dùng tri thức tự nghiệm lại những sự thể diễn biến nơi tâm tư chính mình của độc giả để đạt tới nhận thức thực thể của mình là gì, liên hệ với Thiên Chúa thế nào qua những câu nói ngổ ngáo nơi các sách đạo học. Như thế nó đòi hỏi độc giả hồi tâm xét lại nhận thức, những diễn biến nơi tâm tư của mình được Phúc Âm gọi là “Cửa hẹp” hay “Con đường hẹp” mà thường thì tâm hồn mỗi người quá quen thói hướng ngoại, cứ nghĩ những câu nói ngang ngửa nơi các sách đạo học nói về những gì bên ngoài mình. Thế nên, nếu đọc Mây Bay Về Ngàn như đọc truyện, dẫu nó được viết dưới hình thức truyện của những tay rượu chè khi sừng sừng lên ăn nói tào lao thiên tướng, thì quả là vô ích, thà đừng đọc còn hơn.

 

Tuy nhiên, nếu đọc với tâm tư muốn tự nghiệm lại chính mình, tất cả những gì ngang ngược được trình bày đang xảy đến nơi tâm tư, độc giả sẽ cảm thấy quay cuồng, rối mù, chẳng khác gì đang đối diện với đám mây mù tối để rồi bị dồn ép vào góc tối tâm tư, vô phương nhận thức, không biết lối nào thoát khỏi, luẩn quẩn, loanh quanh, không đầu, không đuôi, chẳng đúng, chẳng sai vì tất cả cứ quấn quyện đảo lộn tất cả những quan niệm, chiều hướng của một người... Tới thời điểm nào đó sẽ hoát nhiên thức ngộ. Sự thức ngộ này chỉ người đó biết, không thể nói gì, không cách nào chia sẻ, chẳng khác gì câu nói nơi Lão học, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” 

 

CHƯƠNG I 


- Phật cáo tu bồ đề: chư bồ tát ma ha tát ưng như thị hàng phục kỳ tâm. Sở hữu nhất thiết chúng sanh chi loại, nhược noãn sanh, nhược thai sanh, nhược thấp sanh, nhược hóa sanh, nhược hữu sắc, nhược vô sắc, nhược hữu tưởng, nhược vô tưởng, nhược phi hữu tưởng, phi vô tưởng, ngã giai linh nhập. Vô dư niết bàn nhi diệt độ chi. Như thị diệt độ vô lượng, vô số, vô biến chúng sanh, thực vô chúng sanh đắc diệt độ giả. Hà dĩ cố? Tu bồ đề, nhược bồ tát hữu ngã tướng, nhân tướng, chúng sanh tướng, thọ giả tướng tức phi bồ tát... (KCGL; Tr.22-23).


Hưng ngồi ghế đầu dãy bàn dài, lim dim cặp mắt, dường như để tâm trí bay bổng nơi cõi hư vô; chiếc đầu theo thân mình nhẹ nhàng chuyển động hòa cùng lời kinh tiếng Hán pha lẫn Phạn buông lơi từ cửa miệng chẳng khác chi nhà sư đang cầu siêu. Gần nửa tiếng đồng hồ nghe mà chỉ những giọng ngân nga loại ngôn ngữ tối mù, tiếng Việt không ra Việt, Tàu không ra Tàu, nói gì những sắc sắc, vô vô, nhược nhược, phi phi, khiến cái đầu Sỹ quay quay mà vẫn chưa thấy gì về điểm chính yếu của Phật học. Hắn nổi cơn bực:

- Thôi, thôi, thôi! Đủ rồi, đủ rồi, cái giọng ông giống như sư cụ tụng niệm cầu siêu! Kinh sách thì kiếm đâu chẳng có; ai đọc không được, và dẫu có đọc cả đời cũng không hết. Ông làm ơn nói một câu thôi, chỉ cần cho chúng tôi biết mục đích hay ý chính của Phật học là gì. Bộ ông tưởng chúng tôi không biết chữ hay sao nên cần gom tụ về đây nghe ông nhai lại những điều đã được ghi chép trên giấy trắng mực đen!

- Tôi giảng kinh Kim Cang. Dẫu đang ê a cố lấy giọng tụng kinh, Hưng đã vội phát ngôn thành lời kẻ cả của diễn giả. Bộ ông không biết Lục Tổ Huệ Năng nghe lóm được một câu kinh Kim Cang khi đi ngang nhà một bà già đang tụng niệm mà thành chánh quả sao? (GLTH; Tr.162). Giảng kinh thì phải trình bày kinh cho đúng với lề lối nhà Phật. Giảng kinh mà không tụng kinh thì tụng điều chi? Cầu Trời khấn Phật ai không biết; ngược lại, nào ai nhận ra mình chỉ cầu điều không biết hoặc chẳng nên, ấy là chưa nói đến cầu những điều làm mình luẩn quẩn trong vòng vô minh!

- Không chánh quả, phụ quả chi hết! Chúng tôi chỉ cần ông nói điểm chính yếu của nhà Phật chứ ông đã chánh quả đâu mà đòi giảng kinh. Kinh Phật còn đó, ai tụng không được! Xin ông làm ơn dẹp cái giọng nghênh ngang, lè nhè của ông đi cho chúng tôi nhờ.

 

Thế là nhóm họp trở nên ồn ào như vỡ chợ, bịt cả miệng giảng viên. Kẻ nói câu này, người chêm lời diễu khác chẳng ai để ý vì ai cũng thích nói. Cuối cùng Sỹ hô lên:

- Yêu cầu im lặng, mọi người nên im lặng để nhà con đòi hỏi diễn giả tóm tắt sự khôn ngoan nơi kinh Phật. Đoạn hướng về phía Hưng, Sỹ thao thao ra lệnh. Ông nên nhớ, người ta nói “Kinh nhà đạo, gạo nhà chùa,” chứ đâu phải kinh nhà Phật; mà ông cố ù lì cò cưa mất giờ ăn nhậu. Cho ông một phút, chỉ một phút thôi; vì nếu một phút mà ông không nói được điều muốn nói thì cả đời cũng chẳng nói được. Nếu ông đã biết thì nói toạc móng heo cho đỡ mất giờ, không biết dẫu cho lè nhè cách mấy cũng chẳng nói được gì. Nói lẹ, nói gấp, nếu không yêu cầu hội đồng tuyên án phạt.

Nét mặt Hưng vẫn lộ vẻ nhỡn nhơ, chừng như không để ý đến những lời nói và thái độ hùng hổ do “đến cơn” thèm nhậu của Sỹ “nhà con,” được phụ họa bởi sự ồn ào nơi mười mấy cái mỏ bàn ra tán vô, rình cơ hội có người đề nghị tuyên án phạt để vào hùa, cùng cổ võ cho cái công lý nơi tòa án bạn bè tự do phát biểu theo kiểu dân chủ, đa số thắng tiểu số; mặc dầu lý lẽ nhiều khi chẳng đâu vào đâu, miễn sao có kẻ lên tiếng yêu cầu hội đồng tuyên án; do biết rõ, cả hai bên bị cáo và nguyên cáo lúc nào cũng sẵn sàng tuyên dương công lý bằng cách cùng bàn nhậu nhoẹt; vì nay anh, mai tôi, dân nhậu là thế, nào có lọt đi đâu mà e ngại thiệt thòi. Biết vậy, Hưng thầm nghĩ cách gài Sỹ bị phạt làm bữa nhậu tới; bèn giơ tay ra hiệu cho mọi người bớt ồn ào đoạn lấy giọng nghiêm trang lên tiếng:

- Tôi có lời yêu cầu chủ tịch hội đồng giải thích về sự luận xử kẻ gây rối lúc diễn giả đang giảng kinh, khiến khán thính giả bị đình trệ cơ hội thức ngộ.

- Lúc này không phải là lúc giải thích, giải yêu, hay giải bùa, mà là tuyên án về tội lè nhè uổng phí thời giờ, và làm chậm trễ cơ hội thức ngộ của mọi người. Nhà con cực lực yêu cầu hội đồng ra lệnh phạt. Sỹ bất chấp, chỉ nằng nặc kiếm cớ gây án nhậu, lại dùng ngay ngôn từ “thức ngộ” thường được Hưng nhấn mạnh lúc nói kinh Phật với ý đồ dùng gậy ông đập lưng ông.

Sỹ hay dùng tiếng “nhà con” mang đầy vẻ lễ độ, khách sáo, nhưng ý nghĩa ám chỉ ngang bằng phải lứa anh, tôi; vì danh xưng “nhà con” là tiếng người Bắc hay dùng để chỉ người phối ngẫu khi nói chuyện với những bậc trưởng thượng. Trong khi nói chuyện với bạn bè, Sỹ dùng ngôn từ này với ý chỉ chính mình nên có biệt danh là “Sỹ nhà con.” Hơn nữa, nơi vùng bờ biển nhỏ bé chẳng được bao nhiêu gia đình Việt Nam cư ngụ mà có những ba người tên Sỹ; bởi vậy, khi nói đến tên, người ta nhắc kèm danh hiệu cho dễ phân biệt. Một Sỹ mang danh hiệu “Trùm;” vì ngày xưa hồi còn trẻ, cụ trùm này nói tục văng mạng nên được gán cho biệt danh “trùm tục.” Một Sỹ khác có biệt hiệu “Sỹ gáy.” Ngữ này nổ tào lao thiên tướng. Nói chuyện về bất cứ vấn đề gì, hắn ta cũng tỏ ra đã thừa biết, dầu chẳng biết gì ngoại trừ tên câu truyện vừa được nhắc tới. Hắn ta hay dùng câu “tớ đã biết thừa” nên cũng được gọi là “Sỹ biết thừa;” sau này mấy người quen đổi thành “Sỹ gáy.” Gáy là tiếng lóng có nghĩa như nổ; nên biệt hiệu của hắn thay đổi cũng chẳng lạ gì. Sỹ nhà con đã nhiều lần kiếm cớ và thường được mọi người hưởng ứng nên cố nhấn mạnh “lệnh phạt.”


Thế là cả bọn khán giả đồng loạt to miệng a-rua, phạt, phạt, phạt…, kèm theo những tiếng vỗ tay nhịp nhàng cổ võ ý kiến tuyên án. Nói rằng cổ võ mới đúng; vì nào ai lạ gì, bạn bè lại sắp có thêm cơ hội, hè nhau chia sẻ tiết canh vịt hoặc vịt nấu chao, tái ngan hay nhúng giấm, cá gỏi, cá hấp, đâu dễ chi được họ bỏ lỡ. Thế nên, cứ vung vít hùa theo, kẻ cổ võ lại đứng vào phe nguyên cáo, đàng nào cũng có lợi; bởi đúng, sai, phải, trái, đâu không biết, nhưng bên nào bị phạt họ cũng đều được vinh quang tham dự, ly anh, chén tôi, cùng nâng cao tuyên dương công lý của kẻ to miệng.

- Tôi không chống án, nhưng tôi chỉ yêu cầu hội đồng xét xử cho công bình, hợp lý, hợp tình, tránh điều oan ức cho bất cứ ai. Tất nhiên, án phạt đã được quyết định; vấn đề chỉ là ai phải thi hành án phạt mà thôi. Hưng lại giơ tay, nói rõ từng tiếng lấy lại trật tự.

- Tuyên án, tuyên án. Mời chủ tịch hội đồng lên tiếng. Dăm cái mỏ thúc giục.

- Hãy khoan, tôi chưa nói xong. Nguyên cáo Sỹ dám thách thức tôi tổng kết sự khôn ngoan của lời kinh Phật trong vòng một phút. Tôi sẽ thực hiện với chỉ một câu. Vậy nếu tôi thi hành chu toàn nhiệm vụ này, phỏng án phạt có được trao cho kẻ to miệng phá đám làm mất thời giờ của hội đồng không? Tôi chỉ muốn được xét xử cho công bằng; kẻ gây rối phải được trị tội, và đồng thời cũng là cơ hội nêu cao công lý ngăn ngừa ý đồ nước đục thả câu. Xin chủ tịch phát biểu.

- Không cần chủ tịch lên tiếng, nhà con dám thách đố, nếu diễn giả chỉ nói một câu có thể gom tóm sự thức ngộ kinh Phật, nhà con bằng lòng chịu phạt không ý kiến, không kêu nài chống án.

- Ý kiến hay, ý kiến hay. Hoan hô Sỹ nhà con. Chỉ một câu thôi, nếu nói câu thứ hai sẽ bị phạt. Hoan hô, lại những tiếng vỗ tay khuấy vào cảnh ồn ào giống đàn ong mất chúa được phụ họa với những nét mặt tươi rói. Bia bung tiếp tục thi nhau lách tách nổ chào mừng công lý sắp sửa hạ màn kiến tạo cơ hội. Thế là chắc như bắp, chẳng Hưng thì Sỹ phải thi hành án phạt; mọi người đều cảm thấy phấn khởi vì sắp có thêm dịp nhậu. Chính lúc ấy, trưởng hội “mới bị ép buộc,” chẳng đặng đừng phải nhận lãnh trách nhiệm, đành đứng dậy giơ hai tay đàn áp cảnh ồn ào.

- Nhân danh chủ tịch hội đồng, yêu cầu mọi người im lặng chuẩn bị tuyên bố án lệnh. Trước hết, bị can diễn giả thi hành chức vụ với một câu nói để hội đồng nhận định tùy cơ quyết định. Mời diễn giả lên tiếng.

- Tỳ kheo thân mến, đây là điểm rốt ráo của nhà Phật.

- Hết một câu. Yêu cầu hội đồng tuyên án. Sỹ nhà con vội lên tiếng chụp cơ hội.

- Tôi chưa nói hết câu, đây mới chỉ là phần mở đầu giới thiệu.

- Một câu là một câu, không cần biết giới thiệu, quảng cáo chi hết. Sỹ nhà con lý luận.

- Ngày xưa đức Thích Ca sau bốn mươi chín năm giảng lẽ Phật học mà vẫn chưa nói gì, thì tôi đã nói chi đâu! Yêu cầu chủ tịch cho ý kiến.

- Đã hết phần giới thiệu, bây giờ đến câu nói tổng kết kinh Phật. Bị can diễn giả được phép nói. Ông Thung giơ tay dàn xếp.

- Trong Lâm Tế Lục có câu, phá hết, bỏ hết, “Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ” (NVTH; Tr.63), gặp pháp bỏ pháp, không tin ai nói, không để kẻ nào hay bất cứ sự khôn ngoan hoặc lý thuyết nào đánh lừa, mê dụ.

 
Mọi người đang kiếm cách phá đám, chê trách diễn giả lòng thòng rắc rối làm mất thời giờ thưởng thức món rùa rang muối đã được thông báo trước khi nghe giảng kinh Phật thì lại chợt ngỡ ngàng vì câu nói của cũng anh chàng diễn giả lè nhè khiến những chiếc mũi như bị tịt, quên cả mùi sả cháy lẩn quất lan vào không khí, bốc ra từ lò nướng nơi khoảnh bếp lan tới.

- Ông nói sao? Gặp Phật giết Phật thì còn gì để nói? Gặp pháp bỏ pháp sao trở thành Phật? Phải phạt! Không thể châm chước! Yêu cầu hội đồng dự thính phạt ông thầy lè nhè này năm két bia vì dám lộng ngôn xúi bậy. Hiểu hay không chẳng cần biết, Sỹ nhà con mượn cớ dùng lẽ cả vú lấp miệng em cố gán ép cho Hưng phải làm bữa nhậu.

Câu nói vừa thoát ra từ cửa miệng Hưng khiến mọi người cảm thấy bàng hoàng; vì không ngờ hắn dám bạo miệng như thế. Mới đầu ê a kinh Phật mà đến khi tóm tắt lại phá hết, bỏ hết, giết cả Phật, cả tổ thì còn thói phép nào bậy hơn! Bao nhiêu người xưa nay không dám dẫu chỉ nói diễu về Phật, nhất là đạo Phật; vì nói đụng đến tôn giáo là điều tối kỵ, bởi phần nào mang tính cách khinh khi niềm tin của kẻ khác. Đàng này, Hưng nói về kinh Phật mà câu nói còn quá người chống báng, chế diễu; khiến một vài người cảm thấy máu nóng bốc lên tạo thành tâm trạng khó chịu, bực bội với kẻ nói câu ngang ngược. Và mấy cánh tay giơ lên tỏ ý muốn phát biểu. Ông Thung cũng cảm thấy bối rối không kém.

Không ngờ Hưng dám bạo mồm miệng đến như thế! Mà nào hắn đã uống bao nhiêu đâu, mới có hai chai Heineken thì làm sao có thể khiến đầu óc cái thùng chứa ấy bị ảnh hưởng, sinh sự lộn xộn được. Mấy người giơ tay có vẻ bị đụng chạm tự ái; mặt nào mặt nấy lộ nét căng thẳng. Phải dẹp cái miệng chú này thế nào đây; âu cũng tại mình đưa ra đề nghị khiến giờ bị bối rối; ông thầm nghĩ mà cảm thấy lòng ruột nhộn nhạo, miệng lưỡi luống cuống không biết ăn nói kiểu nào để có thể xoa dịu mấy cánh tay đang giơ cao vì tự ái tôn giáo bị tổn thương.

 

* * *


Trưởng hội đồng dáng người vừa tầm, hơi có chút da thịt, và dễ thương, độ chừng sáu mấy. Một người khắc kỷ như ông Thung mà giữ chức quan tòa quyết định việc thưởng phạt của hội đồng nhố nhăng vô trật tự, được phụ họa bằng những cái mỏ coi trời bằng vung, kể cũng là chuyện hiếm có. Mấy năm trước kỳ mới quen những người trong nhóm nhậu, ông Thung rất ít nói, ngược lại, khi nào lên tiếng chỉ luôn luôn đưa ra những nhận định đúng, sai, phải, trái, nên thế này, chẳng nên thế kia liên hệ tới vị thế người phát biểu. Ông ít nói có lẽ vì nhận thấy quá nhiều người nói những điều, theo ông nghĩ, chẳng nên nói nơi vai trò của họ. Vẻ bên ngoài nghiêm trang, kín đáo, thêm phần chừng mực tạo nơi lòng người đối diện với ông sự kính nể, tôn trọng, đồng thời không tránh thoát nỗi e dè. Tuy nhiên, từ khi quen với Hưng nhân một hôm hai người tham dự đám cưới; dần dà ông bị cuốn hút đàn đúm với nhóm to miệng này. Sự thay đổi bản chất khắc kỷ và nhãn quan eo hẹp đến với ông kể cũng chua cay, nhưng đem lại lợi ích cá nhân lớn lao xét về phương diện ý thức. Nguyên nhân gây nên sự thay đổi lại chính là Sỹ nhà con to mồm, ông ổng phát ngôn giữa bàn nhậu về giá trị sự sống nhân lúc mọi người đã ngà ngà.

- Đời đáng sống hay không đáng sống thì nói làm quái gì! Đâu phải tự mình muốn được sinh ra mà đặt vấn đề giá trị hay không! Tôi hỏi các ông, mẹ các ông đâu bao giờ hỏi ý kiến các ông có muốn chui ra khỏi bụng mấy bà ấy, hoặc được phép nằm lỳ đến lúc nào chán thì bò ra đâu! Thế nên, mình được sinh ra, nói cho đúng, bị sinh ra để sống thì cứ sống. Hơn nữa, trước khi đặt vấn đề giá trị sự sống thì mình đã và đang sống; do đó chúng ta chẳng phải trở nên cái quái gì cả! Bộ không làm được ông nọ bà kia, chẳng lẽ mình chỉ là những xác chết biết thở? Tôi nghĩ, ai muốn làm ông nọ bà kia hãy coi chừng có ngày lãnh thẹo chứ hay ho gì mà cũng tốn hơi bàn luận.

 
Sỹ nhà con xưa nay ồn ào, náo động, ngược lại ít bị phản đối vì hắn có lối lý luận trộn lẫn những ý tưởng đang bàn thảo và thực tại coi bộ ngây ngô nhưng nghe hợp tình, hợp lý, đồng thời lắm lúc đưa lên mặt trái của những vấn đề thường tình khiến người nghe thấy ngạc nhiên, thích thú. Hắn lại thích diễu, dám nhảy xổ vào bất cứ câu chuyện nào dù quan trọng, trang nghiêm hay nhàn đàm, bẻ quặt bẻ quẹo ý nghĩa của lời vừa được nói theo chiều hướng khác với ý định của kẻ phát biểu; khiến đôi khi người nói bị mang vạ chẳng ngờ để rồi đành chấp nhận bị phạt bằng bữa nhậu. Tất nhiên, rượu vào, lời ra, mà khi đã chếnh choáng hơi men giữa đám bạn bè quen biết; mấy ai để ý đến lời nói. Có chăng, giới xồn xồn lúc xỉn xỉn chỉ kiếm cách nói cho vui, càng phá ngang nhiều càng tốt vì càng bới ra lắm chuyện để nói. Khổ nỗi, dẫu đàn đúm với nhóm nhậu, ông Thung lại không biết uống bia. Có lần bị ép quá, ông ráng cầm hơi, nín thở chịu đựng nửa lon bia, và chỉ mấy phút sau nằm lăn ra salông để cho trời đất xoay vần. Sỹ nhà con ngay hôm ấy thêm vào tên ông một chữ thị, “Thị Thung!” Đã thế, hắn vẫn không tha, cứ kiếm cách này, lý kia, bắt Thị Thung thực tập đức tính “Nam nhi tri chí” theo ý biện luận riêng dựa vào câu, “Nam vô tửu như kỳ vô phong.” Trước khi nhậu chưa thanh tẩy lòng ruột thì chưa được gắp, hắn tự bày ra luật nhậu bắt Thị Thung phải làm một hớp, mượn cớ không súc miệng bằng hơi men sẽ làm giảm phẩm chất món nhậu, và như vậy là khinh thường, bôi bác công lao nấu nướng của đầu bếp. Thỉnh thoảng trong lúc nhậu, hắn lại kiếm cớ nọ, nguyên nhân khác, phạt một hơi bia. Mới chỉ qua mấy lần gặp gỡ ly anh chén tôi, Thị Thung tiến bộ trông thấy, đã đưa cay được một lon “Bất oai.” Lần tiếp theo, nhân có thằng bé vừa đúng năm tuổi, Sỹ nhà con làm tiệc mời nhóm họp, mượn cớ khai tâm cháu nhỏ. Chẳng hiểu bị lây hay ngứa miệng thế nào mà Thị Thung hôm ấy, lúc sắp nhập tiệc, lên tiếng hỏi nghi thức khai tâm. Và thế là Sỹ mượn cớ, lôi ngay chai Napoléon ra khui, miệng cười vui vẻ, liến láu, bàn về chữ khui cũng có nghĩa là khai để tạo nghi thức. Lấy trong tủ chén chiếc ly nhỏ làm mẫu mực ăn đồng chia đều kèm theo câu “Tửu bất khả ép, mà đã ép thì bất khả từ, và nếu từ tất bị phạt;” tướng nào tướng nấy vui vẻ nâng ly mừng khai tâm cháu nhỏ. Thật tội cho Thị Thung; trong khi cháu nhỏ chẳng thấy đâu chỉ thấy người uống rượu vừa khui. Rồi ly rượu vẫn phải cạn, Thị Thung nín hơi nhăn mặt thi hành nhiệm vụ kết quả lỡ ngứa miệng nhắc tới nghi thức khai tâm mà mắt nổ đom đóm. Và cũng từ đó, hình như chất rượu nặng mới thử một lần đã thấy công hiệu giúp con tì con vị Thị Thung làm quen với bia dễ dàng hơn.


Vào thời buổi này ông Thung xóa được tên đệm “thị” vì đã có thể thanh toán những ba lon bia mỗi lần nhậu. Lẽ đương nhiên, “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng,” đàn đúm với nhóm nhậu lâu dần thành quen; vả lại, khi men bia thấm nhập, người nghiêm chỉnh đến mấy cũng khó mà để ý về lời ăn tiếng nói của mình. Sau mấy lần uống ngà ngà, ông Thung có những câu lỡ lời. Dĩ nhiên, đã lỡ lời, dẫu ăn năn thì cũng quá muộn; sự kiện này giúp ông nhận ra phần lợi ích của lầm lỗi nơi mọi người. Chính những gì không nên không phải được gọi là lầm lỗi đã trở thành điều kiện, nói đúng hơn, thày dạy mình chấp nhận lầm lỗi nơi những người chung quanh thay vì phê bình, lên án. Đàng khác, ngoại trừ nố ham mê chè chén say sưa đến độ mất ý thức nhân phẩm, khi chếnh choáng, con người dám sống thật với lòng mình. Có lẽ đây cũng là cơ hội cho ông Thung tự nhận chân nhiều hơn, và cũng có thể bởi có cơ hội nói chuyện nhiều với những người quen biết không cần để ý đến hình thức phát biểu nên ông trở nên cởi mở hơn.

 
Bữa nhậu đã nửa chừng, ông Thung vừa mới thanh toán xong chai bia thứ hai nên hơi sừng sừng, nghe Sỹ nhà con lý luận loanh quanh, lái đàng nọ, quẹo đàng kia bèn đế vô,

- Chú mày nói thế thì cần gì phải sắm nhà lầu, mua xe tốt, và mặc quần áo cho đẹp. Và nếu nói được sinh ra để sống thì cứ sống, tất nhiên chuyện ông nọ bà kia làm sao mà có thể tránh được nơi một xã hội rừng rú, mạnh được yếu thua.

Mọi người nơi bàn nhậu ngỡ ngàng vì không ngờ ông Thung dám đế vô đấu với cái mỏ Sỹ nhà con. Đúng là chuyện khó tin nhưng có thật. Chẳng những thế, ông ta lại dám ngầm hiểu ý nghĩa câu nói theo kiểu truyện Trạng Quỳnh, về chuyện ông nọ bà kia.

- Phép lạ xảy ra; phép lạ xảy ra, Tình lên tiếng, phỏng chốn dương gian mấy ai có thể hiểu.

- Thế mới biết “Gừng càng già càng cay.” Xưa nay tôi cứ nghĩ câu, “Ao rậm thì lắm cá trê,” ít nhất đã có chỗ không áp dụng được. Anh cả coi bộ lầm ngầm coi chừng đấm chết voi lúc nào không biết. Bởi nhiều tuổi nhất trong nhóm, ông Thung được Hưng gán cho biệt danh “Anh cả.”

- Ai không có một con heo đang ngủ nơi lòng mình? Sỹ nhà con lại oang oang. Có điều kẻ nào khéo giả hình giả chước, ra bộ đạo mạo che mắt thiên hạ, thì được coi là đứng đắn. Các ông không nhớ người xưa có câu, “Hơn nhau tấm áo manh quần, nếu đem lột trần ai cũng như ai” sao (Ca Dao)! Nói cho đúng, chiếc áo không làm nên thày tu thì hình thức chỉ có thể đánh lừa được những tâm hồn non dại, ngờ nghệch mà thôi.

 
Miệng Sỹ nhà con đưa ra nhận thức chân thành nhưng khi lọt vào tai anh cả lại chẳng khác gì trái nổ ngầm chứa sức công phá mãnh liệt. Có điều, qua những lần nhậu, ông Thung hiểu được Sỹ nhà con ăn nói không mang ác ý; mà thực ra, đó là những ý nghĩ hiện thực, lột trần bản chất con người một cách táo bạo, không rào đón hoặc nể nang, thương xót, hay nhường nhịn kẻ nghe. Chẳng thế mà ít ai dám đấu lý với hắn; bởi ai cũng ngại nói đến mặt trái thị dục tận đáy lòng mình. Thực ra, qua vài lần ăn năn bởi lỡ miệng lúc hùa theo tán gẫu với những người bạn nhậu trẻ hơn, ông Thung cảm nhận được một điều, và đó là những phiền hà nơi tâm tưởng do sự ăn năn tự mình nhận thức; chứ đâu ai để ý gì. Người ta không cố chấp, xét nét mà mình lại cứ như gà chọi, chọi người chán quay lại chọi chính mình. Ông chợt hiểu câu nói ngớ ngẩn đã có lần Tình lè nhè khi say bí tỉ, “Lửa nào có nóng, chỉ tại mình cảm thấy nó nóng mà thôi.” Lời chân thành, hiện thực, trở nên xóc óc cho những kẻ không dám đối diện với con người thực của mình; do đó cố giả hình, tự dối lòng mong được người đời chiêm ngưỡng một cách tầm thường, và thế là thỏa mãn, tưởng mình quan trọng bởi được coi là ông nọ, bà kia. Đúng, lửa không nóng, lời nói của người khác không thưởng không phạt ai, mà mình cảm thấy ray rứt, nhột nhạt, chỉ tại mình. Nghĩ như thế, ông mới nhận ra câu dân gian thường quan niệm, “Có tật giật mình” mang ý nghĩa thâm sâu, không ngờ đã bao lâu nay ông coi thường. Ông chợt nhớ có lần cũng tên Sỹ nhà con trong lúc đấu láo, oang oang phát biểu khi một người trong nhóm bàn về sự phê bình thất thiệt, “Có gì đâu mà mấy ông để ý đến những lời bình phẩm ba xu cho mệt; kẻ đeo kiếng đen thì nhìn cái gì mà không tối mù. Những nhận định của họ chẳng khác gì các thày bói lòa coi voi mà thôi. Nhà con nghĩ, thế nào cũng có thày bói rờ trúng của ấy, bị nó đá cho văng mạng thì lại hùng hồn tuyên truyền rằng đã gặp được voi chúa có quyền lực di sơn, đảo hải khiến mình mới đến gần đã bị hất tung lên.” Đàng khác, dạo mới quen, ông Thung có cảm nghĩ sao mấy người bạn trẻ này họ vô tư, sung sướng đến thế. Nhậu sứa sứa vào rồi thì tha hồ ăn nói bạt mạng, tào lao thiên tướng, mang đủ mọi hạng người làm đề tài diễu; trong khi ông phải đắn đo, cố gắng tỏ ra chừng mực. Chẳng hạn một hôm, Hưng chê Tình ốm yếu nên giả tỉnh giả say hỏi,

- Vì đâu chú mày ăn như hổ, uống như rồng cuốn mà ốm nhom ốm nhách, nếu làm thịt không được vài cái gắp vậy?

- Sao ông dốt thế, mập hay ốm tùy lúc còn nhỏ có được chăm nom đầy đủ chất bổ dưỡng để các tế bào phát triển ngay từ đầu hay không; chứ đâu phải cứ ăn nhiều uống lắm là có thể mập được!. Dẫu đang ngà ngà mà Tình làm bộ nghiêm trang, tỏ ra thông hiểu, và trả lời phù hợp với lý luận khoa học; đoạn bỏ lửng, ngụ ý chê người hỏi là dốt, nâng ly bia làm một hơi.

- Tôi hỏi tại sao chú mày ăn nhiều mà vẫn cứ ốm chứ không cần biết nguyên nhân ốm với mập.

- Thưa ông, tôi còn đang thấm giọng; banh tai ra mà nghe, ngày xửa ngày xưa, thời xưa lắm rồi, lúc mà tôi mới chào đời, bố tôi giành hết phần của tôi rồi còn đâu.

Câu trả lời không ai có thể dám nghĩ tới mà Tình lại oang oang vung vít ra bộ đắc chí lắm. Họ là thế, trẻ không tha, già không thương, dám đem chính bản thân ra mà diễu. Tuy vậy, mặc dầu coi bộ ồn ào, ăn nói lộn xộn qua những lời lẽ bông cợt, tào lao, ý tứ lại ngầm chứa sự suy nghĩ thâm trầm, phanh phui, nhạo báng hình thức rởm hoặc bộ mặt trái của con người dựa nơi những điều mắt thấy tai nghe tạo nên cái cười ngỡ ngàng.

Ông Thung còn đang thầm nhận định thái độ và ý tứ câu nói của Tình thì Sỹ nhà con phang tiếp,

- Thế mới là con người, lên án những gì mình thấy thích thú khi thực hiện để gia tăng giá trị của sự vụng trộm.

- Chẳng có gì được gọi là vụng trộm mà thực ra chúng lại là những chiếc gương soi chính mình, Phủ đặt vấn đề, vì dù che giấu cách mấy không cho người khác biết thì mình đã biết. Bởi vậy, sự vụng trộm là điều nghịch với chính lòng mình mà thôi. Phỏng nếu lương tâm mình không giao động khi làm những chuyện chẳng nên tại sao e ngại người khác biết, tại sao phải vụng trộm? Muốn cho người khác không biết nào khó chi, đừng làm thì ai biết, đâu cần che giấu.

 - Nói như vậy còn gì thú vị để vụng trộm? Tình nêu câu hỏi.

- Thưa ông, Phủ nhại lối ăn nói ra vẻ quan trọng của Tình, có câu nói “Muốn nếm được niềm hoan lạc thực sự của gian dâm phải là một kẻ kính thành đạo đức” (Anatole France). Ông không thấy rằng người ta lên án những quyển sách vô luân vì chúng lôi ra bộ mặt thật của con người sao? Như vậy, chính những gì được gọi là tội lỗi lại là điều mình thích, và chúng hàm chứa sự hấp dẫn tuyệt vời.

- Thế sao người ta phải che giấu?

- Vì con người không dám đối diện với chính mình, e nhận biết mình chẳng ra gì do đó phải che giấu, chẳng những thế lại đóng thêm bộ mặt mô phạm hầu đánh lừa mọi người chung quanh, đặc biệt những kẻ được coi là xấu miệng.

- Như vậy phải biết ơn kẻ xấu miệng mới đúng, Tình trở giọng ngang.

- Đó là lẽ đương nhiên và cần thiết.

Vừa định nói câu phá đám thì lại được ủng hộ, đồng ý, khiến Tình cảm thấy ngỡ ngàng,

- Ông nói chi? Phải biết ơn mấy người xấu miệng dám lôi ông bà ông vải, bới lộn tùng phèo con tẩy bạt của ông lên hay sao mà cho là lẽ đương nhiên và cần thiết?

- Không biết ơn họ thì lấy ai vạch điều chẳng nên cho mình sửa. Cuộc đời thay đổi, con người thay đổi mà mình không thay đổi, sao đáng sống. Không có kẻ xấu miệng, sao có thể nhận ra điều rởm nơi mình. Ông phải nhớ, phương pháp tuyệt vời nhất để tiêu diệt kẻ thù là để cho nó sống.

- Để cho nó sống và giết mình thay vì tự tử? Ông nói chi lạ!

- Rõ dốt nhưng không biết dựa cột để nghe lại cứ chẩu cái mỏ vô. Để nó sống bới móc mình cho biết đường mà sửa. Đây là tự học khôn, tự thăng tiến dựa trên cái dại của người đối lập. Ông nên biết, kẻ bới móc mình là đứa dại; vì trong khi mình biết được mặt trái của mình do nó phanh phui, tất nhiên mình phải sửa đổi, và sửa đổi không ngừng thì càng ngày mình càng thăng tiến hơn; trong khi kẻ bới móc mình chết chìm với cái ngu dại của nó, cái dại chỉ đường cho hươu chạy.

 
Mấy câu nghịch luận của Phủ khiến ông Thung bừng tỉnh. Những cái mỏ bán trời không văn tự này phát thanh lắm điều bổ ích, ông thầm nghĩ. Đã bao lâu nay, ông thường phải e dè bởi muốn tránh những lời bình phẩm của thiên hạ; thay vì nhận ra điều kẻ khác nói không ra gì về mình lại là cơ hội chỉ đường thăng tiến. Sự so sánh về tuổi tác tự động tan biến, giúp ông mở rộng lòng hòa đồng cùng những người trẻ tuổi hơn, phá tan chướng ngại tạo nên bởi nhận định nghịch luận; điều mà xưa nay ít khi ông dám tham gia bàn thảo hoặc đã nhiều lần cố tránh, hầu tâm tư không phải suy nghĩ hay giao động. Cũng bởi đó, ông hiểu được câu nói ngược, “Kẻ khôn ngoan tự lừa dối; người ngu đần nghịch với cái thuận và thuận với điều nghịch.” Thế mới biết, “Cùng tột của thông minh lại chẳng khác gì ngu đần,” ông Thung thầm nghĩ mà lòng dâng dâng niềm cảm khái.

Từ đó, ông nhận ra giá trị của sự nghịch luận; dẫu xưa nay ông luôn dè dặt, vì biết rõ, dù chỉ lời nói nghi ngờ sự chính đáng của qui ước một tổ chức cũng làm những người trong tổ chức đó phẫn nộ. Lời nói nghịch, những câu hỏi ngược lại, mới thoạt nghe thật chối tai nhưng mang giá trị làm sáng tỏ mặt trái của vấn đề. Bình thường, có nhiều trường hợp, những lý thuyết một chiều chợt nghe rất xuôi tai, lại hợp lý, hợp tình, nhưng nếu đặt câu hỏi ngược lại, thực thể vấn đề được phơi bày không đơn giản theo thói quen nhận định, mà đòi hỏi suy luận liên hệ tới hoàn cảnh lệ thuộc. Sự kiện tự nó độc lập nhưng tùy môi trường diễn tiến để rồi được coi là đúng sai, phải trái, hoặc nên, hay không nên. Điều này khuyến khích tự nhận định, và không thể nào lấy sự suy tư, nhận định của kẻ khác làm căn bản cho mình suy luận; bởi cùng một sự kiện có thể giải thích nhiều lối khác nhau tùy quan điểm của người nhận định. Ông Thung còn nhớ, có lần Phủ đem mấy câu thơ ra đố,

- Anh cả nghĩ gì về kết luận của đoạn thơ này, “Một chiếc cầu, một chiếc cầu, và một chiếc cầu, chồng lên nhau. Hỏi tại sao?”

- Thì ba cây cầu nối liền ba con đường khác nhau được làm chồng bên trên nhau chứ có gì đặc biệt đâu mà chú mày hỏi.

- Em muốn nói câu kết phải thêm vào thế nào?

- Tôi chịu thôi vì có biết thơ văn là gì mà thêm với nếm!

- Anh thử nghe coi lạ không; tác giả viết tiếp, “Chúng tranh đua xem cái nào cao!”

Mấy câu thơ coi bộ ngớ ngẩn, mới nghe qua tưởng tác giả khùng; thế mà nó đã làm cho ông Thung suy nghĩ loanh quanh luẩn quẩn suốt ba ngày trời mới nhận ra điều ngớ ngẩn tác giả nêu lên ám chỉ lối nhìn phiếm diện của con người, chưa kịp suy tư đã vội chấp nhận hay xét đoán dữ kiện. Cũng chính mấy câu thơ ngớ ngẩn này gợi lại câu nói của một nhà tư tưởng nào đó mà ông không nhớ tên, “Cái ngu nhất của con chuột bị mắc bẫy là không ăn được miếng mỡ đã đánh lừa nó vào cạm.” Ông chợt nhận ra sự ngu nhất cho người muốn thăng tiến là tin và làm theo những gì người khác nói mà không tự nghiệm xét. Bởi vậy, những lối nhìn chật hẹp, độc đoán phải là con đẻ của sự dốt nát thiếu suy tư, hành trình vô ý thức chỉ thấy ở những xác chết biết thở. Nghĩ đến đây, ông thầm đùa với chính mình vì chợt nhận ra bao lâu nay ông đã trải qua những ngày tháng như một xác chết còn biết cử động.


Và thế là họ cao hứng đưa ra ý kiến xung phong làm diễn giả, diễn thật nơi một chầu nhậu cuối tuần. Lúc sứa rồi, ông nào cũng hay, tướng nào cũng giỏi, cứ to miệng ba hoa chẳng ai nói ai nghe; do đó cần có người làm trọng tài phân xử. “Trọng tài là cha mẹ,” Tình đề nghị khi ông Thung bị ép buộc đưa ra nhận định trong lúc vấn đề ngừa thai đang được bàn cãi, tất nhiên phải xỉn xỉn đấu hót mới hăng. Thực tâm, e ngại mấy cái mỏ bạ đâu phang đó, ông Thung cố chối từ sợ mang họa; vì biết chỉ một câu vô tình không hợp tai sẽ bị cả bọn lúc ngà ngà hạ thủ không nương tay, mà có chăng lại dùng lý luận quay cho như quay dế bất kể phe phái. Hơn nữa, càng người cùng phe càng bị đấu nặng bởi bị gán cho ý đồ phản thùng, tạo cơ hội để phe bên kia thừa thắng xông lên làm hao hụt vị thế thông thái cao trọng của phe mình.

- Cho tớ đứng ngoài vòng pháp luật, không dám đụng chạm đến mấy cái mỏ của quý ông. Thôi thôi, tớ xin hàng vô điều kiện.

- Tửu bất khả ép, và đã ép bất khả từ. Chuyện gì cũng vậy, phải có đầu có đuôi. Công lý phải có quan tòa xét xử và hội đồng giám định, nhất là ở đất nước tự do dân chủ. Nhà con đề nghị chúng ta đề cử rồi bầu, đa số thắng tiểu số. Nhà con xin đề cử ông Thung làm trọng tài.

- Tôi đồng ý.

- Tôi cũng đề cử anh cả.

- Có ai đề cử người khác nữa không?

- Bầu bán gì nữa, bất chiến tự nhiên thành đâu cần phải bầu.

- Phải bầu để mọi người có cơ hội chứng tỏ quyền dân chủ của mình. Ai đồng ý bầu anh cả làm trọng tài xin giơ tay.

Lại có dịp cho những cái mỏ rối lên vào hùa với nhau tạo thành thứ công lý dân chủ ép buộc. Thế mà họ lại ra bộ nghiêm trang giơ những hai tay một lúc.

- Anh cả bị bầu, tôi xin lỗi, anh cả được mọi người trang trọng bầu làm trọng tài. Xin cho một tràng pháo tay. Hưng cổ võ, và tràng pháo tay đã nổ. Xin nâng ly chúc mừng anh cả trọng tài, và những phần bia dang dở trong chai lại được cạn để có phần trống cho những chai bia đang đợi chờ.

 
Đến nước này thì kẻ bị ép buộc cũng đành chấp nhận được bầu. Ông Thung tập tành mãi để tiêm nhiễm thêm thái độ lè phè, lại phải đóng bộ mặt trang trọng giơ tay có ý kiến.

- Xin cho tôi nói.

- Im lặng, nghe trọng tài phát biểu. Giọng Tình hô to và kéo dài. Đang nhốn nháo mượn cớ chúc mừng để ngốn thêm bia mà những cái loa phóng thanh vô trật tự ngưng mấp máy kể cũng lạ!

- Nếu lúc đưa ra nhận định phân xử mà anh em không thèm đếm xỉa chi tới quyết định thì có trọng tài mà làm gì. Mấy anh em quen thói ăn nói bạt mạng xưa nay, sao cố làm khó dễ tớ vậy?

- Trọng tài là cha mẹ, ai cãi lại trọng tài là bất hiếu sẽ bị phạt. Tình cướp lời, vung vít đưa ra dự luật.

- Đồng ý, đồng ý! Cãi lại trọng tài sẽ bị phạt.

Bia chúc mừng quyền hành trọng tài tiếp tục cạn. Cứ có cớ để ồn ào chúc mừng và nốc bia là vui rồi, đâu ai cần biết chuyện gì sẽ phải đến. Khổ nỗi, bia chúc mừng dẫu đầy dẫy mà nào trọng tài có sức đâu để uống; ngược lại, niềm vui bị ép buộc chưa kịp triển nở thì khốn khó đã kề cận do mấy cái mỏ không chịu ăn da non.

 
- Công việc cần thiết bầu bán đã xong. Bây giờ xin trọng tài phân xử những ý kiến bất đồng về ngừa thai. Phủ gợi lại cuộc bàn cãi dang dở chưa ngã ngũ lúc nãy.

- Trọng tài ra lệnh, phe quan niệm nên ngừa thai chọn một người đại diện trình bày. Phe cấm ngừa cũng cần có một người biện minh cho lý do tại sao cấm. Ai dám coi thường cử tọa, chen vào phá rối lúc người đại diện đang thuyết minh, dù ở phe mình hay phe đối thủ, lập tức bị ghi sổ chờ ngày thực hiện lệnh phạt. Biết sự khốn khó sắp đến, ông Thung đành chấp nhận lên giọng ngăn ngừa những cái mỏ phát ngôn bừa bãi có thể kiếm cớ dồn ông vào nước bí. Đã vậy, Sỹ nhà con vẫn không tha,

- Nhà con xin hỏi trọng tài, có được uống bia lúc nghe không hay cũng phải nín uống.

- Uống thì được nhưng không được làm mất trật tự.

- Uống mà không được nói cho hả hơi bia thì cũng giống như chuyện Trạng Quỳnh, cho làm điều này cấm sự kia.

- Trọng tài đã tuyên bố điều luật rõ ràng. Chú mày nên nhớ, trọng tài là cha mẹ, không vâng lời sẽ bị phạt. Bây giờ, mời đại diện phe cho là nên ngừa thai trình bày lý do.

- Nhà con xin đại diện phe nên. Sỹ nhanh nhẩu giơ tay đứng lên muốn nói, e người khác nói sớm hết phần mình.

- Chưa bầu, chưa có đại diện, ngồi xuống, ngồi xuống. Phủ kéo Sỹ ép ngồi xuống ghế.

- Chỉ có ông với tôi một phe mà tôi không đại diện được hay sao; nếu ông muốn đại diện thì nói đi.

- Tôi xin có ý kiến cho phe nên. Chúng tôi chỉ có hai người không thể bầu được vì ai cũng muốn làm đại diện; do đó, tôi đề nghị xin cho mỗi người nói một nửa. Yêu cầu trọng tài minh định.

- Được, chú biết phép tắc, cho chú nói trước.

- Bầu trọng tài này là bầu búa tạ rồi bà con ơi! Sỹ bép xép.

- Chú Sỹ chưa được phép nói mà đế vô sẽ bị phạt. Kể từ giờ phút này trọng tài sẽ thẳng tay làm việc. Ông Thung ra bộ chủ tọa rành nghề.

 
Cho dù người nào người nấy đã chịu chấp nhận bị phạt hết lượt, ngoại trừ trọng tài, thế mà lắm lúc vẫn đông người nói, chẳng ai nghe. Đại khái, phe nhận định nên ngừa thai nêu lên những trở ngại thực tại, nhất là sống nơi xã hội nhố nhăng, không thể nào giáo dục con cái theo truyền thống và bản chất của dân tộc mình. Chẳng những thế, đời sống kinh tế khó khăn khiến con mình chẳng được như con người sẽ tạo nên mặc cảm thua kém, phát sinh bất mãn, trở thành nguyên nhân dẫn đến lòng ham muốn vật chất, kiến tạo tâm thức nô lệ cho quyền lực, tiền bạc. Nhận thức đau lòng nhất của “phe nên” đưa ra là thà rằng ít con mà mình đủ sức lo cho chúng nên người, còn hơn nhiều con mà vì thiếu thốn đã khiến chúng trở thành những bộ máy chạy theo vật dục sau này. Đây là lối hại người một cách vô ý thức, và quá tàn nhẫn; trong khi người bị hại lại chính là những đứa con của mình.

 
Nghe những nhận định rất thực tế nhưng chưa bao giờ nghĩ tới khiến ông Thung bàng hoàng. Tuy đã đứng tuổi và chỉ được bốn người con đã ăn riêng ở tây, nên sang đến bên này, ông không phải lo nghĩ về nỗi khó khăn của các bậc cha mẹ đang phải đối diện với thực tế. Ở Việt Nam, nào có ai bao giờ nói đến chuyện đàn bà con gái, ngừa hay ngưng; thế mà bên đây người ta đưa lên TV, báo chí, làm nhốn nháo cả lên. Xưa nay, ông chỉ quan niệm sống theo tự nhiên, sống sao cho hòa thuận với mọi người, tránh điều ong tiếng ve và nhất là tránh lời ra ý vô có thể trở nên đề mục cho người đời đàm tiếu. Bởi vậy, nghe sự giãi bày hợp tình, hợp lý của những người coi bộ ăn nói tào lao trong nhóm nhậu, ông lại thấy cần phải có nhận định đứng đắn về thực trạng cuộc sống, và nên có suy tư chín chắn hòa hợp thái độ trực diện vấn đề, chứ không thể chỉ nghĩ hoặc cho rằng điều gì hay đường lối nào nên để rồi cứ vậy mà theo là đủ. Lâu nay, nghe người ta kháo láo nhiều về chuyện này, nhưng nó không phải là chuyện của ông; do đó ông tránh tham luận hầu khỏi bị đưa ra làm đề tài vì mấy câu nói của mình. Nào ai lạ gì miệng người đời, dù nói hay, nói dở, lối nào cũng bị mổ xẻ; bởi ý người nói một đàng trong khi kẻ nghe có quyền nghĩ theo ý họ. Điều khiến ông ngạc nhiên nhất, là những người trong nhóm nhậu coi bộ chẳng có giá trị gì nơi vẻ bên ngoài, sao lại có những ý nghĩ và lối nhìn trung thực đồng thời am hiểu vấn đề như vậy. Tại sao thái độ họ mang đầy vẻ bất cần, nhiều khi đến độ ngạo đời, đôi lúc dám tự ngạo vì hơi men đã thấm ngà ngà; mà lúc để ý giãi bày vấn đề hóc búa, họ lại có thể trình bày một cách thông suốt, chứng tỏ đó là kết quả của những suy tư minh mẫn.


Phe chống ngừa thai nhấn mạnh giá trị sự sống. Điểm chính yếu họ đưa lên là sự sống không thuộc quyền lực của con người. Để bổ xung cho lý lẽ, họ đặt vấn đề giả sử những người mẹ ngừa thai, sao có họ đang ngồi nhậu để bàn luận về nên hay chẳng nên ngừa. Bởi thế, những gì không tùy thuộc quyền lực con người, chúng ta không có quyền và cũng không được phép đụng chạm đến. Mang thí dụ nơi sự phát triển và sinh sản của loài vật, chúng không biết ngừa thai, nhưng không có loài nào phát triển quá độ, có chăng chỉ đang dần mòn mất đi. Chẳng hạn như loài o­ng, loài kiến. Con o­ng chúa đẻ trứng hàng loạt theo tự nhiên mà có sao đâu. Để kết luận, họ đưa ra nhận định nên tuân theo luật tự nhiên; vì thiên nhiên đã tự có luật điều hòa, và con người không nên nhúng vào làm xáo trộn.


Bên nào cũng có lý, và dữ kiện được đem ra chứng minh đều hợp tình. Phe nên ngừa có hai cái mỏ chĩa mũi dùi vào giá trị nhân bản. Phe chống ngừa biện hộ cho quyền lực hiện hữu, nhiều lúc ồn ào, gay cấn khiến trọng tài tiến thoái lưỡng nan. Suy luận về điểm thiết yếu bên này thì lại phải đối diện thực trạng chẳng đặng đừng bên kia. Cho rằng nên cũng không xong, mà chẳng nên lại kẹt nhiều trường hợp. Ông Thung nhận ra, không thể đứng hẳn về một phe, mà giữ vị thế trung lập thì chẳng khác gì kẻ đi giữa hai lằn đạn, không rõ ràng, không làm hài lòng được ai. Xét về thực tế, cái mỏ nào có cuộc sống tương đối khá hơn, muốn có thêm con nhảy vào phe bảo vệ sự sống theo luật tự nhiên. Hai cái mỏ Sỹ nhà con và Phủ, người nào người nấy hơn kém cả tá tất nhiên đứng chung phe điều hòa sinh sản. Hơn nữa, dẫu bàn về vấn đề quan trọng mà thực tại được trình bày đã khiến mọi người cười đau cả bụng; chẳng hạn trường hợp Phủ nêu lên điều được gọi ngoài ý muốn về sự áp dụng ngừa thai tự nhiên,

- Thì tôi cũng để ý lắm chứ, nhất là bà ấy. Thế mà chẳng hiểu sao, đến lúc nó phình ra thì chuyện đã rồi, chỉ còn nước nhìn nhau mà cười chứ làm chi được nữa.

- Thì đừng khều khều nữa. Tình đế vô.

- Tớ đâu có khều, chỉ dại chút xíu à. Ông không nhớ câu, “Khôn ba năm, dại một giờ” sao!

- Làm sao có thể dại được những một giờ?

- Tớ chỉ lặp lại lời tiền nhân. Muốn biết sao có thể dại được những một giờ, đào mồ, lôi mấy ông ấy lên mà hỏi.

Và chuyện đến vẫn phải đến; lỡ chấp nhận bị bầu làm trọng tài sao tránh khỏi màn phân xử, ông Thung thầm nghĩ.

- Trước hết, tôi muốn hỏi quý vị, tất cả chúng ta đang hiện diện nơi đây đã ai mang bầu bao giờ chưa? Trọng tài bất đắc dĩ mở màn hỏi lăng nhăng kiếm lối thoát.

- Tôi làm sao có bầu được mà mang!

- Chẳng riêng gì anh, là đàn ông tất nhiên không thể mang bầu được. Thế thì tại sao chúng ta bàn về chuyện chẳng bao giờ thực hiện nổi?

- Trọng tài đổ bùn sang ao, kiếm đường tránh né giải đáp. Phủ lên tiếng.

- Nhiệm vụ trọng tài là phân xử đúng sai chứ không đưa ra giải đáp vì chỉ người trong cuộc mới có được giải đáp đúng đắn. Nếu đặt vấn đề nên hay không nên thì bên nào cũng có những trường hợp có lý và những trường hợp khó mà chịu đựng nổi. Vấn đề nào cũng đều có ít nhất hai phương diện đối nghịch. Bởi vậy, nói rằng nên ngừa thai thì làm gì có chúng ta ngồi nơi đây bàn chuyện nên hay không. Bảo phải theo luật tự nhiên thì cố theo đấy nhưng mới dại chút xíu nó đã phình ra rồi biết tính sao đây! Như vậy, trước hết, chỉ những người có thể mang bầu mới có quyền nói. Kẻ nào không thể mang bầu, hoặc muốn có bầu mà không được, tốt nhất nên banh tai ra mà nghe; vì mọi ý kiến, mọi nhận định phiếm diện đều láo lếu. Đàng khác, những ý kiến láo lếu tạo nên kết quả tai hại không đo lường được. Chẳng hạn, mấy người làm ghe có nên nghe lời đề nghị phải làm thế nào trên biển của kẻ không biết gì về ngành nghề đánh tôm bắt cá không? Bởi vậy, nếu muốn biết rõ thực thể vấn đề nên hay không nên ngừa thai, tại sao không mời mấy bà vợ của các ông trình bày sự việc. Tôi không có bầu nên không có quyền lên tiếng bảo các bà ấy phải thế nào cho có bầu hoặc không có bầu.

- Anh cả nói như thế tức là không thể phân định được nên hay không nên ngừa thai, Hưng nêu ý kiến! Tôi nghĩ, cần có một luật chung làm căn bản để lấy đó làm mẫu mực cho những quyết định.

- Tôi chỉ là trọng tài nêu lên nhận xét của hai phe về thực thể ngừa thai, chứ không có quyết định bảo nó là đúng hoặc là sai. Các chú thấy rõ hơn tôi vì các chú đang phải đối diện với vấn đề này. Tôi đồng ý với phe cấm; vì sự hiện hữu của con người không tùy thuộc quyền hạn của bất cứ ai. Không ai có quyền giết người; không ai có quyền ngăn cản sự triển nở quyền lực sự sống nơi con người cho dù ở vị thế nào. Tuy nhiên, trong trường hợp con người không đủ khả năng bảo vệ sự sống thì sao có thể nói chi. Chúng ta không có đôi cánh như chim nên không bay được như chim. Do đó tôi nghĩ, những người có đủ năng lực, tương đối được đời ưu đãi hơn, nên và cần tiếp tay với những người thiếu điều kiện, hoặc bị rơi vào trường hợp chẳng đặng đừng. Như vậy, vấn đề cần được nêu ra, đó là phỏng những người chủ trương cấm ngừa thai có thực hiện bất cứ gì để bảo vệ và giúp đỡ những đứa trẻ được sinh ra trong những điều kiện thấp kém hay chưa? Thực ra, khi mình không ở trong trường hợp khốn khó của kẻ khác, mình không có quyền nói nhăng, nói cuội, rống cái mỏ lên mà ba hoa chích choè. Các chú thấy rõ, phét lác thì ai cũng nói được nhưng thực tế chứng minh, phỏng những người có của ăn của để, những người thèm khát có con mà không có được đã thực hiện những gì để giúp ai đó rơi vào tình trạng thiếu điều kiện nuôi dưỡng và giáo dục con cái chưa? Tôi thách đố các chú trong phe cấm ngừa thai tự kiểm thảo về phương diện này. Nếu chưa ai giúp đỡ gì cho người khác nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em kém may mắn, làm ơn câm ngay cái họng lại. Cuộc đời này nhiều ý kiến tốt lành quá rồi, và chúng ta đang phải đương đầu với những ý kiến tốt lành nhưng ngu xuẩn; bởi cho rằng những gì tốt đối với người này cũng tốt cho người khác. Tôi ăn được ớt và không có ớt nhậu mất phê; tất nhiên ớt tốt và cần thiết đối với tôi. Các chú nhai thử trái ớt hiểm như tôi xem nó có tốt lành không thì biết. Thực tâm tôi nghĩ, vấn đề ngừa thai tùy thuộc từng trường hợp chứ không thể nào có luật cố định, được coi như khuôn mẫu cho mọi người cứ đấy mà thi hành. Bởi đó, điều mà chú Hưng đòi hỏi gọi là luật chung làm căn bản thì lại chẳng có gì chung. Tự bản chất của ngừa thai không thể nói đúng hay sai, mà khi áp dụng tùy trường hợp mới có thể đưa ra nhận định nên hay không. Giả sử, chú Phủ và chú Sỹ có tiền rừng bạc bể; con cái các chú muốn gì được nấy; phỏng hai chú có thấy cần ngừa, cần chặn gì không? Các chú khác chủ trương không nên ngừa, hãy giúp hai chú Sỹ và Phủ thực hiện chủ trương không nên là điều tốt nhất. Bởi vậy, không cho là đúng, chẳng nói rằng sai mà tự xét hoàn cảnh và lối sống thế nào trong trường hợp của mình mới có thể có câu trả lời đúng đắn nhất và chỉ riêng cho trường hợp đó mà thôi. Ai có ý kiến thực tiễn nào yêu cầu phát biểu. Tuy nhiên, chỉ bàn ra, tán vô cho có chuyện để nói hoặc phê bình theo kiểu thiển cận một chiều, sẽ bị phạt gấp đôi.

- Hoan hô trọng tài! Có lý, có lý, xin mọi người cho một tràng pháo tay. Lẽ dĩ nhiên, tiếp theo tràng pháo tay phải là màn nâng ly chúc mừng. Cũng may, ông Thung mới uống hai chai.


Mấy người cảm thấy thỏa mãn vì lời giải đáp, dù không thể đưa ra được luật chung nhưng ít nhất đã làm sáng tỏ vấn đề để mọi người có nhận định trung thực hơn. Họ tiếp tục bàn luận về ý này hay, câu nói kia trung thực. Lại có người tỏ ý không ngờ trọng tài có nhận xét thâm sâu như thế. Riêng ông Thung, uống một hơi bia để tự trấn an mà lòng vẫn còn run, ảnh hưởng cả đến tay chân. Tim ông đập thình thịch dội lên tới màng tang. Ông cảm thấy quá liều, nhất là trong lúc nói, một áp lực nào đó đè nặng nơi tâm trí khiến ông liều mạng phải để nó thoát ra bằng lời nói văng mạng. Ông còn có thể gợi lại câu nói mà lúc vừa buông ra khỏi miệng, chính ông phải giật mình, “Tôi thách đố các chú trong phe cấm ngừa thai tự kiểm thảo về phương diện này. Nếu chưa ai giúp đỡ gì cho người khác nuôi dưỡng và giáo dục trẻ em kém may mắn, làm ơn câm ngay cái họng lại.” Ông nhớ rất rõ, lúc ấy ông cảm thấy những đề nghị tốt lành một chiều, vô ý thức, phát xuất từ những đầu óc thiên kiến, hạn hẹp, đầy thị dục, làm ông bực muốn điên lên, đồng thời phát sinh mối thương cảm cho những người đơn sơ, không may bị rơi vào thế chẳng đặng đừng không còn phương cách nào xoay xở. Ông đã gọi những người bạn trẻ là “các chú” bởi phần nào đó, đưa ra ý hướng bảo vệ sự sống ngầm chứa sự lạm dụng lý luận, chỉ cố sao chứng minh quan niệm của mình là đúng, là chân lý bất khả di dịch. Ông run vì lần đầu tiên trong đời dám liều, bất chấp tai tiếng có thể xảy tới sau này. Đàng khác, ông run bởi mừng rỡ đã dám nói thực lòng những gì ông cảm nhận được thay vì e ngại lỡ lời. Hơn nữa, đây cũng là lần đầu tiên ông dám suy nghĩ theo ý mình trong khi phải đối diện với thực trạng hóc búa mà nếu đứng về phe nào cũng không ổn thỏa. Ông cảm thấy mình hình như đã lột xác khỏi con người xưa nay nhút nhát, e dè, nói cho đúng, lo ngại bị người khác hiểu lầm. Thuận hay nghịch với ý nghĩ, nhận xét của người khác là điều không thể tránh, nhưng dám suy nghĩ theo nhận định trung thực nơi mình mới tạo nên giá trị con người đích thực của mình. Không ngờ, tự nơi lòng trí ông đã tiềm ẩn giá trị mà đây là lần đầu tiên ông nhận ra. Niềm vui chợt đến khiến ông cảm thấy hãnh diện vì mình là chính mình, không phải theo ai khác, và cũng chẳng cần cố gắng trở thành bất cứ gì.

- Nhưng sao mấy linh mục giảng nơi nhà thờ nếu ngừa thai thì có tội? Minh lên tiếng hỏi mà lòng cảm thấy bất an. Anh là người Công giáo, đạo gốc, tốt lành, sùng đạo, tuân giữ những lời giảng dạy của các cha một cách cẩn thận. Bởi thế, anh có thái độ hiền hòa, chấp nhận, tránh hơn thua, đôi khi cố nín nhịn về những lời giỡn hơi quá đáng của bạn bè. Anh được bạn bè gán cho danh hiệu Minh bụt. Bụt là tiếng dân quê miền Bắc Việt Nam dùng để chỉ tượng Phật, chẳng hạn bụt ốc, ông bụt, “Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.” Anh khoảng chừng bốn mươi tuổi; chị vợ lanh chanh, vui vẻ, hai người thành hôn đã hai mươi năm và có được sáu người con. Đứa lớn nhất, mười tám tuổi, thân xác to hơn bố. Chị Minh sắp cho ra đời cháu thứ bảy khiến hai vợ chồng bối rối vì hoàn cảnh không được sung túc cho lắm. Có lần hai vợ chồng không hiểu nghe ai nói, đã gọi điện thoại xin gặp đức giám mục trình bày tự sự vì bác sĩ đề nghị cột buồng trứng, nhưng giám mục trả lời cần có giấy bác sĩ chứng nhận nếu tiếp tục sinh sản nữa sẽ nguy hại cho sức khỏe người mẹ. Và thế là đôi vợ chồng đành âm thầm chịu đựng gánh nặng được tạo thành bởi hai áp lực, sinh kế khó khăn nơi gia đình nhiều con và lề luật đạo phải giữ mà không biết giải quyết cách nào. Nghe những lời nhận định của ông Thung khiến anh càng thêm bối rối vì nhận ra trách nhiệm và quyết định cuối cùng tùy thuộc chính người đang phải đối diện từng trường hợp. Anh theo đạo, giữ đạo chứ nào có tạo nên đạo đâu, do đó làm sao dám phạm luật đạo. Hơn nữa, các cha giảng dạy những điều đúng mà giáo dân nên theo để được phần rỗi. Phạm vào những điều cấm trong đạo khác nào đã tự mình đi vào con đường tội lỗi thì sao được cứu, nhất là quyết định phạm luật lại tự ở nơi mình; trách nhiệm này sao trốn tránh được với một lương tâm luôn luôn dằn vặt. Khổ nỗi, cố gắng ăn ở theo luật đạo cho lương tâm thanh thản thì anh lại phải chịu đựng cảnh khốn khó nơi cuộc sống. Bạn bè, ai cũng có nhà riêng, có người mua căn nhà hơn ba trăm ngàn. Mấy cái xe mới, nước sơn bóng lộn phản chiếu ánh sáng khiến người mới chợt nhìn đã thấy xây xẩm cả mặt mày. Nào người thì than phải đóng tiền cho con đi học nơi trường nọ, trường kia nổi tiếng, hết chục ngàn này đến chục ngàn khác, lại có cả xe riêng cho con về thăm nhà cuối tuần. Kẻ khác bàn tán đưa gia đình đi Hawaii, Florida nghỉ hè, nghỉ mát, suốt cả tuần mà chưa đi hết vòng Disney World. Gia đình anh phải chui rúc nơi “housing” muôn ngàn sự phiền hà, nói ra không thể xiết. Nhiều khi anh cảm thấy, con người được sinh ra đã tự bị tròng vào cổ những gánh nặng quá sức. Mặc dầu thương vợ con và đã cố gắng bội phần để lo cho gia đình, lắm lúc ý nghĩ “biết vậy ngày xưa đừng lấy vợ” tạo nơi anh những tiếng thở dài! Điều này có lẽ phần nào là nguyên nhân thúc đẩy anh tham gia nhóm nhậu hầu tìm được những giây phút tránh phải đối diện với nỗi lòng của một người trưởng gia đình không được đời ưu đãi. Tương lai các con anh sẽ thế nào? Câu hỏi cứ chập chờn đe dọa mà chưa bao giờ anh dám nghĩ tới phải trả lời ra sao. Có những lúc chán nản vì bắt được ít tôm cá, anh thở dài lẩm bẩm một mình, “Đời cua, cua máy, đời cáy, cáy đào,” có lo chi lắm cũng chẳng giải quyết được gì.

- Mấy ông linh mục đặt luật cấm ngừa thai thì mấy ông ấy phải giữ chứ việc gì chú phải lo. Sỹ nhà con vừa nghe thấy Minh hỏi đã tơm tớp lên tiếng bất chấp quy luật vì đàng nào cũng đã bị phạt. Hắn không trả lời câu hỏi mà bẻ quặt câu nói mang ý ám chỉ câu hỏi về linh mục cấm ngừa thai, ngầm minh chứng hắn nói có lý, với chủ đích nói cho có nói. Hắn xưa nay vẫn thế, kẻ nào không để ý sẽ bị lôi vào tròng phạt.

Đã quá quen với lối ăn nói của Sỹ nhà con, Minh vẫn điềm đạm,

- Tôi muốn nói các cha bảo nếu ngừa thai thì có tội chứ tôi đâu nói các cha cấm.

- Ông cha nói thì ông cha phải giữ chứ việc chi mình phải giữ. Thế tại sao các mục sư, các đại đức, thượng tọa không nói gì? Thử hỏi, đạo nào không là đạo mà cũng cùng một vấn đề, đạo này cho là tội, đạo khác không bao giờ nói đến! Anh phải có nhận định về trường hợp của anh, không thể nào sống theo người khác bảo mình phải thế nào, Phủ chen vô. Phủ theo đạo Công giáo nhưng tâm tình phóng khoáng hơn và đôi khi nếu gặp người cùng tôn giáo nói về lề luật, anh thường nêu ra những khác biệt khi đem so sánh Phúc Âm với những lời các cha giảng dạy.

- Bộ anh làm ra luật pháp hay sao mà anh vẫn phải giữ và không tuân theo sẽ bị phạt. Anh có giỏi bắt mấy con rùa biển hay cá víc về nhậu thử xem anh dám sống theo ý mình hay theo người khác bảo mình phải thế nào! Minh dùng luật đánh cá để đối lại với Phủ.

- Luật pháp là điều chung cho mọi người tuân theo vì có ảnh hưởng liên hệ đến cuộc sống những người khác. Vấn đề ngừa thai không liên hệ, đụng chạm đến ai nên tùy thuộc quyết định cá nhân; do đó không ai ra luật cho ai được, Hưng lên tiếng. Chúng ta cần biết phân biệt rõ rệt luật pháp và luật tôn giáo; vì có những sự phạm pháp bị luật pháp kết án nặng nề; trái lại tôn giáo chỉ đặt vấn đề sám hối; đồng thời có những luật tôn giáo quá khắt khe trong khi luật pháp không nói gì đến. Thế nên, luật pháp sở dĩ được đặt ra vì sự liên hệ cuộc sống giữa con người với con người; trong khi luật tôn giáo chỉ nói đến phần tinh thần, khuyến khích con người sống ý thức tâm linh và không có sự trừng phạt theo kiểu luật pháp. Có thể nói, luật tôn giáo đặt nền tảng trên niềm tin của con người trong tổ chức; vì ai không thuộc về tổ chức tôn giáo nào đó sẽ không bị luật lệ tôn giáo đó ràng buộc. 

- Anh nói như thế thì người vô thần sẽ không phải theo luật tôn giáo nào hết?

- Tôi không hiểu chữ vô thần phát sinh từ đâu ra và có từ bao giờ, Hưng giải thích. Tuy nhiên, tôi không thể nghĩ được có ai thực sự vô thần ngoại trừ những con vật vì chúng không được sinh ra với khả năng tâm linh; chẳng khác gì cây cối không được sinh ra với khả năng di chuyển của con vật nên không đi lại được. Bất cứ ai cũng mang ít nhất ý thức đặt vấn đề về giá trị con người của họ. Dẫu người dám thực hiện mọi điều họ muốn thì cũng kiêng kỵ một số vấn đề nào đó; sự kiêng kỵ này chứng tỏ họ không vô thần.

- Nhưng họ không theo đạo nào tất nhiên vô thần vì người vô thần không có đạo.

- Ai dám nói người không theo đạo nào thì vô thần. Tôi e rằng chính người theo đạo coi chừng vô thần; mà người không theo đạo nào chưa chắc đã vô thần. Nếu người nào theo đạo mà chỉ có niềm tin vào những điều mình không nhận biết thì sao có thể nói được là họ hữu thần; mà có chăng chỉ là sự thờ phượng ngẫu tượng. Tôi đưa ra thí dụ, một điêu khắc gia nào đó khiêng về nhà hòn đá đã bao năm tháng lăn lóc bên đường, đẽo gọt thành tượng Phật mang ra chợ bán. Và thế là có người mua về đặt lên bệ thờ, đốt nhang đèn, hương khói tùm lum rồi xì xụp lạy. Đó là lý do tại sao dân gian có câu, “Hòn đất cất nên ông bụt.” Khi còn là hòn đất, nào ai biết đâu những chuyện gì có thể xảy ra trước đó, nhưng khi cất nên ông bụt thì lắm kẻ lạy sói cả đầu. Biết bao cây gỗ trong rừng sao không ai cúng tế, mà cũng chính phần nào đó của cây gỗ được xẻ ra, ráp nối lại thành hình thập tự; tại sao bao nhiêu người theo đạo Thiên Chúa lại kính nể, tôn trọng? Vậy người hữu thần lạy lục, tôn kính điều gì nơi những hình tượng đó? Đức Thích Ca có ra lệnh cho ai khắc tượng ngài để lạy như tế sao không? Người chết có còn cái miệng để nhai đâu mà người ta cúng nào hoa quả, nào cơm, nào trứng, lại còn tốn tiền mua hương, đốt nhang, đèn cù, đèn giấy. Có điều lạ, người ta mua tiền giấy đốt cúng ông bà ông vải đã chết mà không đốt tiền thật. Phỏng tiền thật không thiêng nơi cõi vô hình, hay vì tiền giấy đánh lừa được các bậc trưởng thượng đáng kính nơi giòng họ mình? Đặt vấn đề như vậy, chưa chắc những người theo tôn giáo đã hữu thần mà coi chừng vô thần cả đám. Cái miệng của Hưng nói trơn như bôi mỡ kèm theo dẫn chứng hợp lý liên quan đến thực tại khiến người nghe cảm thấy tối tăm mặt mày.

- Vậy đạo Phật dạy gì mà anh nói đức Phật không bắt người ta tạc tượng để trên bệ thờ? Định lên tiếng.

- Anh hỏi câu đó thì nói bao giờ mới xong nên tôi không trả lời. Có điều, sự thực hành tôn giáo là sản phẩm của lý thuyết bắt nguồn từ nhận thức tâm linh phối hợp với những hình thức tỏ bày bên ngoài được phát triển theo thời gian trải qua các thời đại, và lâu dần tạo nên nghi lễ, nghi thức. Những nghi thức này diễn tả ý định ẩn chứa qua hình thức thờ phượng. Chẳng hạn, một người lạy trước tượng Phật; họ đâu lạy phần đất hoặc gỗ khắc nên bức tượng mà tỏ lòng tôn kính vị nào đó được thể hiện qua hình ảnh của bức tượng. Tuy nhiên, con người vì lười lĩnh hoặc thiếu hiểu biết nên chỉ học theo nghi thức để tưởng rằng cứ làm như thế thì được giải thoát, được cứu rỗi, hay thỏa mãn ý muốn nào đó. Hơn nữa, bất cứ thói quen nào khi đã thâm nhập, con người đều bị lệ thuộc, và vì quá lệ thuộc những tục lệ, nghi thức, nên cảm thấy hài hòa và cho rằng, phải và chỉ có thế là đủ, thành ra e sợ không dám đặt vấn đề tại sao mình phải làm vậy. Đàng khác, có những người còn đưa lên quan niệm, những nghi thức hoặc luật lệ do thần linh đặt ra cho mình theo, không làm theo thì thần linh không phù hộ. Tôi nghĩ, nếu người nào đó đã chẳng biết họ thờ điều gì ẩn chứa qua nghi thức phụng thờ thì chắc chắn có lạy đến sói trán cũng không được ơn ích gì, có chăng chỉ để tự trấn an mà thôi.


Những lời phân tích của Hưng tựa hàng loạt mũi tên bắn vào lòng ruột người nghe khiến những chiếc miệng quen thói huênh hoang, tay sai của những đầu óc chếnh choáng mang nặng chất men phải nín lặng, kèm theo vẻ mặt đượm nét trầm tư. Nói sao đây khi thực tại nội tâm đã bao lâu nay dồn đọng nỗi khắc khoải do lòng khao khát tâm linh, tựa những ung nhọt căng đầy máu mủ bị chiếc gai vô tình khêu toạc ra chẳng còn cách nào che đậy khiến ai cũng phải trực diện với lòng mình. Mọi người bỗng im lặng bởi cảm thấy hình như có sự thôi thúc nào đó được truyền qua lời nói của Hưng, gây áp lực nhận định tìm cách giải quyết nhu cầu tâm linh. Xưa nay, qua những lần đàn đúm ăn nhậu khi đến độ sừng sừng, đâu ai trong bọn họ biết kiêng nể điều gì. Thế mà giờ đây tất cả im tịt tạo nên bầu không khí nặng nề, dường như khó thở. Chính Hưng cũng không thể ngờ những điều anh nói ra lại gây căng thẳng nơi đầu óc mọi người như thế. Mà cũng không hiểu mình nói với mục đích gì, Hưng thầm nghĩ, chỉ biết vào lúc đó cái miệng cứ trơn tru xổ liên tục, muốn tới đâu thì tới.

- Tôi đề nghị, ông Thung lên tiếng sau mấy phút thinh lặng, chúng ta nên và cần suy nghĩ cùng tìm hiểu nhiều hơn về tôn giáo. Những nhận định của chú Hưng không ngờ đã lột trần lòng ruột của tôi từ bao lâu nay. Thực ra, chính tôi vẫn cảm thấy mù mờ không hiểu tôn giáo dẫn chúng ta đi tới đâu; vì đã nhiều lần suy tư về tôn giáo và những sự thực hành tôn giáo, tôi thấy nhiều điểm loanh quanh luẩn quẩn, cố theo chiều này lại phản chiều kia mà chiều nào thì tôn giáo cũng khuyến khích. Theo tôi cảm nhận được, hình như chính những nhà rao giảng tôn giáo họ cũng không thông suốt điều họ đề xướng. Đây là đề nghị thực tình, anh em nghĩ thế nào?

- Anh đề nghị như vậy có lẽ chỉ anh mới thực hiện nổi. Tụi em uống thì được chứ nói về tôn giáo thì nào biết chi. Đến ngay những nhà thuyết giảng tôn giáo mà anh còn thấy nói loanh quanh luẩn quẩn thì ai trong chúng ta ở đây có thể nói được, Hưng đặt vấn đề.

- Thực lòng mà nói, từ ngày hay ăn nhậu với anh em, tôi đổi khác rất nhiều. Đây là chuyện thực tình, anh em đừng chế nhạo tôi mới nói được. Số là tôi rất ngại bị người khác phê bình vì những lần lỡ lời đã cho tôi kinh nghiệm. Người ta phê bình tôi thì ít mà chính tôi dằn vặt, ăn năn thì nhiều nên sinh ra e dè, nhút nhát, phải đóng bộ mặt giả mạo nghiêm trang, không dám theo người đàn đúm hoặc ăn nói bạt mạng. Cũng chính vì thế, tôi đã trở nên giống như con nhím, luôn luôn giương gai châm chọc người khác bằng cách phê bình lời ăn tiếng nói cũng như thái độ của họ. Từ ngày quen biết anh em, tôi dần dần nhận ra; sỡ dĩ phê bình gay gắt những người khác vì tôi đã tự khinh, đã không nhận ra giá trị con người của mình. Chính hôm mà chú Sỹ đặt vấn đề đời đáng sống hay không đáng sống, và thực thể mỗi người có một con heo đang ngủ trong lòng, liên quan đến sự giả hình, tôi mới nhận thức được điều này. Thực ra, nào ai thừa hơi để ý đến mình, có chăng chỉ tại mình đang chiến đấu với con heo nội tâm rồi cắn quàng, sinh ra muôn sự rắc rối, hết chọi người quay lại chọi mình. Và cũng từ đó tôi nhận ra mỗi người tự đã có giá trị làm người và có sự khát khao hướng thượng, nhưng ít ai dám đặt vấn đề để thăng tiến. Vừa rồi qua những lời của chú Hưng, tôi cảm thấy bị thôi thúc cần phải tìm hiểu, may ra ít nhất phần nào đó thỏa mãn lòng khát vọng nơi tâm hồn mỗi người. Tôi nghĩ, không biết thì hỏi, học thêm nơi người khác, hoặc đọc sách. Vấn đề còn lại chỉ là mình có thực sự muốn để dám làm hay không.

- Anh cả nói như thế cũng có lý, nhưng như vậy ai muốn thì tự tìm hiểu, tự đọc sách là đủ đâu có gì cần được đặt thành vấn đề. Hưng đưa ra nhận định.

- Tôi nghĩ, nếu một người mò mẫm tự tìm hiểu thì cuối cùng cũng vẫn loanh quanh luẩn quẩn. Tôi muốn sử dụng cá tính thông thường nhưng đặc biệt của anh em hầu mong có thể giải quyết thắc mắc.

- Anh cả nói cá tính đặc biệt nào mà có thể giải quyết thắc mắc? Tụi tôi chỉ có cá tính xỉn xỉn vào rồi là ăn nói lung tung, trên trời dưới biển, coi ai cũng như ai, nhiều khi lại còn đem thần thánh ra mà diễu thì hòng chi tìm hiểu bất cứ gì!.

- Đặc tính ăn nói văng mạng, coi trời bằng vung của anh em khi uống vào dăm chai bia vẫn có giá trị riêng của nó.

- Thế sao! Sỹ nhà con đế vô. Thử hỏi khi những cái loa phát thanh này nổi cơn lên, chẳng ai nói ai nghe thì có gì mà hòng giải quyết được?

- Vậy lý do gì mọi người bây giờ đang xỉn mà vẫn còn người nghe; nhất là khi chú Hưng vừa nói xong, tại sao mọi người im lặng? Xưa nay có câu, “Ông bẩy mươi học ông bẩy mốt,” mà tôi lại dám đương đường chấp nhận ông bẩy mốt học ông năm chục thì anh em nghĩ sao? Chính tôi, tuổi lớn hơn hết phải học nơi anh em đức tính ngay thẳng, dám ăn nói thật lòng mà không e ngại bị hiểu lầm hay bị phê bình. Tôi cảm thấy, nếu chuyện gì đã là sự thật thì chẳng cần gì che giấu, cũng chẳng cần bào chữa. Người khác hiểu hay không, và dẫu cho họ phê bình thế nào chăng nữa thì mình vẫn là mình. Người ta có cho rằng mình là ông nọ bà kia mà mình đã tự khinh thì coi chừng còn khốn khổ hơn ăn tục nói phét nhưng lòng chân thành, ngay thẳng.

- Cũng có lý, thế anh định đề nghị phương pháp nào về chuyện đọc và hỏi, anh làm ơn nói nghe coi? Phủ lên tiếng đoạn nâng chai bia tu một hơi, giọng đã có vẻ ngang tàng trở lại.

- Có sao xài vậy, nhưng tôi hy vọng ít nhất chúng ta cũng có thể phần nào đó đặt vấn đề để có cái nhìn rõ ràng hơn, vì một cây làm chẳng nên non.

- Ba chai bia lạnh anh còn than chi. Sỹ đế vô.

- Theo tôi nghĩ, cả bao nhiêu ngàn năm rồi tôn giáo vẫn như thế thì có suy nghĩ thêm cũng chẳng làm được chi. Hưng nói.

- Tôi không đặt vấn đề cứu nhân độ thế nên chẳng có ước muốn làm được chi. Tôi chỉ muốn từng người có nhận định rõ ràng hơn về tôn giáo hầu giải tỏa những khúc mắc, khắc khoải tiềm ẩn nơi mỗi người mà chưa bao giờ có cơ hội nói lên. Anh em thấy rõ, đã bao lâu rồi mình thao thức vì nỗi khát khao nào đó được thể hiện qua lối thực hành tôn giáo mà chưa có cơ hội đặt vấn đề. Đâu phải vô tình chú Hưng nêu lên những điểm liên hệ giữa nghi thức cúng bái, tôn thờ với nhận thức, tâm ý của con người; mà tôi nghĩ, chú đã suy tư về nó và tìm hiểu khá lâu rồi. Thế nên, tôi đề nghị, nếu được, chú Hưng nói về Phật giáo; sau đó người khác nói về đạo của mình. Ai thích thì xung phong, không thích thì thôi. 


Bàn xuôi, tán ngược, cuối cùng, ông Thung bị gán cho nhiệm vụ trọng tài. Chẳng những thế, ông còn được bầu làm trưởng hội nhậu, để rồi người đề nghị gọi ông là hội trưởng; kẻ khác kêu chủ tịch nhóm. Hội chẳng ra hội, nhóm không thành nhóm, mà cứ rối lên như bố vợ bị đấm chỉ vì cái danh hiệu nên đặt cho người khác thế nào. Mấy cái mỏ này sinh lắm sự phiền, nhưng cũng dám phát biểu nhiều điều mới lạ, ông Thung thầm nghĩ; mặc ai muốn tào lao thế nào tùy ý; vì ông hiểu dù nói thêm chi lúc này với đầu óc sửng sửng thì cũng chỉ là cớ cho họ hè nhau ép mình bị phạt.  

 

  * * *


- Chú Hưng, chú nên nhớ một điều. Đạo Phật là đạo minh triết; tại sao chú lại nói giết Phật, giết tổ, bỏ pháp thì nghĩa lý nằm ở chỗ nào? Bất chợt bị lúng túng trước câu nói ngổ ngáo đến độ chói tai, khó thể chấp nhận đồng thời cảm thấy một vài người chuẩn bị phản ứng vì câu nói xúc phạm tới tôn giáo của họ, ông Thung đành đưa ra câu hỏi lần lữa chờ kiếm đường giải quyết, hy vọng sự căng thẳng vừa bùng lên có đủ thời gian giảm bớt.

- Người minh triết vô minh, kẻ vô minh minh triết. Đã không thèm để ý đến lòng tốt của ông Thung khi nêu câu hỏi, cũng như sự tức giận của những người đang giơ tay, Hưng phang thêm câu nói mới thoạt nghe mang đầy vẻ xỉ vả con cháu nhà Phật.


Thế là mấy người đang giơ tay nhao nhao lên, và một người không thể nhịn được nữa,

- Ông nói gì kỳ dzậy? Ông muốn bảo rằng người theo đạo Phật đều vô minh hết sao?

Hưng ăn nói quá láo lếu, dám mượn cớ nói về Phật học để đưa ra đề nghị chói tai. Giết Phật, giết tổ, bỏ pháp thì còn gì đạo Phật! Xưa nay, minh triết là niềm hãnh diện của những người thành tâm tìm hiểu Phật pháp. Đâu phải vô lý hoặc cứ cho rằng ta đây minh triết thì mọi người chấp nhận mình giỏi giang, thông suốt; mà sự minh triết nhà Phật đã phải trải qua bao thời gian thử thách. Theo truyền thống nhà Phật, trãi dài từ thời đức Thích Ca qua hai mươi bẩy vị tổ nơi thiền môn ở Ấn Độ, tới đời tổ thứ hai mươi tám là đức Bồ Đề Đạt Ma đã sang Trung Hoa rao giảng Phật pháp tạo thêm năm tổ Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoàng Nhẫn, Huệ Năng. Rồi nào Bắc Tông của Thần Tú, nào các học phái Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn, nào tiệm ngộ, đốn ngộ, nào tiểu thừa, đại thừa, nào không luận, hữu luận, trung luận, nào cấp tiến, tự do, khoan đại, nào hơn một ngàn bẩy trăm công án, nào những nhân vật lừng danh tạo dựng nên những tông phái như Tịnh Độ tông, Thiên Thai Tông, Hoa Nghiêm tông, Thành Thực tông, Mật tông, với những nền giáo lý của mỗi tông phái mang các điểm đặc sắc riêng biệt tùy theo căn cơ người tu đạo để dẫn dắt chúng sinh tới chỗ liễu ngộ tâm thể, mang ảnh hưởng sâu rộng và phát sinh những kỹ thuật giảng dạy độc đáo, tạo cho thế giới Phật giáo muôn màu muôn vẻ không cách nào có thể kiểm chứng được. Thế mà Hưng vô tình dám phát ngôn bừa bãi, những lời nói vừa thoát ra từ cửa miệng hắn chẳng khác gì ngọn giáo cùn cụt nhỏ bé nơi tay anh hề mãi võ quảng cáo thuốc dán Sơn Đông đòi càn quét thế giới kiên vững nhà Phật, cội rễ sâu rộng thấm nhuần bao ngàn năm nơi cõi nhân sinh. Con người có thể lấp sông, phá núi nhưng không thể nào xóa được Phật pháp nơi tâm hồn chúng sinh. Con nhà này sao hôm nay ăn bậy nói bạ đến thế, ông Thung than thầm vì tâm không an, cứ thấy lòng ruột muốn nhẩy ra khỏi thân mình. Thêm vào đó, lời nói đầy giận dữ của Tùy con càng làm ông hoảng. Phải gỡ cách nào, quân khỉ này đang không ép ông phải đứng vào vị thế trọng tài, phong làm anh cả, chủ tịch, chủ hội, chủ nhóm, chủ cái củ thìu biu, để bây giờ cứ như thằng ngọng tắc cổ, muốn nói không được, cầu hòa không xong. Còn đang xốn lên, Sỹ nhà con đã bất chấp luật lệ lên tiếng,

- Ông phét lác vô căn cứ! Mới giết Phật, giết tổ giờ lại cho rằng mọi người vô minh. Ông biết được những gì về Phật giáo mà dám miệt thị thiên hạ như thế. Nhà Phật có cả trăm ngàn cuốn sách; ông đọc cả đời không hết vài cuốn sao dám coi cả thiên hạ vô minh.

Loạn to, loạn to, ông Thung thầm nghĩ. Đến nước này, không hy vọng gì ai nói ai nghe mà có thể xảy ra ẩu đả vì tự ái tôn giáo. Chú Hưng này ăn với nói chúa ẩu. Sỹ nhà con đã nhào vô khuấy động. Kiểu này coi chừng khốn khó đến nơi.

- Chẳng những kinh sách nhà Phật, tất cả các kinh sách của các tôn giáo dưới nhãn quan thức ngộ của nhà Phật đều không bằng chỉ một tờ giấy trắng. Ông không biết rằng Đạt Ma Sư Tổ nói, “Lãnh hội được Phật tánh nơi mình không thể học được” (GLTH; Tr.205). Đã không học được tâm Phật thì đâu cần kinh sách. Nơi khác ngài cũng nói, “Có ích gì sự cúng kiến, sự hoằng pháp, nhiệt thành giữ giới, bố thí, cầu kinh, đọc kinh, và tất cả những thứ khác? Chỉ có một điều duy nhất là nhìn thấy Phật nơi mình” (GLTH; Tr.202). Hơn nữa, Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ nói “Kiến tính thành Phật” (GLTH; Tr.184) chứ đâu phải đọc kinh sách mới có thể trở nên Phật. Như vậy, nếu tất cả các kinh sách nhà Phật hoặc bất cứ kinh sách nào chỉ bằng được một tờ giấy trắng thì công trạng đã lớn lắm rồi. Tuy nhiên, dẫu chỉ như tờ giấy trắng vẫn chưa vô, chưa huyễn; mà chưa vô, chưa huyễn thì vẫn còn dục. Và như thế, còn dục, còn muốn trở thành Phật vẫn chưa là Phật, có chăng chỉ hợp với câu “Kẻ muốn làm thánh lại biến thành thú” (Pascal). Hưng vẫn mang vẻ điềm tĩnh, thêm phần nào ngang tàng, thách đố, coi cử tọa như không ra gì nên nổi bật nét cao ngạo của kẻ chiếm thượng phong.


Ông Thung nghe vài lời ngông nghênh lý luận, phân tích đưa ra nhận xét chứa đựng tính chất khinh thế ngạo vật của Hưng, dùng lời nói của Đạt Ma Sư Tổ và Lục Tổ Huệ Năng, đem tờ giấy trắng so sánh với kho tàng minh triết kinh sách mà bỗng giật mình. À thì ra hắn nắm được nguyên lý nào đó nên dám chọc chơi thiên hạ. Sỹ nhà con coi chừng bị hố to phen này. Lòng ông mừng như mở hội, tự nghĩ, mình có tuổi rồi mà vẫn không điềm đạm bằng Hưng, lại còn nông nổi, chưa kịp suy nghĩ đã rối lên vì lo sợ. Thêm một bài học cho xứng với tuổi trời, ông thầm nhủ.

- Ông nói sao, tờ giấy trắng mà còn chưa vô, chưa huyễn, ngược lại vẫn là thú tính?

Thế mới biết, coi bộ vậy nhưng không phải vậy, Sỹ nhà con bắt được ý “Thú tính” khiến đám khán thính giả thuộc loại dân nhậu hơi cảm thấy ngỡ ngàng vì còn đang bị hoang mang; bởi Hưng dám so sánh kinh sách nhà Phật với tờ giấy trắng; chẳng những thế, hắn dám đưa ra mẫu người được tuyệt đối trọng vọng để ngang bằng với loài thú. Lòng ai nấy nhẹ hẳn! Ý nghĩ bực tức về mấy câu nói của Hưng chợt đổi thành niềm tôn trọng nên họ để ý nghe, để ý chỉ vì hai tiếng thú tính.

- Những sách viết về Phật học chỉ minh chứng tất cả là huyễn. Tôi hỏi anh em, nếu tất cả đã là huyễn cần gì phải nói đến; hãy để nó là huyễn vì nói về cái huyễn vẫn chỉ là huyễn. Thế nên, thay vì để nó là huyễn lại nhận chìm con người nơi ý nghĩ về huyễn, nơi văn tự viết về huyễn, và như vậy đã móc nối khiến ý nghĩ con người không thoát khỏi ranh giới hữu vi. Phỏng như vậy không thua tờ giấy trắng sao. Con người đã tự hàm chứa tâm Phật, nói cho đúng đã là Phật mà cứ bắt Phật nghe, đọc, nuốt những giải thích lòng vòng về cái huyễn thì chẳng khác gì khuyến khích họ biến thành thú; bởi những người viết sách chạy theo thú tính, muốn giúp mọi người thành Phật, trong khi không biết Phật tính là gì!


Hèn chi hắn dám to miệng! Ông thung thầm nghĩ, chỉ một vài câu lý luận loanh quanh luẩn quẩn, không những hắn giải tỏa tất cả nóng giận, con đẻ bởi thiếu hiểu biết nên không đủ khả năng suy tư, đồng thời lấy lại lòng khâm phục của cử tọa. Không hiểu hắn học được ở đâu! Ông Thung nhớ lại hôm đưa ra đề nghị; những người trong nhóm nhậu chia nhau nói chuyện về tôn giáo mà cảm thấy hãnh diện, quên bẵng mối lo sốt vó khiến lòng ruột xốn xang mấy phút trước. Lòng hãnh diện khiến ông buột miệng nêu câu hỏi,

- Nếu nói như vậy, theo chú nghĩ kinh sách nhà Phật để làm gì?

- Nếu nói theo Đạt Ma Sư Tổ hoặc Lục Tổ Huệ Năng, kinh sách chẳng những phá kiến tính mà còn là phương tiện cho tổ chức huyễn lạm dụng được gọi là tôn giáo. Dưới con mắt vô vi, qua nhận định của người minh triết, tôn giáo chỉ là tổ chức thế tục, một loại tổ chức bàn về cái huyễn. Chẳng những thế, nếu nói theo Phật học, mọi tôn giáo cũng chỉ là huyễn mà thôi!

- Huyễn là không có thật mà con người vì vô minh cho là thật nên phải diễn giải để dẫn về giác ngộ. Ông Thung muốn làm sáng tỏ vấn đề nên đưa thêm lời giải thích đối nghịch.

- Bàn về huyễn tức là đã chấp nhận sự có được gọi là huyễn để rồi muốn xóa bỏ nó thì vẫn còn là dục. Nguyên tắc thực tiễn của lý thuyết Phật giáo là diệt dục, diệt bất cứ sự ham muốn nào dù tư tưởng, hành động, hay vật thể, và như thế, muốn diệt dục thì đã là dục sao có thể thức ngộ được. Cho nên, tất cả những tổ chức, thuyết minh, kinh sách, hoặc bất cứ gì còn mang bất cứ ý hướng nào cũng đều là dục, vẫn ngăn cản nếu không muốn nói là chận lối không để cho con người thức ngộ. Tôi thử hỏi quý vị, một người được coi là xấu, năm bảy vợ, hút xách, bài bạc, nếu người đó muốn trở nên tốt phải làm gì?

- Phải tu thân, tích đức, phải làm việc thiện, phải ăn ở ngay lành. Tùy con, tên vừa nóng giận lúc nãy lên tiếng.

- Xin thưa, để trở nên tốt lành ông ta không phải làm gì hết. Chỉ không làm những chuyện được coi là xấu xa, ông ta tự động trở nên tốt lành. Nếu tu thân, tích đức, làm việc thiện, ăn ở ngay lành mà cứ dan díu năm bảy bà, cứ hút xách, bài bạc thì chẳng thể nào gọi là tốt lành được. Bởi vậy, còn muốn trở nên tốt lành thì đã chẳng tốt lành, vẫn là dục.

- Như vậy ý ông muốn nói con người đã tự tốt lành?

- Ông không bao giờ nghe câu “Nhân chi sơ, Tính bản thiện” ở Tam Tự Kinh của đức Khổng Phu Tử sao?

- Chứ lý do gì ông nói giết Phật bỏ pháp? Đã tự thiện rồi sao phải giết, phải bỏ; tính đã bản thiện cần chi minh triết hoặc vô minh!

- Trước khi trả lời câu này, Hưng nhấn mạnh từng lời nói gây sự chú ý của mọi người, với chủ đích gài Sỹ nhà con nhận phạt, tôi yêu cầu anh cả và hội đồng tuyên án kẻ phá rối; vì tôi đã hoàn thành trình bày sự khôn ngoan kinh Phật bằng một câu nói.

- Ông chưa nói hết. Nếu ông nói hết tất nhiên mọi người đã thức ngộ, đã minh triết, đã thành Phật. Bằng chứng rõ ràng, mọi người vẫn mu ti mù tịt, vẫn vô minh thì dù câu nói của ông có hoàn thành cũng chẳng đem lợi ích gì.

- Vấn đề thức ngộ không phải chỉ nghe, hiểu rồi để đó mà đạt tới được. Thử hỏi, tôi ăn ông có no không; tôi uống bia ông say hay tôi say? Thức ngộ không thuộc về lý trí nhưng cần lý trí. Không phải người minh triết chắc chắn có được sự giải thoát mà cần có căn cơ mới đạt đến giải thoát. Ở đây, tôi nói về Phật học chứ không nói về đạo Phật cũng không nói về thức ngộ.

Sỹ nhà con lại nhào vô đấu lý lộn tùng phèo, ông Thung nghĩ, cần phải khóa miệng tên này mới được. Nhưng không để hắn hỏi lung tung sao moi ra được những điều bổ ích bất ngờ, đàng nào cũng hay mà cũng dở. Thôi thì giải quyết lệnh phạt trước, chuyện đến đâu hay đến đó nên ông giơ tay ra hiệu đoạn nói,

- Chú Sỹ đã tự động xung phong đãi anh em một chầu khuyến khích, và thưởng công chú Hưng đã có thể gom tóm sự khôn ngoan kinh Phật bằng một câu nói ngay từ đầu. Như thế, sự kiện đã tự nó giải quyết nên không cần tuyên án. Nói cho đúng, đây chỉ là sự trùng hợp giải thích ý nghĩa lời dân gian thường dùng “Gậy ông đập lưng ông.”


Những tiếng vỗ tay vang dội hòa với những nét mặt tươi rói khiến người quan sát tưởng cảnh ồn ào chợt nổi dậy sẽ không bao giờ dứt. Bia tiếp tục cạn hầu sẵn sàng cuốn trôi niềm vui vừa lóe, chờ đợi màn ngộ nghĩnh sắp đến. Dẫu được giải thích xung phong hay khuyến khích hoặc thế nào chăng nữa thì cũng bị phạt, Sỹ nhà con đã bị nhiều lần; thêm vào đó, bản tính thích vui nên không tỏ vẻ gì ăn năn hối tiếc nhưng vẫn cố vớt vát.

- Cho ông thắng và tôi bằng lòng chịu phạt; thế tại sao tính đã bản thiện mà còn phải giết Phật, bỏ pháp.

- Phật pháp là pháp vô; vô Phật, vô pháp, vô niệm, vô chủng, vô loại, vô tâm, vô thức, vô thuyết, vô sinh, vô tử, vô ngôn, vô đủ mọi thứ; vì tất cả đều là huyễn. Nếu ai không nhận biết tất cả chỉ là huyễn tất nhiên vẫn theo thị dục.

- Bộ ông nói lặp hay sao mà vô với ra lắm thế. Nếu đã là huyễn thì nói làm gì!

- Bởi đó, Phật đâu mà giết, pháp không có lấy chi bỏ! Đã không giải thích, mở miệng nói ra lại ngang như cua, Hưng lên tiếng một cách tửng tửng khiến Sỹ nhà con sùng máu.

- Ông nói thế nào? Không có Phật thì người ta cúng bái cục gỗ, hòn đá hay sao? Không có pháp thế ông đang nói gì vậy. Tào lao!

- Đã biết tào lao sao còn hỏi! Như vậy ai là người tào lao?

- Bay nói như,

Sỹ nhà con bắt đầu nổi đóa. Trọng tài đành phải nhào vô!

- Khoan, khoan, ông Thung nói lớn tiếng; chú Sỹ, để tôi nói. Việc của chú Hưng nói theo kinh Phật thì hãy để chú Hưng giải thích; đâu phải việc chú bảo đúng hay sai! Nếu chú đã biết là đúng hay sai thì nghe làm chi. Trọng tài là cha mẹ, yêu cầu chú im lặng.


Không còn cách nào giải thích lối trả lời ngang bướng của Hưng, ông Thung phải chỉa mũi dùi vào nhận định. Sỹ nhà con vừa mới lặp lại về câu nói ngang tàng nghịch hẳn thực tế, “Phật đâu mà giết, pháp không có lấy chi bỏ!” Ông nghĩ, nếu không có Phật sao có Phật giáo! Những lời dạy nơi kinh sách nhà Phật, cả đời người đọc không hết được gọi là pháp, mà Hưng đã dám cho rằng không bằng tờ giấy trắng; bây giờ lại nói không có pháp thì quả là quá ẩu dẫu hắn đã biện luận tất cả chỉ là huyễn. Tuy nhiên, ông cũng thấy Hưng có lý ở điểm “Còn muốn trở nên Phật vẫn chưa là Phật.” Mà đã ai là Phật đâu nên lại cần pháp để học hỏi. Đàng này, hắn muốn xóa luôn cả pháp, nhưng cái miệng của hắn quá lắm, chắc chắn có điều cốt yếu gì nên cứ tơn tơn chọc chạch thiên hạ bằng lối lý luận nghịch thường được mở đầu với những câu nói bạt mạng, ngang ngược. Nhận xét như vậy, ông lên tiếng ngăn chặn Sỹ đoạn thách thức Hưng giải thích. Thế chú lấy gì minh chứng. không Phật, không pháp?

- Phật là mình và pháp nơi mình sao có thể giết, sao có thể bỏ; có gì mà minh, có gì mà chứng, có chăng vô minh. Tất cả Phật học chỉ bao gồm trong hai chữ “kiến tính.” Thế nên, gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ, gặp pháp bỏ pháp có nghĩa, trong tiến trình tu chứng, hành giả không theo đuổi bất cứ gì cũng chẳng dựa theo phương pháp nào. Nói nôm na hơn cho có vẻ dư giả văn chương được gọi là yếu ngôn; lục tổ Huệ Năng đã diễn giải bằng bốn câu, “Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật” (GLTH; Tr.184).


- Đã vô Phật, vô pháp, lại còn bày ra giáo ngoại, giáo nội, văn tự, ngôn tự rồi trực tâm, trực lòng, kiến tính, Phật tính. Ông nói gì lung tung! Nếu tất cả đều là vô, đều là huyễn, tâm đâu mà trực, tính đâu để kiến. Vậy thế nào là kiến tính? Kiến là gì, tính là gì; vì tất cả đều huyễn! Phủ bất chợt lên tiếng.

Từ lúc Hưng nói, Phủ im lặng nghe và nhận thấy hình như Hưng nói về một thực thể nào đó chứ không thèm đá động gì về Phật giáo. Ngược lại, hắn có phần bác bỏ những lề lối cúng kiến, lạy lục, bác luôn lý thuyết nhà Phật, dám to miệng cho rằng tất cả kinh sách không bằng tờ giấy trắng. Phải có lý do gì, Phủ nghĩ. Xưa nay, Hưng ăn nói tương đối chừng mực ngay cả trong lúc say hoặc diễu. Thế sao lúc này hắn mang vẻ ngạo đời đến thế! Bởi vậy, Phủ dùng ngay những lời Hưng vừa nói thách đố hắn phân biệt.

- Nói vậy nghe được. Kiến tính là trạng thái thức ngộ độc nhất vô nhị trong hành trình tu chứng nhà Phật, được gọi là thiền. Thiền bắt nguồn từ đạo Bà La Môn bên Ấn Độ. Thực ra, phản ứng chống lại hệ thống giáo điều và tổ chức quyền hành quá khắt khe, cũng như lý thuyết Bà La Môn, đã là nguyên nhân phát triển Phật học. Khi Phật học truyền qua Trung Hoa do đức Bồ Đề Đạt Ma, thường được gọi là Đạt Ma sư tổ, hòa lẫn với Lão học, lại truyền qua Nhật tạo nên phương pháp tu chứng gọi là Zen. Căn bản tu chứng nhà Phật chỉ là kiến tính. Kiến là thị kiến, nhận biết, đạt tới. Thế nên, minh triết giúp thị kiến; nhận biết tức là thức, và kiến cũng là ngộ. Tính có nghĩa bổn lai diện mục, thực thể, tâm thể của mình. Nói cách khác, tính là Chân Như, Chơn Như, Cội Nguồn Hiện Hữu, Cội Nguồn Biến Chuyển, Biến Dịch, mà cụ Nguyễn Duy Cần gọi là Thực Tại Siêu Việt ở mọi tạo vật. Theo Phật học, khởi đầu là Chân Như, vẳng lặng, tuyệt đối tĩnh tịch, vô thủy, vô cùng; thế rồi khởi niệm hay vọng niệm phát sinh tạo thành nghiệp. Nghiệp chồng chất biến chuyển thành muôn vật. Như vậy, muôn vật chỉ là sự biến chuyển, tiến trình thay đổi, hay biến dịch của Chân Như. Vì thế, kiến tính là kiếm lại bản thể thực, tự thể của mình, tức là ngộ Chân Như. Bởi vậy, muốn hiểu rõ tính phải minh triết vô thức nhà Phật. Hưng xổ một thôi khiến bà con đầu óc quay cuồng chỉ còn biết ngồi há miệng nghe.

- Ông nói gì đâu lộn tùng phèo. Nếu Chân Như đã tuyệt đối tịnh, vô thủy, vô chung, vẳng lặng, thì sao có vọng niệm. Vậy vọng niệm ở đâu ra chứ nếu vọng niệm tự nhiên phát sinh thì sao Chân Như có thể vô thủy, vô chung.

- Đây là lý thuyết nhà Phật về Chân Như được gọi là Duy Thức hay Vô Thức Luận. Vọng niệm khởi nguyên ở đâu tôi không biết vì thời kỳ đó mẹ tôi chưa có bầu; bố tôi cũng chưa có. Quý ông muốn biết, chỉ còn cách thực hiện tu chứng; bởi tôi chỉ nói Phật học chứ không nói được gì về tu chứng. Ông chứng, ông biết, và chỉ ông biết mà thôi. Nói ra không được mà càng diễn giải càng lộn tùng phèo. Các ông nên nhớ bốn câu yếu ngôn, “Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật.” Đã giáo ngoại biệt truyền sao có thể nói. Không thể nào diễn giải, do đó bất lập văn tự thì sao có sách đọc. Thế nên, những sách nhà Phật cũng chỉ nói về cảm nghiệm tu chứng, mà người đọc vì không có cảm nghiệm tu chứng đã biến kinh sách trở thành sự ngăn cản đường tu chứng mà thôi. Nếu ông nào lười suy nghĩ, chỉ cần nhớ hai chữ “kiến tính” để tu chứng là đủ. Vì thế, bất cứ câu hỏi nào các ông đưa ra cũng chỉ hỏi lung tung không cần thiết; bởi chúng chỉ là huyễn nên càng không cần biết.


- Không biết mới hỏi vì đã biết sao cần hỏi. Tuy nhiên, không biết sao có thể hỏi vì đã hỏi là đã biết điều mình không biết. Biết điều mình không biết tức là đã biết sao gọi là không biết. Và như vậy, hỏi điều mình không biết đâu có thể gọi là hỏi lung tung!

Mọi người vỗ tay hoan nghênh, vỗ tay vì Phủ dùng lý luận ngược xuôi để biến sự không biết thành sự đã biết. Mượn cơ hội, Sỹ nhà con lại chen vô,

- Nói như thế, thực sự biết thì tất cả chỉ là huyễn, và nếu đã là huyễn tất nhiên không cần biết. Do đó, biết điều mình không biết mới thực sự là minh triết.

- Sao có thể nói được biết điều mình không biết vì nếu đã là điều mình không biết thì sao biết được. Như vậy, kẻ nào không biết điều mình không biết mới là minh triết, và những người cho rằng họ biết điều không biết mới là vô minh.

- Đã vô minh sao có thể biết được điều không biết?.

- Trong cuộc đời này thiếu gì điều mình không biết; thế nên biết mình còn nhiều điều không biết mới thực sự là minh triết!


Và thế là đề tài được chuyển qua biết và không biết để rồi kẻ ý này, người ý kia, rối um lên như đám o­ng mất chúa. Không cần biết người khác quan niệm thế nào, những cái mỏ thi đua bày tỏ nhận định của mình. Và ai cũng chỉ thấy lý của mình là đúng; đến nỗi có người mặt đỏ tía tai biện minh cho cái biết của mình nhào nháo với bốn ý niệm biết, không biết, minh triết, và vô minh. Họ vậy đó, ăn nhậu đã hăng và bàn luận cũng hăng, hăng tới độ tưởng trở thành gây gỗ đến nơi. Nhiều khi ngôn ngữ phát ra nơi cửa miệng không thuận chiều hoặc diễn tả thiếu chính xác ý muốn nói tạo thành áp lực đẩy văng cả những lời chẳng nên buông theo ý nghĩ. Bởi vậy, nếu chưa quen với kiểu cách ăn nói của hội nhậu xồn xồn, người dự thính khó có thể phân biệt được họ đang cãi nhau hay đang bàn luận, và cũng không hiểu họ đang bàn luận hay cải vã về những điều được cho rằng biết hoặc không biết. Thêm vào đó, hình như cái mỏ nào cũng thích nói ngược. Những lý luận thao thao bất tuyệt chồng chất diễn giải biết là vô minh và không biết là minh triết. Mà có lẽ họ không biết thật! Họ đang uống bia nhưng không biết mình đang uống lại cứ dồn tâm tưởng vào cái biết vô minh và điều không biết minh triết; biết hay không chẳng biết, chỉ thấy bia cứ mở, người cứ uống! Nào ai hiểu người uống bia hay bia đang uống người!


Nhân dịp này, Hưng mở chai bia thứ ba, nhàn hạ nhấm nháp chất đắng Heineken, mặc cho mọi người xôn xao tranh luận; bởi biết rõ họ không thoát khỏi vòng luẩn quẩn của mấy công án nhà Phật. Anh thầm nghĩ, những lời nói của Đạt Ma Sư Tổ và Lục Tổ Huệ Năng đâu phải chuyện để người ta bàn tán suông, và nếu cứ lời ra tiếng vô mà có thể thức ngộ được thì ai cũng có thể trở thành sư tổ, cần gì tu chứng. Cứ để họ nói, nói cho đã, nói lung tung sẽ tự nhận ra ngõ bí, và lúc đó mới hy vọng họ chấp nhận được phần nào điều nghịch lý nhưng lại là căn bản trong hành trình tu chứng nhà Phật. Những cái mỏ này xưa nay đã quá quen với lối nhìn hữu vi, đối đãi, có người, có ta, lệ thuộc suy tư nhĩ ngã, và trở thành nô lệ đến độ không thoát ra được thì sao có thể hiểu thấu những câu nói cảm nghiệm thiền viện. Đã là sư tổ đời thứ hai mươi tám bên Ấn Độ, thế mà khi sang tới Trung Hoa, đối diện với Lão học, Bồ Đề Đạt Ma cần đến những chín năm ngồi quay mặt vô tường tu chứng thì sao kẻ nhân gian chỉ nghĩ suông mà có thể thấu suốt được nét thâm trầm nhưng tinh tế nơi câu nói quá ngắn gọn mang đầy mâu thuẫn với thực tế của ngài. Lối nhìn hữu vi không cách nào giải thích tiến trình tâm linh; phương chi những đầu óc quen thói lý luận thị dục đòi am hiểu kết quả tu chứng cửa Phật! Đồng ý rằng, hành trình và thời điểm thức ngộ của mỗi người khác nhau; hơn nữa, có kẻ được sinh ra để thức ngộ, và đa số con người chẳng bao giờ có thể đạt tới, nhưng phương pháp, nguyên tắc cần phải được phổ biến. Khổ nỗi, nguyên tắc tâm linh thì chẳng thấy đâu mà chỉ những cổ võ tổ chức nhân sinh, hình thức bên ngoài che lấp thao thức, khát vọng tận đáy tâm hồn mỗi người. Tu chứng nhà Phật đâu cần cúng kiến, cầu khẩn, thế mà người ta cứ đua nhau rước Phật Bà, tế Quan Âm! Làm gì có Phật bà, Phật ông. Phật chính là Chân Như nơi mỗi người mà cũng chia ra ông bà; chắc sau này họ sẽ bới thêm Phật con, Phật mẹ. Con người dùng lối nhìn thế tục bày ra lắm chuyện, và không có người tin theo tất nhiên sẽ bị tàn tạ; nên càng phải bới bèo ra bọ tạo nền tảng và cơ sở vững chắc sao cho đông tín đồ, lắm thiện nam tín nữ, càng nhiều người cúng kiến thì càng nổi tiếng, càng oai vọng.


Hưng thở dài, nỗi ngậm ngùi nào đó chợt dâng lên. Con đường tu chứng bị bịt kín mà người nào đạt đến thì miệng như ngậm hạt thị, và có nói ra, lời nào lời ấy chói tai thiên hạ, còn không, lại mang đầy vẻ ngông cuồng. Hèn chi tổ chức tôn giáo phát triển mạnh, mạnh nhưng luẩn quẩn nơi bến mê! Đến tội cho con người! Đức Thích Ca chẳng viết mà có chăng khuyến dụ môn sinh, “Lời ta nói như chiếc bè,” “Ngón tay ta chỉ mặt trăng nhưng ngón tay ta không phải mặt trăng.” Thế mà con người mãi mê với giáo pháp, giáo lý, triết lý, sách này, kinh kia loạn lên, tưởng rằng cứ tụng, cứ chất đầy suy tư triết lý của kẻ khác vào đầu là sẽ được giải thoát. Giải thoát đâu không thấy mà chỉ những nô lệ của những kiến giải được gọi là minh triết. Đã minh nào cần triết, nên càng triết chỉ càng vô minh. Mấy người anh em đây cũng vậy, mới chỉ có chữ “Biết” lại đã thêm vào chữ “Không” cho đủ phần đối đãi và quay cuồng với ý niệm cho có vẻ minh triết. Đúng là chuyện thị dục làm phiền hà hành trình thức ngộ của con người! Minh đâu không thấy chỉ luẩn quẩn. Nghĩ đến đây, Hưng thở dài, tâm trạng mang phần nào chán nản; nâng chai bia làm một hơi, sau đó không cần hiểu thiên hạ bàn luận đến đâu, anh giơ tay yêu cầu mọi người im lặng, buông thêm câu nói,

- Biết hay không biết cũng chỉ là không! Minh triết hay vô minh cũng chỉ là vô. Nào lợi ích gì mà bàn tán, tốn bia, tốn nước bọt.

- Thế sao ông nói người minh triết vô minh, kẻ vô minh minh triết?

- Tôi chỉ nói theo kinh Kim Cang mà thôi, “Nói là Phật pháp đó tức chẳng phải Phật pháp” (KCGL; Tr.70) thì minh triết hay vô minh cũng chẳng phải là minh triết và cũng chẳng phải là vô minh. Mà vì nó không phải là minh triết nên gọi là minh triết, vì nó không phải là vô minh nên gọi là vô minh.

- Tôi chỉ muốn hỏi tại sao ông lại nói người minh triết vô minh, kẻ vô minh minh triết chứ tôi không hỏi tại sao gọi là minh triết hay vô minh.

- Sao ông thông thái thế! Người nào càng nhận thức được sự vật nhiều bao nhiêu, càng nhận ra còn nhiều thứ mình không hiểu bấy nhiêu nên biết mình vô minh. Kẻ nào nhận thức chỉ bằng cái lông con rận nên cho rằng tất cả sự khôn ngoan nơi thiên hạ chỉ có thế, tất nhiên tự cho rằng mình minh triết. Chỉ vậy thôi mà không chịu suy nghĩ, cứ la lối om xòm. Thực ra, câu ấy như thế này, người minh triết cảm thấy mình vô minh, và kẻ vô minh dương dương tự đắc minh triết. Thế mà cũng đòi bàn luận biết với không rối lên!

- Diễn giả lên nước! Ừ thì cho ông hay, ông giỏi. Chúng tôi vô minh ngồi nghe ông minh triết. Phủ lại chọc thêm một câu. Dẫu biết Phủ nói kháy nhưng Hưng tảng lờ, bởi có đấu lý thêm cũng chẳng đi tới đâu nên nói tiếp,

- Nguyên tắc căn bản của Phật học là tu chứng chứ không phải học thức. Điểm cuối cùng của Phật học là kiến tính, nhận ra tự thể hay thực thể của mình. Tự thể, thực thể này được gọi là Tâm Phật hay Tâm Chân Như; đó là Chân Như nơi mỗi người. Danh từ nhà Phật gọi là Phật tính hoặc tâm Phật. Thế nên, tu chứng để nhận ra Phật tính hay Chân Như hoặc tự thể, thực thể mới là điểm rốt ráo của nhà Phật. Mọi sự bàn luận, hiểu biết được gọi là minh triết hay vô minh chỉ xoay quanh điểm này. Ai chưa kiến tính, thức ngộ đều là vô minh; chỉ kẻ nào ngộ rồi mới được gọi minh triết. Đó là lý do tại sao tôi đã nói chỉ cần nhớ hai chữ “Kiến tính.”

- Sao ông bày ra lắm thứ thế! Nào kiến tính, Phật tính, Chân Như, tự thể, thực thể, minh triết, vô minh, lại còn thức với ngủ, mà không thấy nói gì về niết bàn, luân hồi? Bao nhiêu người theo Phật giáo lập công đức để tránh nghiệp luân hồi hầu đạt tới niết bàn, bộ họ sai hết sao? Ông nói về Phật học chỉ thấy kiến với bọ, lại còn cho rằng Phật giáo là tổ chức huyễn. Nếu Phật giáo là huyễn sao có Phật Bà Quan Âm, sao có Phật Di Lặc, sao có Bồ Đề Đạt Ma, Lục Tổ Huệ Năng, vậy thử hỏi ông đã kiến tính chưa?

- Tôi đã trình bày rõ ràng; tôi không nói về Phật giáo mà chỉ nói về Phật học. Phật giáo cũng như mọi tôn giáo, tất cả chỉ là tổ chức của con người bày tỏ lòng khát khao tâm linh; đạo học diễn giải cảm nghiệm tâm linh. Dẫu tôn giáo bắt nguồn từ đạo học nhưng tôn giáo bị ham muốn của con người chồng chất quá nặng nề, nên có thể nói, tôn giáo phần nào ngăn chận tiến trình tâm linh của con người. Căn bản Phật học là kiến tính chứ không cầu khẩn, không thờ phượng, cúng tế, cầu siêu, cầu an, chẳng bái lậy ai vì Phật tính ở nơi mọi người. Tâm là Phật và Phật là tâm. Thân xác con người chỉ như chiếc đò chở tâm, chở Phật trong hành trình thức ngộ, giải thoát. Đời người quá ngắn nên ta phải tự giải thoát bằng cách tự khám phá Phật tính nơi mình tức là kiến “bổn lai diện mục” của mình nếu nói theo ngôn từ của lục tổ Huệ Năng. Chính vì tưởng tượng Phật là người nào hay đấng nào mình muốn trở thành nên con người bày ra những kinh sách, phương pháp cúng bái, cầu khẩn, nhờ đấng nào đó giúp mình mà quên mất Phật tại tâm, Phật nơi chính mình. Vì vậy, phải nhìn vào tâm mình chứ không nhìn ra ngoài, phải tự tu chứng để nhận ra Phật tính nơi mình. Tự tìm ra mình, tìm ra Phật tánh nơi mình được gọi là kiến tính, và chỉ có một điều duy nhất này mà thôi. Đây cũng là phương pháp đạt tới niết bàn, phương pháp phá vòng luân hồi, con đẻ của vô minh tạo thành nghiệp chướng. Bởi vậy, không có kinh sách nào có thể chỉ đàng dẫn lối cho bất cứ ai đạt tới tâm Phật mà phải là chính mình tu chứng, chính mình nghiệm xét, hay cảm nghiệm. Không có lối tu khổ hạnh nào có thể giải thoát con người ra khỏi vòng luân hồi; vì kinh sách, sự khổ hạnh không thể nào giúp ta nhận ra bổn lai diện mục. Thế nên, chúng chỉ là điều phù phiếm, chỉ là kiến thức không đem lại lợi ích gì trong hành trình kiến tính. Nơi Phật học, tất cả chỉ là kiến tính, mà muốn kiến tính phải tu chứng, và chỉ tu chứng mới thấy Phật nơi tâm. Chỉ kiến tính là điều duy nhất đáng làm và đáng học. Hơn nữa, muốn tu chứng cần định tâm. Sự định tâm có nhiều phương pháp để đạt tới. Do đó kinh sách chỉ viết để giảng giải cho người ta hiểu tất cả đều là huyễn, hầu dễ dàng định tâm. Khổ nỗi, họ đã lầm, thay vì biết để đạt tới định tâm, người ta bày ra các nghi thức dẫn tới định tâm khiến kẻ thiếu hiểu biết tưởng những nghi thức này sẽ giải thoát họ hoặc là phương tiện nhờ thần thánh cứu giúp để được giải thoát.

- Ông nói rằng Phật ở nơi mình, Chân Như ở nơi mình thì khi mình phạm tội tất nhiên Phật nơi mình cũng phạm tội sao? Và nếu như thế, mọi người cũng như nhau; vì Phật đã ở tâm mọi người nên đâu cần cầu cứu, cúng bái bất cứ thần thánh nào! Hơn nữa, chỉ tu chứng mà có thể kiến tính thì đâu ai có thể giúp ai, đâu vị nào có thể giúp mình được, và dù minh triết hay vô minh thì có chi khác biệt. Phật đã ở nơi tâm mình, Chân Như nơi mình thì làm gì cần đến Phật pháp, đâu cần giữ luật lệ. Và nếu mọi người đã là Phật thì Phật đâu có thể sa ngã nên sao có thể phạm tội được. Phỏng thế có nghĩa tất cả những gì một người làm đều là động tác của tâm Phật, của Chân Như nơi người ấy. Như vậy thì, hà  hà, tha hồ ăn chơi, chẳng gì là tội, chẳng cần cúng kiến, tụng kinh, chỉ xỉn và xỉn sẽ tới niết bàn, khỏi cần diệt dục, cầu siêu, và tất cả mọi người đều là Phật, Phật tôi, Phật anh, Phật bố, Phật mẹ, Phật đẹp, Phật xấu, Phật tứ lung tung. Sỹ nói một hơi.

- Những điều ông vừa nêu lên đức Bồ Đề Đạt Ma đã nói rồi (GLTH; Tr.202-203). Tôi không muốn lặp lại. Và đức Đạt Ma sư tổ cũng nói thêm, chỉ có một tội duy nhất đó là tội vô minh, tội không nhận ra Phật tánh nơi mình. Tội lỗi này rất nặng vì nó giữ ta trong cõi vô thường (GLTH; Tr.203). Hành hạ thân xác, miệt mài chạy theo ham muốn thị dục để rồi tạo thêm nghiệp chướng chồng chất ngày càng nặng nề thêm nào được ích gì!

- Nếu tâm là Phật, là Chân Như thì tất cả đều từ tâm phát sinh ra đúng không?

- Đúng, đó là thuyết nhà Phật.

- Vậy cứ thử cho tay vô lửa xem cái tâm phát sinh nó nóng thế nào. Ông nói giỡn!

- Thực ra, chữ huyễn nơi nhà Phật có nghĩa chóng qua, sẽ qua đi, nhưng thường bị hiểu lầm là không có thật. Dẫu vô thức luận của nhà Phật nói về diễn trình vô hình, ngược lại không hiểu sao các kinh sách nhà Phật thường dùng chữ “không hiện hữu” hay “vô hiện hữu.” Đây là điểm trúc trắc của dịch thuật mà người ta đã không để ý hoặc không dám sửa đổi. Nhà Phật nói tất cả đều là “không,” là “hư vô.” Nếu đã không có, không hiện hữu sao ai có thể biết. Do đó chữ “Không” cũng như chữ “Vô” trong kinh sách nhà Phật mang nghĩa không nhìn thấy bằng con mắt thịt, tức là vô hình. Đồng thời, chữ “Hiện hữu” phải được hiểu là hình hài. Đàng khác, nhà Phật không nói về hiện tượng luận hữu hình nhưng bàn về kết cục cũng như cứu cánh của mọi sự vật, sự việc. Tất cả được phát sinh từ Chân Như do khởi niệm hay vọng niệm; nên tất cả đều nằm trong trạng thái biến chuyển của Chân Như, và được gọi bằng nhiều tên khác nhau theo ngôn từ tùy thuộc các nhà trước tác kinh sách. Vì vậy, Chân Như, Phật tính, tâm, Phật, tự thể, thực thể, bản thể, bổn lai diện mục, cũng chỉ là một. Khi dùng tới chữ có và không nơi kinh Phật, chữ không thường mang nghĩa vô hình, chẳng nhìn thấy; chữ “có” mang nghĩa hiện hữu dù hữu hình hay vô hình. Đàng khác, vì tất cả đều là hiện thể của Chân Như, của Phật tính, những chữ có, không, vô, huyễn đều đồng một nghĩa. Cho dẫu dùng cách nào thì cũng chỉ nói về hiện thể của Chân Như, dù vô hình hay hữu hình, dù cho rằng thật hay huyễn. Đọc kinh Phật mà không để ý điểm này, các ông sẽ lạc vào mê hồn trận của ngôn từ. Thí dụ về chữ “thường” nơi kinh Phật. Chữ thường có hai lối dùng mang hai nghĩa thường hằng và biến chuyển, thay đổi, liên tục diễn tiến, hàm ý chuyện bình thường phải như vậy. Trong câu nói cuộc đời biến chuyển vô thường thì chữ thường đây có nghĩa biến đổi không thể nói hết được, không đo lường được. Tuy nhiên, nơi Lão học có câu, “Đạo khả Đạo phi thường Đạo” thì chữ thường mang nghĩa chính xác, thực thể. Lục tổ Huệ Năng dùng chữ thường theo nghĩa thường hằng, bất biến. Nếu ai đọc truyện Hạ Xương sau khi gặp lục tổ Huệ Năng nói, “Người chấp vô thường tánh, Phật nói hữu thường tâm (GLTH; Tr.240) sẽ hiểu rõ hơn điểm rắc rối của chữ thường nơi kinh Phật. Thực ra, kinh sách nhà Phật cũng như nhiều kinh sách khác, mỗi vị trước tác đều dùng ngôn từ theo ý nghĩa riêng. Đây cũng là điểm khó khăn chung của mọi người trong tiến trình tìm hiểu các đạo học.


- Ông không trả lời câu tôi hỏi mà nói lung tung về kinh sách. Điều tôi muốn nói là nếu mọi vật, mọi sự từ tâm phát sinh, tại sao ông không dám cho tay vào lửa? Tình cảm thấy đắc ý khi nêu câu hỏi bởi chủ đích dùng kinh nghiệm cảm giác ngũ quan thách đố Hưng giải thích nhận thức tâm linh.

- Hỏi như thế ông đã không hiểu gì về lý thuyết nhà Phật và càng không hiểu câu nói mọi vật từ tâm sinh ra. Theo nhà Phật, chúng ta biết được mọi vật chung quanh nhờ giác quan. Thế nên, nếu không có giác quan, tất cả chỉ là không và như thế chúng ta không thể biết sự vật như chính nó mà qua trung gian của giác quan. Nhà Phật đặt vấn đề tìm hiểu thực thể sự vật chứ không nói về sự phiếm diện của sự hiện hữu nhất thời nơi sự vật. Ông đã bao giờ nghe câu, “Lửa không nóng nhưng vì chúng ta cảm thấy nó nóng chưa?” Ông có hiểu câu này ý nghĩa thế nào không mà cứ nói nhăng nói cuội. Phật học không xét về hiện tượng vật chất mà chỉ đặt vấn đề nguồn gốc mọi hiện tượng dẫn đến sự giải thoát. Mọi sự trong cuộc sống hữu hình rồi cũng qua đi; tất cả chỉ hiện hữu trong giai đoạn thời gian, dù một vài ngày hay cả triệu triệu năm thì cuối cùng vẫn đi vào thế giới vô hình; nhà Phật gọi là hư vô. Cội nguồn của tất cả mọi sự hiện hữu, hữu hình và vô hình chính là Chân Như. Thế nên, Chân Như cũng là tâm Phật nơi mọi người, và cũng là tự thể, thực thể, hay bản thể của con người, bản thể của mọi sự. Đó là lý do tại sao nói mọi vật từ tâm phát sinh. Tâm là Chân Như, lửa cũng như thân xác, mọi vật đều là biến thể của Chân Như. Bởi vậy, khi nói về lửa phải so sánh nó với những sự vật hữu hình chứ không thể ráp nối lộn xộn với tâm vì tâm vô hình. Thân xác là biến thể của tâm Chân Như bị lửa, biến thể của tâm Chân Như đốt. Ừ thì nó đốt vì lửa phải nóng, và nó đốt mọi sự hữu hình nhưng không đốt được tâm. Tôi nói vậy thôi, hiểu hay không cũng chẳng lợi ích gì vì kiến thức đâu có đem lại giải thoát. Vấn đề chỉ là ông có nhận ra cái tâm của ông là gì không; ông có kiến tính được hay không mà thôi!

- Ông nói, mọi người là Phật; tôi đã là Phật rồi đâu cần phải kiến tính!

- Kẻ nào còn thấy mình là gì vẫn còn vô minh, và muốn là gì cũng vẫn vô minh!

Hưng phang một câu khiến Sỹ tối tăm mặt mày. Tưởng rằng dùng chính lời nói của Hưng lúc nãy để phá ngang, ai ngờ bị đương đường cho rằng vô minh.

- Chính ông nói mọi người là Phật, và một vị Phật thì không thể phạm tội được. Thế sao thấy mình là Phật vẫn vô minh? Ông ăn nói luẩn quẩn.


- Người nào thấy mình luẩn quẩn mới thực sự dợm bước vào ngưỡng cửa minh triết. Người nào còn cho mình là thế này, không là thế kia, vẫn còn đang luẩn quẩn nơi giới hạn ngôn ngữ. Chẳng có Phật, chẳng có Chân Như, chẳng có pháp, chẳng có gì ráo trọi. Gọi là Phật vì không có Phật nên gọi là Phật. Đàng này cho mình là Phật thì chỉ là dục mà chớ. Bởi vậy, giảng về Phật chẳng những giết chết Phật mà giết luôn người nghe giảng. Không thể giảng về Phật vì Phật là Chân Như. Phật là tính của Chân Như nơi mọi người, mọi vật thì sao còn thấy Phật hoặc cho rằng là Phật. Điều nên nói chỉ là kiến tính hoặc thực hiện cách nào để kiến tính. Đó là hành trình thức ngộ, tu chứng. Mà tu chứng, chính ông phải thực hiện chứ không ai nói cho ông được. Và như vậy, minh triết không phải là gom góp kiến thức cảm nghiệm của người khác đem nhồi nhét vào đầu mình và lặp đi lặp lại mà phải là kết quả của chứng nghiệm, chiêm nghiệm, tu chứng. Ông nên khép cái mỏ lại là tốt nhất và cần suy nghĩ. Nếu sau bẩy ngày suy nghĩ vẫn còn u mê chưa hiểu mới nên hỏi.

- Ông láo khoét, đã suy nghĩ cần gì hỏi! Muốn trở thành Phật phải tu luyện; chứ đã là Phật thì tu luyện làm gì!

- Còn muốn là Phật vẫn không thể thành Phật. Vấn đề là thức ngộ Phật nơi chính mình. Đó là kiến tính. Tôi đã phải nhắc đi nhắc lại nhiều lần mà ông không chịu hiểu. Chỉ muốn, chỉ tu thì ơn ích gì, làm sao có thể giải thoát. Ông làm ơn nhớ cho, muốn tức là dục, nên còn muốn thì còn dục. Chạy theo cái dục sao có thể kiến tính.

- Ông cứ lải nhải mãi hai tiếng kiến tính! Vậy muốn kiến tính phải thế nào? Nói được mà không làm được cũng như cuội!

- Muốn kiến tính phải tu chứng. Muốn tu chứng phải hàng phục tâm. Muốn hàng phục tâm phải định tâm. Muốn định tâm phải diệt dục. Muốn diệt dục phải nhận ra tất cả chỉ là huyễn. Muốn nhận ra huyễn phải minh triết. Muốn minh triết phải biết khép cái mỏ lại, mở rộng tâm hồn để suy tư, nhận định, điều gì hay thì giữ lấy, điều gì không hợp với mình phải suy nghĩ cho tới cùng cái lý của nó. Và điều kiện để suy tư là phải nhận biết sự vật như chính nó. Tất cả mọi vật, mọi sự chung quanh trong cuộc sống đều là cơ hội. Không biết sử dụng cơ hội để tu chứng đó là vô minh.

- Vô minh hay hữu minh không cần biết! Ông nói về Phật học mà không nhắc chi tới đức Phật Thích Ca, chỉ những kiến tính, định tâm, minh triết, thì minh triết ở chỗ nào, và lấy gì làm căn bản để kiến tính? Ông nên nhớ câu, “Không thày đố mày làm nên.” Không có đức phật Thích Ca làm sao có đạo Phật, làm sao có Phật học, làm sao kiến tính, định tâm?

- Gọi danh hiệu đức Phật Thích Ca đã phần nào tự ngăn cản hành trình thức ngộ. Phật là người đã thức ngộ, đã kiến tính. Tại sao không gọi đức phật Bồ Đề Lạt Ma, đức phật Lục Tổ Huệ Năng, đức phật Thung, đức phật Sỹ, đức phật Phủ, đức phật Hưng? Phật tính ở mọi người vì tâm là phật, phật là tâm, mà chỉ gọi đức phật Thích Ca, đức phật Di Lặc? Từ cách dùng ngôn từ, chúng ta đã tự giới hạn hành trình thức ngộ, tự che lấp tâm Phật nơi chính mình. Ông không nhớ nhà Phật có câu, “Buông dao đồ tể là trở thành phật” sao? Ai cũng có tâm phật nên ai cũng là phật; vấn đề còn lại là mình có dứt được khuynh hướng theo đuổi vô thường tánh hay không, hoặc ngược lại, mình có nhận ra tâm phật nơi mình hay không. Sự nhận ra này gọi là kiến tính. Đó là lý do tại sao tôi chỉ nhấn mạnh về kiến tính mà không nhắc gì tới đức Thích Ca. Gọi đức phật Thích Ca phần nào tự che lấp tâm phật nơi mình để rồi chỉ nghĩ đức Thích Ca là phật và mình thì không thể kiến tính. Ông nên nhớ, “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành phật,” chỉ đơn giản có thế.


- Không có đức phật Thích Ca sao có đạo Phật?

- Kiến tính không cần đức Thích Ca. Ông không nhớ câu nói của đức Thích Ca sao, “Lời ta nói như chiếc bè.” Khi đã hiểu rồi phải bỏ lời nói đó đi mà tiếp tục cảm nghiệm. Trong hành trình thức ngộ chúng ta không làm nô lệ cho bất cứ cuốn sách hay cá nhân nào; mà phải hoàn toàn tự do thực hiện ý chí, mở mang kiến thức và phát triển trí tuệ cho đến khi chính mình đắc quả vì tâm phật ở trong tất cả mọi chúng sanh (ĐPVPP; Tr.286). Đức Thích Ca cũng như các tổ thiền nhà Phật chỉ giải thích về cảm nghiệm trong hành trình kiến tính chứ không bảo phải khất thực, khất ẩm, hoặc ngồi kiết già, kiết non, hay lễ chùa, lạy phật, mà tất cả chỉ dồn vào hành trình thức ngộ tâm phật tức là nhận ra phật tại tâm. Đó là lý do tại sao đạo Phật được gọi là đạo minh triết. Tuy nhiên, trên thực tế, đa số người ta chỉ có triết chứ không minh.

- Thế sao sách vở viết đức phật Thích Ca vì thấy nhân loại đau khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, nên tìm đường giải thoát cho mọi người?

- Nói như vậy ông phải tự hỏi đức Thích Ca đã giải thoát cho ông chưa, hay ông vẫn còn phải bấn lên những khi vợ đẻ, con đau, làm lụng cực khổ mà lắm lúc tiền điện, tiền phôn không đủ trả, tạo nên ưu tư, phiền não. Đã bao nhiêu năm, bao nhiêu lần ông cầu cùng đức Thích Ca, đức Bà, đức Chúa sao vẫn còn lận đận, luẩn quẩn, thì ai đã giải thoát cho ông? Giải thoát không có nghĩa ông đang nghèo hèn, bốc ông bỏ vào cuộc sống vương giả, uy quyền, tiền đầy bạc đống tha hồ ăn chơi đàng điếm, khỏi phải lo nghĩ vật lộn với cuộc đời. Giải thoát là kết quả của kiến tính, tự nhận ra tâm phật; những trắc trở, lo âu, hay vui sướng, nhàn hạ trong cuộc sống thế nhân đều nhất thời, chóng qua; vì tất cả đều là huyễn, mình với Chân Như thực sự là một; mình đang trong hành trình biến chuyển của Chân Như, quyền lực cội nguồn phát sinh mọi sự hiện hữu, vô hình cũng như hữu hình, nhất thời cũng như vĩnh cửu. Chính sự nhận thức này giúp con người thoát khỏi tham sân si, những ham muốn con đẻ của vô minh.

- Thế sao có những vị bồ tát trở lại giúp con người giải thoát?

- Ông nói vớ vẩn, đã có những vị bồ tát giúp con người giải thoát thì ông đã được giúp chưa? Chẳng có bồ tát thì sao có thể trở lại, sao có thể giúp.

- Ông nói gì láo lếu! Sách vở nhà Phật nói vậy chứ bộ tôi bới ra sao mà nói không có bồ tát?

- Thì ông hãy đợi vị bồ tát nào đó đến giải thoát cho ông, cần gì phải tìm hiểu Phật học, cần gì phải ăn, phải uống, phải làm lụng vất vả, phải lạy Phật, cúng dường! Nói đến giải thoát mà có biết giải thoát là gì và giải thoát khỏi cái gì thì nói làm chi mà vẫn cứ hỏi! Chỉ một điều nên nhớ, ý định cứu giúp người, giải thoát người khỏi những lo âu phiền não vẫn chỉ là dục. Mà đã là bồ tát thì hoàn toàn đã diệt dục theo lý thuyết nhà Phật, sao còn có thể giúp ai giải thoát. Vì vậy, nếu nói rằng đức Thích Ca vì thấy con người trầm luân khốn khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, mà kiếm đường giải thoát cho họ, quả là sự bôi nhọ lớn lao tới danh phận của ngài; vì còn muốn giải thoát chính mình hay giải thoát cho người vẫn còn là dục. Chạy theo dục, theo ước muốn dù tốt hay xấu cũng không hòng gì kiến tính, sao có thể thức ngộ. Ông nên nhớ, “Phàm chỗ có tướng đều là hư vọng” (KCGL; Tr.41); đã không có tướng sao còn ý niệm, ước muốn, nói chi đến trở đi với trở lại.

- Nhưng những vị bồ tát làm việc, giúp đỡ vô cầu, vô công, vô danh sao gọi là dục?

- Thì đó là việc của Phật tính, của Chân Như đang làm nơi mọi sự sao còn gọi bồ tát! Thế Chân Như, Phật tính đang làm việc nơi ông sao ông còn đợi hay muốn đức Phật hoặc bồ tát nào giải thoát?


- Nói như vậy, theo ông đức Phật Thích Ca giảng giải điều gì trong suốt bốn mươi chín năm mà ông dám nói không cần ngài?

- Khi tôi giảng kinh Kim Cang thì quý ông rối lên phá đám. Theo kinh Kim Cang, đức Thích Ca nói như thế này, “Các vị bồ tát lớn nên như thế mà hàng phục tâm kia. Có tất cả các loài chúng sanh hoặc loài sanh bằng trứng, hoặc loài sanh bằng thai, hoặc sanh chỗ ẩm ướt, hoặc hóa sanh, hoặc có hình sắc, hoặc không hình sắc, hoặc có tướng hoặc không tướng, ta đều khiến vào vô dư niết bàn mà được diệt độ. Diệt độ như thế vô lượng, vô số, vô biên chúng sanh mà thật không có chúng sanh được diệt độ. Vì cớ sao? Nầy Tu Bồ Đề, nếu bồ tát còn có tướng ngã, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức chẳng phải bồ tát” (KCGL; Tr.23). Đại khái những lời kinh này có nghĩa bất cứ một niệm nào dấy lên thì đó là một sự phát sanh dù thuộc loại nào. Ý niệm, ý nghĩ, tư tưởng, ước muốn, ước mơ tự nó là một thực thể trong vô hình. Thế nên, dấy niệm thì phát sanh, và như vậy, ý niệm, ước muốn đều là dục. Chủ điểm của Phật học là diệt dục để trở về nguyên bản với thực thể của mình, trở về với Chân Như được gọi là kiến tính. Bởi vậy, đức Thích Ca dạy rằng, một niệm dấy lên, phát sinh một chúng sanh, do đó cần phải hàng phục tâm nghĩa là diệt niệm. Vì vậy, muốn hàng phục tâm thì hãy để tất cả những ý niệm, ý nghĩ, ước muốn vào chỗ không còn sanh diệt được gọi “vô dư niết bàn.” Niết bàn chỉ về trạng thái không còn sanh diệt. Vô dư có nghĩa không còn tướng mạo. Bởi vậy, muốn kiến tính phải hàng phục tâm, và sự thực hành để hàng phục tâm là ngưng ý niệm, diệt dục, không mơ ước bất cứ điều gì dù tốt lành hay xấu xa. Như thế, khi đã không có ý niệm tất không sanh, không tạo thành nghiệp, không tạo thành chúng sanh thì có chúng sanh đâu mà chịu khổ ải. Đây là điểm nói ngược của nhà Phật. Không tạo thành chúng sanh tức là độ tất cả chúng sanh. Buông hết vọng tưởng tất nhiên giải thoát những chúng sanh ngay từ khi chưa được tạo lập trong ý niệm. Mà đã là người, chúng ta có vô vàn vô số ý niệm, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ. Và như thế, khi buông hết vọng niệm đâu cần đức Thích Ca hay đức bồ tát nào giúp giải thoát; tự mình đã giải thoát muôn ngàn chúng sanh thì đó là công đức giải nghiệp. Và tất nhiên, nếu bồ tát mà còn có tướng, còn ý niệm thì không phải bồ tát sao có thể nói giúp giải thoát hay bất cứ điều gì.

- Ông nói gì luẩn quẩn, không có chúng sanh sao giải thoát chúng sanh?

- Nếu ông suy nghĩ tạo ra ý niệm, vọng niệm tức là tạo ra chúng sanh. Kinh Kim Cang có nói, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả” (KCGL; Tr.241). Bởi đó, ngừng suy nghĩ ông sẽ không tạo ra chúng sanh nào để chịu khổ tức là đã độ. Như vậy, còn muốn độ tức vẫn tạo nghiệp, và ngược lại, diệt độ chính là độ.

- Tại sao bồ tát còn tướng, còn ý niệm thì không phải bồ tát? Và diệt độ lại là độ?

- Bồ tát mà còn tướng thì còn chấp giữa tướng và không tướng. Bồ tát còn niệm thì còn tạo thành chúng sanh; vì một niệm dấy lên tức là đã có sự chấp ngã trong đó. Đây cũng là ý nghĩa tại sao được gọi là bồ tát; vì không có bồ tát nên tạm gọi là bồ tát. Tất cả chỉ là Chân Như nơi tiến trình biến chuyển. Hơn nữa, theo nhà Phật, ước muốn cũng là ý niệm, là dục, mà muốn độ tức vẫn là dục. Không muốn độ, hay diệt độ cũng thế; tất nhiên ý niệm độ chúng sanh phát sinh bởi ước muốn. Tôi chỉ giải thích vậy thôi, dứt khoát không trả lời về hàng phục tâm vì nói cũng bằng thừa; bởi chẳng có gì đáng nói, chỉ có một điều nên nói là chẳng nên nói điều gì.

- Thôi ông ơi, ông khinh chúng tôi vừa thôi chứ.

- Có gì mà khinh với trọng; nói cũng vô ích vì càng nói càng chẳng nói được gì thì khinh ai, chẳng thà câm cái miệng lại còn lợi ích hơn. Ông muốn nói, đến đây ngồi mà nói. Rõ thực, không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu mà vẫn thích nói.

- Chú nói thế nghe được. Tui tưởng chú ra bộ ta đây chứ không ngờ chú nói không được. Thôi, tui thành thực xin lỗi. Nhưng ít ra, dẫu chú nói không được thì cũng giúp tui sáng ra thêm chút ít chứ không phải nói cũng như không. Chú thấy không, nếu tui không hỏi lăng nhăng thì sao biết được niệm và dục cũng như nhau. Tuy nhiên, chẳng lẽ con người cố gắng sống tốt lành, làm việc thiện để được giải thoát cũng như không, hoặc có thể tạo thêm nghiệp thì, thì, thì...

- Thì cái gì?

- Nó kỳ quá, hiểu nhưng muốn nói ra không sao diễn tả.

- Có phải ông muốn nói thà để tiền của ăn chơi cho đã vì đàng nào cũng là dục phải không? Và như vậy càng giúp, càng cố gắng sống tốt lành càng tạo nghiệp?

- Cũng không phải hoàn toàn vậy mà mới có một phần nhỏ; bởi nếu nói như thế chẳng khác gì thiện ác như nhau. Đến đời cũng không chấp nhận được phương chi là đạo.

- Thôi, thôi, tôi hiểu rồi! Đây là cái ngu của tôi làm phiền đến các ông; bởi tôi cứ nghĩ các ông cũng hiểu như tôi! Đời là đời, là huyễn trong hành trình biến chuyển của Chân Như do nghiệp tạo thành thì thiện và ác cũng như nhau, chỉ là huyễn, là biến dịch nhưng do vô minh con người cho là thật. Đối với những ai đã kiến tính thì không còn bị trói buộc bởi bất cứ hệ lụy nào; nên mọi hành động của thể xác cũng không thể làm ô uế tâm phật. “Một kẻ phàm tục có gia đình và làm nghề đồ tể cũng có thể là một vị phật. Kẻ nào đã lãnh hội được phật tánh thì không còn tạo nghiệp nữa, dù làm bất cứ một hành động nào bởi kẻ ấy đã giác ngộ” (GLTH; Tr.206).

- Ông nói mọi hành động của thể xác cũng không thể làm ô uế tâm phật thì đó là lối khuyến khích con người vô luân sao?

- Dẫu vô luân hay hữu luân thì hỏi cũng vô ích, bởi tôi đã nói là tôi ngu mà ông còn cứ hỏi để tôi phải nói ngu. Đức Đạt Ma sư tổ trong bài giảng thuyết đầu tiên tại Trung Hoa có nói, “Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật, quá khứ và vị lai đã và sẽ được tạo thành trong tâm” (KCGL; Tr.201) thì thiện và ác, đúng và sai, cũng bởi tâm mà ra; thế nên vô luân hay hữu luân cũng nơi mình mà chớ. Thôi, thôi, ông làm ơn đừng hỏi nữa và chỉ nên biết rằng mục đích duy nhất mà mỗi người phải đạt tới là sự giác ngộ, kiến tính, vì kẻ nào kiến tính, kẻ nào thấy rằng mình hoàn toàn hòa nhập với Chân Như tất nhiên là một vị phật; dù kẻ ấy không được học hành, nửa chữ nhất không biết. Phật là người thức ngộ, thấy được Phật tánh nơi mình, nơi tâm mình gọi là tâm phật. Như vậy phải kiến tính chứ đừng muốn kiến tính; vì còn muốn thì còn chưa đạt tới mà vẫn chỉ là dục. Trong ngôn ngữ nhà Phật bây giờ gọi là tu chứng.


- Thế sao có nơi đức phật Thích Ca bảo “Không có chỗ trụ mà làm việc bố thí. Nếu bồ tát bố thí mà chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ lường?” (KCGL; Tr.34).

- Ông định mang kinh Kim Cang ra mà lòe tôi sao! Nhưng ít nhất là ông đã đọc và để ý suy nghĩ, đó cũng là một điều hay. Mọi người đều rõ, bố thí tiền bạc, của cải là làm điều thiện chớ không phải tu hành (KCĐĐ; Tr.91). Hơn nữa, đem tiền bạc bố thí cho kẻ nghèo uống rượu, xì ke ma túy thì lại là điều ác chứ thiện sao được. Đức Thích Ca không dạy việc bố thí tài vật bên ngoài; mà sự bố thí tài vật bên ngoài chỉ là giúp phương tiện sơ khởi để tu hành. Đức Thích Ca chỉ nói về pháp thí; vì bồ tát chỉ có pháp thí chứ mọi sự là huyễn thì sao có thể đặt vấn đề bố thí tài vật. Hơn nữa, nếu chỉ đặt vấn đề bố thí tài vật tất nhiên do bị ý nghĩ cho rằng đức Thích Ca thương xót con người trong cảnh khốn khổ sinh bệnh lão tử, vẫn bị lệ thuộc vào ý dục; trong khi đức Thích Ca chỉ khuyến khích thức ngộ, giải thoát, diệt dục. Đương nhiên, nghĩ như thế đã tự gán cho đức Thích Ca theo đuổi ước muốn, theo đuổi thị dục. Đại khái câu nói “Nếu bồ tát bố thí mà chẳng trụ tướng thì phước đức không thể nghĩ lường,” có nghĩa nơi hành trình kiến tính không trụ vào bất cứ gì. Đây là pháp an trụ tâm, buông hết, bỏ hết không đâu là điểm tựa, chẳng đâu là điểm tới, không dính dáng gì đến lục dục, sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (KCGL; Tr.36). Nơi kinh Kim Cang có chỉ rõ, “Không nên chấp pháp, không nên chấp phi pháp. Ta nói pháp ví dụ như chiếc bè, pháp còn nên bỏ huống là phi pháp. (KCGL; Tr.52). Vì vậy, Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn dạy rằng, “Không biết tự tâm thì học đạo vô ích. Nếu biết tự tâm, thấy được tự tính, đấy là kẻ đại trượng phu, thiên nhân sư, phật” (GLTH; Tr.170). Và Lục Tổ Huệ Năng nói rõ hơn: “Không nên ngưng vào chỗ nào mà nẩy ra tâm ấy. Hết thẩy hiện tượng không rời tự tính. (Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm. Nhất thiết vạn pháp bất ly tự tính; GLTH; Tr.169). Ông thử nhớ lại coi, nơi kinh Kim Cang có đoạn nói đức Thích Ca hỏi Tu Bồ Đề, “Nầy Tu Bồ Đề, nay ta bảo thật với ông, nếu có người thiện nam, thiện nữ đem bẩy châu báu đầy dẫy tam thiên, đại thiên thế giới bằng số cát sông Hằng kia ra bố thí thì được phước nhiều chăng? Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn, rất nhiều! Phật bảo Tu Bồ Đề: Nếu người thiện nam thiện nữ, đối trong kinh nầy cho đến thọ trì bốn câu kệ vì người khác giảng nói, phước đức nầy nhiều hơn phước đức trước” (KCGL; Tr.98). Ông làm ơn để ý điểm này, Phật học là một trong những đạo học; mà tất cả các đạo học đều không nói về luân lý, tâm lý, xã hội, hay bất cứ gì nơi điều kiện sống liên hệ đến con người, nhưng chỉ giãi bày cảm nghiệm tu chứng. Nói theo lục tổ Huệ Năng là “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật.”

- Ông cứ lải nhải nhắc đi nhắc lại kiến tính, tu chứng, mà không đưa ra được bất cứ đường lối hay phương pháp phải thực hiện cách nào! Ông có giỏi nói cho mọi người biết ông đã kiến được gì, tu bao lâu, và chứng hay tật được những thứ chi!

- Lúc trước tôi đã nói, muốn kiến tính phải tu chứng, muốn tu chứng phải hàng phục tâm, muốn hàng phục tâm phải định tâm, muốn định tâm phải diệt dục, muốn diệt dục phải minh triết, muốn minh triết phải mở rộng tâm hồn để suy tư, muốn suy tư phải nhận biết thực thể sự vật để xóa vô minh. Nói cho gọn chỉ tu chứng mới kiến tính. Do đó, tất cả những điều kiện một người phải trải qua đều thuộc về hành trình tu chứng. Tuy nhiên, có những trường hợp ngoại lệ được gọi là đốn ngộ không thể nói được.

- Tôi muốn hỏi ông tu đến đâu, ông chứng được chỗ nào, mà có thể nói lắm thứ vậy?

- Dạ tôi nghe, nhưng xin ông làm ơn khép cái mỏ lại dùm. Tôi đã nói từ lâu; ai chứng người ấy biết mà ông không thèm hiểu lại cứ để cái mỏ đi trước cái đầu. Vừa rồi, ông hỏi tôi phải thực hiện cách nào để kiến tính nên tôi mới nêu lên những điều kiện trong hành trình tu chứng. Ông không tu chứng thì có nói đến mấy cũng như cuội; vì nếu chỉ cố gắng tìm hiểu thì cùng lắm được gọi là minh triết, mà người minh triết vô minh, kẻ vô minh minh triết, thì chẳng hòng đạt tới cái quái gì cả.

- Tại sao ông không giải thích những điều kiện tu chứng.

- Nói vậy nghe được! Tuy nhiên, các ông muốn tôi nói ngược hay nói xuôi, nói tới hay lui, hoặc nhào nháo lộn tùng phèo, hay hỏi và trả lời?

- Sao ông bày ra lắm kiểu nói kỳ cục, đã ngược lại còn xuôi, thêm cả thứ lộn tùng phèo là thế nào? Chúng tôi chỉ muốn biết đối với hàng dân giả, thoạt tiên phải làm gì? Tại sao đã kiến tính thành Phật mà lại còn phải tu chứng?

- Kiến tính thành phật tức là nhận chân được phật tính nơi mình. Nói cách khác, nhận ra bổn lai diện mục của mình, nhận ra mình là Chân Như đang biến chuyển chứ không phải là mình; vì chẳng có gì thực sự là mình, nhưng tạm gọi là mình vì chẳng phải là mình.

- Hãy... khoan...! Tùy con đột nhiên lên giọng cải lương. Ông nói gì kỳ cục! Thế nào là “Tạm gọi là mình vì chẳng phải là mình?” Không có mình thì lấy mả thánh để tạm gọi là mình hay sao? Tất nhiên, ít nhất ý niệm nào đó phải có trong ý nghĩ mới có thể gọi được là gì; vì nếu đã không có thì không thể nghĩ tới được. Như vậy, mình đã có vì đã có thể nghĩ tới một thực thể nào đó thì sao có thể nói chẳng có gì thực sự là mình?


Mọi người vỗ tay reo theo sau câu lý luận của Tùy con. Ít ra phải như thế. Không có mình lấy gì đặt vấn đề suy tư, tu chứng, và căn bản nào để kiến tính. Nếu tất cả chỉ là huyễn thì kiến tính cũng là huyễn bởi gốc của kiến tính tức là người suy nghĩ đã là huyễn. Mình cũng huyễn thì suy tư là lấy cái huyễn nghiệm những sự huyễn; tu chứng cũng là hành trình diễn tiến của huyễn tiếp nối chồng chất, và như vậy, sao cái thực có thể nẩy sinh từ cái huyễn.

- Nói vậy nghe được, Hưng lên giọng kẻ cả, vì ít nhất đã dám suy tư, dám đặt vấn đề để giải quyết vấn đề. Đây là hành trình minh triết. Ngôn từ tu chứng nhà Phật thường nhắc tới có, không, huyễn, thực, vô minh, minh triết, kể ra chẳng xiết. Tuy nhiên, các tác giả trước tác kinh sách dùng những văn từ này tùy thuộc ý niệm riêng không dựa trên bất cứ ý niệm căn bản nào; vì vào những thời buổi đó chẳng có gì được gọi là mẫu mực ý niệm chung. Không nói ngày xưa, ngay thời buổi bây giờ cũng thế; cho nên người đọc kinh sách kiếm đường tu chứng thường hay gặp phải những câu nói rắc rối quanh quẩn do ý nghĩa của mấy chữ có, không, huyễn, khiến sự suy tư và nhận định của họ bị đảo lộn lung tung tạo nên lòng chán nản. Theo thiển kiến qua kinh nghiệm hiểu biết và cảm nghiệm đọc kinh sách nhà Phật, chữ hoặc lời “có” mang nghĩa thấy được bằng mắt. Chữ “không” mang nghĩa không thấy được bằng mắt. Chữ “huyễn” có nghĩa chóng qua. Thường thì tùy theo từng cuốn sách, mấy chữ này được hiểu thêm về tính chất hữu hình và vô hình ám định một cách nào đó theo ý tác giả. Chúng ta có thể nhận định như thế này, có những “cái có” hữu hình và cũng có những “cái có” vô hình. Không nhìn thấy chưa chắc đã không có; mà có những “cái không” hữu hình đồng thời cũng có những “cái không” vô hình. Thêm vào đó, huyễn là những thoáng qua dù vô hình hay hữu hình, có thể là vật chất, có thể là ý nghĩ.


- Tại sao đã không lại còn không hữu hình và không vô hình?

- Cái có thể nhìn thấy bằng mắt, rờ bằng tay, nhưng được gọi là không vì đối với quan niệm nhà Phật, cái có, cái thực là cái trường cửu. Thế nên, cái có giai đoạn, hữu hình bây giờ mà một triệu năm sau không ai biết đến nữa vẫn là không. Đọc kinh sách nhà Phật cần để ý điểm này, vì bình thường, chúng ta chỉ nhắc tới cái không, cái có giai đoạn, được gọi là huyễn theo nhà Phật; mà quên rằng bất cứ gì không trường cửu đều bị nhà Phật gọi là không, cái không khi tận cùng. Và như vậy, bất cứ gì cũng là không, không nhìn thấy cũng không, nhìn thấy cũng không. Chả thế mà trong kinh Kim Cang có những câu, “Vì tướng ngã tức không phải tướng, tướng nhơn, tướng chúng sanh, tướng thọ giả tức không phải tướng. Vì sao? Vì lìa tất cả tướng giả tức gọi là chư Phật” (KCGL; Tr.120); “Phật nói Bát Nhã Ba La Mật tức không phải Bát Nhã Ba La Mật, ấy gọi là Bát Nhã Ba La Mật” (KCGL; Tr.109); “Như Lai nói 32 tướng tức không phải 32 tướng, ấy gọi là 32 tướng” (KCGL; Tr.110). Đàng khác, dẫu nhà Phật cho rằng tất cả sự vật, ý niệm đều không nhìn thấy, nhưng lại cũng là có vì “cái có” ở đây mang nghĩa đó là những biến chuyển của Chân Như, chẳng khác gì những ngọn sóng nơi đại đương. Bảo rằng có ngọn sóng thì vừa mới nói xong, nó đã biến chuyển khác trước; bảo rằng không có sóng, cứ leo lên ghe chạy ra biển trong cơn giông bão sẽ biết ngay. Quý vị đã bị lộn tùng phèo cái đầu chưa? Coi chừng kẻo chân lên đàng đầu và đầu xuống dưới chân với chỉ hai chữ có và không nơi cửa Phật. Vì vậy, không và có nơi Phật học mang nghĩa như nhau. Một sự vật bảo có cũng đúng, bảo không cũng đúng, nhưng đúng theo ý niệm nào. Cũng một chữ đúng nhưng chia ra hai nhận thức nơi hai môi trường ý niệm đối nghịch lẫn nhau.

- Ông nói như thế một sự vật hay ý niệm có thể hiểu bốn trường hợp, hai đúng, hai sai?

- Không những bốn trường hợp mà nhiều hơn bốn nữa.

- Tại sao hơn bốn trường hợp?

- Còn có ý niệm thì còn phát sinh trường hợp. Thí dụ, có, không, đúng, sai, phải, trái, giả, thực, từng cặp đối nghịch và mỗi cặp lại đi kèm với lẽ đúng sai. Chẳng hạn chai bia hoặc ý niệm về chai bia, bảo có cũng đúng, không có cũng đúng; có cũng sai, không có cũng sai; thực cũng đúng, giả cũng đúng; thực cũng sai, giả cũng sai. Thế nào cũng đúng và cũng sai tùy ý niệm của người nói.

- Nếu vậy thà đừng có ý niệm nữa thì chẳng gì phát sanh.

- Đây là lý do tại sao gọi là huyễn. Lẽ đúng, sai, thực, giả, có, không, được phát sanh từ ý niệm; thế nên nếu không có ý niệm thì lại chẳng có gì được nói đến. Gốc nhận thức cần được để ý vì nó phát sinh từ tính chất này.


- Vậy nếu không có mình sao có ý niệm? Và như thế, phải có mình mới có huyễn.

- Ông lạc vào mê hồn trận có, không của nhà Phật rồi. Nếu đặt vấn đề có mình hay không có mình thì ông trở lại điểm khởi đầu, vòng luẩn quẩn có, không của ý niệm, mà đã có ý niệm tức lại phát sinh chúng sanh.

- Thì phải có mình mới có ý niệm và ý niệm là một thực thể nên mình mới có thể nghĩ tới được. Nếu không có ý niệm sao ông có thể nghĩ tới nó?

- Tôi vừa mới nói ông lạc vào mê hồn trận có, không, lại vẫn cứ gân cổ ra mà lý luận. Tôi chỉ hỏi ông, những con sóng trên mặt biển có hay không? Nói có cũng đúng và cũng sai, nói không cũng đúng và cũng sai thì ông nói làm sao? Cãi đi, chứng minh coi; đâu phải cứ to miệng mà không có sóng, hoặc có sóng. Nó vậy đó, luẩn quẩn với lẽ có, không nào được ích gì!

- Thì con sóng phát sinh bởi sự luân chuyển của nước hòa hợp với áp lực gió thổi nên được hiện ra và vì thế gọi là có. Con sóng có trong giai đoạn theo những điều kiện thiên nhiên bởi vậy được gọi là có.

- Ông vừa nói con sóng có trong giai đoạn. Biển thì vẫn là biển. Khi nước luân chuyển tùy theo hấp lực của mặt trăng cộng hưởng với áp lực của gió tạo thành sóng. Sự kiện này nói lên những ngọn sóng được tạo thành bởi nước biển và những điều kiện phụ thuộc. Như vậy, nước là gốc của những ngọn sóng. Sự luân chuyển của nước, và áp lực gió là những điều kiện. Hãy lấy biển và sóng làm thí dụ điển hình để diễn giải quan điểm nhà Phật. Tất cả mọi sự kiện, sự việc, dù ý niệm hay bất cứ vật gì đều phát sinh từ Chân Như. Chân Như là cội nguồn phát sinh mọi sự kiện hữu hình và vô hình chẳng khác gì biển là gốc của mọi con sóng. Vì mọi sự kiện được phát sinh từ Chân Như chỉ trong giai đoạn ngắn hạn hoặc dài hạn do đó được gọi là huyễn. Đó là những cái có trong giai đoạn mà xét theo thực thể Chân Như, chúng là không như những ngọn sóng so với biển. Thế nên, ngọn sóng được coi là có giai đoạn hữu hình đồng thời cũng được coi là không vô hình trong diễn trình trường cửu của Chân Như.


- Tại sao bỗng nhiên ông lại bày ra Chân Như trong khi đang nói về có không của sóng biển. Lại còn thêm vào hữu hình và vô hình. Chỉ hai tiếng có, không chưa đủ rắc rối sao?

- Chân Như hay Chân Không là ý niệm nhà Phật dùng để chỉ cội nguồn của mọi sự hiện hữu hữu hình và vô hình. Vì không có cách nào để ám chỉ nên tạm gọi là Chân Như hay Chân Không. Tôi muốn dùng ngôn từ Cội Nguồn Hiện Hữu, nhưng e chỉ vẽ rắn thêm chân nên tạm dùng ngôn từ nhà Phật để nói. Đồng thời, các ông cũng thấy, cái bàn, cái ghế, chai bia, cũng như thân xác con người là vật thể hữu hình. Ý tưởng, ý niệm, không khí, tất cả những gì không thấy được bằng mắt, nhưng chúng ta có thể biết hoặc nhận định được, tạm gọi là hiện hữu vô hình. Như vậy, gốc của mọi sự vật, sự kiện hữu hình và vô hình là Chân Như. Gốc của cái có là cái không.

- Nếu ông đã dùng hiện hữu hữu hình và hiện hữu vô hình thì dùng luôn cho dễ phân biệt, việc chi lại bới bèo ra bọ, chêm nếm gốc của cái có là cái không.

- Nói như thế mới ra vẻ Phật học.

- Không cần biết vẽ hay sơn, chúng tôi chỉ cần biết cách nào, và dựa trên nguyên tắc nào để tu chứng đạt tới kiến tính như ông đã nói. Làm ơn dẹp cái hình thức rởm cho đỡ rắc rối.

- Ông đề nghị như thế nghe được. Xin các ông làm ơn nhớ cho mấy tiếng căn bản này là Chân Như hay Chân Không có nghĩa cội nguồn hiện hữu dù vô hình hay hữu hình, và cũng được gọi là Quyền Lực Hiện Hữu, hoặc Thực Tại Siêu Việt, tương đồng với những danh hiệu Tạo Hóa, Hóa Công, hoặc bất cứ ngôn ngữ ám định nào khác để chỉ về cội nguồn, hay quyền lực tối cao phát sinh mọi sự. Sự vật, sự kiện tạm chia ra hai phần, hữu hình và vô hình, để dễ nói chuyện.

- Chân không là khoảng không gian không có không khí, không có gì hết.

- Đấy là danh từ vật lý mang ý nghĩa vật chất. Thì thôi, không dùng tiếng chân không nữa, nhưng nếu nghe nói đến nó trong ngôn từ nhà Phật thì quý ông làm ơn hiểu cho đó là Chân Như, Cái Không chân thực, Quyền Lực Hiện Hữu tối cao.

- Qua cầu, bây giờ tiếp tục với Chân Như.

- Tạm gọi Chân Như là Quyền Lực Hiện Hữu; vì tất cả mọi sự dù hữu hình hay vô hình, dù được hiện hữu trong bất cứ giai đoạn nào, mang sự hiện hữu, đều thể hiện quyền lực này. Không có quyền lực hiện hữu ngự trị sẽ không có sự hiện hữu. Quý ông chấp nhận được không?

- Xin thưa chấp nhận. Bất chợt mọi người đồng loạt lấy giọng thưa bẩm chẳng khác gì trẻ em lớp mẫu giáo. Họ là thế, có những cái mỏ bán trời không văn tự lúc rượu bia phát biểu, và đôi khi thái độ giả bộ đơn sơ như trẻ em để diễu, giúp bầu khí bớt căng thẳng trong những trường hợp có chuyện rắc rối xảy ra. Có điều, bởi năng gặp gỡ ăn nhậu, bàn luận, điểm chung nơi họ là tấm lòng không xét nét, chấp nhất, mà biết mở rộng tâm hồn tìm hiểu.

- Cái bàn, chiếc ghế, chai bia là sự vật hữu hình tất nhiên hàm chứa hay được hiện hữu bởi quyền lực hiện hữu thể hiện thành hữu hình. Quyền lực hiện hữu hữu hình và vô hình ẩn tàng nơi con người. Thân xác hữu hình. ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ vô hình. Con người còn có thêm quyền lực sáng tạo, biến ý định, ý nghĩ từ vô hình thành hữu hình. Từ nhận thức này, nhà Phật nói “Tâm sinh vật và vật sinh tâm.” Như vậy con người, các vật chung quanh, không khí, cây cối là hiện thể của Chân Như, Quyền Lực Hiện Hữu. Tóm lại tất cả vật thể, sự kiện là những biến thể của Chân Như, của Quyền Lực Hiện Hữu. Chiêu ngụm bia thấm giọng, Hưng tiếp,


- Đây là gốc gác Phật học. Tu chứng là hành trình đạt đến nhận thức này. Kiến tính là thời điểm thực sự đạt đến trạng thái này. Bởi thế, Phật học quan niệm mình không phải là mình mà chính là Chân Như hiện thể trong diễn trình biến chuyển. Nói cách khác, tất cả mọi sự, mọi vật, mọi ý niệm, ước muốn, toan tính chỉ là những biến chuyển của Quyền Lực Hiện Hữu liên tục. Đó cũng là lý do tại sao nhà Phật có những câu nói khó hiểu, chẳng hạn, “Nói là Phật pháp đó tức chẳng phải Phật pháp” (KCGL; Tr.70). Tất cả các sự kiện, sự vật được nhà Phật gọi là pháp, và pháp là hiện thể của Chân Như; nên Phật pháp không phải là Phật pháp mà chính lại là Chân Như.

- Như vậy, nếu tất cả là Chân Như trong diễn trình hiện thể theo từng giai đoạn thì đâu có chi là tội, đâu có chi là phúc, chẳng gì đúng, chẳng gì sai. Sao mà lôi thôi rắc rối, rồi nào Phật tính, nào kiến tính, nào niết bàn, nào luân hồi, nào chúng sanh, chúng tử lắm thứ vậy?

- Đó là lý do tại sao tôi chỉ nhấn mạnh tới kiến tính. Đạt Ma sư tổ đã nói thế; Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ nói thế. Những vấn đề biến chuyển thế nào của Chân Như, có, không, Phật pháp, bồ tát, tu chứng, niệm Phật, tụng kinh, sách vở, mọi sự chỉ luẩn quẩn trong cõi ta bà ý niệm mà thôi. Hơi ngập ngừng, Hưng tiếp, có điều, khi con người còn chưa nhận chân sự nhất nguyên giữa thực thể và hình tướng thì vẫn còn luẩn quẩn nơi cõi vô minh. Tất cả mọi sự hiện hữu dù vô hình hay hữu hình đều là tướng của thể. Không có tướng ngoài thể, và chẳng có thể ngoài tướng. Nói cách khác, vạn pháp là hiện tướng của thực thể Chân Như; ngoài Chân Như không có pháp, và ngoài vạn pháp không có Chân Như. Cũng có thể diễn giải rằng mọi sự hiện hữu đều chất chứa Cội Nguồn Hiện Hữu, và ngoài Cội Nguồn Hiện Hữu tất nhiên không có gì hiện hữu. Như vậy, tất cả mọi sự biến chuyển của vạn vật chính là sự biến chuyển của Cội Nguồn Hiện Hữu. Nói theo nhà Phật, vạn pháp là sự biến chuyển của Chân Như, và tất cả mọi hiện thể đều thuộc về thực thể cũng như thực thể của biển và sóng chỉ là nước. Sóng là hình tướng; biển cũng là hình tướng giống như vạn pháp, cả hai đều thuộc về hình tướng mà Chân Như là nước. Ngoài nước, không có gì là sóng, chẳng có gì là biển. Bởi vậy, ngoài Chân Như không có vạn pháp mà nếu đã nhận ra vạn pháp thì lại cần được nhận ra gốc của vạn pháp chính là Chân Như. Tôi chỉ có thể nói được như thế và cũng biết rõ, càng nói thêm càng chẳng nói được gì. Ai có tai thì nghe (Mt. 11:15), ai hiểu sao thì hiểu. Nhưng thực sự, hiểu cũng vô ích vì hiểu biết chẳng giúp ích gì cho hành trình kiến tính; vấn đề chỉ là tu chứng. Những ai không chịu tu chứng mà cứ đòi hiểu thì chẳng thể nào hiểu được; vì dù hiểu biết lợi ích của nước đến mấy, không uống vẫn còn khát; dù hiểu bia ngon ngọt đếu đâu, không uống chẳng thể say. Quả thật, nói với những người không tu chứng chẳng khác gì dạy kẻ yếu đánh vật, hoặc bàn luận với kẻ vô minh, sẽ bị họ khinh dể nét tinh tế của lời mình nói (Cn. 23:9). Giọng Hưng trầm buồn, nhỏ dần mang đầy vẻ thao thức tạo nơi lòng người nghe nỗi khát khao đượm phần khắc khoải mông lung. Và thế là mọi người lại nhao nhao lên,

- Ông coi tụi tui ngu xuẩn đâu có được.

- Con nhà này được sinh ra trùng phải giờ vạ miệng.

- Nói vậy không được, quá láo lếu.

- Phạt, Sỹ nhà con oang oang đề nghị. Yêu cầu trưởng hội đồng trừng phạt diễn giả một cách đúng đắn vì dám khinh dễ mọi người.   

 

CHƯƠNG 2


Nơi bộ salông, cụ Tài im lặng theo dõi diễn tiến của nhóm nhậu. Cụ là anh bố của Hưng nên được mọi người gọi bằng bác. Là thứ hai nơi một gia đình mười người con mà thân sinh của Hưng đứng vào hàng thứ chín; ngày còn nhỏ, cụ được theo Nho học nhưng vì khoa bảng lận đận, lại trúng vào thời kỳ đất nước nhiều biến đổi; chữ Quốc Ngữ thay thế chữ Hán; đồng thời quan niệm vật dục xâm lấn, chuyển biến lòng người khiến những ai còn chút liêm sỉ đều bị dồn vào cảnh bất đắc chí. Khom lưng luồn cúi, hoặc mưu mô thủ đoạn tạo dựng danh vọng, hay chạy theo tiền tài đã trở thành ngón đòn thù đập thẳng vô lòng ruột những tâm hồn được huấn luyện trong gương mẫu kẻ sĩ. Theo Hán học, tất nhiên những tư tưởng nho phong thấm nhuần đậm đà nơi cách ăn nết ở, chẳng những thế, cụ hâm mộ đạo học nên tha thiết kiếm tìm nơi sách vở về Phật, Lão, Trang, và sau này cụ có cơ may đọc về Ấn học và Kinh Thánh. Chính lòng say mê đạo học đã dẫn dắt cụ đến quyết định sống độc thân; mặc dầu khi tới tuổi trưởng thành, quyết định này đã làm khổ cụ không ít nơi môi trường của một gia đình nho phong. Thế rồi thời buổi đẩy đưa, những tháng năm dài lính tráng sắp đặt cụ tới cương vị thiếu tá mấy năm trước khi hưu trí. Sỡ dĩ cụ lận đận trên đường quan hoạn cũng chỉ vì mối sĩ khí do nhận thức về đạo học đã ngăn cản lòng chiều theo bản chất bình thường của một con người khi đối diện với thế quyền và vật dục. Cũng chính vì vậy, những bạn lính hoặc sĩ quan đã gọi cụ là thày tu không chùa.


Dẫu cách sống bề ngoài tốt lành được hướng dẫn bởi một nội tâm công thẳng, và dẫu được người chung quanh nhận định có tâm hồn quang minh chính đại, nhưng tận đáy lòng, cụ Tài phải đối diện với những trận chiến giữa tâm linh và tham vọng thế tục nhiều khi khiến cụ muốn buông tay xuôi chiều hầu có cuộc sống vật chất và những giây phút thoải mái hơn. Nghe bạn bè kể lại những thành công, những hãnh diện đắc thắng trên trường đời do mưu mô, thủ đoạn như sự khôn ngoan thiên bẩm, cụ nhận ra mình đã sẵn dư thừa khả năng, nếu không muốn nói có thể hơn để lập mưu chước thế tục, chẳng những đem lại lợi ích trên đường quan hoạn mà còn được thêm tiền tài, danh vọng, được mọi người kính nể, e sợ. Tuy nhiên, khi đối diện với lòng trong những giây phút nghiệm xét tâm linh, cảm nghĩ tựa lời nói vô hình vô sắc nào đó luôn luôn nhắn nhủ cụ xuôi chiều theo đường hướng thiện. Câu nói nơi Lão học, “Không làm gì nhưng không việc gì không làm” giữ một vai trò quan trọng điều hành mọi dự định cũng như đè bẹp muôn ham muốn nội tâm. Chữ “dục” nơi Phật học bao hàm hoàn toàn những phương diện ước ao hữu vi. Dù ý tốt lành cũng là dục vì đó chính là sự ham muốn. Đâu đó ý tưởng “Chẳng làm điều thiện thì không tạo điều ác” nhiều lần đã khiến cụ phải cố gắng dẹp cõi lòng sôi động thực hiện những việc được coi là tốt lành trong tầm tay, dành thời giờ đặt vấn đề hầu có nhận thức tiên kiến về hậu quả điều tốt mình muốn thực hiện. Chữ “Thời” nơi Dịch học mới ghê gớm làm sao! Một đàng Dịch học nêu lên người lãnh đạo phải xử lý cho có đạo đức, dùng phương thức chính trị giải quyết vấn đề nhưng phải có thời. Đàng khác, tạo thời lại chính là chạy theo thị dục nên đã chắc gì tạo thời là điều tốt cho sức sống tâm linh! Hơn nữa, có ở trong chăn mới biết chăn có rận; đã chắc gì những điều mình mơ ước đem lại lợi ích cho giá trị cuộc đời, và nào ai biết hành trình thức ngộ của mình phải trải qua những trường hợp nào, bài học nào cần thiết, bài học nào chỉ là kết quả chạy theo thị dục! Bởi vậy, đã nhiều lần cụ tự nhủ, nếu mình được sinh ra để hoàn thành phận sự nào hầu đạt đến đẳng cấp chi trong hành trình tâm linh, tất nhiên, mọi sự việc đã được chuẩn bị sẵn đúng thời điểm dẫn mình bước tới. Không nhận thức được điều này, chẳng thể am tường câu nói “Không làm gì nhưng không việc gì không làm.” Sự việc đáng lý sẽ xảy đến theo lẽ phải xảy ra, cung ứng cơ hội thăng tiến mà mình cố tình xía vô theo ý muốn, vô tình làm trệch dữ kiện, chắc chắn chỉ kéo dài diễn trình cơ hội phát triển tâm linh của mình. Thế nên, tưởng là hay lại hóa nên dở, tưởng là thi thố tài năng, thực hiện điều tốt nơi lối nhìn hạn hẹp, sản phẩm của lòng ham muốn thế tục, lại trở thành sự ngăn cản việc phải xảy đến đúng thời đúng lúc. Có thể nói, cụ tự nhủ, coi chừng lòng tốt, con đẻ của vô minh, là nguồn gốc tạo nên muôn vàn sự khốn khó cho con người. Phỏng chữ dục nơi nhà Phật chỉ về ý muốn được gọi tốt lành đã trở thành vị kỷ. Thế nên, chẳng lạ gì có câu nói, “Bất cứ ai không nhận thức được sự việc mình làm chỉ là cho chính mình, mà chỉ cho rằng làm việc cho người khác, hoặc mang lợi ích cho người khác, hay kiến tạo cơ hội cho người khác, kẻ đó tất nhiên là người bất hạnh, đáng bị chán ghét, và cô độc” (Robert Baldick). Khổ nỗi, càng nhận ra những náo động thực hiện cho chính mình thì lại càng nhận thức rõ đang chạy theo thị dục. Phỏng mấy ai ngờ, cái tĩnh là gốc cái động, và cái tĩnh cũng là sự khôn ngoan ngăn cản những cái động thị dục.

 
Thời điểm này, cụ đã tám mươi bảy tuổi. Hơn hai mươi năm trước lúc đất nước đổi chế độ, một người bạn trung tá an ninh vì hiểu biết tấm lòng vô cầu nơi cụ, nên mấy hôm trước ngày ba mươi tháng tư, đã nói dối, muốn bàn thảo chuyện cần khi cụ và Hưng, thời đó đã mười sáu tuổi, đang đi dạo vào buổi chiều, dàn xếp cho cả hai bác cháu lên chuyến bay rời bỏ quê hương cùng với gia đình ông ta. Qua mười năm sống trên đất nước người, Hưng đã lấy xong cấp bằng Master xã hội học, cũng một tay cụ lo vợ cho cháu; đồng thời một già và đôi vợ chồng trẻ tiếp tục từ ngày đó ở chung cho tới nay. Hưng đã được bốn cháu, hai trai, hai gái, chán cảnh “sáng cắp ô đi tối cắp về” đem thân làm thuê nơi văn phòng như một thông lệ buồn tẻ; hơn nữa, qua gần hơn mười năm làm việc, vợ chồng Hưng do tằn tiện đã để dành được số vốn kha khá, lại nhờ bác có tiền trợ giúp tuổi già, chia sẻ điện nước nên Hưng quyết định làm ghe đánh tôm, nửa mùa vật lộn với sóng nước ngoài khơi, nửa mùa thảnh thơi cùng thú điền viên, quanh quẩn vùng sông ngòi hưởng niềm vui câu cá để có nhiều giờ gần gũi dạy dỗ con cái. Nhờ trời, mới hai năm làm ghe, anh đã sắm được căn nhà năm phòng ngủ, không sang lắm nhưng thoải mái vì không phải vay công, mượn nợ. Dĩ nhiên, làm nghề “đâm Hà Bá” thì tôm cá không bao giờ thiếu; do đó, món nhậu đã sẵn, bia bung, rượu chè cũng chẳng đáng là bao, nên Hưng thường mời bạn bè tới nhậu, ít nhất cũng hai tuần một lần. Chị Hưng có lần tỏ vẻ khó chịu vì e ngại con cái học đòi sau này sinh hư, nhưng Hưng lý luận có khách khứa tới lui, mình có cơ hội tập tành cho con cái biết đối xử lễ độ với kẻ trên, người dưới. Vấn đề trẻ hư hay không tùy thuộc sự giáo dục của bố mẹ.


Lòng cụ Tài tương đối thanh thản; mặc dầu có tuổi, nhờ trời, cụ vẫn khỏe mạnh nên đôi khi đi ghe với Hưng để thay đổi không khí, và thường hay dẫn các cháu đi câu vào buổi chiều, tránh cơ hội chúng đua đòi với những bạn bè chẳng nên cùng lứa. Nhiều lần hai bác cháu bàn luận chuyện đời rất tương đắc. Bác thâm nho, cháu là người được ăn học nên dễ am hiểu và cảm thông, kiến tạo đôi tâm hồn rộng mở chấp nhận cuộc đời, lâu dần, nhận thức đạo học được đem ra chia sẻ. Cụ Tài đã để ý theo dõi và thăm dò tâm thức người cháu độc nhất này, nhưng năm tháng dần trôi, mãi hai năm trước đây, Hưng mới có thể đạt được phần nào lối nhìn về thực thể sự vật cũng như sự việc. Thế rồi, bỗng một hôm tháng trước, Hưng ôm về cả chồng sách nhà Phật; lại nhân mùa lạnh rảnh rỗi công việc, anh chúi mũi đọc nhiều khi quên ngủ. Cụ Tài cảm thấy hơi lạ, mặc dầu để ý nhưng chỉ âm thầm theo dõi.


Đã nhiều lần cụ được mời tham dự những bữa nhậu của giới thanh niên xồn xồn này tại nhà Hưng; tuy nhiên, dẫu được mọi người cảm mến và tôn trọng, cụ chỉ ngồi ăn uống với họ chừng nửa giờ; đến khi các tướng đã bắt đầu thấm hơi men, cụ lặng lẽ rút lui về phòng ngủ. Thực ra, cụ nghĩ, dẫu mình không chấp nhất hoặc cảm thấy phiền hà vì những lời nói vô tình của nhóm “người trẻ” thuộc hàng con cháu; bởi thái độ của họ đối với cụ rất lịch sự, nhưng sự hiện diện của mình có thể khiến họ phải giữ kẽ từng lời ăn tiếng nói tạo nên thái độ mất tự nhiên, lâu dần ảnh hưởng, sẽ biến họ thành những con người không dám sống chân thật. Đàng khác, kiến thức của những người trẻ này được đào luyện để hội nhập và làm việc nơi một xã hội tiên tiến nặng phần kỹ thuật, tuy chất chứa nhiều yếu tố phổ thông, nhưng dẫu sao, sự nhận thức vẫn bị lệ thuộc nguyên tắc đối đãi nhị nguyên, hoặc là đúng, hoặc là sai, hợp hay không hợp, hãy còn quá xa vời với nhận thức đạo học khiến cụ khó bề nói chuyện theo chiều hướng nhận chân thực thể cuộc đời hầu mong giúp họ thêm phần ý thức tâm linh. Lắm khi cụ nghĩ, dẫu muốn giúp họ mà chưa tới thời điểm cho họ thức ngộ, có thể chỉ làm họ thêm phiền. Hơn nữa, còn muốn làm điều gì vẫn chỉ chạy theo thị dục, cụ âm thầm tự nhủ hầu an lòng chờ đợi.


Và dịp may đã đến, đồng thời cụ nhận ra nguyên nhân Hưng chăm chỉ đọc sách mấy tuần nay. Tuy nhiên, cụ kiên nhẫn theo dõi và lắng nghe những điều Hưng trình bày về nhận thức Phật học. Đã đôi lần cụ định lên tiếng xen vô nhưng cố dằn lòng mỗi khi Hưng dồn khán thính giả vào đường cùng do dùng những câu nói của mấy vị tổ thiền. Đồng ý rằng, những câu nói này là những công án nhà Phật, tự mang năng lực khuyến khích sự thức ngộ tâm linh, hoặc công phá màn chắn vô minh bao trùm nhận thức con người; tuy nhiên, luận đàm cách ấy, chỉ những ai có tâm thức đã đạt đến trình độ nào đó mới có thể chấp nhận hoặc nhận thức nổi. Hưng còn quá hăng hái và ngay thẳng, còn muốn soi sáng cho những đầu óc đã bị ảnh hưởng quá nặng nề chiều hướng hoặc lối nhìn thế tục. Tham vọng chọc thủng màn tối vô minh của con người dẫu sao cũng chỉ là thị dục, và như vậy, còn mang nặng ý hướng được coi là tốt lành mong muốn khai tâm người khác nên đã tự động tạo thành phản ứng bất lợi; còn muốn làm điều thiện theo nhãn quan thế tục thì vẫn còn tạo điều ác, ngăn cản hành trình thức ngộ của kẻ khác, và chỉ bất lợi cho chính mình mà thôi. Hưng cố gắng cho trẻ sơ sinh ăn tái bò thay vì cho chúng uống sữa, chẳng những hại cho chúng mà lại khốn khổ cho mình do sự áp dụng hoàn toàn đối nghịch với câu Kinh Thánh, “Của thánh đừng cho chó.” Hơn nữa, sự diễn giải quá ngắn gọn do dùng những công án nhà Phật, phần nào đó, đòi hỏi người nghe phải có ý nghĩ và nhận thức tương đương với mình. Hưng phạm ngay vào lỗi lầm căn bản ít người để ý, và đó là người ta chỉ bị khốn khổ bởi lòng thành thực hiện những việc tốt lành, và như vậy vẫn còn chạy theo thị dục.

 

*  *  *

 
Thực ra, chỉ cần đôi phút nhận thức, câu Kinh Thánh được nhắc lại từ cửa miệng Hưng bày tỏ nỗi ăn năn, minh chứng sự nhận thức đến với anh một cách bất ngờ, sau khi đã tốn công sức giải thích Phật học. Tuy nhiên, thực tại lại ngược ngạo, nào ai đạt được tiềm lực nhận thức này khi chợt nghe câu nói mang đầy vẻ khinh bỉ từ người đối diện. Mấy công án nhà Phật đòi hỏi căn bản thức ngộ, và nếu ai không đủ trình độ sẽ bị đảo lộn tâm tư, không biết đường hướng nào làm căn bản nhận định, không thể hiểu điều gì muốn được nói, và cùng lắm chỉ khiến người nghe cho rằng diễn giả nói cuồng hoặc cố tình lòe thiên hạ. Đàng này, lời Kinh Thánh, mới thoạt nghe, đượm vẻ khinh thị đối với những tâm hồn thiếu ý thức tâm linh. Lời nói chẳng khác chi đem vũng bùn khổng lồ tạt vào mặt người nghe, bắt phải câm miệng, và lại mang tính chất coi kẻ đối diện thuộc thành phần đốn mạt đáng bị chặn họng, không cho phép nói, dù lời nói thuộc loại nào!


Cụ Tài đằng hắng hơi lớn cố tình gây sự chú ý của mọi người, đoạn đứng dậy, từng bước chậm rãi tiến đến đầu bàn đối nghịch với vị trí Hưng đang ngồi.

- Xin phép anh em cho tôi được chen vào câu chuyện. Giọng cụ nhẹ nhàng đượm vẻ nghiêm trọng khiến ai nấy nhận ra có điều gì bất thường.

Đã nhiều lần ngồi đồng bàn, nào ai lạ gì cụ Tài, tuy cao tuổi trời nhưng thái độ đối xử với những người hậu bối luôn luôn nhã nhặn, thông cảm, nếu không muốn nói là am hiểu. Trong những lúc nhậu, đôi khi người nào đó vô tình nói câu quá trớn, cụ cũng không chấp nhất, chẳng bao giờ tỏ vẻ khó chịu mà chỉ nhẹ nhàng đưa ra lời giải thích, mang ý nghĩa nhắc khéo mọi người tránh sự xét xử khắt khe trong mọi trường hợp; vì đã chắc gì những điều không lọt tai luôn luôn mang tính chất không nên, ngược lại coi chừng chính là cơ hội, giúp kẻ nghe mở rộng lòng nhìn lại chính mình. Nếu vội xét đoán, tâm trí sẽ bị đóng khung, gò bó trước khi suy nghĩ, và như vậy, đương nhiên đã bỏ lỡ cơ may thăng tiến nhận thức.


Lúc này, một người già cả được ai nấy tôn trọng bao lâu nay lên tiếng xin phép làm họ ngỡ ngàng dẫu hơi men đã đến lúc có tác dụng ảnh hưởng.

- Vâng, vâng, mời bác. Bác dùng tiếng xin phép làm chúng cháu khó ăn khó nói quá. Sỹ nhà con nhanh miệng xí xóa, che lấp cõi lòng sôi động.

- Ngồi nơi salông nghe anh em bàn luận từ đầu tới giờ, khiến tôi muốn có đôi ý kiến. Tuy nhiên, lời thật bao giờ cũng mất lòng; vì vậy, nếu anh em chấp thuận cho tôi nói với lòng chân thành, và đồng thời chấp nhận nghe mà không xét đoán hoặc chấp nhất, tôi mới có thể nói được.

- Thưa bác, không sao, có bao giờ bác thấy tụi cháu phản đối lời bác nói đâu. Tình chen ngang.

- Anh Tình, hãy để tôi nói hết, cụ Tài đưa tay ra hiệu. Tôi nghĩ, những điều tôi sắp nói có thể đụng chạm mạnh đến tự ái của anh em mặc dầu tôi không có ý như thế. Thực ra, tôi chỉ muốn nói lên nhận định của một người già cả, có thể là lỗi thời, nên mong anh em rộng lòng hiểu cho.

- Vâng, vâng, mời bác, xưa nay chúng cháu hiểu bác quá mà. Mời bác cứ nói, cháu sẵn sàng yêu cầu mọi người lên án phạt nếu người nào lộn xộn làm phiền đến bác.

- Ngoại trừ ông Thung đây, vì mới quen, tôi không được biết rõ mấy. Tuy nhiên, qua những lần nghe chuyện bàn luận của anh em, tôi cảm phục ông có được một tâm hồn cởi mở và sự nhận thức sâu xa từ những thực tại nhỏ nhặt đang xảy ra nơi cuộc đời. Còn những anh em khác, chẳng hạn anh Hưng, có bằng master, ở Việt Nam người ta gọi là cao học. Anh Sỹ, dù con cái đông mà sang đến đây vẫn cố gắng lấy được bằng chuyên nghiệp hai năm đại học. Anh Phủ, kỹ sư điện ngông nghênh để khoảng trống chiếc răng sất ngạo đời. Đại khái anh em thuộc vào thành phần có học thức; tôi có lời cảm phục. Tuy nhiên, khi đề cập đến một tín ngưỡng tức là đụng vào chiều sâu tâm hồn, tư tưởng của con người, do đó anh em cần phải dùng những ngôn từ nghiêm chỉnh để đàm đạo hay trình bày. Những lời phát biểu của anh em dẫu rất chính xác về sự nhận thức thức ngộ, nhưng đối với những tâm hồn còn quá thiển cận bởi chưa thoát khỏi vòng vô minh, những điều chính đáng phát xuất từ cửa miệng anh em đã trở nên quá ư cao ngạo. Anh em nên nhớ; đối với những trẻ em mới sinh được một hai tháng chỉ nên cho chúng ăn sữa; chứ không ai đem những món tái bò, hay lòng heo, hoặc vịt nấu chao, dẫu tuyệt vời đối với mình, mà ngược lại chỉ làm khốn khổ bộ lòng ruột những trẻ còn thơ ấu ấy. Thế nên, đối với những tâm hồn non nớt nơi hành trình thức ngộ tâm linh của đạo học, lời của các anh đã bị coi như thiếu tư cách, đã tự hạ nhân phẩm, và được coi như không biết chút gì về tôn giáo, và còn có thể bị hiểu lầm là cố ý bài bác kinh sách hoặc khinh khi những người có niềm tin. Đồng ý với anh em, nhất là anh Hưng, anh em không bàn về Phật giáo, mà là Phật học.

 
Chợt ngưng nói một chút và với giọng hơi đắn đo, cụ tiếp,

- Tôi xin lưu ý, như tôi vừa nhận định, các anh là những người tạm được gọi là có học. Tuy nhiên, đối với những kẻ thiếu hiểu biết, hoặc những người ỷ lại trong phương diện suy tư, những gì các anh bàn luận về Phật học sẽ rất dễ bị ngộ nhận thành sự chỉ trích tôn giáo. Khi ấy, một tai hại đáng tiếc sẽ ập tới, và việc nhỏ sẽ đẻ ra trái núi; lòng chân thành do nhận thức sáng suốt về đạo học hướng dẫn, nhưng thiếu khôn ngoan về cách trình bày, sẽ tạo nên muôn vàn phiền phức. Dẫu cụ Tài cố lấy giọng chậm rãi và nhẹ nhàng nhưng những lời nói phát xuất từ cửa miệng vẫn mang nặng vẻ nghiêm trọng khiến mọi người cảm thấy căng thẳng.

- Tôi không dám phủ nhận sự hiểu biết sâu rộng của anh Hưng về Phật học; đồng thời, tôi cũng nhận rõ những điều anh trình bày lại quá xa lạ với Phật giáo, nếu không muốn nói là hầu như chống nghịch với những sự thực hành cúng kiến hay nghi thức của các tôn giáo. Trên thực tế, điều này đúng với mọi đạo học và tôn giáo, vì đạo học trình bày về cảm nghiệm thức ngộ tâm linh; trong khi tôn giáo chỉ là tổ chức thế tục được kiến tạo do lòng khao khát tâm linh của đại đa số quần chúng. Xét như thế, có thể nói, tôn giáo là tổ chức của con người mong muốn đạt tới sự thức ngộ hầu giải thoát khỏi màng lưới vô minh, mong chứng ngộ quyền lực siêu hình, quyền lực hiện hữu đang hoạt động nơi mình. Và như vậy, thực ra, nhiệm vụ của các tôn giáo chính thức phải là phương tiện dẫn dắt con người trên hành trình thức ngộ, giải thích cảm nghiệm thức ngộ, và trình bày diễn tiến thức ngộ.


- Tuy nhiên, ba nhiệm vụ chính này đã không được bất cứ tôn giáo nào nhắc tới, mà có chăng, chỉ được nói đến nơi đạo học. Cũng có thể thời điểm thức ngộ tâm linh cho đại đa số quần chúng chưa tới; cũng có thể vì con người còn quá chìm sâu trong vô minh nên chưa muốn nhận biết về thức ngộ tâm linh; cũng có thể những người có bổn phận, chức vị nơi tôn giáo chưa đạt đến sự thức ngộ tâm linh nên vẫn còn bị luẩn quẩn nơi nghi thức, thực hành theo lý thuyết sùng bái, và chỉ lo phát triển tổ chức tôn giáo. Có điều đáng buồn, không hiểu tại sao những bậc thức ngộ nơi các tôn giáo lại cứ âm thầm thinh lặng. Phỏng vì họ biết dẫu nói ra cũng không giúp ích gì bởi con người chưa đáng được nghe, hoặc vì những đầu óc con người trong tổ chức tôn giáo còn quá non nớt không đáng họ đếm xỉa tới, hoặc vì cảm nghiệm tâm linh khi được phát biểu sẽ có vẻ nghịch lại với tôn giáo nên họ tránh trở nên cớ vấp phạm cho mọi người, hoặc họ không muốn bị phiền hà vì sẽ bị đối diện với những lời kết án như sản phẩm từ những đầu óc thiển cận vô minh chăng.


- Điều tôi muốn nói là, cho dẫu sự hiểu biết cũng như thức ngộ của anh em đến thế nào chăng nữa, nếu có gì đáng bàn tới, xin anh em cứ nêu lên; vì đây là quyền tối thượng của con người trong hành trình thức ngộ, nhưng xin anh em đặt vấn đề một cách thẳng thắn, nghiêm túc hơn. Nói thì nói thế, nhưng nếu đứng vào vai trò của anh Hưng, chính tôi cũng không biết phải ăn nói thế nào cho có vẻ nghiêm túc hơn; chỉ một điều chắc chắn tôi cảm nhận được, và đó là những phát biểu về thức ngộ tâm linh nơi Phật học, qua những lời dạy của các tổ thiền nhà Phật, đã từ lâu và cho đến bây giờ, vẫn đối nghịch với tất cả những sự thực hành mọi tôn giáo, không riêng gì Phật giáo. Có lẽ, các nhà thức ngộ tâm linh cảm nghiệm rõ cảnh phiền toái của thực tại thị dục con người, cũng như lời khôn ngoan răn dạy nơi Kinh Thánh mà anh Hưng vừa nhắc tới, nên chấp nhận âm thầm nhìn những cảnh nhố nhăng để rồi đau lòng thương xót, vì chuyện phải thế nên đành chấp nhận như thế, chẳng còn cách nào hơn. Thực ra, lời Kinh Thánh và đặc biệt nơi Phúc Âm, có những câu khinh thị đầu óc u mê chạy theo thế tục, không lý gì đến thực thể tâm linh nơi mình. Chẳng hạn nơi Matthêu có nói, “Của thánh đừng cho chó, châu ngọc chớ quăng trước bầy heo kẻo chúng dày đạp dưới chân và quay lại cắn xé các ngươi” (Mt. 7:6). Phỏng các vị thức ngộ của các tôn giáo cũng vì thế mà đã tránh lên tiếng chăng! Ngừng một chút, cụ tiếp,

- Tôi rất thành tâm khi nói những lời này với ý định có tính cách báo động và đưa ra một cảnh giác thân tình. Thiển nghĩ, chẳng nên nói hơn vì có nói gì thêm chăng nữa sẽ rờm tai anh em. Có điều, tôi mong anh em hiểu cho tôi. Tôi triệt để tôn trọng tín ngưỡng dù chưa bao giờ được vinh dự là một con chiên Công giáo hoặc là một Phật tử. Tôi vốn chỉ dám là một kẻ hết lòng trân quý tổ tiên, ông bà cha mẹ mình thôi. Cái vốn học và hiểu biết của tôi về đạo giáo còn quá kém cỏi. Nếu cho rằng tôi có được chút khả năng nào thì hoàn toàn ở lãnh vực tìm tòi và tự nhận thức mà thôi. Thực ra, nếu có thể nói thêm cho rõ, thì xin thưa với anh em, suốt từ sau 1954 đến 1975, tôi chưa hề có một cơ hội nào bén mảng đến khuôn viên Việt Nam Quốc Tự. Và tôi đã thực sự thấm thía buồn khi quan sát việc người ta rước Phật xuống đường! Tôi đã sống qua những thời buổi ấy, còn đang sống bây giờ và sẽ từ giã cõi đời trong phiền muộn nơi cái lốt “muỗi người” nhỏ bé khốn khổ của mình. (Mạc Kinh).


Cụ Tài nói một hơi, giọng chất chứa nỗi buồn man mác và thái độ tỏ rõ lòng chân tình. Ra hiệu cho Hưng lấy ly trà nơi chiếc bàn nhỏ, cụ chiêu ngụm trà cho thấm giọng đoạn tiếp,

- Anh em cũng cần phải để ý, nếu không muốn nói là học khôn từ những thái độ nông nổi đó của đa số quần chúng. Thử hỏi, nơi thế giới Phật giáo rộng lớn ấy được bao nhiêu người thực hành tu chứng? Lẽ đương nhiên, đâu phải cứ tu chứng là đã thức ngộ; hơn nữa, cái bã quyền hành, tham vọng thế tục mang quyền lực ảnh hưởng con người kinh khủng như thế nào. Chính nó được gọi là quỷ như trong Kinh Thánh đề cập tới; thế nên, trong số ít ỏi những người tu chứng ấy, được bao nhiêu người thực sự thức ngộ! Thực trạng này chứng tỏ rõ ràng sự thiếu hiểu biết tâm linh hoặc tham vọng thế tục vẫn còn tràn lấp, che mờ tâm trí con người. Cũng có thể con người không được sinh ra để đạt tới thức ngộ vì còn bị nghiệp chướng nặng nề làm mù quáng, nói theo ngôn từ nhà Phật tức là vô minh.


- Nhưng tôi biết chắc chắn một điều; đó là hầu hết mọi người chưa được nghe rao giảng, hoặc được trình bày rõ ràng phải thực hành tu chứng như thế nào. Sự thức ngộ không phải chỉ lòng thành mà có thể đạt tới nhưng cần thực tập. Sự thực tập tu chứng cũng giống như ăn uống, suy nghĩ; không ai có thể ăn dùm, uống dùm cho mình thì cũng không ai có thể suy nghĩ, nhận thức, và thực hành tu chứng cho mình. Không thế mà đức Đạt Ma sư tổ cũng như Lục Tổ Huệ Năng của nhà Phật đã có những lời nghe đến chói tai mà anh Hưng nhắc đi nhắc lại, và đó chỉ là kiến tính mà thôi. Tuy nhiên, thực tế chứng minh, ngay như trường hợp của tôi, đã bao năm dài kiếm tìm cho rõ hơn, sách vở không nói, những vị thuyết giảng Phật học cũng chỉ giải nghĩa, hoặc phân tích kinh sách theo phương diện nhận thức chứ không ai nói lên được phương pháp thực tiễn nào để định tâm trong hành trình tu chứng. Có thực nghiệm tu chứng mới thấy, nếu không biết cách định tâm, con đường tu chứng sẽ trở thành vô tưởng. Người ta rao giảng về thiền, về các thế ngồi, về những mức độ đạt tới, nhưng chúng chỉ là sự thực hành bên ngoài khó áp dụng cho đại đa số quần chúng. Hơn nữa, ngồi kiết già, hoa mai, mà trí óc, tâm tưởng suy nghĩ lung tung thì hoàn toàn vô ích và còn có thể trở nên phương tiện cho những kẻ lười lĩnh dùng cửa Phật để ăn bám, tiêu phí cuộc đời một cách nhàm chán; chính tâm trạng này tạo nơi lòng dạ kẻ lạm dụng mặc cảm tội lỗi. Bởi thế, Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn đã nói, “Không biết tự tâm thì học đạo vô ích.” (GLTH; Tr.170). Đây cũng là lý do tại sao Lục Tổ Huệ Năng khuyến cáo mọi người phải chấp lao tác vụ và thực hành thiền trong công việc. Ngài nói, “Ngồi xếp bằng tròn mà như cái cây khô, thì có ích gì đâu!” (GLTH; Tr.183). Cụ Tài ngừng nói, chiêu ngụm trà.


- Thưa bác, Tùy con vội lên tiếng, Kinh Thánh là lời Chúa sao lúc nãy bác nói khinh thị con người?

- Bàn luận khơi khơi về đạo học thì dễ, mà đâu được ích chi! Vào thời điểm nào đó, nếu có ai trong anh em thăng tiến được một chút nơi hành trình tâm linh, anh em sẽ thấy rõ, sự thức ngộ tâm linh nung đốt con người tạo thành lòng xót thương đối với những ai còn đang mê mãi nơi cõi vô minh. Chẳng thế mà đức Thích Ca đã ví sự mê muội của vô minh giống như cảnh cháy nhà; con người cần gấp rút thoát ra ư! Tuy nhiên, nếu xét theo phương diện giáo hóa, chớ dạy người ta những điều thái quá hay bất cập. Nếu dạy người những điều thái quá thời người không thể tới nơi; nếu dạy người những điều bất cập thời người học không tiến bộ. Do đó, anh em nên nhớ một điều, vào thời điểm chập chững hành trình thức ngộ, nếu ai muốn chỉ dạy cho người, cần phải được nhập tâm chữ “Trung” trong Dịch học. Nếu chỉ dạy chẳng đúng thời, người thụ giáo chẳng vui nghe, mà công dạy cũng uổng (Chu Dịch I; Tr.153). Đàng khác, xét về phương diện tâm linh, những lời nói phát xuất từ cảm nghiệm như chọc vào lỗ tai kẻ nghe; vì họ không thực nghiệm tu chứng nên không thể cảm nhận được. Thế nên chẳng trước thì sau, kẻ nào hung hăng theo kiểu ngựa non háu đá, khoe giấm khoe mẽ, chưa dầy công tu chứng đã vội tìm danh vọng thế tục qua danh hiệu tâm linh, chẳng sớm thì chầy sẽ bị lộ tẩy tham sân si. Nhân tiện, tôi cũng xin có lời khuyên anh em và đó là khi bàn luận về đạo học, chẳng nên dùng tự ái tôn giáo, bởi như anh em nhận thấy nơi thực tại, dẫu tôn giáo bắt nguồn từ lòng khát khao tâm linh của con người nhưng tôn giáo chỉ là tổ chức nhân sinh dùng lề luật, nghi thức, phần nào đó giúp những tâm hồn còn quá thấp kém xa lánh lối sống nguy hại cho hành trình thăng tiến tâm linh.

Ngưng lại đôi phút dường như cố ý để người nghe có cơ hội thấm nhuần lời mình nói, cụ Tài tiếp,

- Anh em có thể nhận thấy rõ ràng nơi thực tế, dẫu tôn giáo là tổ chức phát sinh từ lòng khao khát tâm linh, nhưng vì áp dụng cho đại đa số quần chúng thiếu thực hành tu chứng, thiếu cơ hội hiểu biết về tâm linh, và thường không muốn bị bận tâm do phải đối diện với nhu cầu sinh sống phiền toái hằng ngày, nên thường ỷ lại vào những lời giảng giải của những người có cuộc sống tu trì. Họ cứ tưởng rằng nghe giảng giải là biết hết mọi sự, hoặc hiểu được điều gì là mình đã đạt tới để rồi yên tâm đã được giải thoát hoặc được cứu độ. Họ có kinh nghiệm sống, nhưng không bao giờ thử đặt vấn đề đem những kinh nghiệm ấy áp dụng vào hành trình thăng tiến tâm linh. Tôi muốn nêu lên một thí dụ điển hình, anh em đang uống bia, phỏng ai có thể dùng bất cứ ngôn từ, hay thái độ, hoặc cách nào để giải thích, trình bày, cho tôi cảm nhận được thực sự bia ngon ngọt như thế nào không? Ai cũng hiểu rõ, dầu với bất cứ phương cách nào, và cho dù thời gian kéo dài bao lâu, một người trong anh em cố gắng đem hết khả năng giải thích hoặc minh chứng thì tôi cũng không bao giờ có thể cảm nhận được miếng bia thực sự ra sao. Chỉ có một cách nhanh nhất, hoàn hảo nhất và thật đơn giản, đó là tôi nâng ly bia uống một ngụm. Ngoài ra, sự cảm nhận về ngụm bia nơi miệng của tôi không thể giống với cảm nhận của bất cứ anh em nào, và chỉ mình tôi biết. Tương tự như thế, sự thức ngộ trong hành trình tu chứng cũng vậy; không ai có thể truyền đạt cho ai, và dẫu có ai đó, với thiện ý, càng cố gắng diễn giải thì cũng chẳng thể nào giúp ích được cho ai, mà chỉ càng không nói lên được gì. Tôi e rằng càng nói chỉ càng làm hại người mình muốn giúp mà thôi, vì càng giải thích lại càng khiến người nghe lạc vào vòng phiền toái của ý niệm. Bởi vậy, nếu nhận xét kỹ càng, đạo học chính là ý thức dẫn tới minh triết cho người tu chứng. Ai chưa bao giờ thực hành tu chứng sẽ không thể nào cảm nghiệm được những công án nhà Phật, không thể nào hiểu được kinh điển; vì công án chỉ là phương tiện các tổ thiền dùng để giúp môn sinh thức ngộ, và kinh điển giãi bày cảm nghiệm tu chứng.


Dẫu thái độ không biểu lộ chút nào mệt mỏi, cụ Tài lại ngưng nói, nhẹ khép đôi mắt chừng vài giây, hình như có điều gì khiến cụ suy nghĩ lung lắm, đoạn lên tiếng.

- Như vậy, muốn thăng tiến tâm linh tất nhiên phải tự mình tu chứng vì không tu chứng sẽ không cảm nghiệm được bất cứ điều gì. Tu chứng là phương pháp thực hành cảm nghiệm tâm linh, cũng giống như hành động của con người khi đói ngồi trước các món ăn. Cho dù thực phẩm gồm các món sơn hào hải vị sắp xếp đầy bàn mà cứ ngồi nghe người nào đó giảng thuyết món này bổ béo ra sao; món kia giúp con tì con vị thế nào; món khác làm đẹp da, sáng mắt, bổ óc, bổ thận, thì dẫu nghe đến cả giờ, thực khách đói vẫn hoàn đói. Nếu kiên nhẫn ngồi nghe cả ngày, có lẽ những món ăn tuyệt vời đó chỉ còn nước đổ đi trong khi dạ dầy rỗng không. Nghe giảng thuyết cũng vậy, nếu không thực hành tu chứng thì dẫu cầu khẩn cách mấy cũng như không. Bởi vậy, vì không tu chứng nên không có cảm nghiệm, nhưng con người tự bẩm sinh luôn luôn thấy thao thức điều gì đó hầu khỏa lấp nỗi khát vọng tâm linh nên dễ chiều theo nghi thức cúng kiến, thờ phượng, được gọi bằng ngôn từ đẹp đẽ, thực hành tôn giáo. Lẽ đương nhiên, muốn có được mối an tâm do sự thực hành tôn giáo bằng những nghi thức lễ bái, thờ phượng, con người tìm cách kêu gọi sao cho có đông kẻ khác làm theo mình như một trắc nghiệm tâm lý chứng tỏ mình đã thực hiện được gì để thỏa mãn nỗi khát vọng tiềm ẩn này. Thế rồi, thay vì phát triển tâm linh, tham vọng phát triển tổ chức tôn giáo đem lại danh vọng, uy quyền, và muôn sự kèm theo nếu có, và như vậy, thực thể khao khát tâm linh nơi con người đã bị lạm dụng để cổ võ cho những tổ chức tôn giáo, đề cao ước muốn giải thoát, cứu độ. Có điều, nếu ai dám suy nghĩ và đặt lại vấn đề sẽ nhận biết rõ ràng, càng ước muốn giải thoát hoặc cứu độ thì càng nhận ra chắc chắn chưa được giải thoát, chưa được cứu độ. Kinh nghiệm sống ai không biết, còn ước muốn khỏi đói bụng thì vẫn đói. Thực ra, con người biết kiếm thực phẩm để ăn khi đói, mà vẫn chỉ ước muốn được giải thoát thay vì thực hiện hành trình sao cho đạt tới giải thoát. Nhưng khổ nỗi, nếu đã không biết hành trình thực hiện cách nào, không biết phương thức thực tiễn nào để thăng tiến tâm linh, sao con người dám yên lòng tin tưởng theo đuổi! Những lý thuyết, những sự giảng giải kinh điển không đem lại chứng minh cụ thể điều kinh điển ghi chép. Cũng có thể rằng, thực thể tâm linh được nói đến trong kinh điển quá cao, cần cảm nghiệm tu chứng lâu ngày; do đó khó ai lĩnh hội được. Cũng có thể chính diễn giả chưa đạt tới mức độ tâm linh thì cho dù luận lý hay giải thích cách mấy vẫn chỉ làm đình trệ trình độ minh triết kẻ nghe. Đã nhiều lần tôi suy nghĩ, đâu phải vô lý khi kinh sách ghi chép những sự lạ lùng xảy đến như những minh chứng hùng hồn cho lời giảng của những vị sáng lập các xu hướng tâm linh; mà thường khi đọc đến những dữ kiện được ghi chép này, chúng ta đều có cảm nghĩ đó là những chuyện không tưởng hay phép lạ. Bởi vì  cho rằng những sự kiện đó không tưởng, hay phép lạ, thì con người đã tự hạn chế ý định thử nơi mình. Lẽ đương nhiên, hạn chế ý định thử tức là hạn chế sự thực hành tu chứng. Ngừng lại một chút, cụ Tài kết thúc, đến đây, tôi nghĩ, tôi không còn gì để bày tỏ với anh em vì đã nói hết những điều cần phải nói. Tôi nhấn mạnh, đây là những điều tôi phải nói vì đã lỡ được nghe lóm anh em bàn luận mà thôi. Xin cảm ơn anh em đã cho tôi cơ hội tỏ rõ nỗi lòng của mình.

Nói đoạn, cụ Tài xoay người định dời gót. Tình chợt lên tiếng,

- Thưa bác, thế kinh sách nhà Phật nói về những gì sao mà nhiều đến thế, và mục đích của đạo học là gì nếu không phải là cứu nhân độ thế?

- Tôi nghĩ anh em bàn luận đã hơi lâu vì bây giờ đã là chín giờ, cụ đưa tay nhìn đồng hồ. Suốt từ năm giờ chiều, vị chi bốn tiếng bàn luận, hơn nữa, anh em còn phải ăn uống, có lẽ để lúc khác tôi trả lời vì câu hỏi bao hàm quá rộng rãi.

- Xin bác nói mấy phút nữa thôi, được nghe thêm chút nào hay chút ấy. Sỹ nhà con miệng năn nỉ lằng nhằng, kiểu của hắn xưa nay vẫn vậy, trong khi đứng dậy kéo ghế. Mời bác ngồi cho đỡ mỏi, ban thêm cho chúng cháu đôi lời.

 

Còn gì phấn khởi hơn gặp được người muốn tìm hiểu về tâm linh, cụ Tài cảm thấy nguồn hứng khởi chợt trào dâng. Bao ngày tháng chồng chất kiếm tìm và chiêm nghiệm về đạo học, cụ đã đối diện với nỗi cô độc tuyệt đối; đó là khó có người muốn nghe và có thể chấp nhận được những suy tư tâm linh. Giờ đây, ít nhất những lời nói trung thực từ cảm nghiệm tâm linh của những vị tổ thiền, hoặc từ những công án nhà Phật được Hưng nhắc lại như khởi điểm đã làm đảo lộn lối nhìn nhị nguyên tạo thành lòng khao khát muốn tìm hiểu, một cách nào đó, mở rộng tâm hồn mấy người anh em này hầu chấp nhận mọi khía cạnh của vấn đề được nhận định thay vì thiên kiến.

- Nếu anh em muốn nghe, nói thêm vài phút nữa cũng chẳng nguy hại gì. Có điều, anh em nên để tâm, ý vị thâm trầm nhất của Phật học là tinh thần vô trụ, vô tướng, không lệ thuộc bất cứ một học thuyết nào, không đưa ra con đường nào cho bất cứ ai; mà mỗi người phải tự mình tìm ra, đồng thời nhận thức được chính mình trong hành trình kiến tính. Kinh Phật có câu, “Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo, bất đắc kiến như lai” (Chu Dịch I; Tr.414). Câu này có nghĩa, Phật lý ở bản tâm, vô thanh sắc. Thế nên, nếu ai lấy thanh âm hoặc hình sắc mà cầu ta ở thanh âm hay hình sắc, người ấy đã đi vào tà đạo, không đạt tới niết bàn. Phật học kêu gọi kẻ muốn tìm giải thoát chẳng nên ỷ lại vào một uy lực nào. Phật học không phải là lý thuyết an ủi con người hay phương thức để cho những tâm hồn nô lệ cầu cạnh thần quyền. Chính đức Thích Ca thường căn dặn những kẻ theo ngài; không nên tin vào lời ngài nói mà phải tự mình xét lại đến lúc nào nhận thấy những lời ấy có giá trị chắc chắn, áp dụng được trong hành trình tu chứng thì mới nên theo (PHTH; Tr.56). Như vậy, mỗi người phải tự mình kiến tính chứ không ai có thể giúp ai hoặc kiến tính dùm cho ai. Đàng khác, Phật học có mục đích phá trừ kiến chấp; nên có thể nói Phật học là một đạo học không học thuyết, không giáo điều, ngược lại khai phóng, giải phóng tất cả những gì con người sùng bái. Có thể nói, đây là nguyên tắc độc nhất và cũng là điểm cao thâm nhất của Phật học. Chả thế mà chính đức Thích Ca đã nói: “Ta thuyết pháp trong khoảng bốn mươi chín năm mà chưa từng nói một lời. Ta từ đêm được chánh giác, đến đêm nhập niết bàn, trong khoảng đó ta chưa từng nói một chữ” (PHTH; Tr.73). Thế nên, vấn đề quan trọng nhất của Phật học chỉ là chuyển mê khải ngộ. Hơn nữa, không phải chuyển mê khải ngộ là mọi sự được giải quyết mà phải sống điều mình đã thức ngộ được. Như vậy, Phật học cũng như các đạo học, không phải là lý thuyết cho người ta hiểu biết mà thôi nhưng là một đạo sống. Trong cuốn Phật Học Tinh Hoa, cụ Thu Giang Nguyễn Duy Cần có ghi lại câu truyện được trích từ Truyền Đăng Lục như sau: “Xưa Hương Nham hòa thượng tham học ở Bách Trượng thiền sư. Ông là bậc tuyệt thế thông minh, khôn ngoan lanh lợi, phàm hỏi một, trả lời đến mười. Thế mà khi tổ Huy Sơn hỏi: ‘Lúc cha mẹ chưa sinh ta ra, vậy thử nói một câu xem sao!’ thì tâm thần mờ mệt, chả còn biết trả lời ra sao được cả. Ông ta bèn trở về liêu, đem những sách vở bình nhật đã học mà đọc lại từ đầu chí cuối, mong tìm cho kỳ được câu trả lời, nhưng rốt cuộc cũng chẳng tìm thấy. Chán nản, liền than: ‘Toàn là bánh vẽ, chẳng thể nào án vô!’ Nhiều lần ông khất cầu tổ Huy Sơn nói ra cho biết thì tổ Huy Sơn trả lời, ‘Nếu ta nói ra cho ngươi biết, nhất định sau nầy ngươi sẽ mắng ta vì đó chỉ là cái biết của ta, không ăn thua gì đến ngươi cả!’ Hương Nham tức mình, đem tất cả kinh luận ra mà đốt hết rồi qua đất Nam Dương học nơi Tuệ Trung quốc sư. Ông khổ công nghiên cứu lâu ngày chầy tháng. Một hôm đi phát cỏ chặt cây, vô ý liệng một miếng miểng (mảnh) sành đánh trúng vào thân cây trúc, liền nghe phát ra một tiếng ngân lạ lùng, bỗng liền khoát nhiên tỉnh ngộ! Ông vội vàng trở về tắm gội, đốt hương ngưỡng vọng về nơi tổ Huy Sơn mà rằng: ‘Hòa thượng thật là bậc Đại Từ, ân ngài còn hơn cha mẹ sinh thành. Nếu lúc trước vì ta mà ngài nói ra thì ngày nay sao ta được sự đắc ngộ này!’” (PHTH; Tr.80-81).

- Thưa bác, hòa thượng Hương Nham đắc ngộ thế nào? Tùy con chợt cắt ngang lên tiếng hỏi.

- Kể ra anh cũng nóng sốt về đường thức ngộ! Cụ Tài nhẹ nhàng nói. Hòa thượng Hương Nham đã là người thông thái, hỏi một có thể trả lời tới mười; điều này có nghĩa, sức học của ngài quá rộng rãi mà còn phải đọc lại tất cả các kinh sách và vẫn phải than lên chỉ là bánh vẽ, cuối cùng đem đốt hết, lại dời qua đất Nam Dương học thêm nơi Tuệ Trung quốc sư cũng chỉ vì một câu hỏi coi bộ tầm thường của tổ thiền Huy Sơn. Thế nên, câu trả lời về việc hòa thượng Hương Nham đắc ngộ thế nào đành phải giống như câu trả lời của tổ thiền Huy Sơn mà thôi. Tôi có trả lời cũng chẳng ơn ích gì cho các anh.

- Thưa bác, bác đâu phải là tổ thiền Huy Sơn! Sỹ nhà con đế vô.

- Anh Sỹ, dẫu vô tình nói như vậy cũng đủ chứng tỏ anh đã coi thường tôi quá lắm. Hãy để tôi nói hết, cụ Tài đưa tay làm hiệu ngăn Sỹ nhà con đang định giải thích. Tôi hiểu tấm lòng chân thành của anh em nóng sốt muốn hiểu biết, nhưng phải đặt vấn đề như thế; hy vọng anh em để ý hơn về lời ăn tiếng nói liên hệ tới địa hạt tâm linh, hay đạo học. Có lẽ anh em chưa biết câu trả lời của lục tổ Huệ Năng khi quan biệt giá Giang Châu tỏ ra ngạc nhiên vì ngài nhờ ông ta viết bài kệ lên vách tường, “Học đạo Vô Thượng Bồ Đề chớ nên khinh thường kẻ sơ học. Người thấp có thể có trí cao; người cao có thể không có trí cao” (GLTH; Tr.168). Thử hỏi, đâu phải phi lý mà câu truyện được ghi lại cho đầy sách; cũng đâu phải tôi cố tình kể lại câu truyện đắc ngộ của hòa thượng Hương Nham làm uổng phí thời giờ của anh em. Thử đặt vấn đề, sau khi nghe câu truyện, anh em đã có được mấy phút suy nghĩ mà vội hỏi. Thử so sánh thời giờ của anh em dành cho sự suy nghĩ về câu truyện với thời gian hòa thượng Hương Nham đọc lại sách vở, năn nỉ xin tổ thiền Huy Sơn trả lời, cộng thêm thời gian học cùng Tuệ Trung quốc sư. Anh em chưa kịp để ý suy nghĩ thì đã muốn biết câu trả lời, nào được ích chi. Tôi đề nghị, anh em nên học nơi hòa thượng Hương Nham, trước tiên cần tự suy nghĩ, tìm hiểu. Anh em không để ý câu nói của Hương Nham cho rằng ân nghĩa của tổ thiền Huy Sơn tạo nên bởi không trả lời còn hơn công ơn cha mẹ sinh thành sao! Sự thức ngộ giải thoát con người khỏi vòng luân hồi của vô minh mang giá trị tâm linh lớn lao biết chừng nào, làm sao chỉ nghe giải thích mà có thể đạt tới được. Anh Hưng nói rất đúng, không ai có thể thức ngộ cho mình. Đắc ngộ cần tu chứng đồng thời không ai có thể dẫn dắt. Ai tu chứng, người ấy biết, chẳng thể giải thích cũng như học từ kẻ khác.


- Thưa bác, cháu muốn biết... nhưng... tu chứng... là gì và phương pháp... phải thế nào? Phủ ngập ngừng hỏi vì e ngại bị khiển trách như Sỹ nhà con.

- Thực ra tu chứng chỉ là tự mình nghiệm xét. Tất nhiên, muốn nghiệm xét đúng đắn lại cần nhiều điều kiện để chuẩn bị tâm trí mà anh Hưng đã nói lúc nãy. Hơn nữa, một trong những điều kiện chuẩn bị cho sự thực hành tu chứng chính là minh triết. Đồng thời sự minh triết đòi hỏi một tâm hồn rộng mở để nhận thức về thực thể sự vật và sự việc cũng như ý niệm, quan niệm. Thế nên, tôi nghĩ, trước hết, anh em cần nhận thức về các khuynh hướng đạo học; sau đó nếu ai thực sự muốn thực nghiệm tu chứng, tôi sẵn sàng nói cho biết cũng không muộn.

- Thưa bác, nếu như thế sao một người có thể đạt tới trình độ tu chứng đúng đắn bởi đâu có cách nào hiểu biết hết những kinh sách để kiện toàn sự minh triết.

- Tôi hiểu anh muốn nói gì. Dẫu kinh sách nhà Phật quá nhiều vì ngay đến tên của những tông phái nhà Phật trên thế giới cũng khó có thể nhận định cho chính xác như thành quả của đặc tính phá chấp, con đẻ của tinh thần vô trụ, vô tướng, không lệ thuộc bất cứ học thuyết hoặc đường lối nào. Tuy nhiên, minh triết đâu phải là gom góp kiến thức của người khác để rồi nhắc đi nhắc lại như những phương châm mà chính là kết quả của chứng nghiệm, suy tư, nhận định, của một tâm hồn hoàn toàn tự do không bị lệ thuộc hoặc ám ảnh bởi bất cứ chiều hướng nào. Tôi thử nêu một câu hỏi để anh em trả lời, chẳng hạn bia tốt hay xấu?

Mọi người ngồi im lìm. Những cái mỏ xưa nay vung vít tào lao thế mà giờ này đành chịu im tịt đối với một câu hỏi quá ư bình thường khiến cụ Tài cảm thấy hơi ngỡ ngàng.

- Tại sao không ai trả lời. Cụ không dùng tiếng anh em mang tính chất thân thiện vẫn thường dùng mà chỉ hỏi với tiếng “ai” ngắn gọn, phần nào chứng tỏ sự khó chịu do thái độ ù lỳ bởi e sợ sai lầm của những kẻ quen thói lắm miệng.

- Thưa bác, nói rằng tốt cũng không đúng, mà nói rằng xấu cũng không đúng nên tụi cháu đâu biết nói gì!

- Như vậy phỏng câu trả lời đúng nhất là không trả lời? Tôi nói thế anh em nghĩ sao?

- Thưa bác, không trả lời chưa chắc đã đúng mà trả lời cũng chưa chắc đã đúng. Cháu nghĩ, không trả lời được thì đúng hơn. Cháu muốn nói đúng hơn chứ cũng chưa chắc đã đúng. Sỹ nhà con bí quá nói đại.

- Đây là nguyên tắc của minh triết vì suy nghiệm đến tận cùng của thực thể sự vật cũng như sự việc chứ không lệ thuộc vào luật lệ, quan niệm nào hay chiều hướng, ý thích nào. Có điều, bằng này anh em ở đây, ai cũng mới chỉ dám nghĩ tới phải trả lời thế nào cho đúng, cho hợp, chứ chưa ai dám nghĩ tới thực thể của câu hỏi. Nếu để ý hoặc nhớ lại, con người thường không để ý tới nguyên nhân và thực thể của vấn đề được đặt ra mà thường chỉ lo sao giải quyết một cách vô ý thức miễn sao cho giống người khác hoặc tránh bị chê trách mà thôi. Bây giờ chúng ta thử trả lời câu hỏi và sau đó đặt vấn đề về câu hỏi. Đối với một người không uống bia, bia tốt hay xấu?

- Thưa bác, có thể nói xấu vì nếu uống vào họ sẽ bị say.

- Tại sao say bị coi là xấu? Và nếu như vậy, chỉ người say có thể bị coi là xấu chứ sao có thể nói bia xấu! Anh em thấy rõ, ảnh hưởng của bia, nói cách khác, sự áp dụng của bia vào môi trường nào đó tạo nên điều được con người cho là xấu hay tốt chứ không phải tự bia xấu hay tốt. Bởi vậy, cho dù trả lời bia xấu hay tốt cũng đều không đúng với bản chất của bia xét theo lối nhìn luân lý. Nếu nói rằng bia vừa xấu cũng vừa tốt lại càng không chính xác, và đồng thời nếu bảo không tốt không xấu thì sẽ bị mọi người cho là ngớ ngẩn; do xưa nay hầu như mọi người đều quá quen và lệ thuộc quan niệm định giá xã hội về sự vật hay sự việc hoặc thế nọ hoặc thế kia cho có nhận định được gọi là rõ ràng, chứ thực sự không gì rõ ràng mà chỉ luẩn quẩn theo ý thích hay không, hoặc lợi hại thế nào. Thử đặt vấn đề, nếu đem một chai bia chia đều cho năm người uống đoạn yêu cầu từng người nói lên cảm vị phần bia họ đã uống, chắc chắn không ai nói giống ai, và có thể kết luận ai cũng giải thích sai lạc đối với cảm vị của bốn người khác. Thực ra, nếu đem mẫu mực sai hoặc đúng, ai cũng sai và ai cũng đúng vì đúng với chính họ, mà sai vì không có cái miệng chứng nghiệm được cảm vị như của người khác. Tương tự như thế, nếu xét theo lối nhìn tâm linh, chân lý chỉ có một dầu diễn tả bằng cách nào, chẳng khác gì cùng một chất bia mà năm người diễn tả năm cảm vị khác nhau ấy là chưa nói tới đối nghịch. Tạm thông qua ý niệm xấu tốt, bây giờ thử xét tính chất câu hỏi, có ai trong anh em đưa ra nhận định gì về câu hỏi “bia tốt hay xấu” không?

- Thưa bác, cứ theo như bác vừa dẫn giải thì câu hỏi tự nó phi lý nên đâu cần phải nói gì. Sỹ nhà con nhanh miệng.

- Tại sao anh lại theo sự suy tư của tôi vừa dẫn giải? Tại sao không sử dụng trí óc của anh làm mẫu mực đưa ra nhận định? Chúng ta xưa nay vẫn thế, đã quá quen với lối cố gắng nhồi nhét vào đầu óc mình những gì người khác tuyên truyền theo quan điểm hạn hẹp cá nhân và cho rằng đó là học thức; trong khi chính mình không dám tự sử dụng tâm trí để suy tư bởi e sợ sai lầm. Tôi thử hỏi anh em, nếu tôi đưa ra nhận định bia Heineken cay hơn ớt, có ai dựa trên đó để làm mẫu mực suy tư không? Đồng ý, anh em tôn trọng tôi, nhưng không phải bất cứ quan điểm nào tôi đề xướng cũng có thể phù hợp với anh em. Trung thực nhận xét, điều đúng nhất phải nói là những gì tôi có thể chấp nhận nhiều khi đối nghịch với quan điểm của hầu hết anh em ở đây. Nó đúng, nó hay, chỉ với tôi mà thôi chứ chưa chắc gì đem lại lợi ích cho bất cứ ai. Không ai có thể suy tư cũng như chứng ngộ thay cho mình mà phải tự mình. Như tôi đã nói, chân lý là chân lý dù dưới hình thức nào hoặc được diễn giải bằng cách nào. Chân lý không là độc quyền của ai cũng không thể chứa đựng trong một hệ thống hay giáo phái nào hữu hạn, nên cũng không bị chứa đựng trong một danh từ hạn định hoặc cảm nghiệm cá nhân. Thế nên, sự nhận định về giá trị của câu hỏi sẽ tùy thuộc suy tư của mỗi anh em. Tôi muốn nhắc lại, có ai đưa ra được nhận định nào về câu hỏi “bia tốt hay xấu” không?

- Theo cháu, Tùy con lên tiếng, bác vừa khai phá một lối nhìn rộng mở cần nhiều suy tư hầu đạt tới sự áp dụng nơi nhận định thực thể sự vật và sự việc. Tuy nhiên, vì cảm thấy cần có thời gian ứng dụng nên hiện giờ cháu chưa thể nào có được nhận định gì về câu hỏi.

- Tôi có lời khen anh Tùy vì đã dám nhận định và nói lên thực trạng nơi lòng mình. Đây cũng là điểm căn bản cho con người bước vào trạng thái minh triết. Tôi dám khẳng định với anh em, kẻ nào không nhận biết chính mình, không dám chấp nhận thực trạng nơi lòng mình, sẽ không bao giờ có thể chạm đến cửa ngõ minh triết. Biết mình thế nào, bết bát ra sao, tốt lành tới mực độ cao thấp bao nhiêu nếu so sánh với ước mơ của mình, mới có được căn bản đi vào suy tư cảm nghiệm thực thể sự vật và sự việc. Ngược lại, kẻ nào hiểu muôn vàn lý thuyết thánh thiện, tốt lành, khoa học, tâm lý, luân lý, ngay cả đến những lý thuyết đạo học, mà chưa nhận biết chính bản thân họ thì muôn đời vẫn vô minh. Đọc kinh sách, các đạo học không bắt ai phải tin tưởng một cách mù quáng, chỉ tôn giáo thực hành như thế để cổ võ tổ chức của con người. Các lời kinh Phật thường nhấn mạnh đến chữ “kiến” hơn là chữ tin. Phật học bài bác lòng tín ngưỡng trước khi đã tự mình nhận thấy và kinh nghiệm, bởi vậy mới nói “Kiến tính thành Phật” (PHTH; Tr.66). Xét như thế, muốn kiến tính phải nhận biết chính mình vì tính là tính Phật, tâm Phật, ở ngay nơi mình. Thế nên, người nào muốn cảm nghiệm Phật học, cần điều kiện mở rộng tâm hồn, trí não, hầu có thể thông cảm với tất cả mọi giáo lý khác. Sự cố chấp, hẹp hòi, và cuồng tín, chính là bức tường thành kiên vững ngăn cản sự thức ngộ tâm linh. Chân lý hiện lên muôn mặt, mọi nơi, mọi chốn; trong khi mỗi học thuyết chỉ diễn tả theo từng trình độ, căn cơ cảm nghiệm của tác giả trước tác mà thôi. Như vậy, điểm căn bản của Phật học là phá kiến chấp, không lệ thuộc bất cứ gì, và đây là ý nghĩa câu nói nghịch lý trong Lâm Tế Lục, “Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ”. Bởi đó, kinh Viên Giác có đoạn nói, “Kinh điển của Phật nói như ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu thấy được mặt trăng thì rõ biết ngón tay chỉ kia không phải cứu kính, không phải là mặt trăng. Tất cả những ngôn thuyết của Như Lai để mở bày cho Bồ tát cũng lại như thế. Đây gọi là Bồ tát đã nhập địa tùy thuận tánh Viên Giác” (KVG; Tr.117). Thực chất của trạng thái chuyển mê khải ngộ nơi Phật học tức là thoát ra khỏi mọi lề lối suy tư thông thường để có nhận thức vượt hẳn lên, nhận thực sự vật, sự việc như chính nó, vượt lên trên lý trí và những sự nhận thức thông thường, thoát khỏi mọi thành kiến thế nhân để nhận thực dữ kiện. Có thể nói đây là lối nhận thức ngược lại với tất cả mọi nhận thức thông thường đối với sự vật. Người học Phật cần có một tinh thần tự do, không nên lệ thuộc bất cứ kinh sách hay giáo lý nào vì sự giải thoát được giác ngộ nơi mình chứ không phải ân huệ của bất cứ đấng nào hoặc ai ban cho. Thế nên, muốn hiểu Phật học phải có óc hoài nghi. Chẳng nên tin theo những kẻ lý luận hay, biện bác giỏi, cũng không để lý lẽ hào nhoáng coi như hữu lý cám dỗ hay lừa bịp. Chỉ khi nào tự mình biết rõ việc gì thuận, tốt với mình và có thể chấp nhận được thì hãy nhận và theo. Nếu không, hãy từ chối và xa lánh dẫu nó thế nào! (PHTH; Tr.56). Đàng khác, nhà tư tưởng cao nhất không phải là kẻ ru ngủ chúng ta với những thành kiến muôn đời, mà là những kẻ làm cho ta tỉnh ngộ, vạch ra cho ta thấy những điều mới lạ nơi những sự vật rất tầm thường trong đời sống mà hằng ngày bị thói quen làm cho ta không để ý. Vì thế, muốn tỉnh thức, muốn nhận ra điều mới lạ, phải có óc hoài nghi. Các đạo học đòi hỏi nghiệm chứng nên rất cần sự hoài nghi. Hoài nghi là để cho ta nhìn bằng cặp mắt của ta, nghe theo lỗ tai của ta chứ không nhìn theo cặp mắt kẻ khác, nghe theo lỗ tai người khác. (PHTH; Tr.58). Hơn nữa, chỉ những người thức ngộ mới cảm nhận được điều này, đó là nghi lớn thì giác ngộ lớn; nghi nhỏ thì giác ngộ nhỏ; chẳng nghi thì chẳng bao giờ giác ngộ (PHTH; Tr.59). Vì vậy, người tìm hiểu Phật học không nên để mình bị ràng buộc hoặc vướng mắc vào bất cứ gì, ngay cả đối với chân lý.


- Thưa bác, nếu như thế đâu cần gì kinh sách cho hành trình chứng ngộ. Tùy con vừa được khen nên cảm thấy hứng khởi nói lên cảm nhận về vai trò kinh sách.

- Như vậy, phần nào anh đã hiểu được tại sao đức Đạt Ma sư tổ nói, “Lãnh hội được Phật tánh nơi mình không thể học được” (GLTH; Tr.205). Lục Tổ Huệ Năng cũng chỉ nói, “Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật” (GLTH; Tr.184). Kinh điển nhà Phật giảng về thực thể, tâm thể phát sinh từ cảm nghiệm tu chứng, phân tích nhận thức hữu vi dẫn về cảm nghiệm. Dĩ nhiên, kinh sách kiếm đâu chẳng có; ai đọc không được, và dẫu có đọc cả đời mà không tu chứng, không tự nghiệm xét thì nào được ích chi, có chăng chỉ càng bị luẩn quẩn. Hơn nữa, phỏng ai đã bao giờ tìm kiếm kinh sách chưa mà ngược lại, thường thì chỉ hay đâu chầu đó, tưởng rằng ý nghĩ, nhận thức của người khác có thể giải quyết lòng khát khao tâm linh nơi mình.

- Thưa bác, bác có thể tóm tắt những điểm quan trọng nhà Phật đề cập tới được không. Chẳng hạn, đại thừa, tiểu thừa là thế nào, quan niệm ra sao. Lúc trước, nghe Hưng nói, chỉ mấy chữ có, không, huyễn, ngã, vô minh, minh triết, cháu đã thấy rối tùm lum rồi thì còn lòng trí nào mà đặt vấn đề chứng với ngộ.

- Tựu trung, Tiểu Thừa và Đại Thừa của nhà Phật cùng chung tam pháp ấn đó là chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, và niết bàn tịnh tịch (PHTH; Tr.97) nhưng vì quan niệm về vị thế hành giả khác nhau nên phát sinh tên khác nhau để dễ phân biệt. Đầu tiên, nhà Phật nhìn nhận nơi thực trạng hữu hình đề bạt chân lý vô thường. Nhận thức này nói lên một thực thể đó là tất cả mọi sự, được gọi là vạn pháp hay chư pháp, đều luôn luôn lưu chuyển, biến dịch không ngưng nghỉ, không có gì là thường trụ, bất biến. Sinh tử từng giây phút xảy ra trong cuộc đời; sự sống chết liên tục tiếp diễn bất tận như luân chuyển trên một vòng tròn, không đầu mối, không tận cùng. Cuộc đời một người là tổng cộng những diễn biến sống chết; cả vạn vật cũng thế, hết xuân đến hạ và được tiếp nối qua thu, đông để rồi xuân trở lại. Bất cứ hiện tượng nào trên đời đều trải qua bốn thời kỳ: sanh, trụ, dị, diệt, còn được gọi là thành, trụ, hoại, không. Sanh là sinh ra; trụ là tồn tại và phát triển; dị là biến đổi; và diệt là tiêu tán. Đây là luật vô thường vì không có gì là thường trụ. Tuy nhiên, chết không phải là hết vì chết là điều kiện tất yếu cho sự sinh sắp tới. Chết để mà sống; chẳng hạn tế bào nơi con người, và sống để mà chết nối tiếp nhau không ngừng. Nhà Phật cho rằng trong thời gian một ngày, thân ta đổi thay, thay đổi, chết đi sống lại tới 6.4000.099.980 lần. Người ta sở dĩ đau khổ vì đã nhận thức sai lầm bởi cho rằng sự vật bất biến, thường trụ nên cố bám vào những ảo giác mong thỏa mãn dục vọng, kiếm tìm vĩnh cửu trong những sự vật đổi thay tạo nên thất vọng (PHTH; Tr.98-99). Thứ đến là Chân lý vô ngã; vì mê lầm, con người cho rằng có ta, có người và những sự vật chung quanh. Nhà Phật cho rằng, ý niệm về cái ta và những gì thuộc về ta như vợ, con, nhà, xe, chỉ là giả tưởng, không có thật, và chính vì nghĩ rằng có mình và những liên hệ không có thật này đã là nguồn gốc của tất cả mọi sự mê lầm, vô minh, tạo thành ngã chấp, phát sinh đau khổ. Thực ra, cái ta, cái ngã chỉ là hiện thể của Tâm thường trụ bất biến, bao trùm vũ trụ, tâm này đồng bản thể với vũ trụ, liên tục biến chuyển nơi mọi vật được gọi là Phật tánh, tâm Chân Như, tâm bát nhã, tâm đại bình đẳng. Tâm này được coi giống như nước nơi biển, và con người cùng mọi sự vật chẳng khác gì những ngọn sóng. Như vậy, Tâm Chân Như, Tâm Phật, Phật Tánh này ở nơi mọi người, mọi vật. Tuy nhiên, vì vô minh nên con người tưởng lầm mình khác biệt với tha nhân tạo nên huyễn tượng tâm chúng sinh được gọi là tâm chấp ngã, tâm mê loạn (PHTH; Tr.100-101). Niết bàn không phải là nơi chốn theo quan niệm hữu hình thường được tưởng tượng nhưng là trạng thái vô niệm, vô vọng. Chỉ nơi trạng thái này Chân Như, Phật Tính hiển lộ. Tuy nhiên, nghiệm chứng trạng thái niết bàn phần nào đối nghịch lại phần duy thức nhà Phật về nguyên nhân phát khởi các pháp. Duy thức nhà Phật quan niệm rằng khởi đầu, vô thủy Chân Như, tịnh tịch, vẳng lặng. Nhưng khi Chân Như tự nhận thức lại chính mình nên vọng khởi, và càng ngày vọng khởi càng chồng chất kiến tạo chư pháp. Do suy luận này, anh em có thể hiểu tại sao có người gọi tu chứng nhà Phật là hành trình ngược pháp luân.

 
- Tiểu Thừa của nhà Phật chia con người thành hai phần, tâm trí và sinh lý được gọi là tâm và thân. Thân hay đời sống sinh lý chỉ là sự hỗn hợp của tứ đại (địa, thủy, hỏa, phong). Tâm lý là sự hội hợp của những hỉ nộ ai lạc ái ố dục chỉ trong phạm vi tri giác, suy tưởng, khái niệm, và tình cảm, mừng, giận, vui, buồn, tạm gọi là thọ, tưởng, hành, thức. Thế nên, cả tâm và thân đều không có gì gọi là ta mà vì duyên giả hợp lại khiến ta có cảm nghĩ như có. Đây là con đẻ của ngã chấp; thuyết nhân duyên trình bày cho ta rõ cái giả (vọng) để nhìn rõ những gì không thật hầu tìm về cái thật là vô ngã. Như vậy, cái được gọi là ta không có thật nhưng mà có. Mê thì thấy có ta và khi tỉnh ngộ thì lại là chân tánh, chân thể, Chân Như. (PHTH; Tr.103-105). Đại Thừa nhà Phật cho rằng, sự vật luôn luôn biến dịch liên tục; tuy nhiên, con người biết sự vật tùy thuộc nhận thức. Sự nhận thức lại tùy thuộc vào giác quan. Đàng khác, giác quan của con người thì giới hạn nên sự nhận thức qua giác quan không thể nào đúng sự vật. Hơn nữa, nếu không có giác quan, chúng ta sẽ không nhận biết sự vật dù chỉ là phiếm diện. Như vậy, nếu không có nhận thức thì sự vật dù có cũng như không. Thật tướng của vạn sự, vạn vật được gọi là chư pháp luôn luôn trong diễn trình biến dịch nên không thể suy tư hay đo lường hoặc hình dung bằng bất cứ ý niệm nào. Thực thể này hay thật tướng của sự vật tạm được gọi là Chân Như. Những gì ta nhận thấy có biến động, sinh diệt, chỉ thuộc về hiện tượng mà thôi; vì đó là biến chuyển của Chân Như. Như vậy, bản thể của mọi sự, mọi vật là Chân Như không sinh diệt, bất biến. Tất cả những biến động đều ở trong Chân Như. Có điều anh em nên để ý, Phật học chỉ có thuyết nhân duyên chứ không có thuyết nhân quả. Thuyết nhân duyên đại khái mang ý nghĩa khi đầy đủ điều kiện và tới thời điểm, Chân Như hiện thể thành pháp tướng. Còn quan niệm nhân quả có nghĩa “Gieo gió gặt bão,” “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước,” “Nhân nào quả nấy, cây ngọt sinh trái ngọt, cây chua sinh trái chua,” chỉ là luân lý khuyên đời.

- Thưa bác, bác làm ơn giải thích rõ hơn về sự khác biệt giữa thuyết nhân duyên của nhà Phật và quan niệm nhân quả như thế nào.

- Thuyết nhân duyên còn được gọi là duyên sinh. Nhân là nguyên nhân; duyên mang nghĩa cơ hội. Sinh có nghĩa phát khởi, tạo thành. Nhà Phật cũng còn gọi là Nhân Duyên Quả Báo và gọi tắt là Nhân Quả. Thực ra, được gọi là nhân quả vì quan niệm nhân duyên được hiểu theo nghĩa răn đời, còn chấp ý muốn giúp con người làm lành tránh dữ theo lối nhìn luân lý nhân sinh. Kinh nhà Phật dạy rằng: “Nhất thiết Pháp, nhân duyên sinh” nghĩa là tất cả các pháp (vạn sự, vạn vật) đều do nhân duyên mà sinh ra (PHTH; Tr.125). Chúng ta đều nhận thấy, chẳng hạn hột mướp mọc lên cây mướp và cây mướp sinh trái mướp chứ không sinh trái cau; hơn nữa, cây mướp thế nào, mướp hương hay mướp trâu, mùi vị ra sao lại tùy thuộc chất đất, khí hậu vùng nào cây mướp được trồng. Từ thực tại này suy ra có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng và tác thành một sự việc; đồng thời cần phải có điều kiện và thời điểm để những thành phần nguyên nhân hòa hợp, tác thành. Vấn đề được đặt ra lại là quyền lực nào khiến cây mướp sinh trái mướp mà không sinh trái cau? Tại sao hột mướp không mọc lên cây cau? Bởi thế, tuy gọi là nhân mà cũng là duyên vì không có một cái nhân nào là nhân đầu tiên, và trước khi có những nguyên nhân và điều kiện tạo nên sự vật, sự việc, còn có những nguyên nhân chưa biết. Nói cách khác, thuyết nhân duyên nhà Phật chỉ sự bao gồm tất cả những nguyên nhân và điều kiện ảnh hưởng lẫn nhau để tạo thành pháp. Hơn nữa, mọi nhân, duyên, pháp tướng, đều là những biến chuyển của Chân Như; nên thuyết nhân duyên chỉ phần nào giải thích về hành trình biến dịch của vạn vật, tác động của Chân Như. Như vậy mới có thể hiểu được câu nói nơi kinh Lăng Nghiêm: “Nhân duyên hòa hợp, hư vọng hữu sanh; nhân duyên biệt ly, hư vọng danh diệt” (PHTH; Tr.133). Điều này có nghĩa, nhân duyên hội hợp sinh ra hư vọng, giả tướng, và nếu nhân duyên chia lìa thì không phát sinh hư vọng giả tướng. Con người vì chẳng hiểu (vô minh) chư pháp đều do nhân duyên sinh ra; nên cho rằng tất cả các pháp đều có thực hoặc vĩnh cửu, do đó khó buông bỏ và bởi thế sinh ra sự thiết tha yêu quý sự vật từ sinh mạng, tài sản, đến sự nghiệp, và cho đó là vui sướng. Tuy nhiên, khi những điều đó bị tiêu diệt hay biến chuyển lòng cảm thấy sầu khổ, bi thảm. Tóm lại, mọi sự vật đều do nhân duyên kết hợp mà sinh ra; nghĩa là không có sự vật nào có tự tánh. Chỉ có một tánh chung là Chân Như hay Phật tánh; thế nên sinh và diệt đều là huyễn, đều là biến chuyển của Chân Như; và đồng thời, không có gì là thường diệt mà chỉ là đoạn diệt. Bởi vậy, sau khi diệt lại còn có thể sinh; những gì trước khi diệt trở thành nguyên nhân cho sự phát sinh sau khi diệt tùy thuộc những điều kiện gọi là duyên. Hơn nữa, vật chất tuy bị thấy tiêu diệt mà thực sự diệt đi để sinh ra năng lực, và năng lực bị diệt đi để vật chất sinh ra. Khoa học vật lý đã chứng minh rằng vật chất không phải là thường trụ; nó có thể mất đi trong nháy mắt nhưng sự hủy diệt này cũng chỉ là huyễn diệt mà thôi. Như vậy có thể nói, sinh và diệt chỉ là giả tướng của biến hóa; còn bản thể (Chân Như) thì chưa từng sinh diệt cũng chưa từng động biến. Thuyết nhân duyên phần nào giải thích quan niệm động phát sinh từ tĩnh; tĩnh là gốc của động, và cái động, cái biến trong cái bất biến. Nhà Phật nhận định vạn vật đang trên hành trình biến chuyển của Chân Như. Sự sinh diệt hữu hình của các sự vật chính là Chân Như chuyển biến. Các chủng tử được gọi là tiềm năng tức là những năng lực tiềm tàng nơi Chân Như. Ngôn từ nhà Phật gọi là A-lại-da; tiềm năng này khi đủ nhân duyên thuận lợi mới phát sinh. Tiềm năng A lại da hay tâm thức này vừa hằng vừa chuyển. Hằng vì đó chính là Chân Như; chuyển bởi luôn luôn sinh diệt và biến chuyển vô cùng tùy thuộc nhân duyên. Nhận biết sự hằng và chuyển này đó là nhận thức có mà không, không mà có. Gọi là có, theo nghĩa hiện hữu có thể nhìn thấy được hoặc nhận định được, hoặc là không, khi hiểu theo nghĩa tất cả chỉ là sự chuyển biến của Chân Như.

- Thưa bác, nếu vạn vật hoặc sự kiện biến dịch phức tạp như thế và đều là diễn biến của Chân Như sao có thể hiểu được thế nào là đúng sai, phải trái? Tùy con lên tiếng.

- Câu hỏi của anh một nửa thuộc về phạm vi luân lý thị dục và một nửa đòi hỏi sự hiểu biết duy thức luận nơi Phật học. Theo Duy Thức Luận của nhà Phật, vạn vật không có sự vật nào có tự tánh mà nhờ nơi tác dụng của thức mới nhận biết được vạn sự vạn vật. Vạn sự, vạn vật đều là giả tướng của thức biến hiện ra chứ không phải tự nó có thật. Thức là nhận thức, không có tự thể mà lấy sự vật làm tự thể. Nhà Phật chia ra bát thức: Nhãn thức nhận biết sự vật về sắc, hình; nhĩ thức nhận biết về thanh; tỉ thức nhận biết về hương; thiệt thức nhật biết về vị; thân thức nhận biết qua xúc giác; ý thức nhận biết tất cả các pháp; mạt na thức mang nặng chấp ngã; và A lại da thức hay tâm thức bao trùm và phát sinh các pháp (PHTH; Tr.138-141). Tâm thức hay Tâm Phật hoặc Chân Như là nguyên thủy phát sinh tất cả mọi hiện tượng và cũng có năng lực gìn giữ tất cả mọi kinh nghiệm cá nhân không cho lạc mất. Tuy nhiên, tâm thức cá nhân và tâm Phật là một nên tạo thành tự nghiệp và cộng nghiệp đối với con người. Vì thế có thể nói, một ý niệm, một tâm cảm, cũng đủ phát sinh một năng lực làm rung động và biến chuyển vạn sự vạn vật chung quanh. Bởi đó, sự liên lạc giữa cá nhân và tha nhân mật thiết đến nỗi có thể nói rằng người và sự vật chung quanh ta là một. Một ác ý đối với tha nhân đủ gây thành một ý nghiệp bởi nó đã gieo vào tâm thức một hột giống xấu cho ta và cho người. Như vậy, nhà Phật cho rằng thế giới vũ trụ là sản phẩm và biến tướng chung của tâm thức. Tâm và vật biến tướng lẫn nhau nên được quan niệm tâm sinh vật và vật sinh tâm.


Cụ Tài nói liên tục, giọng đều đều chậm rãi chừng như muốn cho mọi người có đủ thời giờ thâu nhận từng lời nói của mình. Ngưng một chút để chiêu ngụm trà, cụ tiếp,

- Bởi vì tất cả đang trên hành trình biến chuyển của Chân Như nên những sự thiện và ác cũng chỉ là thành phần của sự biến chuyển này. Tính chất thiện ác của sự việc, sự kiện được phân biệt theo lối nhìn luân lý hữu vi, đúng, sai, phải trái lệ thuộc thị dục của con người nơi trạng thái vô minh, tức là chưa thức ngộ được tận cùng của mọi sự vật, chưa kiến tính, chưa ngộ được thực thể Chân Như hằng chuyển. Thật ra, theo nhà Phật, việc làm không quan trọng bằng ý niệm của người thực hiện. Có những việc bề ngoài thấy tốt lành nhưng tâm mang ác niệm do đó đã có câu “Khẩu Phật tâm xà;” nói theo tục ngữ đó là “Ngoài miệng thơn thớt, trong dạ ớt ngâm;” có khi việc thoạt thấy tưởng là ác nhưng thật sự vì niệm thiện mà làm. Hình như dân gian có câu, “Hành phán quan, tâm bồ tát” mang nghĩa này. Lý thuyết Nhà Phật luận về thiện ác đều căn cứ vào tâm địa chứ không chú trọng về sự tướng của việc làm. Muốn đoán định thiện ác phải biết dụng tâm người thực hiện như thế nào mới có thể nhận thức được. Thế nên, động lực chính của sự tạo ra nghiệp là ý định, tức là tâm ý hay ý thức, nhà Phật thường gọi là niệm. Hiểu như vậy, ý thức mang quyền lực điều hành và chi phối tất cả mọi hành động cũng như tâm tư, ý nghĩ, ý định của con người. Ý thức đồng thời có quyền lực sáng tạo và thay đổi cuộc đời của một người. Con người đang trên hành trình biến chuyển để trở nên thiện hảo, nên cuộc đời một người là cơ hội, giai đoạn nơi hành trình của diễn tiến trở về nguyên thủy Chân Như. Bởi vậy nghiệp quá khứ là nguyên động lực của kiếp sống hiện tại và con người giống như bộ máy lệ thuộc tâm thức. Như thế, ý thức bị ảnh hưởng nghiệp tạo nơi tiền kiếp và đồng thời cũng là căn bản cho con người cải tiến tùy theo hoàn cảnh, vị thế, quyết định của mình. Tu chứng là đường lối tốt nhất vượt ra khỏi ảnh hưởng nghiệp lực vì không để cho ước muốn hữu vi ảnh hưởng hành trình đạt tới tâm Chân Như được gọi tóm gọn là kiến tính.

- Thưa bác, nếu nói thiện ác chỉ căn cứ nơi tâm hay ý định của người thực hiện thì nghiệp nếu có phải phát xuất từ tâm. Và nếu từ tâm phát sinh nghiệp thì đâu cần phải nói đến duyên. Hơn nữa, cho dù gọi như thế nào, nếu đã là duyên làm sao tránh thoát vì đâu khác chi một loại phận số của một người trước khi sinh ra đã bị ấn định như thế.

- Ý thức có thể thay đổi nhưng nghiệp duyên đã sẵn có ở quá khứ chẳng khác gì môi trường và điều kiện kiến tạo thân xác con người trong bào thai trước khi được sinh ra. Có thể so sánh ý thức với cách sống và nhân duyên hay nghiệp với cơ thể con người. Lối sống giúp cơ thể khoẻ mạnh hay bệnh tật thì ý thức tạo căn bản tâm linh cho con người. Nhà Phật chia ra thập nhị nhân duyên. Đó là mười hai nguyên nhân liên hệ gây ra biến chuyển được gọi là khổ đế và tập đế. Theo nhà Phật, tất cả vạn pháp đều phát sinh do mười hai nhân duyên: 1. vô minh, 2. hành, 3. thức, 4. danh sắc, 5. lục nhập, 6. xúc, 7. thụ, 8. ái, 9. thủ, 10. hữu, 11. sinh, 12. lão tử. Mười hai nhân duyên này là khởi đầu của vô minh, nguồn gốc đau khổ của sinh, bệnh, lão, tử. Theo Phương Bối, “Khổ đế và tập đế là những điều thực nghiệm rộng rãi và đầy đủ làm nền tảng cho phương pháp đạo Phật” (TLPTC; Tr.16). Tôi không muốn giải thích thêm về thập nhị nhân duyên lúc này. Chỉ một điểm anh em nên để ý, đó là dẫu nhận thức và phân chia thế nào thì tất cả đều là biến chuyển của Chân Như; thực thể của chúng vẫn là Chân Như mà pháp tánh thì lại là huyễn nên càng nói đến chỉ càng khó thoát khỏi vòng vô minh.


- Thưa bác, nếu cháu không lầm thì hình như nhà Phật đặt rất nặng vấn đề vô minh.

- Vô, nghĩa là không hoặc lầm lạc hay chưa đạt tới. Minh, nghĩa là nhận thực, hiểu thực, đối diện, kiến, thức, ngộ. Vô minh có nghĩa cho rằng mình là một thực thể, cá nhân, cái “ta” riêng biệt được gọi là ngã chấp sinh ra cái tâm sai biệt. Chính bởi nhận thức sự vật phiếm diện thay vì đó là sự hằng chuyển của Chân Như nên phát sinh vọng động, phân chia, khiến lòng nương theo cảm giác tạo nên khao khát, ham sướng, sợ khổ, lệ thuộc sự vật hòng thỏa mãn lòng ước muốn của mình. Chấp ngã có nghĩa tưởng rằng mọi sự, mọi vật, ngay cả chính mình là có thật chứ không phải hiện thể của Chân Như nên sinh ra ước muốn, dục, cố bám víu vào ý nghĩ hay điều gì đó tạo nên đau khổ nơi cuộc sống hữu hình đồng thời cũng tạo nên nghiệp.

- Thưa bác, hình như bác chưa nói về sự khác biệt giữa Đại Thừa và Tiểu Thừa. Tùy con nhắc khéo.

- Tiểu hay Đại Thừa được phân chia bắt nguồn từ quan niệm về vị thế hành giả trong tu chứng nhà Phật. Theo cụ Nguyễn Duy Cần, sự khác biệt giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa bao gồm ít nhất sáu điểm. Tiểu Thừa chỉ lo độ lấy mình sao thoát khỏi luân hồi đặt trên nền tảng tự giác mà thôi. Đại Thừa tự độ và phổ độ chúng sinh, chẳng những giác ngộ chính mình mà còn muốn mọi người được giác ngộ. Tiểu Thừa lo phá ngã chấp chứ không lo phá pháp chấp. Đại Thừa thì bao gồm luôn phá ngã chấp và phá pháp chấp. Tiểu Thừa tách mình ra khỏi xã hội, thoát ly thế gian tướng. Đại Thừa quan niệm giải thoát, thức ngộ mà không rời thế gian tướng. Tiểu Thừa chán chường cuộc sống sinh tử, khổ não nên mong cầu chứng niết bàn để thoát vòng luân hồi. Như vậy, Tiểu Thừa quan niệm niết bàn tách rời sinh tử. Đại Thừa nhận thức được phiền não chỉ là huyễn, vốn không; nên người theo Đại Thừa không trụ nơi sinh tử, cũng không trụ nơi niết bàn vì sinh tử và niết bàn chỉ là một. Theo lý thuyết nhà Phật, đạt quả của Tiểu Thừa chỉ đạt tới La Hán trong khi Đại Thừa chứng Phật. Bởi vậy, có nhận định, cái ngộ của Tiểu Thừa là La Hán; cái ngộ của Đại Thừa là Phật. Tiểu Thừa và Đại Thừa quan niệm về có và không khác nhau. Tiểu Thừa cho rằng vạn sự, vạn vật (vạn pháp) là thực có; còn vạn tượng (hình tướng) thì rất sai biệt. Xét về quan niệm này, Đại Thừa chia ra hai phái, Quyền Đại Thừa và Thực Đại Thừa. Quyền Đại Thừa cho rằng vạn pháp đều do tâm ý, định ý... gọi chung là ý niệm; ngoài tâm ý không có vật gì khác. Thực Đại Thừa chủ trương chẳng có, chẳng không mà cũng có, cũng không. Nói như vậy, sự vật, ý nghĩ, mang nghĩa có trong giai đoạn, và cuối cùng vẫn là huyễn. Tiểu Thừa trọng về văn tự, lệ thuộc nghĩa đen nơi văn tự, gò bó theo kinh sách. Đại Thừa phóng khoáng tự do, bất chấp văn tự. Tóm lại, Tiểu Thừa và Đại Thừa tuy có nhiều điểm khác nhau, nhưng thực không có cái nào cao hoặc thấp mà tùy trình độ giai đoạn thức ngộ của mỗi người (PHTH; Tr.108-110). Tuy nhiên, Kinh Đại Niết Bàn có nói: “Thấy tất cả đều là không mà chẳng thấy cái chẳng không, chẳng được gọi là trung đạo; thấy hết thảy là vô ngã mà chẳng thấy tất cả là hữu ngã, cũng chẳng gọi là trung đạo (PHTH; Tr.73). Thực Đại Thừa phát triển nhận thức này nơi tu chứng.


- Thưa bác, qua kinh nghiệm tìm hiểu đạo học, bác có nhận định thế nào.

- Tôi không thể trả lời được câu hỏi này vì nhiều vấn đề. Thứ nhất, đâu phải chỉ Phật học là đạo học duy nhất mà còn Ấn học, Lão học, Trang Tử, Thánh Kinh. Thứ đến, nơi hành trình tu chứng, cảm nghiệm của tôi không giống cảm nghiệm của bất cứ người nào; nên dù có nói ra chỉ sinh thêm phiền hà, khó cho kẻ khác chấp nhận. Những gì chúng ta có thể nói được chẳng qua là những nhận thức, chứ không phải nhận định về đạo học; bởi nếu nhận định tất nhiên phải so sánh. Tuy nhiên, nào lợi ích chi khi đem các đạo học so sánh với nhau! Chúng ta không thể đem so sánh nền văn hóa này với nền văn hóa khác thì đạo học cũng vậy. Và dẫu kinh sách đạo học phần nào diễn tả cảm nghiệm tu chứng, nhưng tôi e rằng, đối với tâm hồn mới đạt tới mức độ tìm hiểu sự học thức thì những cảm nghiệm được diễn tả ở kinh sách đã chẳng soi sáng gì cho họ, mà có chăng bị họ coi thường, hay dùng làm những đề tài diễu cợt mà thôi. Thêm nữa, kinh nghiệm tu chứng cho tôi cảm nghiệm đơn độc, không chia sẻ được cùng ai, không biết đâu là bờ bến, và cũng không thể hiểu rõ mình ở mức độ nào. Tôi cố gắng tìm tòi nơi kinh sách để tự so sánh hầu biết mình thế nào, nhưng càng tìm tòi chỉ càng thấy bể học tâm linh vô cùng diệu vợi. Nhân nói về nhận định đạo học, tôi nhớ lời phát biểu của Krisnamurti, nhà đạo học Ấn Độ. Ông đặt vấn đề về sự cần thiết phải có bậc tôn sư để dẫn ông đi vào chân lý. Nhưng, nếu ông không biết gì về chân lý thì cách nào cho ông biết chắc chắn bậc tôn sư ấy dẫn ông vào trúng chỗ đó? Và nếu ông biết chắc là đúng thì ông cần gì phải cậy ai dẫn dắt cho. Mối nguy hiểm nhất đối với người tìm đạo đâu phải là kẻ đối thủ hay thù địch của mình mà chính là sư phụ của mình. Học đi mà không bao giờ dám buông tay người tập cho mình, cứ luôn ỷ lại vào sự nâng đỡ, dìu dắt của người ấy thì suốt đời không bao giờ đi được (CCCTN; Tr.250). Đàng khác, sự giúp đỡ của kinh sách hay một vị thầy chẳng khác gì bác nông phu gieo giống trồng lúa. Mình ăn cơm và cơm được tiêu hóa để biến thành máu chứ bác nông phu không tạo thành máu cho mình được. Tu chứng, nghiệm chứng đạo học có thể so sánh với hành động tích cực ăn cơm để biến lúa gạo thành máu huyết. Như vậy, tu chứng, nghiệm chứng chính là điều kiện thiếu yếu của thức ngộ. Có phải anh em càng nghe tôi nói càng cảm thấy chẳng tiến thêm gì không? Vấn đề chính yếu nơi đạo học là tu chứng chứ không phải sự hiểu biết, chỉ may ra có người nào đủ căn cơ đốn ngộ. Nói đến đây, cụ Tài buông nhẹ hơi thở dài.


- Thưa bác, cháu xin lỗi trước khi nói ý nghĩ vừa chợt đến bởi nghe bác phân tích những quan niệm khác biệt nơi Phật học. Đó là dẫu cho ý nghĩ hay nhận thức dù tuyệt vời đến mấy cũng thua bộ óc đã đạt đến nó. Kinh sách do con người viết ra; đạo học cũng do con người nghĩ tới thì con người mới đáng là chủ đề tư duy cho mọi thời đại. Phủ đắn đo, chậm rãi phát biểu từng lời nói.

- Ah! Thật là thú vị! Không ngờ đến tuổi này và phải vào thời điểm này tôi mới nghe được câu nói tuyệt vời như vậy. Tôi nghĩ, nhà Phật phải cho anh là người thức ngộ mà tôi vừa nhắc tới. Chủ điểm của đạo học là chính con người, tìm sự liên hệ giữa thực thể con người với thực thể cội nguồn của sự hiện hữu. Nhà Phật gọi bậc thức ngộ là “phật;” Lão học gọi trạng thái “huyền đồng;” Ấn học gọi “chân sư;” Kinh Thánh gọi “kẻ tin,” Những tên gọi khác nhau cũng chỉ ám định về trạng thái một người khi giác ngộ, tức là đạt đến thực thể hay tự thể của mình, hoặc tự thể, bản thể của vạn vật, dẫu dùng những danh xưng khác nhau. Tôi thực tâm xin lỗi vì đã có những lời với ý định chỉnh đốn kiểu cách ăn nói của anh em lúc trước. Nói đúng với lòng ruột của tôi, tôi e ngại anh em vô tình bị hiểu lầm là chống báng tôn giáo. Tôi từng tuổi này mà vẫn còn quá nóng sốt đến độ nhận ra mình hoảng. Đành vậy, âu cũng vì lòng tốt nên tự mình phiền hà, quấy nhiễu mà thôi.


Thế là mọi người ngớ ra! Cụ già được họ tôn trọng xưa nay lại tự lên tiếng xin lỗi và thẩm định điều tốt lành mà chính cụ gần nửa tiếng trước cho là nên, bây giờ đã trở thành không nên. Thái độ chân thành, ngay thẳng, dám nhận xét ngay cả ý nghĩ, tư tưởng phát sinh thái độ, và hành động của mình nơi một cụ già đáng tuổi cha chú đã làm mọi người cảm thấy hụt hẫng. Bình thường, nếu chẳng may vô tình hay cố ý hoặc vì lúc men bia xâm nhập đầu óc khiến những cái mỏ trở thành hăng tiết vịt, ăn nói bạt mạng không kiêng nể bất cứ điều gì, dẫu một khi đụng chạm, mất lòng ai thì cùng lắm, lúc bị đặt thành vấn đề, người vấp phạm chỉ dùng một đôi lời xin lỗi cho qua và thường thì mang đầy vẻ bôi bác, nhiều khi cố ý xỏ xiên bào chữa cho điều chẳng nên mình đã gây ra, hoặc lắm lúc do tự ái vặt, cố lờ như không để ý hầu tưởng tượng mình luôn luôn có lý vì lòng tốt lành, ngay thẳng. Cụ Tài đang thao thao giải thích về quan niệm nhà Phật; những kiến thức uyên bác cụ trình bày chứng tỏ một con người thông đạt; thế mà đã không ngần ngại đến độ tự nhiên phanh phui ý niệm tạo thành thái độ không hợp của mình với những người thuộc hàng con cháu. Hình như sự thức ngộ đạo học nâng cao tâm thức để nhận định rõ ràng thực trạng con người của mình không đếm xỉa gì đến tiếng tăm hào nhoáng hoặc danh vọng thế tục nhất thời. Cũng như mọi lần gặp trường hợp khó ăn khó nói, Sỹ nhà con nhanh miệng phá bầu khí ngưng đọng,

- Bác nói đốn ngộ là thế nào? Đã ngộ mà còn đốn thì chẳng lẽ ngoài những sự thức ngộ, giác ngộ, đốn ngộ còn thêm thứ kỳ ngộ hay loại ngộ nào khác nữa chăng?

- Ngộ là ngôn từ thiền tông nhà Phật, có nghĩa trạng thái của người kiến tính, trạng thái của một vị phật, nhưng vẫn còn mang hình hài và cuộc sống như mọi người. Trong hành trình tu chứng, tâm thức hành giả đã được chuẩn bị đến độ chín mùi nên các vị tổ thiền dùng một vài phương pháp để giúp họ khai ngộ. Tuy nhiên, đâu phải mọi người sinh ra cùng mức độ tâm thức nên thời điểm giác ngộ không ai giống ai. Bởi vậy, vấn đề chính yếu là tu chứng. Tu chứng có nhiều phương cách, hoặc là ngồi thiền, hoặc là tụng niệm, và có khi vừa thiền vừa tụng niệm gọi là thiền niệm song tu. Đàng khác, dẫu theo phương cách nào, tâm tưởng luôn luôn suy tư về một vấn đề nan giải không thể suy nghĩ theo lý trí, được gọi là quán tưởng. Quán tưởng là phương thức thực hành nhận biết thực thể sự vật hầu diệt trừ vô minh và kết quả thường là đốn ngộ. Trong khi quán tưởng, nếu ý nghĩ nào len lỏi vào cũng không dùng lý trí mà xua đuổi, chỉ cần chuyển tâm trở lại vấn đề đang suy tưởng mà thôi. Các vị tổ thiền thường dùng công án cho môn sinh thực hành quán tưởng. Chẳng hạn, “Tất cả sự vật đều trở về cái Một, vậy cái Một trở về đâu?” (GLTH; Tr.275). Bên Trung Hoa, có hai phái thiền tông Lâm Tế và Tào Động chủ trương chiều hướng khác biệt với các môn phái Phật thiền khác; đó là đốn ngộ. Theo khởi xướng của Lục Tổ Huệ Năng, phái Lâm Tế giảm bớt tĩnh tọa trầm tư nhưng thiền trong khi làm việc. Hai phái này dùng nhiều phương pháp và công án hầu thức tỉnh giòng tâm thức vô minh của các môn đệ và thúc đẩy trạng thái được gọi là “Satori.” Phái Tào Động vẫn chủ trương như phái Lâm Tế; đồng thời quan niệm, mỗi người có hành trình tu chứng khác nhau tùy thuộc thể chất cá nhân, bởi được sinh ra khác trình độ lợi căn nên đưa ra phép tu nhập thất thiền quán. Lối giảng giải của phái Tào Động rành rẽ hơn, nên đem lại lợi ích nhiều cho những người ít lợi căn. Đốn ngộ là lối tu của Huệ Năng, “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật.” Tiệm ngộ đặt căn bản trên sự suy nghiệm để am hiểu kinh sách hòa hợp với lối sống theo giới luật nhà Phật. Tuy nhiên, kinh nghiệm tu chứng cho thấy, kết quả đạt thành của tổng số cả triệu tiệm ngộ không bằng chỉ một lần đốn ngộ. Đốn ngộ có thể được ám chỉ chẳng khác gì “Cá chép vượt vũ môn hóa rồng,” còn tiệm ngộ được coi như “Sống lâu lên lão làng.” Nói cách khác, bản thể, tự thể mọi người chính là Chân Như thì đốn ngộ có thể được ám định với trường hợp đứa trẻ vừa sinh ra đã hoàn toàn là một con người, có đầy đủ cơ thể như bao kẻ khác nhưng cần thời gian phát triển về tinh thần lẫn thể xác. Đây là trường hợp của các vị thiền sư, nghe một câu đạo lý hay câu kinh liền ngộ, tuy nhiên vẫn còn vọng tưởng, cần thời gian chứng nghiệm để đạt tới triệt ngộ (NTGG; Tr.158). Có thể so sánh tiệm ngộ với hành trình của một nhà thám hiểm. Những cố gắng, lao nhọc trong khi kiếm tìm một vùng đất lạ hoặc một ngọn núi chưa ai đặt chân tới. Hành trình này cung cấp cho nhà thám hiểm nhiều kiến thức chưa ai nói đến. Tuy nhiên, kiếm được đất mới hoặc điều lạ hay không thì cũng giống như tiệm ngộ, người tiệm tu có đạt được gì trong hành trình chứng ngộ hay không. Thực ra, ngộ thì chẳng có tiệm hoặc đốn nhưng tùy căn cơ. Người tu lâu rồi mới ngộ tạm gọi là tiệm. Kẻ có lợi căn đạt ngộ mà không tu chứng cũng vẫn bị vọng tưởng phiền hà chẳng thể triệt ngộ. Bởi đó có thể nói, ngộ trước, tu sau tức là đốn ngộ, đốn tu. Người không biết gì, cứ cố gắng tu chứng rồi đạt ngộ tạm gọi là tiệm ngộ tiệm tu (NTGG; Tr.158).

 
- Thưa bác, nếu như thế, sự giác ngộ đâu cần phải vào chùa đi tu mà ở ngoài cũng được vì mức độ đạt thành tâm linh của mỗi người tùy thuộc căn cơ người đó đã được sinh ra.

- Theo sự nhận định của những bậc chân tu viết nơi sách vở, tu chứng là hành trình tâm linh của mỗi người không lệ thuộc môi trường mà chỉ tùy thuộc tâm hồn, tâm ý, định ý của người ấy. Lục tổ Huệ Năng, phái thiền tông Lâm Tế đã áp dụng từ xưa. Ngay cả Đạt Ma sư tổ cũng nói trong giáo lý của ngài, “Một kẻ phàm tục có gia đình và làm nghề đồ tể cũng có thể là một vị Phật. Kẻ nào đã lãnh hội được Phật tánh thì không còn tạo nghiệp nữa, dù làm bất cứ một hành động nào bởi kẻ ấy đã giác ngộ” (GLTH; Tr.206). Cuộc sống tu trì là cho chính mình bởi nếu còn ước muốn độ hoặc cứu hay giúp người khác vẫn theo đuổi dục. Thực ra, con người không dễ chi thoát khỏi ham muốn thị dục. Hơn nữa, vào thời điểm này có thêm nhiều kẻ dùng ngôn từ nhà Phật hầu kiếm chác chút danh vọng rẻ tiền. Nếu để ý theo dõi, anh em thấy rõ, hiện nay đang có phong trào tự ghép nối chữ thiền vào tên hay danh hiệu của khá nhiều người. Nào thiền sư này, thượng sư kia, tạo nên muôn ngàn nghi ngờ nếu không muốn nói đã lạm dụng ngôn xưng của nhà Phật. Nói cho đúng, nếu thực sự là thiền sư, ai biết mình là thiền sư? Nếu người ta biết mình là thiền sư, mình đã không là thiền sư mà đang tìm hay chạy theo điều gì đó nên dùng danh xưng thiền để loè thiên hạ, hoặc có ý đồ cầu mong đạt tới mục đích nào đó. Để thời giờ nghiền ngẫm về Phật học hay đọc kinh sách, anh em sẽ nhận ra, tu để được niết bàn vẫn là dục; vì niết bàn không phải do công làm ra; niết bàn là sự thức ngộ, nhận ra mình với Chân Như là một, đó là trạng thái kiến tính. Niết bàn chỉ là cái tên huyễn dùng để tạm gọi vì không gọi bằng cách khác. Thế nên, tu không phải để được Phật tánh; vì Phật tánh đã sẵn ở nơi mình mà tu để Phật tánh hiển lộ. Tu cũng không phải để dẹp dục, dẹp phiền não; vì ý muốn dẹp dục, dẹp phiền não vẫn là dục; và như vậy, tu chỉ là trở lại với tự thể của mình. Nói như thế, tôi muốn nhắc lại vấn đề anh Hưng đã nêu lên; đó là người xấu muốn trở thành tốt chỉ cần không làm điều được gọi là xấu, mà chẳng làm thêm gì vì tự thể đã tốt; tự thể của mình là Chân Như. Do đó, tu chứng giống như hành động lau gương, lau bụi cho gương sáng. Tuy nhiên, thực sự, gương không tự sáng mà chỉ phản chiếu, và nhận định này cũng phần nào nhắc nhở chúng ta biết; tu chứng chính là tìm lại tự thể của mình. Đàng khác, anh em đôi khi nghe nói Phật học là cái học đi đến chỗ không! Nói theo quan niệm đối đãi kiến thức có và không, thử hỏi, nếu đã không đâu cần đi đến. Điều này càng chứng tỏ nguyên lý căn bản của Phật học phải là kiến tính chứ không độ ai, chẳng giúp ai, chẳng cần đi đến đâu, và cũng không cầu lụy đấng nào. Thế nên, giác ngộ hay không tùy mình chứ không lệ thuộc bất cứ điều kiện nào bên ngoài. Hiểu như vậy, nếu có ai nói rằng họ không có điều kiện để thực hành tu chứng hay quán tưởng, tất nhiên họ không có, dẫu luôn có.


- Bác nói sao! Vì lý do gì dẫu luôn có mà họ không có?

- Vì họ cũng như chúng ta!

Câu trả lời quá ngắn gọn nhưng mang ảnh hưởng mạnh mẽ tới những khối óc vừa chợt rộng mở mong am hiểu thêm kiến thức nhà Phật. Nó được phát xuất từ miệng cụ Tài khiến không ai có ý định bào chữa; ngược lại họ bị biến thành những khối sa mạc khát khao chờ đợi được nguồn nước tâm linh thẩm thấu. Tuy nhiên, nghe thì biết đấy nhưng biết rồi cũng chẳng đạt tới đâu! Hình như sự thách đố nơi lối diễn giải về Phật học của Hưng, và những lời giải thích của cụ Tài, chống nghịch lại tất cả những hiểu biết mù mờ xưa nay của mọi người về nhà Phật. Đâu ai lạ gì, dẫu nơi nao hay thời đại nào, mỗi khi nhắc tới nhà Phật hay Phật giáo, những ngôn từ luân hồi, niết bàn, diệt dục, cấm sát sinh, tụng niệm, ăn chay, dồn dập tới nơi ý nghĩ đã khiến mọi người mang mặc cảm nặng nề mình không thể nào sống được như thế nên đành chấp nhận sống cho qua, sống trầm luân. Ai không thích ăn ngon, mặc đẹp! Hơn nữa, dẫu con người không sát sinh thì đã tạo nên cơ hội cho kẻ khác sát sinh. Đàng khác, những cảnh tréo cẳng ngỗng, nào cá giả, giò giả, được kiến tạo bởi con buôn nơi những tiệm ăn chay đã là những đề tài cho họ diễu cợt và tưởng nhà Phật hoặc đạo Phật chỉ bao gồm những nghi thức cúng tế, hoặc những tập tục kiêng khem hàm chứa sự ép mình ép xác trong cảnh thèm thuồng lối sống thế tục mọi người đang thụ hưởng. Nay, thực thể Phật học không phải vậy mà đục thấu cõi lòng vô minh con người, nghịch hẳn những nghi thức và điều luật tôn giáo.

 

Xét về tôn giáo và đạo học qua những gì họ mới được nghe và hiểu, dẫu chỉ sơ sài, sự so sánh minh chứng tôn giáo chỉ là tổ chức của con người với mục đích hoằng dương đạo học. Tuy nhiên, tôn giáo đã thực sự lạm dụng đạo học. Khốn nỗi, bởi vô minh do ỷ lại, con người vui thích với sự lạm dụng này khiến thị dục thế tục càng ngày càng chồng chất, che kín ngõ ngách tâm linh. Chính vì nhận diện được thực trạng hèn kém, con đẻ tham vọng thế nhân, nỗi xốn xang nào đó bùng lớn nơi tâm tưởng mỗi người phát sinh động lực thúc đẩy kiến tạo ước muốn phải làm gì. Hai trạng thái đối nghịch, cảm nhận thiếu sót và ước muốn hành động đảo lộn giằng co chợt nổi lên dằn vặt những cái đầu chếnh choáng hơi men. Một đàng e sợ không còn gì bám víu sẽ mất mối an tâm xưa nay nương tựa, hầu tưởng mình có thế đứng qua danh hiệu ấn định niềm tin; đàng khác, những câu nói của các vị Phật tổ tựa muôn vàn sấm sét phá vỡ tất cả lý thuyết được gom tụ bằng những hiểu biết vỡ vụn về Phật học tạo nỗi khắc khoải nơi người nghe. Lời của các ngài như từ cõi vô tận được nhắc lại qua môi miệng con người, không thương xót, nâng đỡ, hoặc xoa dịu bất cứ ai, mà ngược lại, tàn phá những cõi lòng ỷ lại và cấp bách hối thúc như sức nóng nung đốt tâm trạng an tâm giả tạo cần phải thay đổi cấp tốc, phải vùng lên, nhảy ra khỏi màn lửa vô minh đang thiêu đốt. Những câu nói ấy dồn thúc con người bước vào khoảng tăm tối mịt mù của diễn trình tâm linh. Tu chứng, tu chứng! Chỉ hai tiếng nhẹ nhàng nhưng khi vang đến màng nhĩ kẻ nghe đã trở nên động lực tàn phá nỗi an bình vô minh. “Ông chứng ông biết, và chỉ ông biết mà thôi. Nói ra không được mà càng diễn giải càng lộn tùng phèo.” “Trong tiến trình tu chứng, hành giả không theo đuổi bất cứ gì cũng chẳng dựa theo phương pháp nào.” “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật.” Những lời nói của Hưng dường như trở lại mang theo năng lực khuấy động và thúc giục mọi người tự đặt vấn đề.


Trái ngược với mọi khi, những khuôn mặt hào hứng nơi bữa nhậu kèm theo môi miệng ồn ào tranh nhau phát biểu, giờ đây mang đầy vẻ nghiêm trọng trong thinh lặng áng chừng mọi người suy nghĩ lung lắm. Cụ Tài chậm chạp đứng dậy, xoay người đoạn nhắc nhở,

- Nói vậy quá đủ, chúng ta cũng cần phải ăn.

Và mỗi người một tay, kẻ sắp chén bát, người dọn thực phẩm. Hưng đãi mọi người tối nay vì hai tuần trước câu được mấy con rùa nơi ao của một người bạn. Không hiểu học được ở đâu, họ bày ra lắm kiểu ăn thịt rùa, nào tiết canh, uống máu rùa pha với rượu, rùa nướng, rùa cà ri, rùa luộc, rùa rang muối, rùa hấp thủy, cháo rùa, rùa thuốc bắc. Món rùa nướng còn được bày ra mấy cách khác nhau, để nguyên con nướng trên than nóng hay đút lò sau khi đã cắt tiết, hoặc mổ lấy thịt pha trộn gia vị rồi đút lò hay nướng than. Có người lại hấp cho thật chín rồi mới đem nướng, kèm theo nhiều kiểu cách phải giữ cho đúng mùi vị. Có lần chẳng hiểu Phủ đọc được ở đâu, thao thao bất tuyệt nói về đặc tính vị thuốc của thịt rùa, yếm rùa, lại còn nhắc đến nhiều tên chỉ về những thành phần khác biệt của rùa chẳng hạn qui bản, lục tàng, qui đảm trấp, qui niệu, qui nhục, qui nhục tửu, qui huyết, qui giáp. Sau một hồi nói, Phủ kết luận, ai uống nhiều cao qui bản thì ích khí, vui vẻ, khôn ngoan, lắm con lại khoẻ mạnh, và thêm tuổi thọ. Thịt rùa chữa thấp ty, phong ty, chiết thương, gân xương nhức mỏi, ho vì lạnh, tả huyết hay huyết lỵ. Thôi thì lắm thứ lắm kiểu, chẳng khác gì rùa là một loại thuốc thần trị bá bệnh. Đặc biệt, Phủ nhấn mạnh, ngày lục giáp hay những ngày trong tháng mười hai không nên ăn thịt rùa; vì vào những ngày đó thịt rùa trở thành món kỵ làm tổn hại tinh thần. Hơn nữa, ăn thịt rùa không được ăn chung với thịt heo, cô mễ, nước dừa, rau sam, nếu không để ý mà ăn lộn với những thứ này sinh tai hại vô kể (DTCN; Tr.872-881). Bởi đó, chỉ cần thông báo cho một người là cả bọn đã hội họp đầy đủ e lỡ cơ hội hưởng thọ. Thực ra, chẳng hiểu công hiệu thịt rùa, cao rùa thế nào hoặc bổ béo ra sao, dân nhậu mà nghe thấy máu rùa pha với Hennessy, hoặc “Bò đi ông,” hay “Thánh mờ mờ” thì dẫu có bị liệt giường cũng nhổm dậy được mà mò tới. Ấy chỉ là mới nghe tên đã thấy công hiệu. Có điều lạ, không ai đặt vấn đề sự công hiệu phát xuất từ tên tuổi linh vật có thể sống được cả ngàn năm, hay từ hơi hướng của nước thánh; vì mới nhấp thử một tợp đã cảm thấy ngây ngất lòng người! Nói rằng từ linh vật thì nó đã sống được bao nhiêu năm đâu mà bị thượng lên bàn cho mọi người xâu xé! Có lẽ sự lạ xảy ra do công đức của Hennessy, hoặc Rémy Martin chăng! Và thế là theo thường lệ của những lần quây quần bên món linh vật này, chủ nhà trịnh trọng khai mạc với nghi thức chia qui huyết. Lần này, Hưng kiếm được chai “Ách Âu” khiến món qui huyết thêm giá trị và êm miệng hơn. Huyết rùa, dẫu ít, cũng đủ làm mầu rượu ách âu đã đỏ càng thêm tươi thắm tăng gia phần đậm đà câu truyện đang bỏ dở. Cụ Tài cũng được một ly; còn đang thưởng thức mùi vị sau khi nhấp một ngụm nhỏ thì thiên hạ ai nấy đã hoàn thành bổn phận khai mạc; có người đã kịp thời gặm đùi rùa nướng còn đang nóng hổi.

- Nói theo nhà Phật, rùa là giả tướng; rượu cũng là giả tướng; thôi thì đành chấp nhận ăn cái giả cho qua và uống thứ giả cho qua, Sỹ nhà con với giọng khề khà lên tiếng. Giả tướng hấp dẫn như thế này thì nhà con thấy đường thức ngộ vẫn còn xa lắc xa lơ. Hơn nữa, giả sử đạt đến thức ngộ mà ăn không còn cảm giác gì; uống rượu, uống bia chẳng thèm say, có lẽ nhà con chẳng nên thức ngộ, và như vậy, phỏng còn gì để nói tới tu chứng, nghiệm chứng.

 
Lời nói nửa nạc nửa mỡ, mới nghe tưởng hắn diễu cợt cho có chuyện nói, chẳng ngờ câu cuối lại mang nặng phần nhận định. Vẫn biết muốn thức ngộ, con người phải thực hành tu chứng; tuy nhiên, dẫu tìm tòi qua sách vở hoặc nghe thuyết pháp hay tưởng tượng thì cảm nghiệm tu chứng vẫn như những chiếc bánh vẽ, ngó thấy, ai cũng thèm thuồng nhất là lúc bụng rỗng không; trong khi nhu cầu cuộc sống và cảm giác cũng như niềm vui thế tục, gốc rễ đã thấm nhập sâu tận đáy lòng, che lấp mọi bề chẳng dễ chi gạt bỏ dù chỉ để có khoảng trống mỏng manh hầu giúp con người nhận thức rõ hơn nẻo thức ngộ tâm linh. Ăn không cầu no, chẳng mong khoái khẩu, nào ai tốn tiền bạc, giờ giấc dây dưa chuẩn bị cho thêm phiền hà? Uống rượu, bia không say, hỏi ai chịu tốn ngân quĩ chi phí cho dòng máu lưu linh! Miếng bia, ngụm rượu, vừa trôi khỏi miệng đã thấy phê, ai có thể từ chối sự mời gọi thực nghiệm nhất là đối với dân nhậu, thích có cảm giác lăn quay cùng đất trời, hoặc giúp phần nào trốn chạy sự ám ảnh của những phiền hà nơi cuộc đời!

- Con người được sinh ra có bộ lòng ruột thì phải ăn, phải uống. Tôi thử hỏi ông, tại sao những cục đá không ăn, không uống? Cũng phải có lý nào đó mà chúng ta được sinh ra với ngũ quan và bộ phận tiêu hóa. Giả sử ông không có bộ óc thì lấy gì để đặt vấn đề thức ngộ? Tôi nghĩ, có thể còn cảm thấy phiền hà hoặc còn muốn giải thoát khỏi những sự phiền hà cuộc sống, vẫn không mong gì bước vào con đường thức ngộ. Con người là thế và phải như thế mới là con người; vì không như thế không thuộc về giống người. Mà đã không chấp nhận thân phận con người thì vẫn còn luẩn quẩn trong vòng ước mơ thị dục, vẫn muốn phải là thế này hoặc không là thế khác. Tại sao con hổ không chịu ăn cỏ như những con thú khác? Đâu phải vì nó khỏe hơn hoặc khôn hơn hay thích ăn thịt do đó không chịu ăn cỏ. Thế những con voi đâu yếu kém gì sao cứ cỏ mà gặm, dẫu gặp thịt nai cũng không thèm ăn. Con hổ mà gặm cỏ chắc chắn không phải là con hổ. Con voi mà cứ lùng bắt thú rừng ăn thịt lại cũng chẳng phải voi. Thế nên, dù cho thức ngộ hay không, đã có bộ lòng ruột tất nhiên phải ăn, dẫu không muốn ăn cũng không được. Thôi thì cứ cho là ăn cũng như không ăn, uống cũng như không uống, chẳng muốn cũng chẳng phải, có lẽ thảnh thơi hơn.

- Theo tôi, còn muốn thảnh thơi thì vẫn còn phiền hà bởi dẫu không muốn ăn vẫn phải ăn, mà đã vẫn phải ăn tất nhiên vẫn phải lăn lộn kiếm miếng ăn. Bởi vậy, vấn đề được đặt ra lại là vấn đề ăn uống thế nào hầu giảm bớt phiền hà để được thảnh thơi hơn chứ không thể nào tẩy sạch được phiền hà hoặc cũng không thể nào có được thứ thảnh thơi tuyệt đối theo con người mơ ước.

- Nói như thế sao có thể diệt dục? Tùy con chợt lên tiếng.

- Ngay ý muốn diệt dục đã là dục còn nói chi đến diệt dục. Dẫu không thích ánh nắng mặt trời thiêu đốt thì không có ánh sáng mặt trời làm sao có sự sống. Cuộc sống lệ thuộc vào những điều kiện phức tạp, và ngay sự sống đã phức tạp, nên con người mới mơ ước thảnh thơi. Tuy nhiên, tôi e rằng coi chừng có cuộc sống thảnh thơi lại không biết nó là thảnh thơi nên chính sự thiếu nhận thức đó mới tạo thêm phiền hà. Thảnh thơi hay không tự nơi tâm mình phát sinh thái độ, cách sống, cũng như dục hay không do con người của mình chứ không phải tại hoàn cảnh; vì hoàn cảnh tự nó phải như vậy. Con người phải sống thì điều kiện hoàn cảnh và sự sống trở thành môi trường kiến tạo cách sống, ý thức sống. Thế nên, dục là mơ ước hoặc tham vọng bắt nguồn từ sự không chấp nhận môi trường hay cách sống hiện tại của mình mà thôi. Nghĩ cho cùng, con người cần có lối nhìn mới, nhận thức mới để sao có thể nhận ra tất cả mọi sự kiện, môi trường, đều là cơ hội thăng tiến trong cuộc đời hầu đem lại sự chấp nhận cuộc đời. Đó có thể là lý do tại sao có câu: “Trí giả tự xử, ngu giả quan phân.” Hưng lên tiếng.


- Anh Hưng nói thế hơi quá, cụ Tài e Hưng phát biểu chạm tự ái người khác nên ngăn chặn. Tôi hiểu phần nào tâm tư anh em lúc này, giọng cụ đắn đo. Có phải anh em đang cảm thấy bao lâu nay mình đã bỏ lỡ cả phần cuộc đời quá khứ, và biết bao cơ hội vì không sử dụng tâm trí, tự suy nghĩ hầu nâng cao ý thức sống, mà ngược lại nhẹ dạ tin theo những lời tuyên truyền cổ võ của kẻ khác. Những chuyện đã qua không thể sửa đổi được thì hãy để chúng đi vào quá khứ; mỗi người chúng ta hãy còn những ngày đang tới và cả một tâm hồn mở rộng nào lo gì muộn màng. Anh em thử nghĩ coi, có rất nhiều vấn đề dù muốn hiểu biết mình cũng không thể biết vì chưa đến thời điểm để mình được biết. Chẳng hạn vào khoảng năm 1990 hay 1991, một số bác sĩ và những nhà chuyên môn nghiên cứu về ảnh hưởng cơ thể của người mẹ đối với thai nhi trong thời kỳ trứng nước đã đưa ra nhận định; khi người mẹ mang thai mà uống rượu bia, chất men sẽ gây nguy hại phần nào bộ óc của thai nhi. Tôi thử hỏi, bao nhiêu triệu năm rồi, con người hiện hữu trên mặt đất này mà mãi cho tới nay mới có thể biết được điều ấy? Phỏng như thế, có ai trong thời đại này được sinh ra với bộ óc toàn hảo tự nhiên không bị ảnh hưởng? Tuy nhiên, nếu không có sự ảnh hưởng của men rượu bia tới bộ não thai nhi, phỏng loài người tiến bộ được như ngày nay? Sự việc phải xảy ra và đã xảy ra như thế tất nhiên có lý riêng mà mình không hiểu; điều đó không tùy thuộc thẩm quyền của mình. Tôi đồng ý với anh em, điểm chính yếu là mình có để ý nhận ra cuộc sống và những sự việc chung quanh là cơ hội cho mình thăng tiến hay không! Đàng khác, hiểu biết sự vật và sự kiện để làm gì, để trau dồi kiến thức cho có vẻ trí thức hay để nâng cao ý thức tâm linh? Đặt vấn đề như vậy chúng ta mới có thể nhận ra mình phải sống với ý thức thế nào. Bình thường, con người không muốn chấp nhận thực tại nên sinh ra mơ ước trạng thái đối nghịch. Không những kẻ nghèo mơ ước giàu có mà người giầu có lại mơ ước nghèo khó. Có thể mới chợt nghe, chúng ta thấy nghịch nhĩ, nhưng thử hỏi đã bao giờ chúng ta bỏ thời giờ kiếm cơ hội tìm hiểu tâm trạng những người được coi là giầu có chưa? Tôi nghĩ, tâm lý chung, con người thường chỉ lấy chính mình làm mẫu mực tạo ra thiên kiến nên đã tưởng rằng quan niệm hay nhận định của mình phù hợp cho mọi người ở bất cứ môi trường, hoàn cảnh nào mà quên ý nghĩa câu nói “Có ở trong chăn mới biết chăn có rận.” Nếu không thế, sao có Phật học, sao có Lão học, Ấn học, Phúc Âm?


- Thưa bác, Phật học do đức Phật Thích Ca giảng dạy, Phúc Âm do đức Giêsu nói; chẳng lẽ còn phải có lý do nào khác hay sao? Tùy con hỏi.

- Anh hỏi như thế; cụ Tài nhẹ nhàng nói, đoạn trầm ngâm khiến bầu khí chợt lắng đọng dẫu giữa lúc đang ăn uống. Điều hơi lạ là ai nấy cũng đồng ngừng mọi cử động hướng về cụ già theo dõi. Thực ra, câu hỏi coi bộ rất thường vì xưa nay ai không nghĩ như thế; bất cứ tôn giáo nào cũng đều được phát sinh từ một nhân vật nguyên thủy. Nói đến đạo Phật tất nhiên mọi người đều liên tưởng đến danh hiệu đức phật Thích Ca; nhắc đến KyTô giáo ai cũng đều hiểu đạo này được bắt nguồn từ đức Giêsu, thế mà thái độ cụ Tài đối với câu hỏi thường tình lại trở nên nghiêm trọng. Chừng hơn một phút sau, cụ tiếp,

- Thực ra, khi nêu lên câu hỏi, anh đã tự trả lời theo nhận xét thông thường từ xưa tới nay. Tuy nhiên, câu trả lời đúng đắn không đơn giản như mọi người đã quen thói nhận định mập mờ, trốn tránh đối diện chẳng những thực thể sự kiện mà còn cố tình che giấu một tâm hồn ỷ lại, không dám dùng khả năng suy tư để nhận định nếu không muốn nói là lười biếng, thiếu óc cầu tiến. Nói thế, tôi muốn chứng minh bằng cách để quý anh em tự tìm hiểu xem đức Thích Ca đã nói gì, đức Giêsu rao giảng thế nào. Đem so sánh những lời nói này với kinh sách và sự thực hành tôn giáo, chắc chắn anh em sẽ thấy nhiều điều lý thú. Điềm đạm nhấp miếng rượu pha máu rùa, cụ tiếp, có phải anh em vừa nghe tôi đặt vấn đề đã nhận ra đức Thích Ca cũng như đức Giêsu không viết sách bao giờ. Có lẽ nơi Ấn học và Lão học cũng thế! Nói cho đúng, sự khôn ngoan tâm linh đã có sẵn tự nguyên thủy, ở mọi nơi và mọi thời đại; vấn đề chỉ là con người có để ý nghiệm chứng hay không. Đây chính là nguồn gốc phát sinh ngôn từ vô minh và minh triết nơi Phật học. Thế nên, minh triết là điều kiện nghiệm chứng nơi Phật học, và mỗi ngành đạo học đều đòi hỏi điều kiện này, nhưng được gọi bằng những ngôn từ khác nhau, hoặc vì những người tiếp nối không để ý nên không đặt thành vấn đề. Suốt thời gian nghe anh Hưng nói chuyện, và từ nãy tới giờ, đã nhiều lần tôi muốn nói về vấn đề này với anh em, nhưng những câu hỏi liên tục kế tiếp khiến tôi vẫn phải chờ cơ hội. Tuy nhiên, tôi có thể bị lầm do đó muốn biết có phải anh em nghĩ rằng minh triết là sự hiểu biết của những người thông minh, tài cao, học rộng không?


- Thưa bác, Tùy con nhanh nhẩu, cháu nghe nói Lục Tổ Huệ Năng của nhà Phật không biết chữ. Nơi Kinh Thánh không thấy ghi Chúa Giêsu học trường nào, bao nhiêu năm.

- Vậy anh có nghĩ các ngài minh triết không?

- Xin phép bác cho con nói ngang; con không phải là các ngài nên không trả lời được.

- Không ngang chi hết mà đó chính là thái độ minh triết! Minh triết không tùy thuộc học vấn mà đó là khả năng tự do nhận định tuyệt đối nơi mỗi người. Ngược lại, chúng ta không để ý sử dụng khả năng này. Thí dụ, anh em gọi tôi bằng bác. Tên tôi không phải là bác, và tiếng “bác” là ngôn từ anh em chỉ về tôi. Tên của tôi là Tài nhưng Tài lại là tên cha mẹ đặt cho để gọi chứ không phải là tôi. Xưa nay, chúng ta rập theo thói quen như thế, chẳng bao giờ, hoặc là không dám đặt vấn đề về những sự việc và sự kiện đã quen thói nên không nhận ra khả năng minh triết nơi mỗi người. Các vị tổ thiền, các vị tổ đạo học chỉ là những người dám đi ngược thói quen ám định nơi lối phát biểu của xã hội chung quanh, và đặt vấn đề theo cảm ứng với sự vật và sự kiện. Từ nhận thức thực tại về sự vật, sự kiện, lòng khát khao tìm mối liên hệ của con người với nguyên thủy phát sinh. Hành trình tìm hiểu này được gọi là nghiệm chứng hay tu chứng theo những phương pháp cảm nghiệm khác nhau tùy tính chất và điều kiện của con người cũng như môi trường sinh sống theo từng thời đại. Và có thể nói, những người kế tiếp muốn phổ biến sự khôn ngoan được gọi là đạo học này lại có ý muốn bổ xung cho rõ ràng hơn, hoặc có ý đồ muốn cho nhiều người nhận biết hơn, hay muốn tất cả mọi người từ hạng thông thái tới kẻ dốt nát nhận chân được sự khôn ngoan tâm linh nên đã viết thành kinh sách trình bày cảm nghiệm; đồng thời cũng có những người thêm nếm sự giải nghĩa ngôn từ. Càng ngày kinh sách càng chồng chất và càng lắm nhân vật giãi bày sự khôn ngoan khiến cho người hậu học bị rối mù như rợ vào rừng. Hơn nữa, kẻ nào càng có tham vọng phổ biến sự thông thái của mình càng chỉ làm cho sự thức ngộ đạo học xuống cấp. Tôi thử hỏi anh em, đa số anh em ở đây làm biển rả; phỏng anh em có thể giải thích cho mấy đứa trẻ năm, bảy tuổi cách đánh tôm ngoài khơi không, hay phải đợi đến ngày nào đó chúng khôn lớn đủ mới có thể nói, và chúng mới có thể lãnh hội được. Tuy thế, nếu một người không thích làm nghề biển, phỏng họ có muốn tìm hiểu cách cào tôm thế nào không? Sự minh triết, nghiệm chứng cũng thế. Vậy mà, thay vì tìm phương pháp khuyến khích lòng khát khao nhận thức sự khôn ngoan tùy theo trình độ và phẩm chất cá nhân, người ta đã đặt ra những khuôn mẫu, lề lối thực hành cũng như những giới hạn điều kiện kiến thức. Lâu dần, sự truyền bá đạo học nghiễm nhiên trở thành tổ chức tôn giáo với mục đích giúp con người có cuộc sống tốt lành theo khuôn mẫu luân lý xã hội, và đạo học bị biến thành điều ước mơ của con người sau khi chết. Điều rõ ràng, đức Thích Ca không thiết lập Phật giáo; đức Giêsu không chủ trương đảng phái Tin Lành hay Công giáo. Anh em không thể tìm thấy danh hiệu Phật giáo nơi kinh sách nhà Phật, cũng như Tin Lành hay Công giáo nơi Kinh Thánh. Thế mà ngày nay chúng ta nghe nhan nhản nào là Tiểu Thừa, Đại Thừa, thiền tông nọ, mật tông kia. Cũng cùng một sự thể, kẻ thì gọi pháp thân, người kêu tâm vương, chân không, chân như, tự thể, phật tánh, tự tánh, tánh giác, vô ngã. Có lẽ những danh xưng trải qua các thời đại gom lại nhiều hơn số người hiện hữu trên thế giới ngày nay. Tệ hơn nữa, đã có những trường hợp người khác không suy nghĩ giống như mình thì gán cho họ danh hiệu ngoại đạo (KCĐĐ; Tr.22) hay lạc giáo. Ấy, hãy để tôi nói thực lòng, thử rở kinh sách nhà Phật, mới chỉ đọc thoáng qua, anh em sẽ chứng nghiệm sự cả thể này. Trong khi cuốn kinh nào cũng lặp đi lặp lại những lời chân thật, bất hủ, Phật Tâm, Tâm Phật, Kiến Tính, Kiến Tánh, phỏng những bậc giác ngộ có can đảm dùng những ngôn từ như thế? Tôi chỉ thấy những bậc thực sự giác ngộ nói nghịch lại; chẳng hạn, chẳng có tâm, chẳng có Phật, chẳng có giáo lý tối thượng, chẳng có cóc rác gì ráo” (GLTH; Tr.190). Cụ Tài đổi giọng nói một hơi chừng như muốn giải tỏa những suy tư chất chứa dồn ép bao lâu nay không cơ hội giải thoát.


- Thưa bác, Hưng chợt ngắt lời,

- Có phải anh sợ tôi nói những lời phạm thượng như tôi đã từng sợ anh em bị coi là đả phá tôn giáo không? Chẳng đợi Hưng trình bày điều muốn nói, cụ Tài chận ngang, nói tiếp. Tôi đã sợ anh em lầm lỡ như tôi đã lầm lỡ chỉ vì đời anh em còn dài. Tuy nhiên, kẻ không bao giờ lầm lỡ thì suốt đời lầm lỡ vì đã bỏ lỡ những cơ hội sai lầm. Tôi muốn nói với chủ đích giúp anh em dám nhận thực về bản chất con người của mình cũng như bản chất của thực tại. Đây là căn bản của minh triết, chuẩn bị cho hành trình tu chứng. Anh em có thể bình tâm xét về tâm lý của những người già đối với thế hệ trẻ dưới lăng kính nhận thức qua thực thể tu chứng nơi quan niệm cũ và mới. Người già đã không dám thực nghiệm hoặc thử những gì mới; vì bất cứ những gì khác lạ đều đòi hỏi sự liều lĩnh, hy sinh, bất chấp vị thế cũng như cuộc sống. Bầu nhiệt huyết này chỉ có ở những người trẻ vì dẫu sao, đời họ còn dài, lỡ thất bại, họ vẫn còn có cơ hội. Trái lại, người già, qua những thăng trầm cuộc đời đã cảm thấy mệt nhọc, chán chường, cơ hội không còn nên không dám thử. Hơn nữa, có được thế đứng trong xã hội đâu phải chuyện làm chơi ăn thật. Nó đòi hỏi công sức, cố gắng, và cơ hội. Thử hỏi, tuổi trời đã cao, cơ hội không còn, xác thân và tâm trí đã đến hồi mệt mỏi, nào ai dám thử bất cứ gì. Cứ lấy tôi làm thí dụ, tôi biết, người già thường có xu hướng bảo thủ, không muốn tiến hóa, và khó chấp nhận giới thanh niên có lối suy tư, nói năng, hay hành động trái với thói quen của họ. Thấy điều gì mới, người già đều nghi ngờ, ngược lại không muốn để người trẻ thử xem sao; vì nếu để bọn trẻ thử mà thành công tất nhiên họ tự chứng minh đã bị thua và phải nhường vị thế cho bọn trẻ. Cũng có thể người già không chấp nhận sự mới mẽ vì họ làm biếng; bởi muốn hiểu cái mới, cái lạ, phải gắng sức, phải vứt bỏ thành kiến cũ của mình. Thế nên, nếu chấp nhận bọn trẻ có lý tức là tự chấp nhận mình lầm lẫn. Và như vậy, chẳng khác gì tự phá đổ vị thế yên ổn của mình, tự xóa nhòa danh vọng lỗi thời đã được khoác lên mình (CNCĐ; Tr.19-20). Tôi tuy tuổi đã già nhưng thấy còn nhiều điều mình không biết; có thể nói đúng hơn, tôi đã không biết những gì người ta thường cho rằng nên biết. Đó là lý do tại sao bao lâu nay tôi rất ít khi nói chuyện với anh em. Có điều, đã đến lúc chúng ta không còn tự phụ về những phán đoán truyền thống nữa; mà bắt buộc phải xét lại hết những chân lý của mình xem có còn hợp với thời đại đầy biến chuyển này hay không. Đây chính là căn bản cho sự minh triết, và sở dĩ tôi phải nói đến vài đặc tính của tuổi già cũng chỉ với ý định nhắc nhở anh em nhận ra con người mình thế nào hầu tránh vướng phải những cố chấp, con đẻ của tham vọng được gọi là dục nơi mọi người. Vì thế, khi xét lại những chân lý xưa nay tưởng là vĩnh hằng, chúng ta thấy cần phải bỏ đi hoặc phải được xét lại hay giải thích lại một số chân lý đã từ bao đời đang ngự trị tạo thành thói quen, điểm tựa cho mọi suy tưởng. Hơn nữa, có nhiều nhận định mới mà một người chân thành dám thực sự đối diện với lòng không sao bác bỏ được, chúng ta cũng cần kiên nhẫn và điềm tĩnh nghiệm chứng. Đã có khá nhiều người lên tiếng than, không những giữa quần chúng mà còn nơi sách vở rằng thời đại này là thời mạt pháp, hoặc dựa vào lối nhìn hạn hẹp giải thích Kinh Dịch và cho rằng thời nay là thời văn minh cơ giới của Tây Phương đang làm bá chủ hoàn cầu, tức là ở vào kiếp vận cuối cùng của một chu kỳ sắp đến ngày chấm dứt (CDHG; Tr.43), và còn dựa vào mấy con số, nhắm mắt nói bừa rằng có sách đã tiên tri tận thế sẽ xảy ra trong khoảng năm 2.000 và năm cuối cùng là năm 1999 (CDHG; Tr.48). Nếu thời hiện nay luôn luôn xấu hơn thời đã qua thì, có thể nói theo bà Luise Rinser, một tác giả người Đức, “Nhân loại hiện nay vẫn còn ăn lông ở lỗ, chỉ nghĩ tới việc săn bắn và giết lẫn nhau; mà kẻ nào đầu tiên có ý vẽ hình các con thú lên vách các hang đá phải đáng kể là có tội; vì kẻ đó đã tạo ra một cái mới tức nghệ thuật” (CNCĐ; Tr.155). Suy như thế, tôi nghĩ thời nay không phải là thời mạt pháp mà có thể nói là thời pháp mạt.

- Thưa bác, Phủ chen ngang, sao bác lại gọi là pháp mạt?

- Tôi chưa kịp nói thì anh đã vội hỏi. Thực ra tôi cũng chẳng biết nên gọi là gì do đó tạm gọi là pháp mạt. Đại khái nhân danh tâm bồ đề, người ta muốn giúp con khỉ trở thành nhạc sĩ.

- Bác nói sao, con khỉ đâu được sinh ra để trở thành nhạc sĩ! Sỹ nhà con chen vô.

- Người ta đã quên cái duyên nơi nhà Phật do đó cố hạ cấp Phật học để giảng dạy cho những người không duyên kiến tính để rồi khuyến khích ước muốn cầu cho được kiến tính thì chỉ tạo thêm vọng tưởng. Hơn nữa, sự giải thoát theo quan niệm nhà Phật tức là giải thoát khỏi vọng tưởng và khi không còn ý niệm tất không còn vọng tưởng. Đây là ý nghĩa độ chúng sanh, không có dù chỉ ước muốn độ mới thực sự là độ của nhà Phật. Bởi thế, Phật học không mang dù chỉ một chút ước muốn cứu độ vì còn muốn, còn sinh ý niệm tức là vẫn tạo chúng sanh sao có thể nói độ chúng sanh. Anh em có thể hỏi bất cứ ai theo Phật giáo, ngay cả những người thành tâm nhất, họ đều mù mờ giải thích rằng đức Thích Ca vì thấy nhân loại đau khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, nên bỏ vợ, bỏ con, bỏ cả ngai vàng đi tu cứu độ chúng sanh. Anh em nghe tôi nói có giống y chang một Phật tử không? Sự hạ cấp nhận thức về Phật học này chỉ tròng thêm vào cổ con người áp lực vô minh nếu không muốn nói là đả phá Phật học. Tất nhiên, còn trông mong được đạt tới bất cứ gì tức là tự chấp nhận lệ thuộc vào ước muốn ấy. Suy như thế theo nhà Phật, người nào đã kiến tính sẽ không còn ước muốn độ ai; vì không còn ý niệm mà họ chỉ sống thành thực với Tâm Phật nơi họ, và sẽ không bao giờ rao giảng Phật học. Ngược lại, chỉ những người còn đang u mê mới có tham vọng cứu độ hoặc giải thoát chúng sanh. Mô Phật, họ đang tạo thêm muôn kiếp chúng sanh mà không nhận ra. Dĩ nhiên, cuộc đời là thế, ai cũng tự tạo cho mình một hình ảnh lý tưởng ít khi hợp với thực tại rồi thấy mình “đóng vai trò muốn đóng” cho có vẻ oai một chút với thiên hạ. Anh em có hiểu tôi nói gì không? Giọng cụ Tài như mơ màng nơi một thực tại khác biệt nào đó mang thêm nỗi xót xa.


- Thưa bác, nếu không có người giảng giải con đường thức ngộ thì đâu ai biết mà đạt tới kiến tính.

- Có thể đây là lý do phát sinh tâm bồ đề hay tâm từ bi nơi nhà Phật. Tuy nhiên, dẫu lý luận thế nào chăng nữa thì cũng đối nghịch thuyết nhân duyên và chỉ tạo thêm vọng tưởng. Đồng ý rằng, chúng ta là những lữ khách trong cuộc đời tìm về chân lý, nhưng đa số không có can đảm tự nhìn nhận chính mình nên đã tự tạo cho họ một hình ảnh đẹp đẽ, cao thượng, và cố gắng giả hình sống theo. Đây chỉ là kết quả của lòng tự ty, khó tự nhận thấy con người thực của mình. Phật học khuyến khích con người tự nghiệm chứng, không tin bất cứ ai ngay cả những lời dạy của đức Thích Ca nếu chưa nghiệm chứng. Anh em không nhớ câu ngài nói, “Lời ta nói như chiếc bè” sao! Và nếu mọi người tự nghiệm chứng thì giờ giấc nào, tâm trí nào nghe giảng giải. Như vậy, càng cố gắng giảng giải chỉ càng dẫn kẻ không nghiệm chứng chìm sâu trong vòng luẩn quẩn ý niệm.

- Cháu không muốn và không dám tranh luận, nhưng cháu nghĩ sự giảng giải phần nào cũng đem lại lợi ích cho người nghe, chẳng được đàng nọ, cũng được đàng kia, giọng Hưng ngập ngừng,

- Tranh luận là để đưa ra chính đề và phản đề, bác bẻ những luận cứ của nhau rồi hai bên cùng tiến thêm một chút trên hành trình tiến tới chân lý. Anh em cứ tự nhiên vì tôi không có chút ý định giảng giải Phật học đâu. Mà thực ra, đâu có gì để nói bởi Tâm Phật, quyền lực hiện hữu, đã tự ở nơi mọi người thì giảng giải cũng vô ích, có chăng chỉ vẽ rắn thêm chân. Nếu ai được sinh ra để thức ngộ thì khi tới thời điểm, chuyện phải đến sẽ đến. Để trả lời ý anh vừa nêu lên, tôi muốn nhắc lại câu nói của đức Đạt Ma Sư Tổ anh đã trình bày lúc trước, “Lãnh hội được Phật tánh nơi mình không thể học được” (GLTH; Tr.205). Nói cách khác, anh đã giảng giải Phật học; ngón đòn gậy ông đập lưng ông này anh thấy thế nào? Phỏng những ai còn có tham vọng giảng giải cho kẻ khác kiến tính, họ thực sự ra sao?

- Nam mô A Di Đà, Sỹ nhà con đế vô, hèn chi mà hắn làm cái đầu tụi cháu muốn lộn xuống bên dưới cái chân! Cảm ơn bác đã lật tẩy thằng khốn nạn này dám đọa đày các vị Phật biết bao kiếp. Xin mời bác, chúng ta phải dùng nước thánh hòa vị phật rùa này để tẩy trần cho minh triết thêm được chút nào hay chút ấy.

- Thưa ông, Hưng lên tiếng, nếu cứ áp dụng kiểu theo đóm ăn tàn, ông đáng bị đày muôn đời nơi cõi đọa xứ bởi còn đòi minh triết; thiếu nghiệm chứng thì chẳng thể kiến tính.

Hưng vừa mở màn đấu hót, chợt thấy cụ Tài nâng cao ly rượu nên im lặng theo dõi.

- Tôi mời anh em cùng tôi nâng ly chúc mừng tính chất người nơi chúng ta. Để tôi kể cho anh em một câu truyện thần thoại của dân tộc Nga. Số là có một con rồng lần đầu tiên nhìn bóng của nó phản chiếu trên mặt nước, thấy xấu xí quá, nó kinh hoảng chết ngay lập tức (CNCĐ; Tr.102).


Cụ Tài ngưng ngang, uống cạn phần rượu còn lại trong ly, đoạn đưa tay xé một đùi rùa điềm tĩnh gặm. Các tướng nhậu đang chú ý chờ nghe đoạn kết luận của câu truyện, tưởng rằng sau khi uống rượu cụ sẽ giải thích. Thế nhưng, đã nhai hết cả đùi rùa mà vẫn không thấy cụ nói gì thêm. Ai nấy đều ngớ ra.

- Thưa bác, Tùy con lên tiếng.

- Anh muốn nói gì? Cụ Tài hỏi ngắn gọn.

- Con rồng.

- Nó vẫn chưa chết. Chẳng đợi Tùy nói hết, cụ chặn ngang; lời cụ nhẹ nhàng tuy mang vẻ lạnh lùng.

Câu nói nghịch thường càng khiến mọi người không hiểu cụ muốn nói gì. Nơi câu truyện, con rồng thần thoại kinh hoảng chết ngay lập tức; mà đến khi Tùy nhắc khéo muốn hỏi thêm cho rõ ngọn ngành thì lại được câu trả lời không đâu vào đâu; khiến kẻ nghe cảm thấy như bị dồn vào chốn hỏa mù tạo nên tâm trạng ngỡ ngàng. Cụ Tài hình như cố ý chờ đợi phản ứng của những người trẻ. Tuy nhiên, sau đôi phút vẫn chưa thấy ai lên tiếng, cụ nhỏ nhẹ hỏi,

- Không ai trong anh em thấy con rồng à?

- Thưa bác, Sỹ nhà con muốn phá tan bầu không khí nặng nề, bác kể truyện con rồng huyền thoại thì sao có thể thấy!

- Con rồng trong huyền thoại đã chết vì nhìn thấy hình ảnh của nó phản chiếu trên mặt nước. Nhưng con rồng trong mỗi người chúng ta thì mơ tưởng những hình ảnh không thực về chính mình; bởi biết rằng muốn đạt tới mục đích cao đẹp nào đó đều phải chấp nhận những điều kiện hoặc thực hành được gọi hy sinh. Điều này có nghĩa chúng ta không dám soi gương sợ nhận ra bộ mặt thật của mình thì phải đau lòng mà sửa đổi. Thực tế ai cũng có thể cảm nhận được, và đó là dù muốn hay không, đời sống luôn luôn thay đổi. Sự thay đổi đòi hỏi sự từ bỏ những điều sẵn có để chấp nhận những sự vật mới hay những khía cạnh mới của cùng một vấn đề. Tuy nhiên, bình thường chúng ta chỉ ao ước thay đổi mà không dám sử dụng sự tự do tư tưởng tuyệt đối nơi mỗi người để nhận thức và sống theo, mà ngược lại e sợ bị thiên hạ mỉa mai, đả đảo, hay bị chụp mũ với những danh hiệu mang đầy ý nhạo cười.


- Thưa bác, môi trường sống ảnh hưởng tâm trí con người cũng như lề lối và phương cách sống trên mọi phương diện thì ai có thể có được điều bác gọi là tự do tư tưởng tuyệt đối.

- Tự do tư tưởng tuyệt đối chỉ có thể có được nơi bất cứ ai dám dùng nghịch luận để đặt lại mọi vấn đề đã được dạy dỗ hay đã quen thói chấp nhận. Bình tâm nhận định, không dám đặt câu hỏi ngược lại những gì mọi người chung quanh, hay cùng tổ chức, hoặc cùng tôn giáo chấp nhận, chính là thái độ không dám soi gương. Chúng ta sợ chính chúng ta để rồi tự chạy trốn, kiếm đủ mọi cách để che lấp bộ mặt thật của mình. Thử đặt vấn đề, lý do gì tạo nên cá tính thích ăn nhậu nơi anh em? Có phải vì anh em quen uống rượu bia nên thèm uống? Hoặc vì anh em cần có những cơ hội nhộn nhịp cho vơi bớt nỗi chán chường của cuộc sống hiện tại? Nếu nói rằng thèm bia rượu vì thói quen thì đâu cần nhóm họp để ly anh, chén tôi! Nếu cần có người nọ người kia uống cho vui thì lý do phải là tại không muốn một mình gậm nhấm nỗi buồn khôn nguôi, dẫu anh em có gia đình, nhiều người con cái cả đàn. Suy như thế, mỗi người chúng ta tự tiềm ẩn nỗi khát khao nào đó mà chính mình vẫn chưa nhận ra trong khi cứ miệt mài tìm kiếm cơ hội khỏa lấp!

- Thưa bác, nói theo nhà Phật, ý niệm tạo vọng tưởng, và như thế càng suy luận, càng tạo thêm ý niệm thì lại càng chồng chất vọng tưởng sao có thể đạt tới niết bàn. Hưng đặt vấn đề.

- Muốn đạt tới trạng thái minh triết chuẩn bị cho tu chứng phải hiểu biết chính mình thế nào. Kinh sách nhà Phật trình bày cảm nghiệm tu chứng, nghiệm chứng chứ không phải là những luận đề giải thích chữ nghĩa hay kiến thức. Bởi vậy, những con mọt sách, những người chỉ dựa trên những kiến thức kinh sách hoặc sự am hiểu duy thức nhà Phật không phải là những bậc thức ngộ mà chỉ là kẻ thông thuộc lý thuyết nhà Phật. Nghiên cứu kinh sách hay đọc kinh sách nhà Phật, nhưng chúng ta thường hiểu lầm hoặc cố tình hiểu lầm giữa sự hiểu biết lý thuyết nhà Phật hoặc nhận thức để thức ngộ với hành trình thực nghiệm thức ngộ được gọi là tu chứng hay nghiệm chứng. Sở dĩ tôi muốn nhấn mạnh lại điều kiện căn bản cho sự minh triết là nhận biết chính mình vì lúc trước tôi đang đề cập tới thì anh Tùy hỏi về Tiểu Thừa và Đại Thừa và những tiểu tiết khác tiếp nối làm đứt đoạn. Hơn nữa, hiểu biết chính mình còn liên hệ đến một số nhận thức nhân sinh làm nền tảng bước vào tâm linh. Không đủ điều kiện nhận thức trỗi vượt lên trên nền luân lý nhân sinh, sự thức ngộ tâm linh đương nhiên vẫn còn bị cản trở. Thực tại nơi mỗi người chứng minh, sự nhận biết chính mình đòi hỏi sự can đảm và ý chí dứt khoát với những lề lối, tư tưởng, hoặc thói quen từ những quan niệm nơi cuộc sống đã bao ngày tháng thấm nhập tâm hồn cá nhân; nhà Phật gọi là vọng tưởng hoặc tướng ngôn thuyết. Sự can đảm này nói cách khác chính là sự thành thực tận đáy tâm hồn mà không tự lừa dối để chấp nhận chính mình hầu nhận ra những điều lợi ích nên cổ võ và những tính chất chẳng nên làm hại hành trình thức ngộ. Đàng khác, một người quả thực can đảm thì có thể chấp nhận lỗi lầm của chính mình, nhận thực về mình mà không sợ bị giảm giá trị hoặc thể diện. Không nhận ra mình thực sự như thế nào sẽ phát sinh lòng tự ty tai hại phủ lấp nỗi khát khao hướng thượng tìm về giá trị và mục đích cuộc sống kiếp người. Người nào có can đảm nhận thức nội tại tất nhiên hành động theo lương tâm. Các vị anh hùng, các vị thánh, thường bị một số người không hiểu nổi tầm quan trọng về những hành động liều lĩnh của họ nên cho họ là điên khùng. Tuy nhiên, có một thứ điên khùng rất thông minh đó là can đảm vì điều kiện ắt có và đủ để một người can đảm là sự thông minh. Kẻ ngu ngốc không thể có can đảm mà chỉ hành động liều lĩnh, vô ý thức. (CNCĐ; Tr.30). Thế nên, những người nào không dám suy nghĩ về giá trị và mục đích tối hậu cuộc đời mình mà còn làm bộ ngây thơ cho mình là hiểu biết, giỏi dang, và cho rằng cuộc sống bất đắc dĩ của họ chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh, có thể họ không được sinh ra để thức ngộ hoặc không muốn thức ngộ. Quý anh em nên nhớ một điều, và đó là khi hy sinh cho một cái gì cao cả, người ta vượt lên khỏi bản ngã nhỏ nhoi của mình, mà hòa đồng với một nguồn sinh lực lớn hơn của ta nhiều lắm. Vì vậy, những người khoẻ mạnh nhất là những người hoài bão một lý tưởng, được sức mạnh của lý tưởng đó nâng đỡ, lôi kéo đi, không còn thì giờ nghĩ tới những nỗi khổ lặt vặt của mình (CNCĐ; Tr.142). Như thế, điều kiện ắt có và đủ cho sự minh triết chuẩn bị cho hành trình thức ngộ phải là lòng chân thành nhận biết chính mình; ngoại trừ những người đặc biệt đã được sinh ra với đầy đủ lòng thành nhận thức này. Dĩ nhiên, kẻ dám chấp nhận con người thực của mình để sống theo lương tâm cả là sự ngộ đời đối với mọi người chung quanh; vì thái độ cũng như lời ăn tiếng nói, ý tưởng của họ không theo lề lối, thói quen xã hội đương thời. Lẽ đương nhiên, ý tưởng mới mẽ nào mà lớn lao, quan trọng thì mới đầu cũng bị thiên hạ mỉa mai, đả đảo. Tại sao vậy? Có thể vì chúng làm lung lay vị thế của những kẻ bám víu vào những kiến thức lỗi thời như phương tiện hoặc căn bản cho ý thức sống của họ. Tôi nghĩ, những anh em theo Công giáo có lẽ chưa bao giờ được nghe lời Thomas Aquinas tuyên bố: Nếu các giáo phẩm vì không hiểu rõ tình trạng mà buộc một người nào đó phải hành động trái với lương tâm người đó, thì người đó phải thà chịu bị bài xích ra ngoài giáo hội và chết còn hơn là phản lương tâm của mình (CNCĐ; Tr.167).


- Thưa bác, nếu như thế trong trường hợp một người có lương tâm bệnh hoạn thì sao?

- Người đã có lương tâm bệnh hoạn đâu có thể biết họ sai lầm cho dù những người đồng thời nhận định về họ thế nào. Tuy nhiên, giả sử chúng ta được sinh ra một trăm năm trước đây, anh em có thể tưởng tượng được, chúng ta có cơ hội cùng nhau ăn uống và bàn luận như thế này không? Một trăm năm trước làm sao chúng ta có cơ hội nghĩ đến những điều như ngày nay! Ai có thể chấp nhận già trẻ cùng nhau tranh luận về một vài vấn đề. Như vậy ngày ấy, những ai dám nói lên ý nghĩ của sự tưởng tượng đến một vài thực tại có thể xảy ra bây giờ coi chừng bị kết án là nhận định hoặc lương tâm bệnh hoạn. Tôi thử đưa ra thí dụ, phỏng anh em nào có thể giải thích cho tôi câu nói của Lão học: “Không làm gì là làm tất cả.” Có phải chỉ mới vừa nghe, anh em đã thấy câu nói phi lý rồi không? Tôi dùng ngôn từ phi lý để chỉ cảm nghĩ nơi anh em vì câu nói được phát ra từ cửa miệng tôi. Giả sử nếu một người nào đó trong anh em lặp lại câu nói mà không giải thích, thử hỏi chúng ta sẽ nghĩ sao?

- Thưa bác, khùng, ah, cháu xin lỗi, Sỹ nhà con quá mau miệng lên tiếng trả lời quên cả thái độ lịch sự tối thiểu khi nói với một cụ già.

- Khùng hay bệnh hoạn nào khác gì. Chúng ta là con người nên mới gặp những lầm lỗi do sự hấp tấp, chưa kịp suy nghĩ đã vội xét đoán. Câu nói nơi Lão học đứng vững đã mấy ngàn năm mà tới giờ vẫn bị cho là khùng thì những người không quan niệm giống mình tất nhiên mình cũng vội kết án mà thôi. Tuy nhiên, đâu phải ai cũng chấp nhận hoặc không dám suy nghĩ đặt vấn đề về cuộc đời. Đâu phải con người được sinh ra một cách phi lý! Con người là động vật duy nhất biết rằng mình không trường cửu (Malraux). Anh em có thể nhớ lại đã bao lần chúng ta phải đối diện với tâm trạng hãi hùng và tuyệt vọng vì nhận ra niềm vui sống của mình đã bị đầu độc bởi sự hiểu biết rằng mình vốn là một thứ động vật không thể vượt ra ngoài cái chết. Chẳng nói gì đâu xa, cho dù có suy nghĩ đến mấy, mình cũng không thể nào kiếm được lối thoát khỏi thực tại bất như ý tạo nên tâm tư chán nản, đã bao lần cố lờ đi mà không được nên đành chấp nhận sống để mà sống, sống cho qua, sống chờ cái chết. Hiểu như thế, anh em thấy tại sao hầu hết các nền triết học và tôn giáo đều đem lại một câu trả lời quá ư bi quan yếm thế. Đối với Phật giáo, đời là bể khổ và con người trầm luân trong vòng sinh, bệnh, lão, tử. Lão học nêu lên trời đất bất nhân, coi vạn vật như loài chó rơm do đó chủ trương vô vi. Thiên Chúa giáo lại quan niệm con người bị khốn khổ vì ngụp lặn trong vòng tội lỗi nên Chúa phải nhập thể cứu chuộc.

- Thưa bác, không ai thoát được sự chết thì đặt vấn đề để làm gì! Cháu nghĩ, nếu có ai ít nhất sống được hai hoặc ba trăm năm thì đặt vấn đề sao cho sống lâu như họ mới hợp lý. Đàng này, không ai thoát chết thì mình sao tránh khỏi.

- Nếu mọi người chấp nhận như vậy tất nhiên đã không bao giờ có tôn giáo, triết học, đạo học, và nhất là sẽ chẳng bao giờ có những người mà anh vừa gọi là khùng. Thử đặt vấn đề, chúng ta có tự do không? Chắc chắn ai cũng nghĩ rằng mình có tự do. Chính các triết gia Đông, Tây, kim, cổ, đều quan niệm con người có tự do. Ngay cả tôn giáo dẫu không nêu rõ vấn đề song vẫn ngầm hiểu như thế. Tiến xa hơn nữa, mọi người chúng ta còn được đa số các dân tộc trên thế giới chấp nhận có nhân quyền tối thiểu. Nhưng làm thế nào để thực hiện sự tự do nơi con người? Phỏng khi trái tim chúng ta ngừng đập, chúng ta có thể nhân danh điều được gọi là tự do khiến nó đập thêm vài cái nữa không? Thế thì sự tự do chỉ có nơi con người chưa chết; và như vậy, bất cứ ai suy tư về thân phận con người đều mang khuynh hướng mơ ước vượt khỏi số phận, và có ý muốn chống đối lại số phận của mình, hoặc tìm cách giải thoát hay chạy trốn bằng quên lãng, hay bất cứ phương cách nào. Ai để giờ suy nghĩ về thân phận làm người đều nghiệm chứng được kiếp sống gắn chặt vào giòng sinh hóa tự nhiên không sao có thể thoát ra được; vì trước khi suy nghĩ đến sự sống, thân phận, hay kiếp sống thì con người đã đang sống. Lòng khát khao giải thoát này dẫn con người đến nẻo đường độc nhất là trực diện giòng đời bằng cách nhận thức chính mình để tìm phương pháp giải quyết. Tất nhiên, nhận thức chính mình là bắt đầu quay về nội tâm để nhận ra thực thể nơi mình. Tôi là ai? Tôi có phải chỉ là xác thân này? Tại sao có ý nghĩ? Tôi có tự do không? Tại sao con tim có thể đập, và trí óc có thể suy nghĩ, suy nghĩ ngay cả đến những điều chưa bao giờ thấy hoặc chưa bao giờ nghe, hoặc nhận xét về tâm cảm yêu thương. Từ đó, con người đạt tới những thực thể khác nơi chính mình mà nhiều khi nói ra không được, hoặc cố ý giải thích thì chỉ càng khiến người nghe rối trí. Có phải đây là nguyên nhân để có câu kinh Phật “Bể khổ mênh mông, quay đầu là bến.” Quay đầu đây là tác động của nhận thức bản chất, bản thể con người của mình, nhận thực về chính mình.


- Thưa bác, quay đầu thế nào khi vợ con đùm đề, rồi nào tiền nhà, tiền điện, tiền xe, bill bọng chồng chất khói lên, nhất là trong những trường hợp vợ ốm, con đau. Nhiều khi, ước gì thân này ví xẻ làm đôi làm ba, phần lo cày trả nợ, phần đi chợ nấu cơm, phần còn lại đưa bà xã đi sắm đồ e ra đường không được ai để ý lại sợ ê mặt chồng con, hoặc ốm bớt lỡ gió thổi bay mất lại khổ cái thân chưa già đã mồi côi. Cháu nghĩ mãi vẫn không còn gánh nào nhẹ hơn thì còn đầu đâu mà quay.

- Thôi, thôi, đủ rồi, nói mãi, nói hoài, nói giai, nói dài, nói dại, nói không ai thèm nghe mà cũng cứ nói. Sỹ nhà con mượn dịp chêm vô diễu trong lúc mọi người đang để ý nghe cụ Tài nhận định khiến Phủ lên tiếng.

- Anh Sỹ cũng có lý, nhưng lý một nửa vì ước muốn của con người ở đâu thì lòng dạ của họ ở đó (Mt. 6:21). Bản chất con người không phải hoàn toàn là một cơ cấu sinh lý đã trở nên biết suy tư bởi được thấm nhập, học hỏi, do sự liên hệ với xã hội, nhưng đồng thời cũng không phải hoàn toàn là một thứ tâm linh siêu việt vượt ra ngoài thể xác, mà là cả hai, đồng thời tuy hai mà một. Bình tâm nhận xét, những ý niệm hướng thượng, thiện, ác, trách nhiệm, chân lý, đạo lý, nơi con người đều tượng trưng cho nguyện vọng muốn vượt ra ngoài vũ trụ cảm quan và thể chất để đạt tới những trạng thái hoặc cảnh giới vĩnh cửu, thường hằng. Những ý niệm này dẫu ảnh hưởng từ cuộc sống nhưng không phải bởi ngoại cảnh mà bắt nguồn tự chính con người. Nói rằng không còn cái đầu để quay sao anh có thể ở đây vào lúc này? Và như vậy, nơi con người còn có những sự kiện sinh hoạt nội tâm không bắt nguồn từ cuộc sống, từ vũ trụ ngoại giới, hoặc lệ thuộc thể xác. Sinh hoạt nội tâm này chính là những suy tư, ý thức, muốn chống nghịch lại thân phận kiếp người giới hạn, đã tạo nên đau khổ và sợ hãi. Từ sự chối bỏ của con người không muốn chấp nhận hoàn toàn thân phận của mình, ý tưởng Thượng Đế hữu ngã tất nhiên được phát sinh hầu tìm nơi nương tựa cho tâm tưởng, hoặc vì lười biếng, muốn có một mốc cứ để đổ lỗi, hy vọng cảm thấy nhẹ phần đau khổ; do tâm trạng bất mãn không chấp nhận thân phận hầu kéo lê cuộc sống đã lỡ được sinh ra. Có thể đây là sản phẩm của những đầu óc thụ động.


Cụ Tài nói tới đây đã thấy mấy người đổi thế ngồi; hình như ý niệm Thượng Đế là sản phẩm của suy tư chạy trốn đụng chạm hơi mạnh tới niềm tin tín ngưỡng.

- Thưa bác, tôn giáo mang mục đích giúp con người sống tốt lành, hiền hòa hơn, làm điều lành, tránh điều xấu, và đồng thời tạo tình thân ái để kiến tạo và đem lại trật tự xã hội. Cháu nghĩ, như thế đã quá đủ.

- Anh nghĩ như thế, có nhận định như thế hoặc cho rằng mục đích của tôn giáo như thế, hoặc nó đã đạt được đến như thế, hay anh đang lặp lại lời của người khác mà tưởng rằng đó là nhận thức của chính mình?

- Thưa bác, tôn giáo nào không dạy ăn ngay ở lành, làm điều thiện, tránh điều ác.

- Đó là lý do tại sao chúng ta cần sử dụng tự do tư tưởng tuyệt đối qua hình thức nghịch luận. Nếu nói rằng mục đích tôn giáo chỉ là dạy con người ăn ngay ở lành, thế sao những sự kiện được gọi là ác vẫn đang xảy ra mỗi ngày một nhiều? Nói rằng tôn giáo đem lại trật tự xã hội tại sao phải có luật này, luật kia, cả ngàn thứ luật. Chính lòng khát khao tìm đường lối giải thoát thân phận con người đã phát sinh đạo học, tôn giáo. Đâu phải ai cũng chấp nhận kéo lê kiếp sống chờ ngày chết. Giả sử anh em nào đó đang khi đánh tôm vô tình rơi xuống biển, phản ứng sẽ ra sao...

- Thì bơi, không bơi sẽ xuống gặp Hà Bá!

- Ê, không được nói leo. Bố tôi là Hà; tôi chưa chết sao ông dám phạm thượng. Cụ Tài vừa nâng ly chiêu ngụm rượu mới được Tùy rót thêm, mục đích để mọi người có vài giây suy nghĩ về lời mình nói thì Sỹ nhà con đã nhảy xổ vô lên tiếng khiến Bá phải ngăn ngừa cái miệng hay nói tào lao.

- Trường hợp những người tương đối có cuộc sống dễ thở, không phải lo lắng về nơi ăn chốn ở hoặc những nhu yếu bình thường, họ đâu dễ dàng thụ động chấp nhận cuộc đời. Có câu nói của dân tộc nào tôi không nhớ; câu nói như thế này, “Khi những con vật ăn no, chúng ngủ; nhưng khi con người không phải lo lắng về miếng cơm manh áo, họ suy nghĩ.” Thực ra, trái ngược với cá tính thụ động, đâu thiếu gì người vì khát vọng vứt bỏ thân phận nô lệ, sợ sệt, yếu đuối của con người đối với giòng đời, đã muốn giành giật địa vị một siêu nhân sáng suốt, quật cường, tự mình nắm giữ lấy vận mệnh đời mình (XDNSQ; Tr.22). Họ đâu chấp nhận điều người khác tuyên truyền mà đã dám suy tư, tìm mọi phương diện thực hiện một cuộc cách mạng tâm linh hầu thoát khỏi ách thống trị của những lý thuyết nô lệ quyền lực vô hình. Họ cho rằng chấp nhận ý niệm một vị Thượng Đế siêu hình ngự trị một cách tuyệt đối trên ý chí, vận mạng, là một sự hèn nhát, ỷ lại, và lười biếng, tự làm mất nhân phẩm, nên muốn vùng dậy để ý thức lấy vị trí và thảm kịch trong thân phận của mình. Dĩ nhiên, điều ai cũng có thể cảm nhận được, đó là ý thức con người là một khuynh hướng thường hằng, nhưng cũng là một thất bại miên tục nơi hành trình tiến tới khát vọng giải thoát thân phận kiếp người, một hành trình rõ rệt nơi ý chí mà lại khó tìm phương tiện nắm bắt. Con người giống như một giọt nước trên giòng sông sinh hóa. Nó có quyền tự do trôi dọc, trôi ngang theo giòng sinh hóa, nhưng nó không có tự do từ chối không hiện diện ở trong giòng sinh hóa đó (XDNSQ; Tr.178). Tâm thức nơi thân xác chẳng khác gì người chèo đò nơi giòng sông sinh hóa. Người lái đò muốn ra khỏi giòng sông phải chèo đò chứ không thể bỏ con đò của mình khi chưa tới bờ mà có thể bước ra khỏi giòng sông.

- Dễ mà, đánh chìm đò, kêu “coast guard” đem trực thăng bốc.

- Thôi ông ơi, làm ơn khóa dùm cái miệng lại để tụi tôi nhờ. Ông cứ nhảy xổ vào cổ họng kẻ khác làm mất phê.

- Không có trực thăng thì ông chết chìm còn gì mà nói, còn gì mà nghe. Bộ tôi nói không đúng sao!

- Ông chẳng chết chìm, Bá lên tiếng, thì cũng chẳng nói chẳng nghe được. Rõ là dốt mà thích chen vô phá đám. Tôi thử hỏi ông, muốn ra khỏi giòng sông sinh hóa khi chưa tới bến bờ chỉ còn nước trốn lánh bằng cách tự tử chứ trực thăng, trực giáng đâu cho ông leo lên. Mà có lẽ ông nói cũng đúng phần nào, chỉ có trực giáng. Thế là cả bọn phá lên cười. Suốt mấy tiếng đồng hồ Bá không hề hé miệng đàm luận dẫu những lúc nói diễu hắn đấu hót không ngưng nghỉ. Cụ Tài hơi ngạc nhiên về câu nói của Bá, thầm nghĩ sẽ hỏi thử xem nhận định luân lý của anh chàng này ra sao.

- Tại sao anh Bá không chấp nhận có đột biến nơi giòng sinh hóa?

- Thưa bác, nếu có gì được gọi là biến đều phải có diễn tiến cách nào đó tạm gọi là nguyên nhân hay cái lý của sự việc. Đàng này, không có nguyên nhân diễn tiến mà cắt ngang cơ hội sinh hóa tức là phá hủy hành trình thăng tiến của tâm thức. Cháu nghĩ, xét theo phương diện lợi hại, tất cả những điều gì thuận lợi cho sự thăng tiến tâm linh là thiện và bất cứ gì ngăn cản sự thăng tiến tâm linh đều là ác; bởi nơi cuộc sinh tồn nhân loại, sống chết là lẽ thường vì đã có sinh ắt phải có tử và chỉ những gì không sinh mới không tử. Nhìn về diễn tiến nơi giòng sinh hóa, thân xác được coi như con đò, mà hồn hay tâm thức nhờ vào đó xuôi theo hay ngược giòng, thì những gì con đẻ của vọng tưởng làm phương hại tới hành trình kiến tính đều phản nghịch lại sự hiện hữu của mình phải được coi là ác.

- Thế anh nghĩ gì về những chiều hướng đúng, sai, đối đãi nơi luân lý?

- Cháu chỉ nói quan niệm cá nhân, thực ra, chẳng có gì làm điểm tựa chung ngoài tâm linh để xét về luân lý, và cháu cũng không chấp nhận đa số thắng tiểu số nên không thích lên tiếng những khi có người luận đàm. Nhìn vào thực tại cuộc đời, biết bao những vấn đề tốt lành, cả thể, nào có bao giờ chúng ta để ý hoặc có những hành động nào đó thực hiện hay cổ võ. Lý do rất dễ hiểu; vì những vấn đề tốt lành đó chẳng có gì liên hệ đến cuộc đời mình. Tuy nhiên, lắm thứ xã hội cấm cách này, ngăn cách khác mà ai nấy cứ chờ cơ hội hở ra là hí hửng vi phạm, miễn sao không bị bắt quả tang. Rõ ràng chúng ta phạm pháp nhưng lương tâm không cắn rứt; thực hiện điều được gọi là sai theo luân lý mà lòng ruột thực sự thanh thản thì nghĩa là sao? Thế mà, chỉ một câu nói mất lòng người khác, cả tuần, có khi cả tháng ăn năn vẫn không quên lòng ân hận. Như vậy, cháu thấy luật lương tâm nơi mỗi người mang giá trị tuyệt đối nơi người đó, trong khi lương tâm mỗi người hình như cũng có phần nào khác biệt với những người sống đồng thời.

- Tôi hiểu điều anh muốn giãi bày. Luật lương tâm mà anh nhắc tới chính là quan tòa tối thượng xét xử thiện ác nơi mỗi người. Theo nhà Phật, con người bao gồm hai thành phần cực độ: một thể xác hữu hình, ô trọc, và vô thường tiêu biểu cho cái mực độ cuối cùng trong sự đi sâu vào lịch trình hiện tượng hóa, một thành phần tâm linh huyền diệu, thường tịch và thuần nhất, bắt nguồn thẳng nơi thực thể tuyệt đối. Ở giữa hai cực độ đó, là cả một hệ thống những cảm giác dục vọng, tình tự, tư tưởng mà ta thường gọi là cá tính của mỗi người (XDNSQ; Tr.36-37). Đời người là một giai đoạn cho thực thể tâm linh tiếp tục trong hành trình thăng tiến của nó. Nói như vậy, cuộc sống hữu hình là một cơ hội lớn lao bao gồm những cơ hội nhỏ; đó là những sự kiện, sự việc xảy ra trong đời người. Biết sử dụng những cơ hội này hay không tùy thuộc sự thức ngộ tâm linh của cá thể trong giòng sinh hóa vĩnh cửu. Và như vậy, bất cứ hành động, ý nghĩ, tư tưởng nào ngăn cản hoặc làm hại đến hành trình thăng tiến tâm linh đều được coi là ác; sự ác nặng nề nhất vì chúng cầm buộc tâm hồn con người nơi cõi vô minh. Đó cũng là lý do tại sao chúng ta cần mở rộng tâm hồn để học hỏi. Tôi hơi lấy làm lạ khi anh Bá phân tích về mấy chữ trực thăng, trực giáng; đến khi anh nói về luật lương tâm, tôi lại thấy rõ hơn sự vi diệu của diễn trình tâm linh con người. Chính tôi đã bao năm bị suy tư luân lý làm khốn khổ; bởi suy nghĩ thì hợp lý hợp tình nhưng khi đem áp dụng nơi cuộc sống không thể được. Thế mới biết con người là một thực thể chẳng những khá phức tạp; đồng thời giòng sinh hóa hay cuộc sống con người ngụp lặn trong ấy lại còn phức tạp hơn. Tuy nhiên, không muốn sống thì chúng ta đã đang sống, ngược lại, trốn chạy cuộc sống dù bằng cách nào cũng đều là hèn nhát, và chắc chắn đang thực hiện điều ác tối thượng; chỉ còn một giải pháp duy nhất là trực diện.

- Thưa bác, dẫu sao, con người mang đầy tính chất giới hạn trong khi thực tại lại quá phức tạp, cháu nghĩ, cho dù vùng vẫy cách mấy chân con người cũng không bước bên trên mặt đất dẫu chỉ nửa phân. Như vậy, phỏng ước vọng giải thoát chỉ là mộng tưởng? Đàng khác, nói theo nhà Phật, ý niệm cũng chỉ là vọng tưởng, phương chi ước vọng giải thoát. Thêm vào đó, con đường tâm linh, như bác nói, lại quá mịt mờ. Chẳng lẽ đành phải quay lại chấp nhận buông xuôi cho qua kiếp người.

- Tôi muốn dùng quan niệm hành xử sự việc của cụ Lê Quý Đôn; may ra phần nào có thể trả lời về phương diện kiếm tìm đường lối trực diện thực tại. Trong cuốn Vân Đài Loại Ngữ, cụ viết, “Cái khéo của thánh nhân xưa là biết dựa theo vào cái sẵn có của con người mà uốn nắn, thêm bớt, cắt xén để xếp đặt cho mọi việc đều đi đến thành tựu. Bậc quân tử trước làm, bậc quân tử sau theo, cách vật và trí tri là thế, góp mọi lý lại để ứng phó với muôn việc và muôn vật là thế. Như vậy, không phải là vu vơ theo ngọn ở ngoài mà không tìm đến gốc ở trong. Nếu vật gì, việc gì cũng đòi xét cho đến cùng đến đủ thì chẳng khác vì đường nhiều lối thành nỗi mất dê vậy” (VĐLN; Tr.30). Anh em nghĩ thế nào?

- Tuyệt, Bá lên tiếng, cổ nhân nói gừng càng già càng cay, cay nhưng có lý.

- Có lẽ anh Bá bắt được điểm giao hợp giữa tâm linh và cuộc sống.

- Thưa bác, bác nhắc lại mấy câu nói của cụ Lê Quý Đôn khiến cháu chợt nhớ tới lời giải thích quẻ Bỉ về thái độ người quân tử nơi thời buổi nhiễu nhương do những kẻ tiểu nhân nắm quyền bính. Bá ngưng ngang trong lúc mọi người đang để ý nghe.

- Tiếp tục, Sỹ nhà con lên tiếng. Câu Bá trả lời mang tính chất thách đố suy tư vì chưa ai bắt được đầu mối liên hệ giữa câu nói của cụ Lê Quý Đôn và câu trả lời của Bá khiến miệng lưỡi nhanh nhẩu như Sỹ nhà con cũng không mò ra gút mắc nào hầu phá ngang do đó hắn kéo dài hai tiếng “tiếp tục” và chờ đợi. Thế mà Bá vẫn chưa chịu nói, hình như có điều gì khiến hắn bận tâm suy nghĩ không để ý đến những người chung quanh.

Đưa tay ra hiệu mọi người nên im lặng, độ chừng ít chục giây sau, cụ Tài lên tiếng,

- Có phải anh Bá đang liên kết lời khuyên nơi quẻ Bỉ, với ý tổng kết quan niệm đức lý của kinh Dịch, nhận định của Trang Tử, và nếu tôi không lầm, thêm vào đó lời Kinh Thánh?

- Thưa bác đúng vậy nhưng cháu chưa nghĩ được tới lời Kinh Thánh.

Sự đối đáp giữa một già, một trẻ qua vài câu nói bâng quơ có mãnh lực thu hút những người hiện diện khiến ai cũng để tâm chú ý nghe. Họ ngạc nhiên vì xưa nay Bá không thích bàn luận về những vấn đề được mọi người coi là trọng đại mà có chăng chỉ tham dự vào những câu chuyện diễu vô thưởng vô phạt. Hắn không phê bình, chẳng nhận xét, chẳng cho bất cứ gì là đúng, mà cũng chẳng chấp nhất những gì bị mọi người kết án là sai. Vô tình lỡ nói câu gì bị anh em hùa nhau lên án phải quấy, hắn nhẹ nhàng đưa lời xí xóa chấp nhận, “Thì cuộc đời mình sai đã nhiều rồi, có sai thêm chút nữa đã đụng đến lông chân ai đâu.” Hoặc, “Là người lẽ đương nhiên luôn luôn sai lầm. Không sai, ắt không phải là người.” Đôi khi, hắn còn có lối nói quá quắt nhưng không ai bắt bẻ được bởi giọng điệu thật nghịch thường, “Tôi còn không biết tôi nói gì thì làm cách nào ông có thể biết được tôi nói gì. Cứ coi nó là sai, dẫu không sao thì đã có trăng.” Xưa nay hắn hiền hòa, diễu cợt, ấy vậy, chỉ mới vài câu nói qua lại với cụ Tài đã khiến thiên hạ rối mù.

Nghe Bá trả lời thế, cụ Tài tiếp,

- Nơi Kinh Thánh có câu, “Này Ta sai các ngươi đi như chiên vào giữa sói; hãy ở khôn như con rắn, và chân thực như chim cu” (Mt. 10:16).

- Thưa bác, sao lại chim cu? Tùy con chợt chen vô, phải là chim câu chứ, Kinh Thánh viết như thế mà!

- Anh nói đúng. Tuy nhiên, đó là nơi bản dịch của Nguyễn Thế Thuấn được viết như vậy. Rõ ràng hơn, cuốn Tân Ước mới phát hành năm 1994 tại Việt Nam chép rằng, “Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu.” Nơi phần phụ chú của cuốn này giải thích vì “Rắn có tài tránh nguy hiểm và luôn luôn giữ cái đầu cho khỏi bị đánh. Người môn đệ đừng để mình bị lọt vào tròng của những ông tiến sĩ giả, nếu cần thì phải tránh đụng độ với họ. Tuy nhiên, vẫn phải giữ tâm hồn và thái độ đơn sơ hiền hậu như bồ câu, loài chim hơi nghe tiếng động là bay và vẫn được coi là vô hại” (TƯ; Tr.90). Đàng khác, nếu anh em lật những cuốn Kinh Thánh bản dịch tiếng Mỹ đều được dùng chữ “Doves,” một loại chim giống như cu đất nơi Việt Nam chứ không phải chữ “pigeon” dẫu “pigeon-hearted” có nghĩa là nhút nhát. Anh em thấy chim bồ câu nhát nhưng đâu hiền lành gì mà chim cu mới hiền lành. Tôi không theo Thiên Chúa giáo, sở dĩ tìm tòi chỉ vì thấy câu Kinh Thánh không hợp với thực tế nên phải tìm cho ra. Tôi nghĩ, anh em nên đặt vấn đề tự tìm hiểu cho mình vì đó là khởi đầu cho sự minh triết. Đâu phải đơn giản mà nhà Phật đặt vào miệng đức Thích Ca lời khuyên không nên tin những gì ngài nói.

- Thưa bác, phải như vậy mới hợp lý. Đã lâu, cháu không thể nào hiểu được câu Phúc Âm này vì cháu không thể nào dung hòa được con rắn và chim câu trong cùng một người. Con rắn độc hại thì được gọi là khôn ngoan; chim câu nhút nhát, không phải, chim cu mới đúng, đôi khi bị mấy con sẻ tranh ăn mà không dám mổ lại còn tránh đi nơi khác thế mà cho là chân thực. Cháu không thể ngờ, sự khôn ngoan hình như đã được trãi rộng nơi mọi dân tộc. Như thế thì, giọng Bá ngập ngừng, có thể nói kinh sách đạo học dùng mọi hình thức, mọi sự việc làm phương tiện trình bày nghiệm chứng tâm linh được gọi là sự khôn ngoan để rao truyền diễn trình thức ngộ hay tu chứng. Như vậy, có thể câu nói nơi Kinh Thánh, “Chính để phán xét mà Ta đã đến trong thế gian, ngõ hầu kẻ không thấy thì được thấy, và kẻ thấy được lại hóa đui mù!” (Gioan 9:39) mang nghĩa ám chỉ về nhận định cảm nghiệm tu chứng, nếu cháu không lầm.

- Tôi không ngờ anh đã đạt tới trình độ tổng hợp bao nhiêu năm suy tư của tôi trong sự so sánh các đạo học dẫu tuổi đời anh còn quá trẻ. Thế năm nay anh bao nhiêu tuổi?

- Thưa bác, cháu cũng có tí tuổi rồi ạ, những bốn mươi mốt rồi đấy.

- Anh còn trẻ chán. Tuổi đời mới chỉ bằng hai phần ba thời gian tôi suy tư mà anh đã đạt tới sự tổng hợp ấy tất nhiên tôi đã quá lỗi thời. Để tôi nhắc thêm một câu nói cũng của cụ Lê Quý Đôn thử xem anh em nghĩ thế nào. Cụ hắng giọng, đoạn chậm rãi từng tiếng, “Trước nghĩ thế này là không phải, sau nghĩ thế khác là phải thì bỏ điều trước mà theo điều sau. Kiến thức của mình sai, lời nói của người ta phải thì bỏ cái của mình mà theo ý người. Không cố chấp thành kiến, không che giấu lỗi mình; cứ phải thì theo, như lăn hòn tròn thế gọi là chuyển viên” (VĐLN; Tr.410).

- Thưa bác, mới nghe thì giống như dạy người ta trở nên ba phải, thuận gió phất cờ. Nhưng nghĩ kỹ lại, đó là thái độ của kẻ thông đạt, không lập giới hạn, không bào chữa, che giấu, lấp liếm, mà minh triết, sáng suốt. Như vậy, tất nhiên hàm chứa đức liêm chính và một ý chí cũng như lòng tự tin sắt đá. Có thể nói, đối với người như vậy, điều đã được nghiệm chứng là phải thì dù muôn người cũng không lay chuyển nổi với bất cứ điều kiện nào.

- Giải thích như thế có lẽ anh hiểu được lý do tại sao đức Thích Ca khuyên đệ tử không nên vội tin những gì ngài nói mà cần suy nghĩ, thực chứng đến khi nào thấy đúng, thấy hợp mới nên theo. Tuy nhiên, để tóm tắt những gì bàn luận nãy giờ, chúng ta thử tổng kết vài nhận định đã được đề cập tới. Anh Sỹ, anh thích nói giai, nói dài, vậy anh thử nói xem sao, đừng nói dại là được. Cụ Tài lây lối nói diễu của nhóm người trẻ, đưa ra đề nghị.


- Thưa bác, Sỹ đằng hắng lấy giọng ra bộ trịnh trọng, điểm chính yếu bác nói là sử dụng tự do tuyệt đối bằng cách nghịch luận để có được nhận định đúng đắn về mọi phương diện. Thêm vào đó, sự nhận thức chân thành phải được áp dụng nơi chính con người của mình, nhận ra mình thế nào, tìm hiểu cho đến tận cùng thực thể mình là ai. Từ đó, bản chất thực của một con người được phô diễn. Con người không phải chỉ là xác thân rắc rối hiện hữu trong một giai đoạn thời gian mà còn có phần tâm linh huyền diệu; cả hai quấn quyện không thể phân tách dù chỉ bằng ý niệm. Dầu thế vẫn có thể nói, thân xác chỉ là phương tiện, hay cơ hội cho hồn tiếp tục hành trình tâm linh nơi giòng sinh hóa vĩnh cửu. Như vậy, sự nhận thức của con người đóng vai trò tối quan trọng trong hành trình thăng tiến tâm linh giữa thực tại cuộc đời quá ư phức tạp. Vì thế, con người cần biết mở rộng lòng đón nhận và nghiệm xét sự vật và sự việc một cách rốt ráo chứ không theo thói quen chấp nhận dựa trên lối nhìn phiếm diện đối đãi. Sự nhận định phải được đặt trên căn bản lương tâm chân thành và một tâm hồn khát khao lẽ phải. Và như vậy, đối với bất kỳ vấn đề gì, không nên vội tin hay vội cho là đúng cho tới khi sự khôn ngoan được chính mình nghiệm chứng. Có điều, nếu ai đồng hoặc bất đồng ý kiến với những gì tôi vừa tổng kết, nên dành giờ nghiệm chứng trước khi phát biểu.

- Đúng là nói giai, nói dài, nói dại. Phủ lên tiếng ngay khi Sỹ ngưng nói.

- Ông chưa nghiệm chứng sao đã dám vội nói, Sỹ đặt vấn đề.

- Nói dại đâu cần nghiệm chứng. Nếu đã nghiệm chứng sao có thể nói dại.

Thế là Sỹ hùng hổ thách thức,

- Ông thử tổng kết xem có dại hơn không?

- Nếu đã không nên vội tin hay vội cho là đúng bất cứ điều gì mà cần tự nghiệm chứng thì chỉ cần nói, nghiệm chứng mọi sự (1Thes. 5:19), là đủ. Xét như vậy, không nói dại, nói giai, nói dài, nói thừa, nói thãi, nói vãi ra những điều không cần nói thì nói chi?

- Ơ! Chú nói có lý. Không ngờ tớ nói dại mà không biết mình nói dại. Sỹ nhà con thái độ bỗng điềm nhiên chấp nhận mình nói dại khiến Phủ cụt hứng và làm cho mọi người ngạc nhiên. Ngữ này có bao giờ để lỡ cơ hội đấu hót tạo niềm vui, thế mà dám tự nhận nói dại.

- Ngày mai tôi phải lo chống nhà. Bá nói bâng quơ, lạc đề.

- Chú nói sao? Sỹ chụp cơ hội hỏi không kịp để Bá nói hết câu.

- Dạ thưa, với điệu bộ giả nghiêm trọng, Bá chậm rãi, vì ngày mai sẽ có cơn giông rất lớn, chào mừng kẻ đạt tới trình độ thức ngộ biết mình nói dại.

- Biết mình dại tức là minh triết. Dĩ nhiên, sự hiểu biết này làm rúng động muôn cõi, thì cơn giông phát sinh là lẽ thường. Sỹ nhà con học theo ngôn từ nhà Phật cố vớt vát thế yếu của mình.

- Khi đã biết mình dại dẫu khóc lóc nghiến răng thì cũng chẳng còn răng để mà nghiến sao có thể rúng động muôn cõi. Cuộc đời nhiều lúc oái oăm, không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu.

- Thì tớ đã nhận mình nói dại sao chú mày vẫn cố tình tấn công.

- Ai mượn ông dám lạm dụng danh từ nhà Phật để bào chữa cái dại, cái dốt. Nói như ông, chẳng lẽ kẻ nào lỡ dại một giờ cũng rúng động muôn cõi?

- Chú nói gì? Sao có thể dại được tới những một giờ!

- Một giờ thì ăn nhằm gì! Cổ nhân đã nói dại quanh năm là đàng khác!

Sỹ nhà con chợt như ngồi phải lửa.

- Chú mày ăn nói láo lếu, dám ví tớ với loài chó!

- Chính ông vừa nói! Thôi, thôi, ông làm ơn khép cái mỏ lại kẻo chẳng khảo cũng xưng; bởi chỉ những ai có tật mới giật mình. Không nói nào ai biết mình thế nào. Ngược lại, càng nói chỉ càng lạy ông con ở bụi này, hoặc vạch áo cho người xem lưng thì dẫu cố bào chữa hoặc che giấu đến mấy vẫn bị lòi đuôi.

Không hiểu sao miệng lưỡi Bá lúc này quá quắt, dồn Sỹ vào đường cùng. Chỉ có một chữ dại, hắn dùng tục ngữ bắt qua, bẻ lại ám chỉ so sánh sự dại dột do nói nhiều với loại có đuôi.

- Yêu cầu trọng tài ra lệnh đình chỉ bàn chuyện riêng tư giữa chốn công cộng. Phủ lên tiếng.

- Hai chú tạm thời bỏ qua để nghe cụ nói về nhà Phật.

- Thời giờ kể cũng đã muộn, anh em làm ơn để tôi tóm tắt một vài điểm cần thiết trước khi tổng kết nghiệm chứng nhà Phật.

- Thưa bác, lúc trước Hưng nhắc tới… hư vô.

- Những người phiên dịch kinh sách nhà Phật bị khuyết điểm là dùng quá nhiều Hán tự; đồng thời ý nghĩa văn từ được dùng lại lệ thuộc sự hiểu biết hoặc ám định riêng của tác giả trước tác nên khiến kẻ hậu học cảm thấy như rợ vào rừng. Có thể chúng ta phải đợi cho tới khi nào có người phân định, so sánh, và tổng hợp kinh sách nhà Phật để trình bày những căn bản cũng như đường hướng thiết yếu giúp đa số quần chúng ít lợi căn tu chứng chăng. Chẳng hạn như anh Tùy vừa hỏi về “hư vô.” Ngôn từ này dĩ nhiên nơi tiếng Hán, và nhà Phật hay dùng. Thực ra, Hư Vô, Vô Cực được dùng bởi đạo gia Á châu. Đó là một quan niệm trọng đại về thực thể tuyệt đối bất khả tư nghị. Chữ “Vô” được dùng trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử từ thế kỷ thứ V trước Công Nguyên (DKYC. Tr.139). Hư vô không có nghĩa là hư không, hư ảo mà là quan niệm cao siêu nhất về Tuyệt Đối Thể, về Thượng Đế. Hư Vô trong Phật học cũng có nghĩa là Chân Như, Phật tánh. Xét thế, đạo gia gọi là Hư thì Phật gia gọi là Không. Hư Vô không thể đặt tên được vì con người không thể nào hiểu biết bằng lý trí về Thực Thể Tuyệt Đối, hay Quyền Lực Cội Nguồn Hiện Hữu phát sinh mọi sự. Đó là lý do tại sao kinh Kim Cang có câu: “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm.” Câu này có nghĩa: tìm nơi không nương dựa mà sinh tâm. Lão học gọi là Tào hoặc là Vô Vi hoặc là Đơn, được dịch là Đạo tức Bản Thể của trời đất muôn vật. Còn nhiều danh xưng khác nữa, nhưng mỗi danh xưng đều chứa đựng quan điểm chỉ về Tuyệt Đối, Chân Như, hoặc Thượng Đế, hoặc Cội Nguồn Hiện Hữu. Thần Hội, một Phật gia, tìm ra Tuyệt Đối trong thâm tâm nhờ nhận định rằng có tư tưởng tức là đã nhập vòng sinh diệt, sắc tướng, nhưng tư tưởng là ứng thân do Pháp thân, tuyệt đối thể nơi mọi người phát sinh. Tuy nhiên, Tuyệt Đối Thể thì tịnh tịch dẫu cho ta hoạt động, suy nghĩ thế nào, và như vậy, vô niệm là căn nguyên cho hữu niệm. Tìm ra được vô niệm tức là thấy được Pháp thân, Phật tánh, Tuyệt Đối, Vô Cực, Hư Vô. Anh em nhớ kỹ điều này và đó là khi nghe nói về Phật học hay đạo học, những ngôn từ được dùng mang ý nghĩa đặc biệt. Nếu anh em nghe thấy vô lý hay hơi chướng tai cũng đừng vội nhận định mà nên cố gắng tìm hiểu hay hỏi cho rành rẽ nhất là đối với những công án. Luận về đạo học, những phát biểu đều từ nghiệm chứng hay cảm nghiệm; mà ngôn từ chỉ là tạm dùng nên thường đối nghịch với những nhận thức lý trí. Và như vậy, những ai chưa có căn bản nghiệm chứng mà đã vội phán đoán thì chẳng khác gì xẩm rờ voi.


- Thưa bác, Tùy con lòng dạ dường như có vẻ xốn xang nên ngắt ngang lời cụ Tài, như vậy sao có thể giúp mọi người thức ngộ?

- Các bậc đạo gia tối kỵ truyền bá cảm nghiệm; bởi có thể những kinh nghiệm qua hành trình nghiệm chứng đã giúp họ nhận thức được rằng đối với những kẻ còn đang mê muội trong vòng vô minh thế tục thì dẫu có giảng giải thế nào chăng nữa cũng vô ích, có chăng chỉ giống như dạy thằng yếu đánh vật. Xét về phương diện này, khuynh hướng chính của Phật học không vụ vào việc tổ chức cuộc nhân sinh trước mắt, và tương tự như Lão, chỉ coi kiếp người như một giai đoạn bất đắc dĩ phải chấp nhận trong hành trình mênh mang của sự vật. Trọng tâm của Phật học đặt vào sự giải thoát tâm linh con người, coi nhẹ phần tổ chức nhân sinh, thu gọn vào một mực độ tối thiểu khiến con người có thể dễ dàng giải thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề tham vọng thế tục mà đạt tới sự thức ngộ tâm linh. Giáo lý uyên nguyên của đức Thích ca chỉ gồm có tứ diệu đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, và thập nhị nhân duyên. Nền giáo lý đó chỉ giảng giải về căn nguyên sự khổ, về cách thức cấu tạo nên sự phiền não để dạy mỗi người nên dùng nghị lực của mình tu luyện nơi nội tâm mưu cầu giải thoát (XDNSQ; Tr.33).

- Thưa bác, đã mưu cầu sao có thể giải thoát, Hưng im lặng đã lâu giờ mới lên tiếng.

- Nơi đây tôi nói theo lối thông thường vì ai làm việc gì mà không có chủ đích. Thực ra, tu chứng hay nghiệm chứng nhà Phật thực sự không có chủ đích; vì nếu có chủ đích vẫn còn lệ thuộc ý niệm, vọng tưởng bởi vậy được gọi là chứng Cái Không. Chính câu nói nghiệm chứng này đã sinh muôn vàn hiểu lầm cho những người muốn tìm hiểu Phật học bằng kiến thức.

- Thưa bác, nếu không có chủ đích thì đâu cần cố gắng mà chỉ sống cho qua, được sinh ra để sống thì cứ sống.

- Tôi vừa nhắc tới, anh đã bị ngôn từ nghiệm chứng nhà Phật làm đảo điên. “Chứng Cái Không” thường bị hiểu lầm là không cần chứng mà chứng lại cần cố gắng, vẫn quanh quẩn với vọng tưởng hay ước muốn. Nhà Phật dùng ngôn từ “Chứng Cái Không” có nghĩa nghiệm chứng Thực Thể Tuyệt Đối, Hư Vô bất khả tư nghị nơi mỗi người. Thực thể này không thể nghĩ bàn, nên được gọi là “Không.” Không ở đây chính là không thể dùng lý trí suy luận, không thể đem sự hiểu biết diễn giải, chẳng khác gì câu nói của Thomas Aquinas, “Thượng Đế mà có thể hiểu được, nghĩ tới được thì không phải là Thượng Đế.” Trong Lão học cũng có nói, “Tào khả Tào phi thường Tào.” Đây là mục đích cho nghiệm chứng vì nghiệm chứng là hành trình đạt tới hòa hợp với Thực Thể Tuyệt Đối. Thực thể không thể nghĩ tới hay bàn luận, chỉ có thể nói được những gì không phải, chứ không thể nào nói gì về thực thể đó được. Một số Phật gia muốn dùng ngôn từ đơn giản giảng giãi cho giới bình dân nên gọi tắt là “Cái Không.” Anh em nên để ý, hai tiếng “Cái Không” nếu được viết trong sách phải được viết hoa vì đó là Thực Thể Tối Thượng, chẳng phải là không có gì.


Từ lúc cụ Tài nhập cuộc, ông Thung để ý ghi nhận từng câu cụ giải thích hoặc đối đáp với mọi người. Càng nghe, ông càng ngạc nhiên về thái độ hiền hòa, cởi mở cũng như nhận thức rộng rãi có thứ lớp của cụ. Những lời cụ nói hình như được sắp xếp để chuẩn bị cho vấn đề nào đó vẫn chưa lộ diện. Đang trả lời về những đặc điểm tông phái nhà Phật, cụ lái câu chuyện qua nhận thức bản chất và vị thế con người trong giòng sinh hóa, khởi nguồn từ sự khuyến khích dùng nghịch luận để phát triển tự do suy tưởng, dẫn tới trạng thái không chấp nhận, không vội tin tất cả những gì chưa được nghiệm chứng. Thái độ nhận thức này đòi hỏi sự dứt khoát với tất cả các lề lối suy tư, không lệ thuộc những quan niệm, chiều hướng tư tưởng đã sẵn có, không dựa trên bất cứ căn bản nào mà hình như chỉ cần lao mình vào nghiệm chứng. Như vậy khi thực hành nghiệm chứng, con người dĩ nhiên đơn độc. Nhưng phương pháp, đường lối nào? Đâu là mốc khởi đầu? Hưng nói về điều kiện rốt ráo nhà Phật là kiến tính nhưng không thể nói phương pháp thực hiện. Nghĩ thế, ông quyết định hỏi cho rõ ngọn ngành. Vì ngồi gần bên, ông quay sang cụ Tài, giọng nhỏ nhẹ,

- Thưa cụ, ông Thung không gọi cụ Tài bằng bác mà dùng danh xưng “cụ” mang đậm nét tôn trọng, nếu không nên vội tin hoặc vội cho là đúng những điều kinh sách ghi lại, ngay cả lời dạy của đức Thích Ca, mà cần nghiệm chứng thì đâu khác chi Lục Tổ Huệ Năng đã nói, “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự!” Đàng khác, nói như cụ và anh Hưng thì nghiệm chứng sao có thể giải thích mà đã không giải thích được thì sao có văn tự nào diễn tả bởi “Ngữ bất tận ngôn và ngôn bất tận ý.” Theo thiển kiến, qua nhận định về Phật học, cụ và quý anh em đàm luận, nghiệm chứng được phát triển trong hành trình tu chứng. Tuy nhiên, tu chứng cần căn bản thực nghiệm nào đó, hình như kinh sách nhà Phật không nói tới trong khi sự bàn luận chỉ loanh quanh luẩn quẩn ở những kết quả thực chứng của các tổ thiền, hoặc suy luận giải thích của các nhà trước tác, biên khảo, mang đầy tính chất duy lý. Như vậy, còn cố gắng suy gẫm, giải thích thì vẫn còn lệ thuộc ý niệm. Kinh sách nhà Phật và những sự giảng giải chỉ nói về nghiệm chứng, tu chứng mà không nói tu chứng như thế nào để có thực chứng. Thế nên vấn đề bế tắc vẫn là phải làm gì để gạt bỏ được ý niệm; đâu là phương pháp thực tiễn áp dụng khởi đầu tu chứng thì chưa thấy ngong ngách nào tạm gọi ứng dụng được. Ngồi trước bữa ăn thịnh soạn mà không biết làm sao để đụng tới món ăn nào đâu khác chi tốn giờ đi xem hàng mẫu chẳng được phép mua. Tu chứng mà ý niệm, vọng khởi vẫn ngập tràn nơi tâm trí phỏng ích gì. Làm sao cho con ngựa chứng tâm trí khỏi chứng, khỏi xoay mòng mòng hoặc phiêu diêu nơi thế giới ý nghĩ? Sao không thấy tổ nào nói tới mà chỉ lặp đi lặp lại biệt truyền, nghiệm chứng, kiến tính, Phật tính, chẳng khác gì các món ăn hấp dẫn nhưng vô bổ, giả tướng. Ai không lặp lại được câu kiến tính thành Phật! Ai không biết điều kiện muốn kiến tính phải nghiệm chứng, tu chứng! Ai không biết kinh sách trình bày thực chứng của sự thức ngộ! Vậy điểm khởi đầu cho tu chứng phải thực hành ra sao, cụ có thể nói cho anh em biết được không?

- Nhận xét của ông rất đúng. Chính điểm này đã làm tôi lần mò hơn hai mươi năm trời. Đọc sách nhà Phật, cùng lắm thì chỉ được giải thích về hành trình quán tưởng theo phương pháp chứng nghiệm điều người khác đã nghiệm chứng. Nói theo Lê Quý Đôn có nghĩa tránh mất dê bởi cố gắng tìm đầu mối. Tuy nhiên, còn quán vẫn còn phiền vì quán tức là suy nghiệm đến tận cùng của sự vật hay sự việc cũng như ý niệm. Thực ra, kiến tính không cần phải quán. Cho dù quán không, quán vô thì vẫn còn lệ thuộc quán; bởi Chân Như, Thực Thể Tuyệt Đối không thể hiểu, không thể biết, không thể cảm được vì biết được, cảm được, hiểu được, tức không phải Tính mà chỉ là pháp. Trạng thái này Lão học diễn tả nơi câu nói bất cứ ai mới chợt nghe cũng đều cho là không tưởng, “Không làm gì là làm tất cả.” Trải qua thời gian khá lâu tìm tòi, tôi mới biết điểm khởi đầu của tu chứng thực nghiệm được gọi là định tâm. Những kinh sách nhà Phật mà tôi có cơ may đọc qua được viết rất mù mờ hoặc giải thích tầm quan trọng của định tâm được gọi với những văn từ khác; chẳng hạn hàng phục tâm, diệt niệm, diệt dục, an trụ tâm, nhưng không chỉ cách định tâm thế nào, hoặc có chăng lại khuyến khích quán tưởng; tuy nhiên, thường thì ý chính lại nói về niết bàn, trạng thái ý niệm vô sanh vô diệt, gọi tắt là vô niệm. Có thể nơi kinh điển cổ có nói mà tôi không có duyên để đọc chăng.

- Thưa bác, bộ óc dùng để suy nghĩ, nghiệm chứng mà định tâm thì sao có thể nghiệm.

- Anh em nên biết thêm điều này, đó là Phật học bắt nguồn từ mảnh đất phát triển Ấn học chứ không phải tự nhiên mà có đức Thích Ca giác ngộ nơi gốc cây bồ đề. Đàng khác, khi Phật học không thể phát triển được ở Ấn Độ vì hệ thống tổ chức quá vững mạnh của Ấn giáo; nên Trung Hoa mới là mảnh đất mầu mỡ cho Phật học phát triển. Thêm vào đó, trong tiến trình phát triển tại Trung Hoa, Phật học du nhập thêm một số quan niệm tâm linh từ Lão, Trang. Như thế có thể nói, người nào thiếu nhận thức Ấn học và Lão học, không thể nào hiểu nổi Phật học. Đã có người cho rằng Phật học vốn là một cuộc cách mạng muốn cải tổ lại chế độ xã hội thời bấy giờ tại Ấn Độ đang bị áp đặt nặng nề của tổ chức Ấn giáo. Khoảng cuối thế kỷ thứ VI trước dương lịch, nền Ấn giáo truyền thống đã đào tạo xã hội thành một chế độ chỉ đạo chặt chẽ bởi đẳng cấp Bà La Môn. Những lễ nghi được đặt ra càng ngày càng thêm phiền toái và nghiêm ngặt vì quá vụ về hình thức; các giáo điều được áp dụng theo nghĩa đen một cách cứng nhắc tạo nên hố phân chia giữa các đẳng cấp ngày thêm rõ rệt, cách biệt. Vì thế đức Thích Ca đã đứng lên đề xướng một phong trào cách mạng trong tôn giáo và xã hội. Có thể nói cuộc cách mạng đó là một cuộc cách mạng nhân bản và nhân chủ. Nhân bản ở chỗ đã tuyên bố tất cả mọi người đều chung một bản chất, cùng hàm chứa một tâm thể, và như thế cùng có giá trị ngang nhau. Sự chấp nhận bình đẳng này là một sự chống đối chế độ xã hội đẳng cấp của Ấn giáo (XDNSQ; Tr.34). Sự định tâm tôi muốn nói mang tính chất thực hành, bước đầu của nghiệm chứng, chứ không lệ thuộc ý nghĩa của ngôn từ. Đây là kinh nghiệm thực hành rút tỉa từ Yoga nơi Ấn học.

 

- Thưa bác, nếu không được giải thích sao có thể thực hành.

- Sự thực hành định tâm không giống như hành động ráp nối bộ phận chiếc máy xe hoặc cái bàn, chiếc ghế, mà mang thêm tính chất thực nghiệm. Nếu anh em muốn thử, hãy thử, chỉ thử mới biết vì dẫu giải thích đến mấy cũng vô ích.

- Thưa bác phải làm gì để thử? Cần những điều kiện gì? Ngay bây giờ hay phải đợi đến khi nào?

- Không cần điều kiện gì, và ngay bây giờ cũng được. Vấn đề chỉ là anh em muốn thử cho biết hay không mà thôi.

- Ai không đồng ý yêu cầu giơ tay! Tùy con nhanh miệng. Tụi cháu hoàn toàn đồng ý, xin bác ban lời. Chưa ai kịp quyết định giơ tay hay không, hắn đã vội lên tiếng e có người bất đồng ý kiến.

- Anh Tùy hơi ép buộc anh em, nhưng chuyện cũng đơn giản thôi; anh em chỉ cần theo đúng những gì tôi nói là được. Nào, chúng ta bắt đầu! Anh em sửa thế ngồi cho thật thoải mái, ngồi thế nào cũng được, đoạn nhắm mắt lại. Kể từ giờ phút này, anh em giữ nguyên thế ngồi, không động đậy. Hãy để ý đến ngón cái chân phải, anh em cảm thấy nơi đó ra sao; tiếp tục tới ngón giáp ngón cái bên phải, ngón giữa, ngón thứ tư, ngón út, gan bàn chân phải, mu bàn chân, bắp chuối phải, đầu gối, đùi phía sau, phía trước. Giọng cụ Tài trầm trầm, cách quãng, dẫn tâm trí người nghe thực nghiệm cảm giác từng phần của cơ thể, tai bên trái. Chúng ta nghiệm lại từ đầu, ngón cái chân phải, ngón kế tiếp, ngón giữa, tai bên trái. Bây giờ chúng ta để ý nghe những tiếng động đang xảy ra chung quanh. Chỉ nghe mà thôi, không cần biết tiếng gì và do đâu phát ra. Tiếng vù vù, tích tắc, réc réc, ào ào, lẹt quẹt, Ngưng nghe, để ý tới cảm giác nơi ngón chân cái bên phải, ngón kế tiếp, ngón giữa. Cụ Tài dẫn tâm trí họ qua tất cả ba vòng cảm giác và hai lần nghe âm thanh chung quanh. Thôi, ngưng, mọi người mở mắt.

- Có ai ngủ quên không? Cụ Tài hỏi nhẹ.

- Thưa bác không, nhưng phê.

- Ai có thể nói lên được mình cảm thấy thế nào làm ơn nói cho mọi người biết.

- Thưa bác, cháu thấy đang lúc ấy cháu không để ý đến những gì xảy ra chung quanh. Hình như cháu cũng không để ý đến có nhiều người đang hiện diện mà chỉ chú tâm vào những điểm bác nhắc tới.

- Nghĩa là anh chỉ nói lên được những gì không phải là cảm nghiệm của anh?

- Bác nói đúng! Cháu không diễn tả được thực trạng xảy ra.

- Cháu nghe, gọi là nghe chứ không phải nghe, có âm thanh nào đó không phải là âm thanh nổi lên trong đầu mình lúc để ý nghe những âm thanh chung quanh.

- Anh vừa nói tương tự lối phát biểu nhà Phật, “Gọi là nghe chứ không phải nghe, hoặc âm thanh nào đó không phải là âm thanh.” Anh có biết anh nói gì không?

- Cháu biết cháu nói gì nhưng cháu không biết phải nói thế nào.

- Như vậy, cách nói chính xác nhất phải là chẳng nói gì vì càng nói càng chẳng nói được gì.

- Thưa bác, đúng như thế, vì cháu suy nghĩ thì thấy nói thế nào cũng không đúng.

- Không thể nào nói một cách chính xác tâm trạng cảm nghiệm được. Trường hợp này, Lão học diễn tả qua câu nói, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Đây là kinh nghiệm thực tiễn hy vọng anh em để ý nghiệm chứng những câu nói của đạo học tận tình hơn. Hơi cao giọng, cụ tiếp, chúng ta vừa thực tập định tâm. Định tâm không có nghĩa không nghĩ gì nhưng dồn tâm trí vào một điểm. Định tâm chỉ là bước khởi đầu cho nghiệm chứng hay tu chứng, quán tưởng; vì chứng hay quán mà tâm không định thì không thể nào nghiệm được. Bởi thế, những bậc thực nghiệm tu chứng không tìm ảo giác của đời sống bên kia sau khi chết; mà chính là thực chứng thực thể uyên nguyên nơi mình được gọi là Tự Tánh, Phật tánh. Từ cảm nghiệm thực chứng có thể nói, Phật học nhấn mạnh nhất về sự giác ngộ trong tất cả các đạo học. Mục đích của hành trình nghiệm chứng không phải là niết bàn, trạng thái đạt tới tâm tưởng vô cầu, vô niệm. Cũng như các nền đạo học Á Châu khác, kiến thức con người không thể nào phác họa rõ ràng cảnh giới tâm linh của nhà Phật (EM; Tr.34-35). Với lối nhìn qua lăng kính kiến thức hữu ngã, một số người theo những học thuyết Tây Phương cho rằng Phật giáo là một tôn giáo không tin nơi Thượng Đế (EM; Tr.35). Thực ra, về phương diện nhận thức sai biệt này, thái độ tốt nhất đối với chúng ta chỉ là im lặng. Chúng ta có thể nghĩ gì khi đặt mình vào thân phận những con giòi bọ đang sung sướng an hưởng hạnh phúc của chúng nơi xác rữa mục của con chuột chết xình thối. Chắc chắn chúng chê bai những con ruồi mẹ vừa đẻ chúng ra là ngu dốt, không biết an hưởng thiên đường thực tại nên đã vội lao đầu vào cõi không gian vô định chẳng có chi bám víu. Tôi nghĩ, kinh nghiệm cuộc đời minh chứng, nhiều khi chúng ta không biết mình đã nói gì. Phỏng đây có phải là những giây phút của trường hợp ứng thân nơi niết bàn hay không; mà bao năm nay tôi vẫn chưa bao giờ đạt được câu trả lời sao cho có thể tạm coi như hợp lý hợp tình. Nói như vậy, anh em đừng để ý gì đến những lời tôi nói. Hãy tự cảm nhận, vì còn nói vẫn còn mê muội nơi ý niệm, ngôn từ. Đối với nhà Phật, thực thể con người không phải chỉ là thể xác được bắt nguồn từ thời điểm sinh vào cõi trần để rồi lúc nào cũng bị đe dọa bởi bệnh, lão, và chết chóc. Nó cũng không phải chỉ bao gồm một hệ thống những cảm giác, dục vọng, tình tự, tư tưởng vẫn thường gây nên cá tính mỗi người. Vượt lên trên hai thành phần vô thường đó, nhà Phật trình bày một thành phần hết sức linh diệu nữa, thường được gọi là Tâm, là một và có đồng những đặc tính của thực thể tuyệt đối, nghĩa là vô trụ, vô biên, thường tịch, thuần nhất. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật có giảng cho ông A Nan về cái Tâm to lớn của con người bằng cách so sánh với cõi hư không và các thế giới: “A Nan, ngươi nên biết rằng, cái cõi không gian kia, sinh ra trong tâm ngươi, chỉ nhỏ bé như một đám mây điểm trên trời xanh, huống hồ là những thế giới còn nằm trong không gian thì thấm vào đâu với cái Tâm của ngươi” (XDNSQ; Tr.35-36). Tâm thường trụ hay tâm thể tuyệt đối nơi con người là gốc gác cho mọi sự biến chuyển của cuộc đời, là nguồn phát sinh mọi sự được gọi là pháp. Bởi vậy nhà Phật nói vạn pháp tự Tâm, không có pháp ngoài Tâm. Hai câu tiêu đề làm then chốt nhận thức nhà Phật đó là, “Tam giới duy Tâm, vạn pháp duy thức.” Nói như vậy có nghĩa mọi sự vật trên cõi đời này đều phát sinh do nơi tâm thể; song cách thức chuyển hóa của Tâm thành sự vật là do thức quy định nên. Nói cách khác, Tâm thể không biểu hiện, thức là sự biểu hiện của Tâm (XDNSQ; Tr.37). Đây chính là điểm đức Đạt Ma sư tổ đã nói, “Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật, quá khứ và vị lại đã và sẽ được tạo thành trong tâm” (KCGL; Tr.201).

- Thưa bác, tại sao lại gọi là tam giới. 

- Tam giới là ba cõi dục, sắc, và vô sắc. Ba cõi này bao gồm tất cả chúng sinh trong sinh tử (DGLP; Tr.34). Dục mang nghĩa tham ái thô trọng; sắc là những gì có thể nhìn thấy bằng mắt trần hoặc nơi tâm tưởng nghiệm chứng, ít tham ái hơn; vô sắc là cảnh giới thuần duy thức nơi quán tưởng. Tất cả những hiện tượng nơi cuộc đời hay trong hành trình tu chứng đều là phản ảnh của tâm Phật; nên những cảnh giới chỉ là hiện thể hay phản ảnh từ nơi tâm Phật. Người tu chứng sẽ gặp những cảnh giới này trong hành trình chứng nghiệm. Như vậy, dẫu giải thích bằng bất cứ cách nào lúc này cũng không mang lại lợi ích gì cho quý anh em. Điểm tối quan trọng tôi muốn trình bày là có một thực thể hằng hữu nơi mọi người gọi là Tâm Bất Sinh mà các kinh sách gọi bằng nhiều tên khác nhau như tâm Phật, Tự Thể, Tự Tánh, Pháp Thân, Hư Vô. Thực thể này không lệ thuộc nơi bất cứ ngôn từ hay văn tự nào chỉ về nó, không lệ thuộc vào phương cách nghiệm chứng hay tu chứng; do đó không bị giới hạn nơi bất cứ tông phái Phật học nào. Vì mỗi tông phái lập thuyết khác nhau để dạy người, mà lý do duy nhất để thiết lập những giáo lý là cốt làm cho người ta nhận ra được tâm họ đã có sẵn ngay từ lúc họ được cha mẹ sinh ra; nói cho đúng, trước khi họ được sinh ra tâm họ đã hiện hữu, tạm gọi theo ngài Bankei là Tâm Bất Sinh. Tâm này không ai sinh thành mà tự đã có nên bất tử. Như vậy, mọi sinh hoạt của các tông phái đều qui về một mục đích giúp con người nhận ra tâm hằng hữu, bất sinh nơi họ; nên các tông phái, các giáo lý chỉ là những phương tiện mà thôi. Tuy nhiên, anh em có thể nhận rõ nơi lòng mỗi người; đó là chúng ta chỉ muốn hiểu biết để tưởng mình đã đạt đến thực thể nghiệm chứng. Đây là tính chất học giả mà tôi gọi là “thứ ăn không tiêu,” nghe, hiểu được luận lý, nhận định thế nào rồi lặp lại như vậy thường được gọi là trí thức, cái học từ chương, mỏ vẹt, thiếu suy tư cảm nghiệm. Tôi nghĩ, có thể đây là lý do ngày xưa Tần Thủy Hoàng đốt sách, chôn học trò. Ngày nay, con người đặt ra bằng cấp nọ, tiến sĩ kia. Anh em học hành khá, nhưng những kiến thức trường lớp có đáng giá miếng thịt, bát canh giúp ấm lòng mỗi khi đói bụng không, hay là công sức làm việc mới giải quyết được những thiếu thốn cuộc sống. Có thể nói, những kiến thức khoa bảng, chỉ giúp con người kiếm tiền một cách nhàn hạ hơn nhưng chưa chắc đã nhiều tiền hơn công sức làm việc và sự tính toán. Nói cho đúng, còn có động lực nào đó không dễ chi hiểu nổi vì phải là người được sinh ra để giầu có mới giầu được. Xét về đạo học, kinh sách không viết về những kiến thức khoa bảng này mà chỉ diễn tả kinh nghiệm hay cảm nghiệm thực chứng; ai không nghiệm chứng, dẫu thông thái, hiểu biết cách mấy cũng không thể nào đạt tới được. Đây là lý do chính yếu khiến kinh sách trở nên khó hiểu, mà kinh sách đạo học đâu phải được viết về kiến thức hầu giúp người hiểu biết đạt tới bằng này cấp kia.

- Thưa bác, có câu nói, “Nói không suy nghĩ cũng như bắn súng không mục tiêu.” Nếu không có đủ kiến thức sao có thể truyền bá hoặc giúp người khác hiểu biết. Thêm vào đó, cho dù ai nói hay đến mấy, không có bằng cấp đâu ai tin tưởng.

- Vấn đề anh nêu lên, người ta đã và đang áp dụng nơi tôn giáo từ bao lâu nay. Thử hỏi, sách vở hoặc những sự giảng thuyết kinh sách sao có thể nói lên được cảm nghiệm anh em vừa thực tập định tâm? Có ông tiến sĩ nào giải thích cho anh em cảm được câu nói mà anh Tùy vừa rồi phát biểu, “Gọi là nghe chứ không phải nghe, có âm thanh nào đó không phải là âm thanh nổi lên trong đầu mình lúc để ý nghe những âm thanh chung quanh.” Đâu phải vô lý mà đức Đạt Ma sư tổ nói “Lãnh hội được Phật tánh nơi mình không thể học được” (GLTH; Tr.205). Như vậy, đã không học được, không phải kiến thức khoa bảng thì đâu cần bằng cấp. Đem so sánh vấn đề nói năng, giảng giải, cần suy nghĩ với mục đích truyền bá kiến thức nhà Phật, đâu ăn nhập gì với hành trình nghiệm chứng. Anh em nên để ý, Lục tổ Huệ Năng đã nói, “Tất cả kinh điển và văn tự, đại tiểu nhị thừa, mười hai bộ kinh đều do người đặt ra vì có tánh trí huệ mới được kiến lập; nếu chẳng có con người thì vạn pháp vốn chẳng tự có. Nên biết, vạn pháp vốn do tâm người kiến tạo, tất cả kinh sách là vì con người mà nói. Vì trong con người kẻ ngu người trí, ngu là tiểu nhơn, trí là đại nhơn. Kẻ ngu hỏi pháp với người trí, người trí thuyết pháp cho kẻ ngu, kẻ ngu đốn ngộ tự tâm thì chẳng khác với người trí vậy” (PBĐK; Tr.35). Các đạo học chỉ có một mục đích duy nhất, trình bày Thực Thể Tối Thượng đang hoạt động nơi mọi tạo vật mà nhà Phật gọi hành trình này là nghiệm chứng; nói theo lối bình dân tức là tu. Tu có nghĩa trở về với Pháp thân bất diệt của chúng ta chứ không vọng tưởng theo sự sống thân xác tạm bợ (KTTP). Đây cũng là hành trình giải thoát sanh tử, nhận ra Tâm bất sinh, bất diệt đang hoạt động nơi mình, ngộ được Bản Tánh, tâm Phật nơi mình; nhà Phật gọi là kiến tánh.

- Thưa bác, nếu kiến tánh thành Phật thì trái với giáo lý của Thích Ca vì ngài đã phải trải qua nhiều kiếp và sau khi ngài tịch diệt, mãi lâu sau mới có Phật Di Lặc ra đời (KTTP). Hưng chen lời cắt ngang.

- Khi anh nói về kiến tính, tôi những tưởng anh không nhận được điểm này! Kể ra thời gian một tháng đọc sách nhà Phật của anh cũng không uổng công. Kiến tánh thành Phật có nghĩa nhận ra Phật nhân, nhưng chưa thành Phật quả vì muốn thành Phật quả phải tu hạnh bồ tát. Chẳng hạn người nông dân có lúa giống nhưng không có gạo ăn ngay mà phải gieo mạ, cấy mạ, chăm sóc lúa, gặt hái. Như vậy, nhận ra Phật nhân vẫn còn phải trải qua nhiều kiếp tu hạnh bồ tát (KTTP). Tuy nhiên, bởi không biết thế nào để thực hành nghiệm chứng, đa số người có niềm tin nơi Phật giáo thường dùng quan niệm luân lý để giải thích các hạnh bồ tát, cố gắng sống tốt lành, thực hiện ăn chay niệm Phật và cho đó là tu hầu mong được giải thoát theo nghĩa tránh bị luân hồi vào cuộc đời khổ cực, đày ải kiếp tới. Đây có thể là lý do khiến những người hiểu mù mờ về Phật học đã quan niệm một cách sai lầm về chân lý giải thoát của đức Thích Ca. Thực ra, giáo lý nơi Phật học thâm trầm lại đòi điều kiện tâm trí minh triết, dẫu cho những bộ óc khoa bảng, danh vọng cao mà không nghiệm chứng vẫn chưa chắc hiểu được ngọn ngành giáo lý này. Theo nhà Phật, dẫu cố ép mình giảm bớt tham sân si để được giải thoát, và dẫu muốn tạo phước để cầu giải thoát thì vẫn còn bị ràng buộc bởi chính ý định muốn được giải thoát. Kiến có nghĩa nhìn thấy, nhưng nơi văn tự hay ngôn từ nhà Phật, kiến tức là nhận ra, nhận thực được. Kiến tính thành phật là nhận thực ra tâm Phật đã ở nơi mọi người. Khi một người nhận thực ra được Bản Tánh, tâm Phật nơi mình không nghi ngờ, không lay chuyển thì được gọi là kiến tánh. Chẳng hạn nếu có ai nói mặt trời đen thì dù cho có nói thế nào chúng ta cũng không bị lay chuyển bởi đã nhìn thấy rõ ràng, không lệ thuộc vào bất cứ lý luận, hiểu biết nào ám ảnh mình (KTTP). Do đó, chẳng lạ gì đã có quan niệm, cũng như Lão giáo, Phật học cho rằng sự lầm lỡ căn bản và nguyên nhân của tất cả phiền não nằm trong sự xa lìa của nội tâm con người đối với Tâm Thể Tuyệt Đối (XDNSQ; Tr.46).

- Thưa bác, tâm Phật nơi mọi người và Tâm Thể Tuyệt Đối là một thì sao có thể nói được xa lìa hay không.

- Anh Sỹ hỏi như vậy chứng tỏ đã có tiến bộ. Tôi dùng ngôn từ “xa lìa” chỉ có nghĩa không nhận ra, hay vô minh.

- Thưa bác, vậy có phương pháp thực tiễn nào áp dụng trong hành trình tu chứng để đạt tới Tâm Phật không?

- Chỉ có một phương pháp độc nhất nhưng thường bị những sự thông thái kiến thức nơi mọi người khuất lấp. Nhà Phật giải thích phương pháp qua nhiều biểu tượng ám định, và càng giải thích, kẻ tu chứng càng lọt vào màng lưới luẩn quẩn vô minh. Phương pháp này anh em đã được nghe mấy lần nhưng không ai để ý nghiệm chứng mà có thể lại cho là khùng dẫu không phát biểu thành lời.

- Thưa bác,

- Có phải anh muốn nói câu hỏi về phương pháp tu chứng thực tiễn mới được nêu lên mà vẫn chưa có câu trả lời trong khi tôi nói anh em đã được nghe mấy lần, thực là phi lý phải không? Tôi nhắc lại, “Không làm gì là làm tất cả.” Có phải tôi đã nói với anh em mấy lần rồi không? Đây là câu nói Lão học. Bất cứ ai nghe tới câu này đều cho rằng người nói là khùng, và chính anh đã nói lúc nãy. Đây là phương pháp không có phương pháp. Tâm Phật, Tâm Bất Sinh đã sẵn có nơi mọi người thì đâu phải làm gì, ước muốn thế nào để đạt tới. Vấn đề chỉ là nhận thực được hay không. Nhận ra chưa đủ mà nghiệm thực mới đúng. Như vậy, anh em hiểu lý do tại sao nhà Phật đặt nặng vấn đề tu chứng hay nghiệm chứng, ngược lại coi thường những hành động tốt lành hữu vi. Bởi thế, định tâm là cửa ngõ thực nghiệm đi vào tu chứng mà tu chứng lại không đòi hỏi phải làm gì, thế nào. Nói như vậy có nghĩa vọng niệm hết sạch tức là tu thành công (NTGG; Tr.25). Anh em nên nhớ nằm lòng, kiến tính nơi nhà Phật là mục đích tối thượng của thiền nhưng kiến tính không phải là công trình của sự khảo cứu, sưu tầm. Kiến tính là trạng thái đạt đến sự chứng đắc Pháp thân. Bởi vậy, bản chất của thiền là tu chứng, nghiệm chứng, hành trình thực hiện kiến tính chứ không phải là suy tư triết học. Bồ Đề Đạt Ma nói: “Thiền do Phật truyền lại, nó không dính líu gì đến kho tàng giáo lý và kinh điển mà các ông đang nghiên cứu” (NVTH; Tr.29). Tiếng Trung Hoa dịch buddha là giác giả, người tỉnh thức, người giác ngộ (NVTH; Tr.31). Vậy Phật học là giáo lý hướng dẫn sự hiểu biết, giác ngộ. Sự hiểu biết này không phải do công trình nghiên cứu, học hỏi và suy luận mà chính là tu chứng, nghiệm chứng. Như vậy, ngồi thiền không phải là để suy tư, phiêu lưu trong thế giới ý niệm phân biệt; vì còn ý niệm, còn phát sinh vọng tưởng đối đãi. Chứng nghiệm không phải sự luẩn quẩn suy đoán ý niệm mà gieo mình vào thực tại. Thực tại ở ngoài vòng khái niệm vì những gì còn trong khái niệm, ý niệm thì không phải thực tại. Ý niệm về bia không phải là bia; ý niệm về ớt không thể khiến mình vội vàng kiếm nước súc miệng vì cay bỏng lưỡi. Nói cho cùng, phương pháp đạt tới tâm Phật tóm lại chẳng có gì đáng nói vì mình chính là tâm Phật.

- Thưa bác, nếu mình đã là tâm Phật đâu cần phải định tâm, tu chứng, nghiệm chứng,

- Anh là ai?

Cụ Tài chợt hỏi một câu thật đơn giản dường như chưa từng quen biết khiến mọi người cảm thấy lạ lùng, không hiểu cụ có ý định gì, nhất là Phủ.

- Bác biết rõ cháu là Phủ.

- Phủ chỉ là tên, không phải là anh.

- Cháu...

- Dù anh trả lời thế nào chăng nữa cũng không phải là anh. Như vậy chính anh cũng không nhận biết được anh là ai thì sao nói tới tâm Phật nơi anh. Định tâm, tu chứng, nghiệm chứng cũng chỉ là những ngôn từ chỉ về những trạng thái tâm tưởng phải trải qua để nhận ra mình thực sự là gì. Tuy nhiên, ai không biết được, nghiệm được mình là ai, mà không ai có thể trả lời được. Có chăng, một người chỉ có thể nói về những gì không phải là họ, và chẳng thể nào nói được chính họ là gì. Kinh sách các đạo học, những hệ thống giáo lý cũng chỉ là phương tiện cho con người thực sự nhận ra họ là ai mà thôi. Bởi thế, dẫu không thể nào diễn tả hay giải thích mình là ai, anh em có cần phải dùng phương pháp, đường lối nào để nhận thực được mình là ai không? Như vậy, những suy tư, nghiệm chứng để nhận thực mình là gì không làm mình thay đổi gì, thêm, bớt, hao mòn chi, vì những hoạt động tâm tưởng ấy chỉ là phương tiện; mà một người không thực hiện những hoạt động tâm tưởng này sẽ không nhận được mình thực sự là gì. Nói cho đúng, chúng có cũng như không; mà không có chúng thì không thể nào kiến tính. Tôi giải thích như thế hy vọng anh em nhờ đó nghiệm được thực thể căn bản nơi nhà Phật, và đó là tất cả chúng sanh đều có tánh giác linh minh không tịch không khác với Phật, chỉ do từ vô thủy kiếp đến nay chưa từng liễu ngộ. Bởi vọng chấp thân là tướng của ta cho nên con người sanh tình yêu ghét, theo tình tạo nghiệp, theo nghiệp thọ báo, sanh, già, bịnh, chết, luân hồi nhiều kiếp. Nhưng giác tánh, tâm Phật trong thân chưa từng sanh tử (NTGG; Tr.17). Nói rằng tu chứng, nghiệm chứng nhưng thực ra không gầy dựng, không tạo lập; do đó không tạo tác vọng tưởng. Điều này có nghĩa, tu mà không tu; đó là lý do tại sao nhà Phật có câu nói Tu vô tu tu (NTGG; Tr.28). Ý thức như vậy anh em mới có thể hiểu được câu nói của Lục Tổ Huệ Năng, “Chẳng nhận được bổn tâm, học pháp vô ích, nếu nhận được bổn tâm, thấy được bổn tánh, tức gọi là trượng phu, thiên nhơn, sư, Phật” (PBĐK; Tr.20).

- Thưa bác, nếu như thế, những kinh sách đều viết những điều vô ích, chẳng những thế lại còn khiến tâm trí con người lệ thuộc bởi đã gieo vào tâm trí con người niềm tin nơi đạo giáo và ước muốn giải thoát?

- Hỏi như vậy tất nhiên anh tự đã có câu trả lời. Trước hết, nói theo nhà Phật, niềm tin nơi đạo giáo và ước muốn giải thoát đều là vọng tưởng. Bởi vô minh, con người không nhận ra tâm Phật nơi mình chẳng khác gì không biết mình là ai. Sự giảng dạy, các giáo lý nơi kinh sách chỉ có mục đích cố xóa bỏ vô minh. Cũng như mặt trời, mặt trăng lên cao đều soi sáng khắp nơi mà người mù không thấy, chậu úp không biết, như vậy, không phải mặt trời mặt trăng chẳng soi khắp mà tại lỗi che đậy ngăn cách (NTGG; Tr.16). Kinh A Di Đà dạy rằng “Nhứt tâm bất loạn thì Phật hiện liền. Cũng như đi, đứng, ngồi, nằm, tâm hằng thanh tịnh, không chút vọng niệm khởi động thì Phật tánh hiện liền (NTGG; Tr.26). Bởi đó, niệm Phật, tụng kinh, trì chú là dùng phương tiện để đàn áp vọng tưởng. Phương pháp này gọi là tu mật tông. Tu thiền thì ngay nơi vọng tưởng biết vọng tưởng, không theo tức là dùng trí tuệ nhìn (nhận ra) thẳng vọng tưởng, không dùng phương tiện để đàn áp hay kềm chế nên gọi là trực chỉ (NTGG; Tr.24). Chẳng hạn, khi anh em định tâm, tức là dồn hết tâm trí để tìm hiểu mình là ai, nhiều câu trả lời tự đến nơi tâm trí, thí dụ tôi là đàn ông, nhưng đàn ông chỉ là phái tính, không phải là tôi; tôi là kỹ sư, mà kỹ sư lại là mức độ định giá kiến thức hiểu biết, không phải là tôi. Anh em không để tâm tưởng đào sâu nơi những câu trả lời không phải là mình, không để chúng ảnh hưởng nhận định mà nghiệm cho đến tận cùng. Sự tận cùng này dồn tâm trí anh em vào trạng thái bế tắc tâm tưởng không cách nào tránh thoát trong giai đoạn thời gian nào đó tùy thuộc tư chất, căn cơ của mỗi người. Có người chợt đặt vấn đề đã nghiệm chứng được; có người cần đôi ba tháng, dăm bẩy năm; lại có người cả đời cũng không thể nào đạt tới được. Đây là hành trình trực chỉ nhân tâm, đối diện với chính tâm hồn mình để nhận ra mình là ai. Hơn nữa, chẳng hạn khi câu trả lời “Tôi là đàn ông” đến nơi tâm trí, chúng ta thấy vẫn không phải là mình do đó bỏ qua không để ý cũng không dồn tâm trí vào nó. Thái độ này được gọi là “Tâm không trụ,” nhưng nếu cứ để ý nơi ý nghĩ mình là đàn ông, không phải phái nữ, hay bất cứ ý niệm nào thì gọi là trụ. Lục Tổ Huệ Năng giải thích rõ về trường hợp này, “Trụ tâm quán tịnh là bệnh chứ chẳng phải thiền, ngồi mãi là trói thân, với đạo có lợi ích gì? Lúc sống thì ngồi chẳng nằm. Lúc chết thì nằm chẳng ngồi. Vốn là đống xương hôi thúi. Đâu thể thành lập công phu” (PBĐK; Tr.117).


- Thưa bác, như thế thiền đâu cần phải có phương pháp hoặc phải ngồi một chỗ.

- Anh nói đúng. Thiền chỉ cần định tâm, dồn tâm trí nghiệm chứng chứ không phải theo quy luật, nghi thức nào. Qui luật, nghi thức chỉ có mục đích giúp con người dễ định tâm mà thôi. Tâm Phật mà mọi người bẩm sinh đều có thì anh em muốn đọc kinh cứ việc đọc kinh, muốn ngồi thiền cứ việc ngồi thiền, muốn giữ giới cứ việc thọ giới, muốn niệm Phật cứ việc niệm, muốn trì chú cứ trì chú, hay cứ thi hành phận sự hàng ngày của anh em, dù anh em là, nông dân, thợ thuyền; công việc sẽ là pháp chánh định của mỗi người. Vấn đề chỉ là hãy nhận ra tâm Phật mà mỗi người bẩm thụ từ lúc chưa được sinh ra. Điều cốt yếu là nhận ra và an trú trong tâm ấy với niềm tin tưởng và lòng xác tín (TBS; Tr.110-111), luôn luôn nghĩ đến tâm Phật bất sinh. Không hâm nấu những tư tưởng này nọ trên cái nền bất sinh ấy, nghĩa là không bám lấy những gì tâm trí chúng ta nghĩ tới (TBS; Tr.113) khiến tâm Phật phản ứng tạo thành những ý tưởng. Khi tâm trí không bị lay chuyển thì không tư tưởng nào còn khởi lên dù tốt hay xấu và do đó cũng không cần phải diệt. Như vậy chúng ta không tác tạo cũng không hủy diệt.

- Thưa bác, đã suy nghĩ tức là đã tác tạo ý niệm, vọng tưởng. Đàng khác, sao có thể nghĩ tới tâm Phật khi tâm Phật không thể tưởng tượng, không thể nghĩ bàn, và như vậy lấy gì để an trú?

- An trú có nghĩa để nó là chính nó, đừng tìm kiếm, không nhận thức, chẳng cần hiểu biết. Thực ra, càng cố gắng tìm hiểu, nhận biết chỉ càng tạo ra những ý niệm, tư tưởng phù phiếm, và tạo nên nhiều vọng tưởng khiến tâm trí con người không còn được giây phút nào yên ổn, phát sinh thêm lắm phản ảnh nơi tâm Phật. Theo nhà Phật, mong muốn được giác ngộ có vẻ là chuyện hoàn toàn tốt đẹp đáng khen, nhưng kỳ thực là si mê. Sự mong muốn thành Phật của con người trước hết là điều vô ích bởi tâm Phật nơi chúng ta vốn có từ trước lúc sơ sinh, vốn bất sinh nên chưa cần suy nghĩ, mọi sự đã được nhận ra rõ ràng mà không cần đến một thứ khôn lanh nào, cũng không cần đặt trên cơ sở những khái niệm mê hay ngộ. Hãy ở nguyên trong trạng thái đó tức là an trú nơi tâm Phật thì mọi sự đều được nhận ra và phân biệt rõ ràng. Điều này có nghĩa hãy để cho mọi sự tự thu xếp lấy, bất cứ gì xảy ra sẽ được giải quyết trôi chảy dù con người muốn hay không. Đây chính là sự vận hành của tâm Phật và diệu dụng chiếu sáng của nó. Tuy nhiên, vì không hiểu điều này, chúng ta cứ tưởng chính mình dàn xếp mọi sự nhờ tài khôn lanh nên vẫn bị mê mờ. Anh em nên hiểu rằng, khi đối diện với ngoại cảnh mà không tạo nên vọng tưởng, không để ngoại cảnh gây phản ảnh nơi tâm Phật thì đấy chính là căn bản tu chứng, nghiệm chứng (TBS; Tr.158-159). Những ý tưởng, ý niệm chính là si mê, thị dục; chúng giống như rượu. Chúng ta không uống rượu, tất nhiên không thể say; thế nên, hành giả không theo đuổi ý tưởng sẽ không bị nó hành hạ. Hãy để yên cho nó khởi và tự diệt vì còn cố đàn áp, dẹp bỏ vọng tưởng vẫn là mê muội (TBS; Tr.166).

- Thưa bác, thật khó mà cứ để cho những vọng tưởng khởi và diệt một cách tự nhiên.

- Sở dĩ chúng ta gặp khó khăn vì đã bị ảnh hưởng quá nặng nề từ kinh nghiệm sống. Mọi người đều biết, muốn có gì, được gì, chúng ta phải làm gì. Từ đó, vì tưởng rằng có một phương pháp đặc biệt nào đó mới có thể làm hoặc khiến cho những vọng tưởng khởi và diệt; nên chúng ta, thay vì để chúng tự khởi, tự diệt, lại lo tìm kiếm phương pháp vô tưởng nào đó (TBS; Tr.168); chẳng hạn những phương pháp tọa thiền và tất cả các pháp đều là những phương tiện của các bậc thầy dùng để đối phó với những tình huống đặc biệt và đáp ứng những nhu cầu của từng cá nhân trong hành trình tu chứng. Thực ra, ngay từ đầu đã không có những quy luật cố định. Thế nên, nếu chúng ta xem những phương tiện tạm thời ấy như những lời dạy bất di dịch thì cũng như tự bịt mắt mình (TBS; Tr.178). Ngay cả việc muốn thành Phật liền bây giờ cũng là một điều giả tạo. Chỉ cần nhận thức rằng mình đang tạo những ước nguyện, rồi cứ sống tự nhiên, đừng vướng mắc bất cứ sự gì, thì bản lai diện mục của chúng ta sẽ được hiển lộ (TBS; Tr.179).

- Thưa cụ, ông Thung lên tiếng, nói như vậy phỏng có nghĩa không cần cố gắng, phấn đấu hay thực hiện tu chứng?

- Ông nói đúng, không cần phấn đấu chúng ta vẫn có thể đạt được toàn giác ngay tại chỗ nhưng đã chẳng ai tin hoặc nghĩ thế là đúng; bởi họ còn đang muốn đạt tới toàn giác. Sở dĩ các phương thức thiền còn đang được phổ biến ngày nay cũng vì không hiểu nên người ta bắt chước một cách mù quáng với hy vọng sai lầm bởi cho rằng cứ thực hiện cùng một nguyên tắc sẽ phát sinh cùng một hậu quả (TBS; Tr.244). Thực ra, không có hình thức chỉ giáo đặc biệt nào về pháp tu, cũng không có phương pháp đặc biệt nào. Nguyên nhân chính chỉ vì người ta không nhận ra ngay trong chính mình đã sẵn có tâm Phật từ thuở sơ sinh, nói cho đúng, trước khi được sinh ra, nên họ tưởng không có sự tự do giải thoát thành ra kiếm tìm những phương thức giải thoát bên ngoài, hoặc tưởng rằng những sự hiểu biết giúp họ đạt tới kiến tính. Như vậy, tâm tưởng cố theo đuổi nhận thức, ước muốn, được gọi là vô minh, do ngoài việc tu tâm chẳng có hạnh môn riêng (NTGG; Tr.14). Bởi thế, gọi là tu chỉ có nghĩa đừng cố gắng thực hiện gì, đừng nghĩ gì, và chỉ để cho Tánh Phật hiển lộ mà thôi. Suy luận cách khác, Phật tính là tâm thanh tịnh trùm khắp, vì vọng tưởng che lấp làm mờ đi. Thế nên, chỉ cần buông vọng tưởng, và khi vọng tưởng sạch hết thì tâm thanh tịnh hiện nên được gọi tạm là thành công chứ thực ra chẳng có gì thành đạt cả. Bởi vậy, khi tu, chúng ta không cần cầu Phật, chẳng theo pháp để được chứng minh hay điểm đạo chi hết; vì nếu người ngồi thiền mà còn mong Phật tới, bồ tát giúp, thì vẫn còn theo đuổi vọng tưởng, do đó vẫn còn mê lầm, vẫn theo dục (NTGG; Tr.25). Anh em nên ngẫm câu nói, “Không làm gì là làm tất cả.”

- Thưa bác, như vậy chẳng khác gì vô tâm.

- Vô tâm là không vọng tưởng chứ không có nghĩa không có tâm. Khi hết vọng niệm Chân Như thể hiện, nếu còn vọng niệm tất nhiên còn chướng ngại. Đó là lý do tại sao Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn dạy bảo các môn đồ, “Sanh tử là việc lớn, các ngươi suốt ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu lìa khỏi biển khổ sanh tử. Tự tánh nếu mê, phước làm sao có thể cứu được?” (PBĐK; Tr.13), vì hễ lọt vào suy lường thì chẳng dùng được (PBĐK; Tr.13). Suy lường chính là dụng tâm phân biệt do nhận định đối đãi. Thế nên, ngộ được diệu lý của Tâm thì tội phúc đều không, mà còn mê lầm thì thiện ác đều có, bởi tất cả chỉ là hiện thể của tâm (KTTP). Anh em đã thử nhìn những bức tranh người Mỹ gọi là “Magic pictures” chưa? Muốn nhìn thấy hình ảnh thực sự ẩn dấu nơi những bức tranh này, người nhìn phải chỉnh đốn mắt của mình sao cho không để ý đến những nét tiểu tiết của bức tranh mà mắt phải nhòa đi thì mới thấy được. Kiểu nhìn thực nghiệm này có thể so sánh với lối nói vô tâm nơi nhà Phật, không để ý đến những tiểu tiết vọng tưởng, ý niệm, mà nghiệm cái gốc, cội nguồn của những ý niệm. Nhà Phật gọi thực thể phát xuất ý niệm là Tâm Hư, Tâm Vô, hay tâm Phật. Hiểu như vậy anh em mới nhận ra câu trả lời của Lục Tổ Huệ Năng, “Truyền thọ thì không, chỉ cần kiến tánh, chẳng cần thiền định giải thoát” (PBĐK; Tr.27) mang nghĩa chi, khi Ấn Tông hỏi ngài đã được Ngũ Tổ truyền thọ gì.

- Thưa bác, nếu đã là Tâm Hư, Tâm Vô, chẳng cần thiền định giải thoát thì đâu cần định tâm, trụ tâm.

- Anh lại bị lệ thuộc vào ngôn từ nhà Phật. Tâm Hư, Tâm Vô đâu phải vô tâm mà chính là tâm Phật, không thể nghĩ bàn được. Không thiền định giải thoát tức là không chú tâm, không ước muốn giải thoát vì còn ước muốn vẫn là vọng tưởng. Thế nên, tâm chẳng trụ có nghĩa không đặt tâm trí vào bất cứ pháp nào hay ý niệm nào. Lục tổ có nói, “Tâm chẳng trụ pháp thì đạo được linh động; tâm nếu trụ pháp, gọi là tự trói. Lại có kẻ dạy người lấy ngồi làm công phu, khán tâm quán tịnh, chẳng khởi chẳng động, kẻ mê chẳng hiểu, bèn chấp ngồi thành bệnh, nhiều người truyền nhau vậy, thật là lầm lỗi lớn (PBĐK; Tr.58). Tu chứng nhà Phật chẳng trụ bất cứ gì, không cầu đạt tới mực độ nào nên gọi là vô trụ, vô niệm. Lý do, tâm Phật, Tâm bất sinh đã sẵn nơi mọi người nên đâu cần chứng, đắc, đâu phải theo phương pháp nào để nhận ra vì dẫu không nhận ra cũng đã sẵn có. Bởi vậy tâm trí nhiều người bị mờ mịt khi suy nghĩ về câu nói của Lục Tổ Huệ Năng, “Người mê đời sau nếu nhận được chúng sanh, tức Phật tánh. Nếu chẳng nhận được chúng sanh, dẫu cho muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp. Chẳng phải Phật tánh làm mê chúng sanh, tự tánh nếu ngộ, chúng sanh là Phật, tự tánh nếu mê, Phật là chúng sanh. Tự tánh bình đẳng, chúng sanh là Phật, tự tánh tà hiểm, Phật là chúng sanh. Nếu tâm hạnh quanh co thì Phật ở nơi chúng sanh, nếu được nhất niệm bình đẳng ngay thẳng thì chúng sanh thành Phật. Tự tâm là Phật, chớ hồ nghi nữa. Vạn pháp đều tự tâm sanh khởi, chẳng phải vật bên ngoài có thể kiến lập; nên kinh nói, 'Tâm sanh thì mọi pháp sanh, tâm diệt thì mọi pháp diệt'“ (PBĐK; Tr.145). Thế nên càng tìm kiếm, càng ước muốn, càng năng động thì lại càng chìm sâu nơi trạng thái nhà Phật gọi là dục. Nói cách khác, những gì chúng ta cố công thực hiện, dẫu chỉ là ước muốn, đều vô ích và ngăn cản sự hiển lộ Tâm Phật. Và như vậy, không ước muốn gì, không thực hiện gì, không làm gì là làm tất cả, và phương pháp nghiệm chứng chỉ cần định tâm chứ không trụ tâm.

- Thưa bác, nói rằng nhận được chúng sanh tức Phật tánh thì đâu cần gì phải nói, vì ai mà không nhận được mọi người, mọi vật chung quanh.

- Anh có biết anh nói gì không?

- Cháu muốn nói nếu Phật là chúng sanh thì đâu cần tu chứng.

- Nói cái gì? Cái gì nói?

 
Và thế là Sỹ nhà con im tịt. Mọi người cảm thấy lạ lùng vì câu hỏi bâng quơ, đầy vẻ ngây ngô của cụ Tài. Câu hỏi mang tính chất kỳ cục vì Sỹ vừa mới nói, cụ đã hỏi “Nói cái gì” và lật ngược câu hỏi biến thành “Cái gì nói.” Bá mỉm cười, nét mặt lộ vẻ hứng thú, chậm rãi nâng chai bia tu một hơi coi bộ thoải mái lắm, không nói gì nhưng thái độ tỉnh táo ngược lại nét trầm ngâm đang đè nặng trên gương mặt mọi người. Mấy ngón tay hắn tiếp tục xoay nhẹ chai bia sau khi đặt xuống bàn. Cụ Tài nâng ly rượu hớp một ngụm, từ từ đưa mắt nhìn rảo quanh mọi người, bắt gặp đôi mắt Bá đang nhìn mình; cụ cũng mỉm cười chừng như hội ý điều gì. Bá bỗng lên tiếng,

- Cho chừa nói dại.

Thế là Sỹ nhà con vội cướp lời,

- Chú nói dại nghĩa là sao?

- Tự tánh nếu ngộ, dại là Phật, tự tánh nếu mê, Phật là dại. Bá dùng câu nói của Lục Tổ đổi “chúng sanh” thành “dại” khiến người nghe cảm thấy câu nói trở nên càng ngớ ngẩn.

- Tôi nghĩ anh Bá nên giải thích câu nói của lục tổ. Cụ Tài đề nghị ngắn gọn có ý thử xem Bá nghĩ gì.

- Thưa bác, giải thích cũng như không, mà không giải thích có lẽ tốt hơn; bởi có thể càng giải thích chỉ càng làm câu nói khó cảm nhận. Điểm chính yếu nơi câu nói của lục tổ Huệ Năng chỉ là, “Người mê đời sau nếu nhận được chúng sanh, tức Phật tánh.” Đó cũng là câu trả lời cho câu hỏi có vẻ kỳ cục bác nêu lên, “Nói cái gì? Cái gì nói? Theo nhà Phật, “Tâm sanh thì mọi pháp sanh, tâm diệt thì mọi pháp diệt.” Tâm nói, Tâm chứng, do đó chẳng có gì để nói, để chứng; bởi Tâm bất khả tư nghị. Như vậy, Lục Tổ giải thích thêm, “Nếu chẳng nhận được chúng sanh, dẫu cho muôn kiếp tìm Phật cũng khó gặp” thì có giải thích cũng bằng thừa, nếu đã chẳng nhận được chúng sanh.

- Anh nói có lý. Điểm khúc mắc người ta thường gặp nơi câu nói của lục tổ chỉ là lời ngắn gọn, “tức Phật tánh.” Khi còn thấy người, thấy ta, thấy chúng sanh, thấy tâm Phật thì còn phân chia nhĩ, ngã, vẫn còn mê. Còn nhận ra “Nói cái gì” thì vẫn không nhận ra “Cái gì nói.”

- Ồ, sao bác diễn tả dễ dàng như thế mà đối với cháu thì lại quá khúc mắc.

- Có lẽ vì anh còn suy nghĩ.

- Hèn chi bác nói điểm khúc mắc “tức Phật tánh,” Có điều, khi đặt vấn đề về tịnh và động của nhà Phật, cháu cứ bị rối mù lên, mà càng nghe giải thích, càng tìm tòi kinh sách thì lại càng không hiểu gì, nào là thiền cái không, rồi chớ chấp không, nào tịnh, động, nào là chẳng động, lại còn tâm hư không. Ối chào, tịnh cũng chẳng được mà động cũng chẳng được, cháu chẳng biết sao nên cứ luẩn quẩn vì chưa nghiệm ra được thế nào để chẳng tịnh và cũng chẳng động.

- Ngôn từ nhà Phật được hiểu tùy theo trường hợp. Nếu nói chứng cái Vô, cái Không, thì có nghĩa định tâm chứng tâm Phật. Đàng khác, theo ngôn từ giải thích bình thường, “Vô” là không tâm sai biệt, không phân chia đúng sai, phải trái vì tất cả đều phát sinh tự tâm Phật. Lục tổ nói, “Chớ nghe ta nói không mà liền chấp “không.” Trước nhất chớ chấp không, nếu để tâm không tĩnh tọa là lọt vào “vô ký không” (PBĐK; Tr.30). Đồng thời ngài lại cũng nói, “Tâm lượng là việc lớn, miệng chớ trọn ngày nói “Không” mà trong tâm chẳng tu hạnh này giống như thường dân tự xưng là vua thì không được” (PBĐK; Tr.31). “Chấp không” có nghĩa lệ thuộc ý niệm cho rằng không có gì; “Tu hạnh không” là nghiệm chứng mọi vật mọi sự phát sinh từ tâm Phật không phân chia đúng sai. Bởi vậy, chúng ta nên nghiệm cho rõ, trong hành trình tu chứng, “Bên ngoài lìa tướng là thiền. Bên trong chẳng loạn là định. Nếu ngoài chấp tướng, tâm trong liền loạn. Bản tánh tự thanh tịnh mà chỉ vì chấp nên thành loạn. Thấy mọi cảnh mà tâm không loạn gọi là chơn định” (PBĐK; Tr.63). Đó là ý nghĩa thực nghiệm của thiền. “Thiền chẳng chấp tâm, chẳng chấp tịnh, cũng chẳng phải là chẳng động. Nếu nói chấp tịnh, tự tánh vốn tịnh, chỉ do vọng niệm che khuất Chơn Như. Khởi tâm chấp tịnh lại sanh vọng tịnh. Vọng chẳng xứ sở; kẻ chấp là vọng; tịnh chẳng hình tướng, lại lập tướng tịnh mà cho là công phu tạo chướng tự bản tánh nên lại bị trói vào ý niệm tịnh” (PBĐK; Tr.62). Bởi vậy lục tổ nói, “Con người ngu mê miệng nói bát nhã mà tâm chấp nhất; miệng nói không mà chẳng biết “Chơn Không” (PBĐK; Tr.32). “Người đời ngoài mê chấp tướng, trong mê chấp không. Nếu được ở nơi tướng mà lìa tướng, nơi không mà lìa không, tức là trong ngoài chẳng mê” (PBĐK; Tr.81-82).


- Ah, cháu đã hiểu được điểm giác ngộ nơi câu chuyện Hương Nham.

- Hiểu, chưa chắc đem lại lợi ích gì. Anh nên chứng câu nói của Lục Tổ, “Người hễ tâm như hư không, chẳng chấp vào không, ứng dụng vô ngại, động tịnh vô tâm (chẳng tác ý), thánh phàm đều quên, năng sở đều diệt, tánh tướng như như thì không lúc nào chẳng phải định vậy” (PBĐK; Tr.108).

- Cháu cảm ơn bác, nhưng cháu chỉ mới hiểu được lý do tại sao bác chỉ cách định tâm lại còn nhấn mạnh thực nghiệm câu nói nơi Lão học. Tuy nhiên, định tâm để nghiệm thì phải quán; mà khi quán nếu không nghi lại sinh chấp, và đã chấp tất nhiên mê, muốn khỏi mê thì phải nghi và đã nghi tâm không định.

- Câu nói “Nghi lớn thì giác ngộ lớn; nghi nhỏ thì giác ngộ nhỏ; chẳng nghi thì chẳng bao giờ giác ngộ (PHTH; Tr.59) mang nghĩa không chấp để nghiệm chứ không phải chấp nghi. Người ngày nay đặt nặng vấn đề hoài nghi chỉ vì họ học theo bậc thầy ngày xưa. Bởi thế, họ đã tạo ra một thứ hoài nghi bắt chước. Sự hoài nghi này không chân thật nên họ sẽ không có ngày nào giác ngộ (TBS; Tr.185). “Lại có những thiền sư dạy đệ tử rằng họ sẽ không được cái gì nếu không gom thành một khối nghi lớn để phá vỡ. Họ không dạy người ta an trú trong tâm Phật mà cứ bắt người không có hoài nghi cũng phải nặn cho ra một khối nghi, thế là khiến họ đổi cái tâm Phật thành một khối nghi; quả là việc lầm lẫn” (TBS; Tr.125). Thử hỏi, nghi để làm gì nếu không chấp. Đây chính là sự thực hiện câu nói, “Gặp Phật giết Phật, gặp tổ giết tổ” (NVTH; Tr.63) mà anh Hưng nhắc lại lời nơi Lâm Tế Lục. Trong hành trình nghiệm chứng, nếu chấp nghi để rồi cố ráng vạch vòi cho đến tận cùng những cảm nghiệm nơi kinh sách, hiểu được câu này lại tiếp tục thắc mắc về câu khác, cứ thế không bao giờ dứt; phỏng cuộc đời một người đã thấm thía gì với muôn vàn thứ cần phải nghi. Hơn nữa, đọc kinh sách lại quanh quẩn chấp kinh thì những chữ nghĩa ấy có ích gì cho sự học đạo (TBS; Tr.226). Rán sức tu hành, chấp pháp, cố tọa thiền để được giác ngộ đều sai. “Không có gì khác nhau giữa tâm của chư Phật với tâm Phật nơi mỗi người. Mong cầu đạt giác ngộ là tạo ra một sự phân hai, thành ra có người giác ngộ và chân lý được giác ngộ (năng chứng, sở chứng). Khi còn đeo đẳng một chút nào ước muốn giác ngộ thì lập tức đã giã từ tâm bất sinh. Tâm Phật mà con người có từ thuở sơ sinh với Chân Như chỉ là một, không có hai hay ba” (TBS; Tr.145).

- Bác muốn nói không cần hiểu?.

- Hiểu tâm Phật bất sinh bằng tri thức thì chỉ là tư duy trống rỗng. Không thể nói người nào hiểu biết về một vấn đề nào là đã thực chứng được một cách triệt để. Nói đúng ra, sự hiểu biết về tâm Phật vô giá trị, dù có đem giảng dạy cho người khác họ cũng không nhận ra được vì thiếu nghiệm chứng; chẳng khác gì nghe nói về một món ăn mà không bao giờ được nếm thử. Tự bản thân không thực hành mà chỉ dạy những gì chúng ta biết bằng tri thức thì không cách gì người khác có thể nhận ra được tâm Phật. Hiểu là chuyện dễ, hành mới là khó (TBS; Tr.134).

- Thưa bác, phỏng thiền là hành hay nghiệm?

- Anh khá thông minh! Hành nơi nhà Phật chính là nghiệm nhưng thường đã được hiểu làm một việc gì hoặc dụng công sức thực hiện chuyện gì chẳng hạn ngồi bất động, thường được gọi là thiền. Thiền là hành trình kiến tánh, hành trình tu chứng, nghiệm chứng, để nhận ra được tánh giác, linh giác, chân tâm nội tại của mình. Như vậy, làm công việc gì thì cứ làm, nói thì cứ nói miễn không theo vọng tưởng, không có chủ đích, đó là thiền. Chính tâm mình là Phật chứ không phải gì khác, nhưng không phải tâm vọng tưởng, ước muốn. Tâm vọng tưởng gọi là mê, vô minh. Tâm không vọng tưởng là tâm giác. Như vậy, bỏ vọng tưởng tức không còn mê, bỏ mê để sống với giác tức minh triết, tức thiền, tức tu chứng, nghiệm chứng. Lìa vọng tánh phân biệt tất nhiên trở lại Phật tánh linh giác đã có sẵn nơi mình (KTTP).

- Thưa bác, nếu Phật tánh đã sẵn nơi mình thì sự kiếm tìm, ước muốn đạt tới sao có thể nói là vọng tưởng?

- Thực ra, những vấn đề chúng ta bàn luận chỉ một phần nào dùng nhận thức tìm hiểu về hành trình chứng ngộ Tâm thể của mình; nhà Phật gọi là tri kiến hay tu chứng, nghiệm chứng. Đàng khác, dù suy tư thế nào, giãi bày ra sao, chúng ta cũng không thể nào nói gì về tâm Phật nơi mình mà ngược lại, chỉ nói những gì không phải tâm Phật bởi tri kiến Phật phải tự nơi tâm. Phật tâm chẳng ở bên ngoài. Do ý niệm, vọng tưởng che khuất tạo thành tham ái nên phát sinh nhiễu loạn tâm tưởng; bởi thế, còn muốn tri kiến Phật vẫn còn tạo vọng tưởng. Suy như vậy, tu chứng, nghiệm chứng không cần phải đi đâu, tìm kiếm nơi nào hoặc thực hành điều gì mà bất cứ ở đâu. Pháp thân không vọng niệm thì đó là tu (KTTP). Việc chính yếu là luôn cẩn thận đừng khuấy động tư tưởng để rồi chuyển tâm Phật thành ra quỷ chiến đấu (TBS; Tr.137). Sự định tâm ngăn ngừa vọng động, ý niệm đã được Lục Tổ nhắc nhở rõ ràng, “Vô niệm, niệm tức chánh; hữu niệm, niệm thành tà. Hữu vô đều chẳng chấp, Tự Tánh luôn luôn hiện” (PBĐK; Tr.84-85).

- Thưa bác, dẫu sao, tâm thức con người tự mang năng lực tác động ý niệm cho dù định tâm cách nào dẫu ngay cả lúc ngủ.

- Tôi hiểu anh muốn nói gì. Tuy nhiên, nếu vì mong mỏi nhận cho ra Tâm Phật mà chúng ta rán ngăn chặn những ý tưởng giận dữ hoặc thèm khát bất cứ gì, không cho chúng khởi lên thì khi làm như vậy chúng ta đã phân chia tâm duy nhất nơi mình ra làm hai. Khi ta còn cố ý ngăn tư tưởng khởi lên, cái ý ấy chống lại với những ý khác đang khởi lên liên tục, và như vậy diễn trình đuổi bắt hay ngăn chặn tư tưởng sẽ không bao giờ có sự chấm dứt. Thế nên, đừng bận tâm ngăn chặn hay không ngăn chặn tư tưởng, nhận định, chỉ cần để tự nó thì nó không thể làm gì khác hơn là tan biến. Chúng ta không thể tranh cãi với vách tường nếu chỉ đứng nói một mình. Khi không có ai ở đó để chiến đấu thì mọi việc tự động đi đến chấm dứt (TBS; Tr.111-112). Vấn đề còn lại phải là chúng ta nhận ra mình cảm thấy thế nào, có đang bám víu vào một vấn đề hay tư tưởng nào không. Khi chúng ta không bám víu một tư tưởng nào đặc biệt như vui hay buồn, không nghĩ tới chuyện chấm dứt hay không chấm dứt nó, trạng thái này gọi là an trú trong Tâm bất sinh; tức là giữ tâm duy nhất luôn luôn duy nhất dù cho điều tốt điều xấu gì khởi lên; chúng cũng tự động chấm dứt mà không cần phải cố nghĩ hay không nghĩ. Sự thể mà chúng ta gọi là cơn giận hay niềm vui đều do chúng ta sản xuất với mãnh lực của tính chấp ngã, hậu quả của dục vọng, ích kỷ (TBS; Tr.112). Khi vượt ra ngoài khuynh hướng bám víu thì những tư tưởng kia sẽ tự động tan biến. Sự biến mất ấy hiển lộ tâm bất diệt, và đó là tri kiến tâm Phật.

- Thưa bác, nói như thế, Sỹ nhà con hăm hở, nếu giữ tâm định, đánh tôm, bắt cá, ăn nhậu, hoặc làm bất cứ việc gì, miễn sao không ý niệm, không ý định, ước muốn, vọng tưởng, tức là đang thiền, đều là tu vì đang an trú nơi tâm Phật?

- Đúng, chúng ta chỉ cần an trú trong tâm Phật, ngoài ra không cần làm gì khác. An trú nơi tâm Phật không lệ thuộc điều kiện gì hoặc hành động nào nơi cuộc sống mà là tự tâm. Những pháp, hành, bên ngoài, ngay cả niệm Phật hay tụng kinh cũng chỉ là phương tiện giúp tâm định. Bởi vậy, tâm định mới thực sự được gọi là hành còn vấn đề đi chùa thì cứ đi, hành thiền thì cứ hành; mỗi ngày hành thiền, tụng niệm, vái Phật, năm, ba giờ, hoặc thời gian đốt hết mười, hay hai mươi que hương cũng không sao, nhưng tâm Phật bất sinh không phải là chuyện những que hương, chùa lớn hay nhỏ, thiêng hay không. Khi chúng ta an trú trong tâm Phật thì không cần tìm giác ngộ ở bên ngoài mà mọi sinh hoạt hàng ngày của chúng ta chính là sinh hoạt của Tâm Phật (TBS; Tr.124). Bởi đó, Lục Tổ cũng đã dạy, “Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật dịch là đại trí huệ đến bờ bên kia. Đây cần phải tâm hành, chẳng ở miệng niệm. Miệng niệm tâm chẳng hành thì cũng như huyễn hóa. Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng tương ưng. Bản tánh là Phật, lìa tánh chẳng có Phật” (PBĐK; Tr.30). Lìa tánh tức là chấp, theo đuổi những ý niệm, vọng tưởng, hoặc các pháp.

- Thưa bác, phỏng đây là ý nghĩa của “tự tại” nơi nhà Phật, nhưng sao nó có vẻ..., Hưng chợt lên tiếng hỏi.

- Anh muốn nói có vẻ ngây ngô, khù khờ, thiếu khôn lanh như người đời thường hâm mộ phải không? Người nào để cho Tâm vận hành một cách tự nhiên để giải quyết mọi sự thì người ấy sẽ mở được con mắt sáng thấy rõ tâm người, và nhận ra một cách rốt ráo rằng mọi người đều là những vị Phật đang sống. Đây chính là tuệ nhãn. Chính vì không nhận ra sự quý báu của tâm Phật nên chúng ta nổi tham sân si vì những chuyện vụn vặt, và do đó vẫn chỉ là những con người mê muội (TBS; Tr.123). Bởi vậy, chưa chứng được Tâm nơi mình bất sinh thì người ta chỉ đứng trên bình diện kiến văn giác tri (giới hạn trong cái biết của giác quan), đổi tâm Phật thành những khái niệm. Đây gọi là vọng tưởng. Sự giảng dạy về kiến tính cũng thế, người nào chưa thực chứng về tâm Phật nơi mình thì chỉ có thể nhai lại những lý thuyết Phật học, chẳng giúp ích gì được cho ai nếu không muốn nói là chỉ tạo thêm phiền nhiễu nơi tâm tưởng người khác.

- Như vậy, thưa bác, kinh sách cũng chỉ là mớ kiến thức.

- Dẫu kinh sách được viết do chứng nghiệm nhưng kết quả đem lại tùy thuộc ý định cũng như nhận thức của người đọc. Hoặc là họ đọc để nhận định những gì họ đã nghiệm nơi hành trình tu chứng, hoặc đọc để biết thêm kiến thức; hai thái độ này khác nhau một trời một vực. Bởi vậy, người nào đọc để nghiệm thì không lệ thuộc nơi kinh sách, nhưng kẻ nào đọc với chủ đích trau dồi kiến thức thì chẳng khác gì con quạ cố bắt chước con còng cọc như trong tục ngữ Nhật có nói. Khi con quạ cố bắt chước con còng cọc thì màu đen của nó có giống, nhưng lúc thả vào nước, quạ lại không lội được như còng cọc (TBS; Tr.135). Người nghiệm chứng, đọc kinh sách chẳng khác gì uống nước, nóng lạnh tự biết. Kẻ đọc kinh sách mà không nghiệm chứng nào khác chi lúc khát khô cổ mà chỉ được nghe giải thích về lợi ích của nước đối với sự sống, càng nghe chỉ càng khát thêm.

- Thưa bác, an trú nơi tâm Phật tức là sống theo tự nhiên với tâm bất sinh sẵn có, và như vậy có vẻ ngược đời, hoặc nói cho đúng, xin lỗi bác, sẽ bị gọi là điên, Phủ ngập ngừng.

- Anh em đã bao giờ nghe câu nói, “Bên Tây phương không đủ nhà tù để nhốt kẻ điên; ngược lại bên Đông phương có ai điên thì lại được mọi người kính trọng” (L.N. Đường). Sự nghịch đời, thái độ nhận thức không giống người chung quanh của bậc thức ngộ là cơ hội cho kẻ khác tìm về Chân Thể nơi chính họ dẫu họ nhận ra hay không. Tuy nhiên, vẻ điên của bậc thức ngộ không nghịch mà vượt lên trên luân lý người đời; do đó họ bị cho là kỳ dị bởi lòng họ không hợp với người đời mà hợp với thiên lý (TTvNHK; Tr.224). Nói cho đúng, bậc chân nhơn giải thoát là người đã nhận chân được Tâm Thể, Tự Tánh, cái sống thật của mình, cái sống đồng với Trời Đất vô thủy vô chung, tự sinh tự hóa, cho nên không còn cái bụng đèo bồng, tham muốn những gì ngoài tánh phận của mình nữa, và nhờ vậy mà tuyệt được lòng tham dục nên không vướng mắc. Bởi vậy, họ không tự tôn mà cũng chẳng tự ty, cũng không bao giờ có mặc cảm tội lỗi gì cả vì tâm hồn họ đã thoát khỏi những gọng kềm của luân lý, xã hội, tôn giáo, học thuyết, một cách rất sáng suốt (TTTT; Tr.194). Bề ngoài của họ thì có vẻ hòa nhã với mọi người, mà kỳ thực, lòng họ cách xa với thế nhân (TTTT; Tr.195), nghĩa là họ hòa mà không đồng, và như vậy là vừa không đụng chạm với đời mà cũng vừa được thành thực với lòng mình (TTNHK; Tr.404). Người đã thích nghi với Đạo, với Tự Tánh, thì không làm gì, mà thiên tính của họ vẫn được an định. Cho nên bảo “Cá ở trong sông, hồ, vui thích mà quên mình, người ở trong đạo và thuật, vui thích mà quên mình” (TTvNHK; Tr.224). Nghiệm chứng Phật học, không ai tránh thoát đối đầu với câu nói của Trang Tử, “Người ta cho cái hình hài tạm thời của mình là cái ta, nhưng làm sao biết được cái ta đó thực là ta không” (TTvNHK; Tr.225).

- Thưa bác, Bá nhận định, theo những gì bác giải thích, giác ngộ chỉ là sự nhận thực hay cảm nghiệm một cách rốt ráo rằng tâm Phật ở nơi mình từ trước khi được sinh ra, mọi sự nơi mình, từ tư tưởng, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ, ngay cả thân xác mình đều là hiện thể của tâm Phật. Thế nên, sự thiếu nhận thức thực tại này được gọi là si mê hay vô minh. Nói như vậy, tư tưởng là nguồn gốc của vô minh, và dĩ nhiên, khi hết tư tưởng thì vô minh cũng bị diệt để Tự Tánh, tâm Phật hiển lộ. Tâm Phật, Tự Tánh hiển lộ đó là kiến tính, thành Phật. Nói là thành nhưng không có nghĩa trở thành mà lại là như như, hòa nhập, tự như vậy, thanh tịnh, không vướng mắc. Phỏng đây có phải là ý nghĩa của quán không, quán vô, vô sanh vô diệt, định tâm, an trụ tâm, nói cho cùng, gọi là gì cũng được nhưng tốt nhất chẳng nên gọi là gì vì dẫu dùng ngôn từ nào cũng không diễn tả được mà trở thành ngơ ngơ vì vẫn không biết được cái ta có thực hay không!

- Anh nói không sai, ngơ ngơ, hay kỳ dị, hoặc điên cũng được vì cái ta vừa có, vừa không. Trạng thái này lục tổ đã giải thích rất rõ nhưng không nghiệm chứng chẳng thể nào hiểu được đó là, “Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ Đề; niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Niệm trước chấp cảnh tức phàm phu, niệm sau lìa cảnh tức Bồ Đề” (PBĐK; Tr.31-32). Nơi khác ngài cũng nói, “Ở mọi nơi mà chẳng trụ tướng, nơi mọi tướng chẳng sanh yêu ghét, cũng chẳng lấy bỏ, chẳng nghĩ việc lợi ích thành bại, trong tâm trống rỗng dung hòa, an nhàn đạm bạc, đây gọi là nhất tướng tam muội. Ở mọi nơi đi đứng nằm ngồi, duy nhất hành theo trực tâm, nơi nào cũng là bất động đạo tràng, như vậy mới thành chơn tịnh độ; đây gọi là nhất hạnh tam muội” (PBĐK; Tr.140). Đó là lý do tại sao nói vô niệm, vô pháp vì kiến tính do tâm ngộ, chẳng tại thực hành theo những cách thức ngoại thiền nào; bởi Tự tánh chẳng có chỗ đến, cũng chẳng có chỗ đi, chẳng sanh chẳng diệt nên gọi là như lai. Như vậy, cứu cánh chẳng có một pháp để chứng đắc, huống chi nằm, ngồi (PBĐK; Tr.128). Thế nên, người kiến tánh lập lý thuyết, lập giới, lập định v.v.. cũng được, chẳng lập cũng được, đi lại tự do, chẳng trệ, chẳng ngại, cần dùng liền làm, cần nói liền đáp, chẳng tác ý; khắp hiện hóa thân chẳng lìa tự tánh, tức được thần thông tự tại, du hý tam muội (PBĐK; Tr.120) nào khác gì anh nói ngơ ngơ.

- Thưa bác, nếu tâm Phật nơi mình tự sống động và nếu để mọi sự vận hành tự nhiên, sử dụng tâm Phật tùy theo hoàn cảnh, vượt thiện ác, tất nhiên cần làm gì thì làm, không cần, không làm, không ước muốn làm thiện, chẳng ghét điều được cho là ác, thì nào khác gì người ngơ ngơ.

- Anh em nên nhận rõ điều này, thuở ban đầu không có gì được gọi là giác ngộ hoặc mê si. Tất cả lý thuyết đều là ý tưởng lượm lặt vì bẩm sinh nào có chi (TBS; Tr.213). Dùng lý luận chút ít thôi chúng ta sẽ nghiệm được điều nghịch thường, nghe có vẻ kỳ cục, và đó là mọi người đề cao giác ngộ nhưng ai may mắn bỏ chuyện giác ngộ qua một bên thì lại là người hoàn toàn giải thoát. Ai cũng có sẵn tâm Phật; bởi vậy không lý gì bây giờ lần đầu tiên chúng ta mới sống phù hợp với tâm ấy. Làm những công việc cần thiết cho cuộc sống của chúng ta một cách chuyên nhất tâm ý, đó là thực hành tâm Phật, Tâm bất sinh (TBS; Tr.161). Thực tại chứng minh, giác ngộ được đặt thành vấn đề hoặc cần thiết chỉ khi si mê. Mọi người đều sẵn có bản chất giác ngộ hay tâm Phật nên một chút mê lầm cũng không hiện hữu. Bởi vậy, chúng ta không cần phải đạt đến bất cứ gì (TBS; Tr.170). Theo ngôn từ nhà Phật được gọi là vô chứng đắc. Anh em nên nghiệm cho rõ, thường thì chúng ta tưởng rằng điều thiện nghĩa là ghét ác, nhưng chính tâm ghét ác mới là không lành. Chúng ta thường cho rằng thiện nghĩa là làm lành, nhưng chính điều này mới thật tội lỗi và xấu xa. Sự xấu xa chính là đã lấy ý nghĩ làm phiền cái Tâm (TBS; Tr.212); ngược lại, chúng ta quá bị lệ thuộc chiều hướng luân lý hữu vi, không phân biệt thiện ác thì bị cho là kỳ cục. Có điều, chúng ta ngưỡng mộ những bậc thức ngộ mà rất ít khi nghiệm chứng đến tận cùng những câu nói của các ngài. Chẳng hạn, tôi nêu thử một câu nói của lục tổ trả lời khi Thần Hội hỏi về thấy và biết nơi cảm nghiệm tu chứng, “Ta thấy tự ta biết, chẳng dính dáng cái mê của ngươi. Ngươi nếu tự thấy cũng chẳng dính dáng cái mê của ta. Sao chẳng tự thấy tự biết mà lại hỏi thấy hay chẳng thấy? (PBĐK; Tr.110). Tóm lại, phỏng chúng ta có thể nói được gì đối với những người cố tình không nghiệm chứng vì bất cứ lý do gì!

- Thưa bác, Tùy con lên tiếng, nếu nói rằng tự nghiệm mà có thể giải thoát nào đâu cần giáo lý, đạo học, tôn giáo. Phỏng như vậy, chính Phật học đã đả phá Phật giáo cũng như các tôn giáo hoặc các đạo học khác? Có thể nói, Tùy ngập ngừng, tâm trạng này được gọi là vô thần?

- Anh em nên nghiệm cho kỹ, nếu đã là thần và đã nghiệm được, sao có thể gọi là vô thần. Thế nên, kẻ không nghiệm được thần mới là vô thần; nhà Phật dùng ngôn từ “vô minh.” Đàng khác, ngay danh hiệu thần tự nó đã không phải là thần, mà vô thần, vì thực thể tạm gọi là thần sao có thể nói ra được. Người hữu thần nghiệm chứ không nói vì nói ra không được và càng nói càng chẳng nói được gì. Người hữu thần chỉ có thể nói được những gì không phải là thần tức là vô thần; nói cho đúng, chỉ nói về sản phẩm của tư duy hay ngẫu tượng. Do đó, những kẻ tự cho mình là hữu thần, tào lao thiên tướng giảng thuyết về vô thần, về ngẫu tượng. Họ đang cổ võ cho điều mà họ không ngờ vì đã chẳng nghiệm chứng. Nhận định như thế, tôi nghĩ anh em cảm nghiệm được những câu nói nghịch thường nơi kinh sách nhà Phật. Chẳng hạn, “Nói là Phật pháp đó tức chẳng phải Phật pháp” (KCGL; Tr.70). Đến pháp đạt tới Phật còn không nói gì được thì sao có thể nói về Phật, về thần. Nhà Phật còn nghiệm chứng thâm trầm hơn trong câu nói, “Như Lai nói các tâm đều không phải tâm, ấy gọi là tâm” (KCGL; Tr.188). Chúng ta chỉ có thể nghiệm chứng những thực thể tâm linh chứ không thể nào nói được gì, và những gì tạm dùng như phương tiện để diễn giải thì không phải cảm nghiệm, và lại càng không phải thực thể đó. Thế nên, anh em đừng ngạc nhiên khi nghe ai đó nói, “Người hữu thần vô thần, kẻ vô thần hữu thần.” Xét về tâm linh, nghiệm chứng cũng giống như cảm nghiệm uống nước; ai uống người ấy biết. Sự rao giảng đạo học chẳng khác chi giải thích ích lợi của nước cho kẻ đang khát bỏng cổ; dẫu nói rụng cả răng thì kẻ khát cũng không thể cảm nhận được gì. Anh em làm ơn nhận định rõ điều này; đó là chân lý chỉ có một. Đấng thiêng liêng tuyệt đối cũng chỉ có một (PG; Tr.29), nhưng những lối trình bày về cảm nghiệm sự liên hệ của con người với Thực Thể Tuyệt Đối khác nhau tùy quan niệm, thời đại, xứ sở, nên đã phát sinh những tôn giáo khác biệt, nhiều khi tạo thành xung khắc, nhất là trong những trường hợp vô tình bị lạm dụng đến nỗi gây nên chiến tranh tôn giáo.

- Thưa bác, nếu nói rằng mọi sự, mọi vật đều do Tâm Thể phản ảnh thì mọi sự kiện hữu hình hay vô hình xảy ra cũng không ngoài Tâm Thể tuyệt đối này. Như vậy, đâu cần phải đặt vấn đề giảng giải, thiện ác, đúng sai, hoặc kiến tính hay vô minh! Đàng khác, phỏng suy cho cùng thì ngay cả đến tâm bồ đề hoặc bất cứ những điều chi được coi là lợi ích cho con người cũng chẳng có gì đáng nói. Nếu thế, thà đừng suy nghĩ, đừng tu, đừng thiền, đừng biết, đừng ham muốn, vì đã được sinh ra để sống thì cứ sống nên đâu cần lý này, thuyết kia, tôn giáo này, tổ chức nọ, và sao có thể bị bất cứ điều gì làm mù quáng, vô minh.

- Đó là trạng thái kiến tính, huyền đồng, giác ngộ, thức ngộ, chân sư, như như, minh triết, kỳ dị, điên, bồ tát, nhưng những danh hiệu này phải được hiểu trong giới hạn đạo học hay tâm linh mà thôi. Như tôi đã nói, anh em có cần phải quán, phải định, phải thức, giác hay ngộ hoặc tin, rằng mình là người hay không? Dù có những kẻ cho rằng họ không phải là người thì họ vẫn là người. Xét theo phương diện tâm linh, dù có bị lầm lạc, u tối, vô minh thế nào chăng nữa, chúng ta không phải chỉ là những xác thân này mà còn có một thực thể tâm linh tuyệt đối nơi mỗi người dù nhận ra hay không. Tuy nhiên, nhận ra thực thể tâm linh tuyệt đối nơi mình phải là hành trình quay về nội tâm chứ không thể chạy theo những gì bên ngoài. Điều này trước nhất có nghĩa chúng ta cần biết thinh lặng, cần biết quý trọng những giây phút cô đơn, cần biết định tâm, và cần có một tâm hồn rộng mở không lệ thuộc giới hạn nơi bất cứ thành kiến, kinh nghiệm, hay chủ thuyết nào.

- Thưa bác, vậy sự thực tập định tâm bác mới trình bày được dùng để làm gì. Tùy con ngập ngừng, cháu muốn nói nhưng không biết sao mà nói.

Rõ ràng Tùy con đang nói nhưng lại nói “không biết sao mà nói” khiến vài người bật tiếng cười nhẹ. Nét mặt cụ Tài lộ vẻ tươi vui, không muốn anh ta bị cảm nghĩ lúng túng làm phiền hà, cụ lên tiếng,

- Anh muốn nói đến sự áp dụng định tâm vào sự nghiệm chứng Thực Thể Tuyệt Đối, Cái Không?

- Thưa bác, vâng, cháu thấy hơi phi lý. Tùy lại ngập ngừng, thế nên cụ Tài nói luôn,

- Càng nói chuyện với anh em, tôi cảm thấy càng thú vị. Xưa nay tôi rất ngại bàn thảo về đạo học vì đã nhiều lần tôi bị hiểu lầm nhất là trong khoảng thời gian tôi cỡ năm mươi tới sáu mươi tuổi; bởi mình nói một đàng, người nghe hiểu một nẻo. Giọng cụ mang vẻ chậm rãi, đắn đo. Tuy nhiên, tối nay, những nhận xét của anh em đã khiến tôi vô cùng ngạc nhiên. Tôi nghĩ, đã đến thời điểm cho hành trình tâm linh con người được phát hiện. Bao thế kỷ trôi qua, đâu ai đặt vấn đề chứng cái không thì sao mà chứng! Thường thì câu nói “chứng Cái Không” được chấp nhận như một công án cho các thiền gia đến nỗi chính lục tổ phải lên tiếng về chấp không. Thực ra, nếu đặt vấn đề Thực Thể Tuyệt Đối, Phật Tánh, Tự Tánh, Tự Thể, không thể nghĩ bàn mà lại đòi chứng thì tất nhiên sẽ rơi vào vô ký không. Thế nên, đặt vấn đề về chứng Cái Không thì hành trình lại là chứng cái không phải là không để loại bỏ. Bất cứ những gì phát sinh nơi tâm trí, ý thức đều không phải Cái Không. Nói cách khác, chứng Cái Không nơi nhà Phật phải là chứng vọng tưởng và nhận ra đó là vọng tưởng, những gì có thể nghĩ tới, để hòa nhập tâm hồn vào cái không thể nghĩ tới và bởi vậy cần phải định tâm. Như thế, chứng cái không vẫn có nghĩa nghịch lại thành ra chứng cái có để đạt tới cái không. Tuy nhiên, vấn đề không phải chỉ là sự hiểu biết mà cần điều kiện thực hành. Thực hành lại cũng cần những điều kiện không thể thiếu...

- Bác muốn nói điều kiện minh triết?...

- Điều kiện tôi muốn nói cũng là căn bản để đạt tới minh triết. Nhà bác học Marconi đã thú nhận sự bất lực của khoa học trong việc tìm hiểu nguyên nhân cùng tột của vạn vật. Ông nói, “Khoa học hoàn toàn không thể giải đáp những bí quyết của sự sống. Đó là một điều tuyệt vọng đáng sợ nếu người ta không có đức tin. Sự bí mật của đời sống con người và vạn vật là một bài toán khó khăn vĩ đại nhất mà người ta còn phải tìm ra sự giải đáp” (XPHB; Tr.26). Tuy nhiên, người Tây Tạng có thành ngữ, “Kẻ nào ý thức được sự sống sẽ ý thức được cả sự chết.” Làm sao ý thức được sự sống? Người Tây Tạng có câu trả lời qua một thành ngữ khác, “Biết cách ý thức sự sống là một công phu và nếu nó là một công phu, người ta có thể tập luyện được.” (HTTT; Tr.29). Những nhà nghiên cứu về Đông Phương học thường cho rằng, nền tư tưởng Đông Phương hay có tính chất trừu tượng, siêu hình và ít thực tiễn. Ngược lại, những bậc chân sư hoặc chiêm nghiệm Đông Phương quả quyết con đường siêu thoát của Đông phương không mơ hồ, ảo tưởng, mà là một con đường đã được trắc nghiệm kỹ càng từ nhiều thế hệ. Mỗi chặng đường đều có những cảnh giới thực tại của nó, và một số chân sư đã trải qua để lại những chứng ngôn tương tự đã được xác định thành những phương pháp tu luyện. Tuy nhiên, những bậc hiền giả hoặc cao nhân khi thuật lại những nghiệm chứng đó thường chỉ dùng lối ám chỉ bóng bẩy, khó hiểu đối với những ai không thực nghiệm, mà ngược lại chỉ muốn dùng lý trí suy luận hầu mong đạt tới (TTÂĐ; Tr.238). Tôi nghĩ, sau khi hiểu sơ qua về Tâm Bất sinh, anh em có thể nhận thức rõ hơn về Tâm Phật mà đôi khi được gọi là Tánh Linh Giác. Bản tính này ứng cơ, tiếp vật, thể hiện nơi mọi vật. Sự nháy mắt, giơ tay, cử động chân tay, nói năng, ăn uống, suy nghĩ đều là sự thể hiện của tánh linh giác. Đây là hoạt động ứng hiện của Phật tính hay Pháp Thân. Thường chúng ta ít để ý đến sự thể hiện này của tánh linh giác nhưng chỉ để ý đến sự vật mình đang suy nghĩ. Như vậy, khi mình hoạt động không suy nghĩ, tất nhiên đó là hoạt động của tánh linh giác, của Chân Như nơi mình. Nghịch lại với tánh linh giác, những suy tư, ý niệm được tạo ra chính là vọng tưởng. Do đó, khi mình không suy nghĩ tức là đang sống thuận theo với tánh linh giác; đây là trạng thái niết bàn bởi không suy nghĩ thì không phát sinh vọng tưởng có nghĩa là không sinh nên không diệt. (KTTP).

- Thưa bác, con người như thế nào khác gì mộng du.

- Mộng du là một bệnh tật thể xác; sống thuận với tánh linh giác vượt hẳn lối sống ý thức. Nếu để ý, khi ngủ, con người bước vào trạng thái mộng mơ, và tâm thức thoát khỏi những giới hạn chật hẹp của phàm ngã thường ngày vẫn trói buộc tâm hồn trong vòng luẩn quẩn xác thân. Trong giấc ngủ, con người phần nào thể hiện trí lực toàn năng của mình. Trong giấc mơ, có thể người ta thấy xuất hiện những bạn bè thân thuộc đã chết từ lâu, hoặc những xứ lạ mãi đâu đâu chưa hề quen biết, hay cảnh tượng của những hồi xa xưa thời ấu thơ tái diễn trở lại. Tâm thức tự do khoáng đạt vô chướng ngại đó, mà tất cả mọi người đôi khi có kinh nghiệm trong giây lát nơi những giấc mộng của mình, vốn là tâm trạng thường xuyên của những vị đạo sư đã có sự giao cảm tâm linh với Thực Thể Tuyệt Đối thường được mệnh danh là Đấng Tạo Hóa. Trạng thái giấc mơ khi ngủ của mọi người tương tự trạng thái hoàn toàn vô dục, vô cầu, và sử dụng ý chí sáng tạo nơi các vị đạo sư. Một vị đạo sĩ khi đã tu luyện để biết cách sử dụng năng lực tự nhiên nơi mình có thể phối hợp những nguyên tử năng lượng của vũ trụ để thỏa mãn mọi lời cầu nguyện thành thật của các tín đồ (XPHB; Tr.30-31). Bởi vậy, con người mang bản thể thực thụ của Thực Thể Tuyệt Đối nên cần vươn mình tiến lên để chinh phục cái bản ngã vô minh, trọng trược; vì con người cần được nhận biết rằng tự bản thể mình mang quyền năng ngự trị nơi vũ trụ.

- Thưa bác, đôi khi cháu được nghe nói về những vị đạo sĩ thần kỳ, có tài năng vô biên, hô mây hoán gió và làm những phép lạ chẳng khác gì những đấng linh thiêng. Tuy nhiên, khi hỏi có phải người kể lại được chính mắt trông thấy hay không thì lại vẫn là chuyện nghe những người khác đồn thổi.

- Những vị đó rất ít xuất hiện nơi công chúng bởi quyền năng họ đạt được không phải để bày tỏ oai phong mua vui cho những kẻ hiếu kỳ. Đàng khác, qua sự hiểu biết của tôi, họ không quan niệm đó là quyền năng mà chỉ là sự hiển nhiên có sẵn nơi mọi người, và ai cũng có thể phát triển được nếu tu luyện đúng phương pháp. Đối với những đạo sĩ Tây Tạng, con người là một linh hồn, có tiềm năng sinh hoạt ở một cõi giới khác hơn cõi trần. Một khi đã giải thoát khỏi sự trói buộc của thể xác, họ có thể đi châu du khắp nơi trong vũ trụ càn khôn và giúp đời bằng sức mạnh tư tưởng. Phái Mật Tông Tây Tạng giải thích rõ, tư tưởng là những âm ba rung động của tinh lực. Vật chất chỉ là tinh lực đông đặc lại. Một tư tưởng, nếu biết điều khiển đúng cách và kết tinh lại, có thể làm di chuyển một đồ vật. Nếu áp dụng tư tưởng vào phương pháp thần giao cách cảm, ta có thể làm cho một người khác ở cách xa cảm nhận được ý nghĩ của mình và hành động một cách thích nghi theo ý mình muốn (TTHB; Tr.114). Tất nhiên, những vị đạo sĩ sử dụng được những khả năng này đều phải trải qua thời gian dài nhập thất, và thường thì cả đời, nên rất ít xuất hiện chốn công cộng.

- Như vậy, thưa bác, giá trả cho sự phát triển quyền năng quá mắc.

- Cuộc đời nhập thất không phải là khô khan hay vô ích như chúng ta thường tưởng tượng. Bà Alexandra D. Neel ghi lại lời giải thích của một vị đạo sĩ Gomchen, “Trong yên tĩnh, con người mới có thể lắng nghe được những âm thanh huyền diệu; vì tất cả mọi âm thanh trên thế gian này đều là những diệu âm của chư Phật, từ âm thanh của những con suối, tiếng gió thổi qua khe núi, tiếng chim kêu từ xa vọng lại, chỉ cần tĩnh tâm lắng nghe thì sẽ hiểu được sự mầu nhiệm của tạo hóa. Tất cả mọi sự xảy ra quanh mình đều nói pháp cho mình nghe, nhưng vì không ý thức được tánh nghe này nên con người có tai mà như điếc, có mắt mà như mù, cứ để cho dục vọng lôi cuốn, chỉ nghe những gì mình muốn nghe, chỉ thấy điều gì mình muốn thấy, và rồi cứ hành động theo quan niệm sai lầm đó. Nếu biết tĩnh tâm quan sát thì màu sắc của núi, của cây cỏ, của đất đá cũng đều là màu sắc của pháp thân chư Phật. Tiếng gió thổi, tiếng rì rào của cây cối cũng đều là tiếng chư Phật thuyết pháp, và chỉ cần hiểu được điều này để sống theo đó thì người ta đã có thể tiến bộ rất xa rồi” (HTTT; Tr.80). Đàng khác, chẳng hạn như ở Tây Tạng, người ta tin tưởng mạnh mẽ nơi sự luân hồi. Họ cho rằng một người đã đạt tới một trình độ tâm linh nào đó, có thể chọn lựa sống trên một cõi giới khác, hoặc trở lại thế gian để học hỏi thêm hay để giúp đỡ nhân loại. Có khi một hiền giả phải thực hiện một sứ mạng nhất định trong đời mình, nhưng lại qua đời trước khi hoàn thành sứ mạng. Trong trường hợp đó, nhà hiền giả có thể tái sinh trở lại thế gian để hoàn tất công việc còn dở dang trong kiếp trước, dưới điều kiện là công việc ấy sẽ hữu ích cho nhân loại (TTHB; Tr.78). Xét như vậy, trả giá một đời cho mục đích siêu việt và từ đó đem lại lợi lạc cho chúng sinh nào có chi mắc mỏ. Là người, ai cũng muốn có cơ may để thực hiện những ước mơ cao cả; tuy nhiên, cơ may lại là những gì bị coi là khốn khổ; ít ai đủ nhận thức dám thử. Hơn nữa, cuộc sống minh chứng, không ai thích trường học thế gian, nhưng người ta vẫn phải sống để học hỏi. Cuộc đời nơi thế gian là gì nếu không phải là một trường học? Và đó là một trường học rất gian khổ (TTHB; Tr.151). Bởi vậy đối với con người, đã chắc gì thời gian nhập thất trả giá mắc hơn sống cuộc đời bình thường, mà có thể ngược lại bởi chúng ta đã chưa bao giờ dám thử.

- Thưa bác, sống cuộc đời bình thường nào đâu thiếu những lúc tâm trí thảnh thơi. Hơn nữa, nếu nói cho đúng, cuộc đời nhập thất hoặc xa lánh liên hệ với loài người chỉ phải đối diện với lối sống thiếu tiện nghi chứ đâu phải chịu đựng những điều ngoài ý muốn nhiều khi cố tránh cũng không được. Xét theo khía cạnh khác, hầu hết con người được sinh ra với khuynh hướng cá biệt, đồng thời mang sẵn bản năng sinh tồn thì lối sống tốt nhất là sao cho hợp với tự nhiên. Những người nhập thất được sinh ra với khuynh hướng ấy thì hãy đi theo con đường đơn độc, và như vậy, chỉ một số ít người, cuộc đời nhập thất mới hợp với họ.

- Cảm giác an nhiên tự tại có được nơi tâm hồn do hoàn cảnh tĩnh lặng bên ngoài chỉ giúp người ta quên đi hoặc lấy lại sự quân bình do cuộc đời muôn mặt ảnh hưởng, khiến con người mất bình tâm mà thôi. Mục đích con đường tu đạo hay nhập thất là làm sao hành giả có thể giữ được tâm trạng ung dung tự tại trong mọi hoàn cảnh, từ chốn cô tịch, vắng lặng cũng như nơi ồn ào náo nhiệt. Đây là thời gian thực tập giúp tâm không rung động trước cảnh vui cũng như buồn, thuận duyên cũng như nghịch duyên; do đó đôi khi người tu phải chấp nhận thử thách, nghĩa là bước chân trở lại sống nơi thế giới đầy phiền toái bên ngoài để xem khả năng chịu đựng và hành trình nhẫn nhục của mình thế nào (HTTT; Tr.81-82). Hơn nữa, sống theo những con đường êm ái dễ dàng không phải luôn luôn là một điều tốt. Những ai tin ở định luật luân hồi cần ý thức rằng; người ta sinh ra nơi cõi trần để học hỏi kinh nghiệm. Cuộc đời trần gian có thể là đắng cay, đau khổ, nhưng những bài học mà chúng ta phải học hỏi, kinh nghiệm chỉ có một mục đích duy nhất là trui rèn và thử thách để cho ta trở nên tinh luyện, khôn ngoan và minh triết hơn (TTHB; Tr.140). Nếu cõi đời này chỉ là một niềm vui vô tận thì có bao giờ loài người mong muốn một cõi giới khác? Nếu không có đau khổ, con người sẽ không bao giờ thức tỉnh để tự tìm hiểu mục đích cuộc đời của mình và như thế làm sao tìm được cơ hội tự nhận thức bản thể uyên nguyên. Khổ đau là những cơ hội nhắc nhở con người đừng quên bản thể chính mình và cũng đồng thời kiến tạo nỗi khát khao tâm linh, nhận biết chính mình. Chính những thăng trầm, khốn khổ nơi cuộc đời, đẩy con người tới nhận thức rõ ràng, và đó là chỉ có sự minh triết, giác ngộ mới đích thực là con đường giải thoát. Cái chết chỉ là hư ảo; người sợ chết cũng giống như một diễn viên dốt nát hoảng sợ điếng hồn trên sân khấu; khi một tài tử đồng nghiệp bắn y bằng một phát súng giả. Những đứa con của Thượng Đế đều là con của ánh sáng; họ sẽ không mãi ngủ mê trong vòng tối tăm ảo giác (XPHB; Tr.35). Sống nơi trạng thái thinh lặng của tâm hồn, được tương trợ bởi cuộc đời cô lập khỏi sự ồn ào, quấy phá ngoài ý muốn, người tu học được rất nhiều, và quan trọng nhất, họ đã hiểu được chính họ, biết rõ về họ, và biết cách sống thoải mái với chính họ. Điều này không ai có thể giải thích được vì chỉ những người thực hành mới có thể nghiệm chứng mà thôi; bởi vì sự thể nghiệm bản thân thì không thể nào thuyết minh hay luận lý được. No hay đói chỉ có người tự ăn mới biết. Do đó, sự thực tu, thực hành, là điều kiện tiên quyết để thể nghiệm chân lý (ĐTPG; Tr.257). Chẳng những thế, chỉ những ai thực hiện nhập thất để tu chứng mới cảm nhận được ý nghĩa lời khuyên “Hãy tìm kiếm sự phong phú tâm linh thay vì những của cải vật chất nơi trần gian.” Khi anh em sở đắc được kho tàng tâm linh, anh em sẽ thấy rằng những lợi lộc vật chất tự nhiên sẽ đến (XPHB; Tr.41). Tôi nghĩ, mấy anh em theo Thiên Chúa giáo thường được nghe câu nói, “Tiên vàn hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và sự công chính của Người rồi mọi sự khác sẽ được ban thêm cho các ngươi” (Mt. 6:33).

- Thưa bác, bác muốn nói nước Thiên Chúa có nghĩa sự giác ngộ. Bá ngắt lời cụ Tài.

- Nếu so sánh Thực Thể Tối Thượng với Phật Tánh, Tự Thể, với Thiên Chúa theo quan niệm nơi Phúc Âm và dành giờ suy nghĩ chín chắn, vô tư, anh em sẽ tự nhận thức được. Xét về Thực Thể Uyên Nguyên của vạn vật, cho tới lúc này nơi ngôn ngữ trình bày suy tư, tôi chỉ có thể giãi bày được rằng bản chất thật sự của vạn vật là năng lượng, đôi khi được quan niệm như ánh sáng nguyên thủy của Thượng Đế. Giải thích sự tổng hợp năng lượng cách nào hay theo nguyên lý, nguyên tắc nào vẫn chưa một nhà bác học hay chuyên khảo nào có thể nói đúng được; mà những lời giải thích vẫn là những giả thuyết. Đó là lý do tại sao nhiều nhà đạo sĩ Ấn Độ cho rằng nguyên thủy của vạn vật là ánh sáng. Điều này cũng được chứng minh nơi những kinh nghiệm của những người trở về từ cõi chết; họ nhìn thấy ánh sáng lạ kỳ cuốn hút họ và trong suốt thời gian sau này còn tiếp tục sống ở dương thế; tất cả tâm thức họ chỉ dồn vào nỗi mong muốn được trở lại với nguồn sáng vĩnh cửu họ đã gặp được nơi kinh nghiệm của lần chết đã qua. Qua những bài phóng sự, biên khảo hay phỏng vấn mà chúng ta có thể đọc được nơi các tạp chí hay sách báo, quan niệm của những người trở về từ cõi sáng, lối nhìn của họ về cuộc đời hoàn toàn đổi thay. Vì họ không thể nào trình bày cảm nghiệm nơi kinh nghiệm chết này nên thật khó cho chúng ta đạt tới cảm nghiệm như họ; hy vọng với lòng khát khao thực sự, may mắn nào đó sẽ dẫn đưa tâm thức chúng ta đạt tới cõi đó. Bởi vậy, khi tôi dùng ngôn từ “ánh sáng” hay “năng lượng,” anh em không nên phân biệt vì dẫu sao chúng chỉ là ngôn từ để chỉ về cùng một thực thể. Khoa học nói rằng ánh sáng mang năng lượng. Tại sao họ không nói rằng ánh sáng chính là năng lượng cũng như mọi vật đều là sự tổng hợp kết cấu phức tạp của năng lượng. Bình thường, chúng ta cho rằng năng lượng tạo sức nóng. Chúng ta đã vô ý thức tách biệt năng lượng khỏi sức nóng nên bỏ rơi thực thể năng lượng chính là sức nóng cũng như tách rời năng lượng từ cơ cấu tạo thành vật thể. Khoa học minh chứng rõ ràng điều này, là bất cứ vật thể gì đều có thể biến thành năng lượng. Muốn biến cây củi thành năng lượng, chúng ta dùng lửa để đốt. Đàng khác, cây củi, nơi một sức ép hay ma sát nào đó sẽ bị nổ tung để biến thành năng lượng, một lịch trình đột biến ngược chiều qua phương tiện hay điều kiện thuận lợi. Như vậy, nghiệm chứng, thực chứng chính là hành trình ngược chiều sinh hóa của con người trên phương diện tâm thức. Tuy nhiên, còn dùng ngôn từ, văn tự, chúng ta vẫn còn bị ngôn từ hay văn tự trói buộc. Nói như vậy, tôi chỉ có ý định khuyến khích anh em cảm nghiệm về thực thể, điều được gọi là chính mình, cái ta nơi anh em như thế nào. Suy rộng hơn, đó là  hành trình đi ngược để kiếm về nguyên ủy con người. Nói theo lý thuyết Công giáo tức là tìm về Thiên Chúa, tìm về nước Trời. Bởi vậy, anh em chẳng nên ngạc nhiên khi thấy giới “New Age” ngày nay gọi Thượng Đế là Energy, Năng Lượng. Tóm lại, tôi muốn nhắc nhở anh em hãy biết quý trọng những giây phút cô tịch, vì đó là những cơ hội tuyệt vời nhất để anh em cầu nguyện, suy tư, cũng như cảm nghiệm trực tiếp với Thực Thể Tuyệt Đối chan hòa và bao trùm mọi loài, mọi vật từ những gì anh em có thể tiếp xúc bằng ngũ quan tới những cảm nghiệm thâm kín nhất nơi tâm trí.

- Bác muốn nói sự suy tư trong cô tịch cần thiết hơn sự hiểu biết, học hỏi? Bá lên tiếng.

- Anh nói đúng. Tất cả những sự hiểu biết được ghi trong sách vở, nói cho cùng, chỉ là cơ hội gây cảm ứng nội tâm nơi người đọc từ những điều được giãi bày phát xuất từ cảm nghiệm của tác giả. Kinh sách nhà Phật nhắc đi nhắc lại rất nhiều về điểm này; chẳng hạn, ngón tay chỉ mặt trăng nhưng ngón tay không phải mặt trăng; lời ta nói như chiếc bè; người uống nước nóng lạnh tự biết; pháp ví dụ như chiếc bè; không biết tự tâm thì học đạo vô ích, v.v... Đàng khác, sự hiểu biết nơi kinh sách mang hai ảnh hưởng đối nghịch tùy chiều hướng người đọc. Nếu người đọc chủ đích kiếm tìm kiến thức, trong giới hạn nào đó họ được gọi là học giả, học thức. Nếu người đọc nghĩ rằng chỉ cần hiểu về những điều đã đọc là đủ, những kiến thức sẽ trở thành hàng rào ngăn cản cảm nghiệm. Tôi muốn nhắc lại, những kiến thức nơi kinh sách không khác gì bia rượu trước mặt anh em. Dù có giải thích đến mấy, hiểu biết đến mấy mà không uống, anh em cũng không cảm nhận thực sự bia, rượu như thế nào. Tuy nhiên, uống bia, uống rượu thì lúc nào cũng được nhưng suy tư cảm nghiệm tuyệt đối đòi hỏi sự yên tĩnh tâm hồn. Những ai chưa đạt tới trạng thái này tất nhiên cần sự cô tịch, những thời giờ sống cô đơn.

- Thưa bác, nếu đã có tâm hồn yên tĩnh thì sao nói đến suy tư?

- Anh hỏi do kinh nghiệm hay do kiến thức? Sự tĩnh lặng của tâm hồn không có nghĩa là sự bất động của tâm thức hay ngăn giữ nó đứng yên, nhưng là một trạng thái tâm thức thực sự tự do không bám víu, ràng buộc hay vướng mắc vào bất cứ điều gì. Sự chuyển vận của tâm thức cũng giống như sự hòa hợp của một cung nhạc giao hòa với những cung nhạc khác. Chỉ khi tâm thức không bị ảnh hưởng hoặc lệ thuộc bất cứ giềng mối nào, tự thể mới hiển lộ. Thế nên, ngay trong giây phút bắt đầu phân tích hoặc sắp đặt dữ kiện nơi tâm thức thành hệ thống kinh nghiệm tâm linh, chúng ta đã bóp méo thực thể nội tâm của chúng ta. Bởi thế, chính trong sự yên lặng mà đầu óc con người trở thành vô cùng mẫn cảm. Chỉ trong sự tĩnh lặng, con người mới có thể cảm nghiệm, phát triển, và đạt được những quyền năng nội tại mà chúng ta vẫn cho là đặc biệt, khác thường. Sự yên lặng của cô tịch loại bỏ những chi phối nơi ngoại cảnh và tạo ra một cơ hội mà tư tưởng có thể tập trung. Khi tinh thần lúc nào cũng tập trung, bất cứ một tư tưởng nào nẩy sinh cũng đều được khuếch đại lên, và với một sự tập luyện cẩn thận, người ta có thể phát triển được nhiều khả năng phi thường. Như vậy, thời giờ sống trong yên lặng vô cùng cần thiết cho những người hoạt động bằng trí óc, và đây cũng là ý nghĩa tích cực của sự nhập thất của các tu sĩ mật tông.

- Thưa bác, mới chỉ nghe đến sống một mình lẻ loi nơi khung cảnh rừng rú hoang vắng, sao cháu đã cảm thấy nỗi cô đơn nào đó dội lên trong lòng.

- Sự cô đơn thường được cảm nhận như một điều bất hạnh vì nói chung, con người đã quá quen với cảnh ồn ào náo động; tuy nhiên, nếu ai đã từng để ý những cơ hội sống trong thinh lặng, họ sẽ thấy nó như một ân huệ. Chúng ta cần sống vượt bên trên những cảnh sống bình thường trong đó con người luôn luôn đua đòi, chạy theo muôn ngàn mơ ước; hãy tập quen sống trong cô đơn. Bởi vì nếu muốn tìm thấy sự sống tâm linh giữa đám đông người, phỏng ta sẽ thấy gì? Tâm tư chúng ta đã chắc gì ở đó. Nếu muốn tìm chân lý hay sự thật, ta chỉ thấy có sự hư giả, dối trá được che lấp dưới những bộ mặt hình thức. Điều anh em có thể nhận thấy nơi kinh nghiệm, đó là khi những âm thanh ồn ào, những danh từ hào nhoáng của ngôn ngữ chấm dứt, người ta mới có thể cảm thông với hoàn cảnh chung quanh một cách rõ rệt, chính xác hơn. Nếu anh em để ý, cứ mỗi lần suy tư về những chuyện hay lời nói đã xảy ra nơi một vài bữa nhậu, anh em có thể biết thêm được một vài điều bổ ích cho nhận thức. Chẳng hạn anh em có nhận định về một vài trường hợp mình nên thế này hoặc không nên thế kia. Từ đó, thật dễ dàng nhận thấy sự suy tư trầm lặng hằng ngày đem đến những kết quả dồi dào của sự sinh hoạt tâm linh. Và cũng từ đó chúng ta có được sự cương nghị trong những giờ phút quyết định, sự can đảm dám sống một cuộc đời độc lập không tùy thuộc vào dư luận của một số đông người, và sự ổn định tinh thần giữa tất cả những cơn loạn động ồn ào của cuộc đời thế tục.

- Như vậy, thưa bác, đó chỉ là tự nhận biết để hài hòa với chính mình.

- Anh còn muốn đòi hỏi gì hơn nữa! Biết chính mình mới khó; vì đó là biết tất cả, biết mục đích sống để làm gì, biết mình là ai, mình từ đâu tới, và mình sẽ đi về đâu. Từ đó anh sẽ tìm thấy nơi anh một thứ hạnh phúc không lệ thuộc ngoại vật cũng không lệ thuộc tha nhân. Một tâm trạng giải thoát không ai có thể cướp được, đó là tâm trạng tôn giáo kết tinh bởi sự nẩy nở, thăng hoa các ý thức sâu kín trong nội tâm. Anh sẽ tự tìm thấy mọi câu giải đáp khi ý thức thực chất của chính anh và sự cao cả của Thượng Đế nơi anh. Chỉ khi đó, mọi sự tìm kiếm ở ngoại cảnh tự động sẽ chấm dứt. Anh không nhớ câu “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ” sao! Sự ấm áp vốn ngự bên trong tâm hồn. Anh em chắc có thừa kinh nghiệm nơi những buổi dạ hội hay văn nghệ, chung quanh mình cả mấy trăm người mà vẫn thấy mình cô độc như ở trên bãi sa mạc hoang vắng. Những thể xác con người có thể ngồi lại gần nhau, nhưng tâm trí chúng ta cách biệt muôn trùng, và mỗi người vẫn thấy mình cô độc.


Những lời phát biểu từ miệng một cụ già gần chín chục tuổi về Phật học đã khiến nhóm thanh niên xồn xồn tâm phục khẩu phục. Đùng một cái, cũng những lời nói từ cửa miệng ấy vượt hàng rào phân biệt tôn giáo mở rộng tầm nhãn quan cho mọi người. Xưa nay, ai không cảm thấy ngại ngùng khi nói chuyện hoặc bàn cãi về tôn giáo chỉ vì e ngại đụng chạm tới những niềm tin khác biệt của người đối thoại. Chính cụ Tài lúc đầu cũng đã nói lên mối e ngại này; thế mà giờ đây cụ đem quan niệm nhà Phật, Ấn, Thiên Chúa giáo quấy trộn lẫn lộn một cách thuận lý hợp tình làm mọi người ngạc nhiên, chẳng ngờ. Xưa nay ai không nhận thấy cá tính cụ già dễ dãi, cảm thông, ăn nói chừng mực, đắn đo. Cụ không theo một tôn giáo nào; ai dè, mấy tiếng đồng hồ trôi qua, những cảm nghiệm nhận thức về Phật học tuần tự được trình bày nhiều lúc khiến nhóm người trẻ vẫn tự hào đang ở thời điểm sáng suốt cũng phải tối tăm mặt mày. Từ đó, nơi đầu óc họ nổi lên sự khắc khoải thầm kín khó diễn tả. Có sự tương đồng nào đó nơi những nguyên lý đạo học đã bị các nghi thức hay niềm tin tôn giáo che khuất và đã tạo nên những hàng rào ngăn cách được thể hiện qua những danh hiệu khác biệt. Hình như câu nói bình dân “Đạo nào cũng là đạo” mang đầy tính chất hài ước, diễu cợt, thâm trầm nhưng được phổ biến một cách cung kính. Cụ lột trần bộ mặt trái của những kẻ dựa hơi trên danh hiệu niềm tin mà đã chẳng biết mình tin gì; bởi chưa bao giờ nghiệm điều được gọi là tin. Ngược lại, cụ nêu lên động lực khát khao tâm linh tận đáy lòng những người dám vỗ ngực xưng danh vô thần để chứng minh sự thể người ta thường nghĩ vậy nhưng không phải vậy. Người rêu rao điều mà chính họ không cảm nghiệm được thì phỏng ai có thể hiểu họ muốn nói gì. Cuối cùng, cụ nhấn mạnh và khuyến khích sự phát triển sức sống nội tâm bằng cách sử dụng những giây phút cô độc để nhận ra chính mình.


Bình thường, khi rượu bia thấm vào cơ thể khuyến khích những đài phát thanh ăn nói phóng mạng; nào ai ngăn cản được cảnh ồn ào thường xảy đến nơi nhóm bạn bè quen thuộc. Họ đâu khác chi chốn loạn quân loạn quan; người nào cũng có quyền phát biểu chẳng chút e dè, nhiều lúc lạm dụng tính chất rượu vào lời ra tạo nên lắm cảnh điếc tai, ngoại trừ những kẻ lòng mang ý đồ thầm kín. Thế mà tối nay, cũng những “cái đài” vô trật tự ấy tự ý ráp vào khuôn phép, và lỡ khi ngựa quen đường cũ, “đài” nào buông lơi những lời nói tào lao, liền bị chặn họng khép vào kỷ cương. Cụ Tài cảm thấy niềm vui dâng dâng. Những e ngại “ngày xưa” đã bao năm tháng dày vò tâm hồn cụ chợt tan biến. Chẳng lẽ con người cứ mãi bị màn vô minh che lấp; chẳng lẽ công đức những bậc hiền nhân rơi vào hư vô bởi nghiệp chướng chúng sinh quá nặng nề bịt kín mọi kẽ hở, không còn đường lối cho ánh sáng thức ngộ tràn tới. Cụ thầm nghĩ, cũng có lý khi một số người đã phí bỏ cả cuộc đời kiếm thuốc trường sinh. Thuốc nào có thể giúp thân xác trường sinh vì dẫu là đất đá vẫn bị hao mòn theo năm tháng. Người ta kiếm tìm hóa chất nơi cây cỏ kích thích bộ óc làm việc nâng cao sự nhận diện đích thực bản thể con người. Ý nghĩ này chợt đến nơi tâm trí cụ khi nhận ra men bia đã không gây được phản ứng thường tình nơi đầu óc những người trẻ mà hình như tạo tác dụng ngược lại, khuyến khích họ sử dụng tối đa khả năng suy tư đồng thời gạt bỏ những lề lối quen thói nhận định xưa nay dẫu vẫn còn bị nặng nề ảnh hưởng.


Đêm đã quá khuya nhưng những con ma men chưa tỏ vẻ gì mệt mỏi khác hẳn mọi bữa nhậu. Nỗi khắc khoải nào đó hiện rõ trên những khuôn mặt nhóm nhậu dẫu khó diễn tả thành lời nói. Thân xác họ ngồi đó, vòng quanh chiếc bàn ngổn ngang những chén đĩa và vỏ bia; kẻ ăn, người uống, trong giây phút chợt bặt tiếng người nói. Dường như sự nhận thức về thức ngộ trộn lẫn với ý niệm nước Thiên Chúa dẫn tâm trí họ tới cảnh giới nào đó vượt khỏi thực tại hữu hình được nhận biết qua các quan năng. Cử điệu ăn uống của họ chậm chạp mang vẻ thận trọng, ý thức hơn. Cụ Tài cảm thấy hơi mệt nên đứng dậy định vô phòng nghỉ.

- Thưa bác, nói như vậy thì các đạo học đều quy về một thực thể tối thượng nhưng sao không thấy có được đường hướng trình bày nguyên tắc căn bản đồng nhất hầu giảm bớt phần nào dị biệt ngăn cách tạo nên những khác biệt quan niệm niềm tin? Phủ lên tiếng một cách đắn đo.

- Nói về niềm tin tất nhiên anh đã vô tình chấp nhận sự khác biệt; vì những con người thì khác biệt, sống nơi những môi trường và thời đại khác biệt. Bất cứ đạo học nào cũng đều nhấn mạnh đến sự xác tín, một trạng thái tâm thức vượt hẳn niềm tin dẫu không được hoặc rất ít khi nhấn mạnh. Tuy nhiên, đem ý niệm xác tín đặt vào Phật học sẽ bị trở thành vọng tưởng. Dù tùy thuộc khuynh hướng nghiệm chứng khác nhau như Phật học, Mật Tông Tây Tạng, Ấn học, Lão học, huyền môn Ai Cập, và Kinh Thánh, xác tín mang vị thế tuyệt đối. Trải qua nhiều năm tháng cảm nghiệm, tôi thấy điều hơi lạ đó là quyền lực xác tín và tưởng tượng giữ vị thế căn bản nơi hành trình thực nghiệm phát triển năng lực tối thượng nơi con người, nhưng khi bước qua ngưỡng cửa thức ngộ, năng lực tưởng tượng và xác tín tự động tan biến nhường chỗ cho cảm nghiệm, nhiều khi được nhắc đến để chỉ trạng thái hòa nhập với Tâm Thể Tuyệt Đối không thể diễn tả. Trạng thái này thường xảy đến nơi nhận thức cảm nhận của con người nhưng ít được để ý; chẳng hạn đôi lúc nào đó nơi tâm trạng cô tịch, chúng ta cảm thấy mình là một thực thể nào đó, không phải là những gì có thể nghĩ tới để xác định. Trạng thái này rất ngắn ngủi, chóng qua nên chúng ta dễ lãng quên hay coi thường. Tôi định nói với anh em khi đề cập tới cuộc đời nhập thất của các vị đạo sĩ nhưng thấy chưa đúng lúc. Nhân tiện nhắc tới những giây phút hiếm hoi cảm nhận trạng thái cảm nghiệm thực thể không thể xác định về bản thân nơi mỗi người, tôi muốn đề nghị anh em, từ nay về sau, nên để ý đến tâm trạng cảm nhận quý báu này. Thêm vào đó, tâm trạng này chỉ xuất hiện những khi anh em cảm thấy cô tịch. Như vậy, điều tiên quyết, anh em nên biết coi trọng những giây phút cô đơn, vì trong nỗi cô đơn, vắng lặng, tâm hồn chìm sâu nơi trạng thái cô tịch, mở rộng, nhường lối cho Tự Thể phát hiện. Những giây phút này nào khác chi sự nhập thất của các vị đạo sĩ.


Giọng nói cụ Tài nhẹ nhàng, trầm ấm, truyền tới mọi người lòng cảm nhận sự xác tín vững vàng được phụ họa bởi kinh nghiệm ít được để ý nơi mọi người. Chỉ vài lời đơn sơ, cụ đã chứng minh tầm quan trọng của những thời điểm cô đơn nơi kiếp người mà xưa nay ai nấy đều vô tình không để ý, có chăng ngược lại, luôn luôn tìm cách tránh thoát bằng những hành vi náo động, hoặc chiều theo tâm tư hướng ngoại hầu che lấp. Sự giải thích và đề nghị của cụ hình như minh chứng có cả một kho tàng bao gồm nhiều điều bí ẩn chẳng ngờ chất chứa nơi con người lão thành, dẫu nhiều lần mọi người có cơ hội giao tiếp nhưng đã chẳng biết để ý đào bới.

- Bác giải thích sự xác tín bị đồng hóa với vọng tưởng nhưng sao có được vị thế tối quan trọng nơi hành trình thực nghiệm nhà Phật?

- Trong giới hạn thực nghiệm được áp dụng từ Phật học, có nhiều phương cách thường được gọi là pháp để đạt tới thực thể giác ngộ; dẫu các pháp nơi nhà Phật cũng chỉ là huyễn vì tất cả đều quy về một Phật pháp duy nhất là kiến tính. Trên bình diện chung của các ngành đạo học, có ba đường lối tu trì. Con đường thứ nhất được áp dụng nơi tôn giáo gọi là thờ phượng bao gồm niệm chú, cầu nguyện, tuân giữ nghi thức, giới luật. Con đường thứ hai chính là minh triết được áp dụng bằng cách sử dụng khả năng lý trí nâng cao nhận thức và ý thức để tiến đến trạng thái tâm thức, tự thể hòa nhập thực thể tuyệt đối. Con đường thứ ba gọi là thiền bao gồm quán tưởng và hành định thường được áp dụng nơi các phái mật tông và huyền môn để đạt tới những cảnh giới đại định hay điểm đạo. Trong ba lối tu, phương pháp minh triết là con đường nhanh nhất dẫn tới giác ngộ. Tuy nhiên, mật tông của thiền hay điểm đạo của huyền môn là lối tu luyện để có thể sử dụng năng lực tự nhiên sẵn có nơi con người đòi hỏi ý chí, sự chịu đựng xác thân, và lòng kiên trì cũng như một tâm hồn xả kỷ. Thực ra, nguyên tắc chung để phát huy năng lực nội tại chỉ là biết cách sử dụng định luật thiên nhiên hay định luật phép lạ.

- Bác nói sao, đã gọi là phép lạ thì sao có định luật?

- Có lẽ anh em quá quen với cảm nghĩ những gì xảy ra ngoài tầm hiểu biết của mình được gọi là phép lạ nên không bao giờ dám tự đặt vấn đề về lý do hay nguyên nhân tại sao sự việc xảy ra mang đầy tính chất bất ngờ. Sự bất ngờ chỉ xảy đến với những ai không biết nguyên nhân. Giả sử anh em nào đó đem máy truyền hình chạy bằng pin kèm theo đĩa nhận hình (satellite) tới một đám dân chưa bao giờ biết truyền thanh truyền hình là gì thì họ sẽ cho rằng đó là máy làm phép lạ. Anh em đã nghe truyền thuyết đây đó từ lâu về thần giao cách cảm và cho đó là sự lạ. Tôi thử hỏi, vậy điện thoại anh em thường dùng không phải là phương tiện thần giao cách cảm ư? Những gì mình vừa nghĩ tới trong lúc nói truyện, người đầu giây bên kia nhận được ngay lập tức nếu nói cho họ biết, không phải là cách cảm sao? Thế nên, được gọi là phép lạ tất cả những gì xảy ra ngoài tầm hiểu biết của người quan sát. Những sự kiện này dựa trên quyền lực nội tại của người thực hiện, qua ý định, ước muốn, nói chung, đó là quyền lực tư tưởng. Tương tự như thế, định luật phép lạ chỉ có thể thực hiện được bởi bất cứ người nào đã nhận thức rằng tinh hoa của vũ trụ là năng lượng. Một người có thể sử dụng sự hiểu biết siêu đẳng của mình về hiện tượng năng lượng để phóng phát ra trong khoảnh khắc trước mắt người khác những nguyên tử năng lượng vốn tràn ngập khắp nơi trong không gian. Cái hình thức của sự phóng phát ấy, dù đó là một cái cây, một thể xác con người, hay bất cứ một vật gì, đều là kết quả của quyết định bởi ý muốn, mãnh lực ý chí và sức tưởng tượng của con người. Đây chính là ý nghĩa câu nói nơi nhà Phật, “Ý niệm tạo chúng sanh.” Nơi Phúc Âm dùng danh hiệu Ngôi Lời hoặc ngôn từ Chúa phán cũng đồng ý nghĩa như thế. Tuy nhiên, vì dùng ngôn từ hữu vi theo nhận thức Tây phương nên các dịch giả đã phần nào thiếu tế nhị trong sự diễn tả nhận thức suy nghiệm vì trước khi được phát xuất thành lời nói hay lệnh truyền phải là ý định, ý nghĩ, gọi chung là ý niệm. Ngừng một chút, cụ Tài quyết định, thôi, tối nay nói thế quá đủ, để khi khác vì anh em cần nghỉ lấy sức lo công việc của ngày mai. Nếu anh em muốn hiểu thêm, cho tôi biết khi nào thuận tiện.

- Tuần tới mời bác quá bộ đến nhà con. Phủ nhanh nhẩu, cháu sẽ đãi bác hai món, tiết canh và vịt nấu chao nhúng cải cay non ăn với bún.


Đôi lời vừa thoát khỏi cửa miệng Phủ đã khiến những cặp mắt sáng lên chừng như hương vị thịt rùa chưa kịp tiêu tan mà lòng ruột họ đã cảm thấy xốn xang bởi no bụng nhưng đói thói quen tụ tập, đàn đúm. C..ạ..p, c..ạ..p, c..ạ..p,... cuối dãy ghế, Tam, hai cùi chỏ chống lên mặt bàn gom đôi tay làm loa giả giọng loài có cánh, mỏ vàng, biết bơi, nhưng bước đi lạch bạch, được mọi người mệnh danh con vật bắc kỳ vì tiếng kêu nhắc nhở kiểu nói tục nếp miền quê Bắc Việt.

- Không được, không được, làm như thế là bất kính với bậc trưởng thượng. Bá dõng dạc,

- Chú nói bất kính như thế nào?

- Bác đã trọng tuổi, Bá lên giọng có vẻ đứng đắn, mà đãi bằng tiết canh vịt với bia thì bụng dạ chịu sao nổi. Đó là bất kính.

- Thằng con rể mới biếu tớ một bình Hennessy to tổ bố, sao dám nói tiết canh vịt với bia. Ah, chú dám đánh lừa tớ.

- Tôi chỉ ngỏ lời với lòng thành ngăn ngừa sự vô tình có thể tạo thành nghiệp chướng tạm gọi là tôn trọng bậc đàn anh vì ông lớn tuổi hơn. Có thể nói đây là chiêu “Kính lão đắc thọ, cho lão vào rọ” mà thôi. Nhân tiện, tôi cũng xin phép được đại diện bác Tài chấp nhận lời mời, quá bộ tới thăm các cháu. Riêng vấn đề đại diện cho tôi và quý bậc trưởng thượng trong nhóm, yêu cầu chủ tịch đáp ứng lời mời.

- Tửu bất khả ép nhưng đã ép tất nhiên bất khả từ. Chúng ta chẳng lẽ tỏ thái độ khinh chê anh em bằng cách không thèm tới khi đã được trang trọng bày tỏ lời mời. Bởi vậy, nhân danh trọng tài, tôi tuyên bố anh em trong nhóm chấp nhận lời mời, phần nào chứng tỏ lòng tôn trọng và đáp ứng sự quảng đại của chủ gia. Yêu cầu anh em cho ý kiến.

- Đồng ý, đồng ý, nên chấp thuận.

Có lẽ không cuộc trưng cầu dân ý nào đem lại kết quả hợp nhất nhanh hơn hương vị mời gọi của thánh Hennessy đối với đám hũ chìm!

 

CHƯƠNG 3


Đoạn đường 110, băng ngang thành phố D'Iberville, dẫn du khách từ xa lộ 10 vào Biloxi, từ ngày được mở rộng thành bốn hàng lái xe hai chiều, đã trở nên phương tiện thay đổi bộ mặt kiến trúc phố nhỏ, đèo heo hút gió, bao năm buồn chán với tiếng gào thét ghê rợn của gió mưa trong những mùa giông bão, đua nhau nổi cơn thịnh nộ đem theo muôn vàn lớp sóng dữ dội, hằn học đập vào bờ biển, hầu phô trương uy quyền cùng đám dân, chẳng có khu kỹ nghệ nào thuê mướn làm công nhân hoặc những phương tiện khác để mưu sinh, đành liều mạng với ngành nghề “đâm hà bá.” Những cơ sở mua bán tôm cá càng chứng tỏ đậm nét tang thương, nhẫn nhục nơi con người chịu đựng nỗi đe dọa, giận dữ phũ phàng của trời đất. Hai hãng mua tôm, cá, ghẹ, sò, ốc, và một hãng có tàu “đánh cá phân” biến chế thành thực phẩm nuôi chó, mèo; cảnh sắc Biloxi dọc theo bờ biển ngày ấy chỉ có thế.


Được thiết lập lòi hẳn ra ngoài bờ nước, ngự trên những cây cọc gỗ thông nhuộm hắc ín đóng sâu xuống lòng biển, từ xa nhìn tới, hãng mua tôm cá mang hình dáng chẳng khác gì con trâu đen đủi với làn da bẩn thỉu, mốc meo vì bùn đất, đang chực rơi xuống vùng nước mặn bởi đuối sức, cố gượng trườn tới đám cỏ cằn cỗi, nằm dọc con lộ mà phu quét đường quên cắt, mong được gặm mấy miếng cầm hơi, kéo dài ngày tháng tàn tạ được lúc nào hay lúc ấy. Những cây cọc đỡ phía dưới, dẫu cho hà bám hết lớp này tới lớp khác tăng dần theo ngày tháng, đã trở thành chốn bất khả xâm phạm e rằng cột phía trong đã bị ăn mòn gần hết, lỡ phá sạch hà thì hãng cũng phải sập mà trôi theo làn nước chăng. Cầu ván sàn nhà khập khễnh, lồi lõm không thua đồ phế thải, chừng như bị những gót giầy ngư phủ bào mòn theo nhịp chân bước nặng nề quen thói của những người suốt đời trầm mình với công việc cần nhiều sức lực. Để ý nhìn kỹ, nước sơn nhạt màu da trời tươi đẹp bao bọc phần gián ghép chung quanh tường phía ngoài, theo dòng thời gian đã bị nắng mưa, bão tố huấn luyện, tạo thêm sức chai lỳ chịu đựng lâu ngày trở thành màu đen bụi mốc của đám bùn hanh khô nơi vùng hạn hán. Hình như ngư dân mộc mạc Biloxi không cảm thấy phiền hà mỗi lần tấp ghe vô hãng bán tôm cá; có chăng, quát tháo nhân viên hãng mau mau lên tôm, trả tiền, rồi vội vã đậu tầu, giành giật thời giờ nghỉ ngơi kiếm lại sức cho những ngày mệt nhọc sắp tới. Đàng khác, họ đâu cần biết hãng xưởng sang hay hèn. Nó chỉ là một trong những phương tiện cho họ kiếm tiền sinh nhai, kéo dài những ngày tháng đã lỡ được sinh ra thì phải sống.


Nối dọc theo hai hướng Đông, Tây, trãi dài những bãi cát tiếp nối những bãi cát, trơ trọi và hừng hực dưới ánh nắng thiêu đốt của mặt trời vào những mùa nóng bức, cái nóng ẩm thấp nơi lò nấu muối, len lỏi, rít róng, rìn rịt bám vào làn da kẽ tóc, lỳ lợm, cố tàn phá nét người của đám ngư nhân gan góc tạo nên màu cháy nắng đen đủi, gân guốc, khiến những ai mới gặp lần đầu mang cảm tưởng dân chài có lẽ từ địa ngục mới được trở về dương thế. Những ngày cuối tuần, đoàn tầu đánh tôm, bắt cá, nối đuôi nhau xông vào các hãng chẳng khác gì đại hội, đại hội hung thần. Tiếng động cơ nổ ầm ỳ phun làn khói đen ngòm từ những ống khói máy dầu, vô trật tự thổi bung vào không khí chừng như cố tạo thêm mây mưa đe dọa. Những chiếc ghe với cặp càng dựng đứng, tủa lên trời, chẳng khác muôn ngàn vũ khí thời tiền sử sẵn sàng thách đố tai họa hầu chống chọi. Dẫu mới được sơn sửa, chỉ sau một tuần cào tôm, bắt cá, thần biển đã bằng cách nào đó sai âm binh tàn phá công trình kiến tạo của con người được chừng nào hay chừng nấy; khiến những con tàu mang đậm vết tang thương hơn hình dáng chủ của chúng.


Nói về ngư nhân, không nên đếm xỉa đến những hạng làm biển thày chú theo kiểu dân bản xứ; họ làm biển cho có làm, làm lấy lệ, sáng bảnh mắt, mặt trời gần đứng bóng mới khệnh khạng nổ máy chạy quanh quẩn trong vùng vịnh để rồi đúng năm giờ chiều, dù đụng nước tôm cũng cất cào trở về đón vợ, đã sẵn sàng đóng bộ, đang chờ tấm ngân phiếu để cùng nhau hú hí, đâm đầu vào mấy quán rượu không nghĩ tới những ngày dài trong tương lai có thể mưa gió bão bùng, vì cùng lắm đã có tiền giấy an sinh xã hội. Ngư nhân Việt, tay không tạo dựng cơ đồ, cố vay quanh, mượn quẩn làm vốn đặt cọc sao cho có được con ghe. Tất nhiên, đã tay không đành chấp nhận nợ trong nợ ngoài nên ai ai cũng phải miệt mài kiếm tôm hơn kiếm vợ tránh cảnh chủ nợ xỉa xói hoặc nhà băng cọc tàu. Chủ đã quyết, tàu phải theo; thế nên, khi đụng nước tôm, con tàu đành gồng mình nhả khói. Ngành nghề biển rả giữa cảnh trên trời dưới nước, nào ai đoán được lúc nào gặp may hoặc khi nào hạn xui. Nếu mùa màng bình thường, tương đối chủ tàu nhàn nhã, chẳng may gió chướng đổi thay, dù đau xót cho con ghe nhưng lỡ làm thân chủ mang nợ thì cũng đành chấp nhận cạo máy kiếm tiền. Tuy nhiên, dẫu vậy nào đã được yên, những cơn giông có bao giờ báo trước khiến nhiều khi chủ tớ toát mồ hôi giữa vùng trời nước bao la.


Ầm ì, chậm chạp, thế mà sự đụng chạm cho dù nhẹ nhàng cách mấy, con tàu cũng đẩy nghiêng bất cứ cây cọc thông to lớn nào được đóng sâu xuống đáy biển để bảo vệ cầu lên tôm hay nơi bến đỗ, ngăn cản sự xông phá quen thói ở ngoài khơi, hầu cột thân xác hao mòn theo năm tháng của chúng, kết quả của những ngày tung hoành vật lộn cùng sóng nước, giành giật với Hà Bá từng con cá, mớ tôm, bắt chúng phải ngưng hoạt động, cho chủ cũng như thợ bạn có thời gian dưỡng sức, chu toàn bổn phận của con người với con người và với thần thánh.


Phố xá Biloxi ngày ấy còn tang thương gấp bội. Vỏn vẹn dăm ngôi nhà xây, vách tường loang lở, ghi đậm vết hằn tàn phá của năm tháng, chụm lại với nhau phô trương những cửa kính ngục tù, khung gỗ, trơ trẽn trưng bày chẳng biết bao nhiêu lớp sơn chồng chất tự thuở nào. Ánh nắng pha hơi nước muối dường như mang năng lực nhuộm màu, thấm nhập cửa kính, và biến chúng thành mờ mờ tựa ánh mắt đờ đẫn các cụ già gần đất xa trời bởi đã quá mệt mỏi với kiếp làm người. Bên trong những lớp kiếng, nghèo nàn phô diễn vài bộ đồ kiểu thời khai quốc với những chiếc váy thuộc loại cổ xưa, thịnh hành nơi phim ảnh trình chiếu gia cảnh quý tộc Âu Châu. Cái thì quá kín đáo, người ngắm có thể tưởng tượng kẻ mang mặc chúng đoan trang, nề nếp đến độ thừa thãi, đuôi váy dài đủ quét dăm  bảy đoạn phố. Cái lại thiếu thốn, tỏ lộ đầy đủ đường nét hấp dẫn, khêu gợi của những thân hình nẩy lửa, cố đập thẳng vào ánh mắt kẻ qua lại, rồi níu kéo, sẵn sàng mua vui cho khách làng chơi. Đó là hàng vải, trung tâm trình bày lối ăn mặc thời trang.


Những cửa tiệm khác cũng phô bày nét khiêm tốn chẳng thua chi. Ở chốn mà mức kinh tế đã xuống đến tận cùng xã hội loài người thì sao có được những quán ăn tương đối, hoặc chợ búa đầy đủ hàng hóa cho dân chúng mua bán. Thực ra, gọi là mua bán cho có vẻ thanh lịch, chứ giữa đám dân ít tiền, quê mùa, vài chục nóc nhà, sao có thể thiết lập những cửa hàng sang trọng. Bạn dư chút tiền, muốn đưa vợ đi tiệm kiếm bữa ăn ngon thay vì nấu bếp, mau cũng một tiếng lái xe tới New Orleans hoặc Mobile. Đó là hai nơi gần nhất. Bạn nổi hứng có ý nịnh vợ, muốn đưa bà xã may sắm vài chiếc váy dài, váy ngắn, dăm ba bộ đồ thời trang mặc cho có vẻ đẹp lão không những trong nhà mà cả ngoài đường, hoặc phấn son, quần trong, áo ngoài, hèn cũng phải ba tiếng rưỡi tới Memphis, Tennessee, còn không, sáu tiếng lái xe đến mãi Atlanta, Georgia. Ngoại trừ bà xã của bạn không thích đua đòi, hiền hòa, mẫm cảm, dịu dàng, tất cả lý tưởng cuộc đời của nàng chỉ là chăm sóc con cái và cưng chiều chồng, thân xác cằn cỗi với sóng biển, nước mặn, bạn mới được để ý thương xót, mới có cơ hội an nhàn những ngày cuối tuần đùa vui với đàn trẻ, hoặc say sưa cùng nhóm bạn bè cố quên nỗi cực nhọc đêm hôm lênh đênh ngoài khơi bão tố giữa trời nước mênh mông.


May mắn biến thành chẳng may, nếu mụ vợ của bạn xinh tươi, mặn mà, hấp dẫn, thêm chút máu văn nghệ, văn gừng, đua đòi, thèm khát gia nhập giới ông nọ, bà kia, thì cuộc đời bạn sống ở Biloxi chẳng khác gì kẻ bị treo án tử, bởi có thể mất vợ bất cứ lúc nào. Có người mới đề máy tàu ra khơi buổi tối, sáng hôm sau nghe lõm trên CB mụ vợ lỉnh mất để lại mớ con bơ vơ đang tản mát nơi mấy nhà hàng xóm ăn nhờ. Thế là con tàu bất chấp sự thiệt thòi của thợ đi phần, quay ngược chiều 180 độ trở về bến đỗ nghỉ ngơi dài hạn cho chủ có đủ thời giờ sắp xếp mảnh đời tan hoang còn sót lại, dẫu chẳng muốn, cũng đành cắn răng chịu đựng cho qua; vì tương lai đang chờ đợi điểm trên những nét mặt ngây thơ của đàn con trẻ. Cũng có kẻ, sau bao ngày giờ gắng sức tranh đua cùng sóng nước, hí hửng mang tấm ngân phiếu thể hiện công lao sức lực giành giật cùng Hà Bá, mới lái xe về tới ngõ đã chợt nhận ra cảnh vắng lặng của căn nhà thiếu sức sống giống người. Lòng y chùng xuống nhường chỗ cho nỗi đau bất tận. Y đã mồ côi vợ con từ thời điểm ấy. Những lon bia, những chai rượu sao có thể phần nào xóa mờ nét hằn thương đau khi nếp sống rơi vào một trong những cảnh trớ trêu kiếp người: giầu non, trung niên mất vợ, về già phá sản, và cô độc không con cháu giúp đỡ ở thời điểm bóng xế chiều hôm cuộc đời.


Những nóc nhà lợp thiếc loang lổ màu nâu rỉ sét, chênh vênh đây đó, hoặc chùm xúm lại từng đám phô bày cảnh thảm não và tiêu điều làm sao! Cũng như con người, điều lạ lùng ít khi được để ý, càng những kẻ có thân hình đẹp đẽ, thanh bai, nét ăn diện của họ càng hấp dẫn, lịch sự hơn đám dân bình thường nhan nhản chung quanh. Cũng có thể bởi họ đã được trời ban cho nét thanh lịch sẵn có nên dẫu những quần áo, giầy dép phụ thuộc, vì lý do nào đó không xứng hợp với món quà thiên phú hấp dẫn tự bản thân, cũng hưởng nhờ nét đẹp tự nhiên hầu được thăng hoa, tăng thêm vẻ quý phái cho chủ nhân mang mặc chúng. Chẳng thế mà giới thanh thiếu niên đã một giai đoạn đua đòi theo mốt thời trang, đeo trên mình những manh quần tấm áo rách rưới gần như tã tơi, đôi khi để lòi cả những phần thân thể cần được che kín, ngược lại, giá bán cắt cổ nơi những tiệm may mặc. Điều trái nghịch mọi người đều dễ cảm nhận; đó là kẻ đã xấu xí thì có son phấn sơn phết đầy mình, lồng thêm những bộ vó thời trang mắc mỏ, mới mẽ nhất, cũng chỉ khiến thiên hạ dễ nhận thêm tính chất bình thường nơi mình. Những mái thiếc loang lổ nơi thành phố nhỏ nhoi cổ lỗ xĩ, Biloxi, ngày ấy phô bày cảnh tượng điêu tàn hết sinh lực, chẳng khác gì các cụ già ăn mày gần ngày xuống lỗ, cầu xin được chết mà trời vẫn làm ngơ bắt buộc phải vất vưởng sống trong nỗi khắc khoải hầu xí xóa phần nào nghiệp chướng từ muôn kiếp dồn đọng lại vì may mắn có cơ hội được làm người. Mái che đã tàn tạ chỉ chờ ngày sập xuống mà vẫn không được sửa sang, phỏng những vách gỗ bám hờ chung quanh còn chịu đựng được bao nhiêu năm tháng chống chọi với mưa nắng, bão tố cuồng phong từng đợt theo mùa từ tắp tít mù khơi nơi vùng vịnh tràn tới?


Nhiều người già lo âu cho số phận của thành phố nhỏ bé hầu như không có tên trên bản đồ tiểu bang. Họ thương tiếc chốn chôn nhau cắt rốn; ngày nào đó, khi cuộc đời họ đã qua đi, giới trẻ chẳng còn tìm thấy cơ hội vươn lên cho thế hệ tiếp nối, sẽ rời bỏ quê cũ đi kiếm kế sinh nhai; Biloxi chắc chắn biến thành bãi cát mồ mả, ôm ấp trong lòng những nắm xương khô tàn, hoang phế vô giá trị. Những người trẻ có ý thức lại không nghĩ như vậy. Họ cho rằng, vận số đã xuống đến tận cùng xã hội, xuống không còn chỗ xuống nữa thì chỉ còn một lối duy nhất là phải đi lên. Trời chiều lòng người trẻ. Biloxi đã dợm bước đi lên từ khi dân chúng cho nó quyền hành mời gọi những kẻ tiền nhiều, bạc lắm về mở sòng bài. Thế là từ lúc có mảnh giấy chính thức được ủng hộ bằng những lá phiếu, bộ mặt thành phố nghèo nàn, nhỏ nhoi, thay đổi mau chóng chẳng khác gì đứa bé gái lem luốc con kẻ ăn xin may mắn chạm phải đũa thần bà tiên hữu tình vì lòng thương xót. Dĩ nhiên, bước nhảy vọt nào không để lại lắm tàn tích của những ngày tháng cũ và đồng thời không kiến tạo nhiều cảnh trái ngang tựa phản ứng nhà quê lên tỉnh.


Ngày nay, chỉ mới mấy năm mà bé em lem luốc Biloxi đã có thể làm cho du khách sững sờ đến độ ngộp thở. Nàng phát triển ngồn ngộn khiến nhiều kẻ mê đắm gặp lắm cảnh đắng cay. Nàng hấp dẫn không những đối với hầu hết nam giới mà còn cuốn hút chẳng thiếu gì mệnh phụ phu nhân; người nào người nấy đã bao phen cháy túi vì mê đắm. Sự quyến rũ của nàng toát ra bao phủ từng lá cây, ngọn cỏ mọc vương vất chung quanh, cho đến những phòng ốc xa hoa tráng lệ, được phụ họa bởi mùi vị nhiều món thực phẩm nhập cảng từ các vùng xa lạ trên thế giới, nhất là mầu rượu cánh gián sóng sánh nơi những chiếc ly thủy tinh trắng nuốt, đẩy hương vị ma men đong đưa nơi cõi không gian lẻn vào giòng máu, thôi thúc nặng nề giây phút đam mê, tăng áp lực tạo ngây ngất lòng người. Mới hai năm sau khi bé em Biloxi bắt đầu trổ mã, hai người đàn ông nhảy xuống sông tự tử vì nàng; anh thanh niên cỡ 37, 38 tuổi, một vợ bốn con; người khác là một ông thuộc tuổi xồn xồn, gieo mình cố quên tình đời đen bạc, làm bạn với Hà Bá.


Đàn ông đam mê nàng cùng lắm thiệt mạng không mấy phiền hà tới người khác; mà có lẽ lắm kẻ mừng vì bớt đi ít nhất được một đối thủ. Đàn bà mê nàng mới rõ gớm ghê, phũ phàng. Một chị mặn mà dễ thương ở Mobile, ghé qua thăm viếng và làm bạn với nàng. Không hiểu tình cảm gió trăng mây mưa ra sao; chuyện kín đáo tâm tình nào ai dại dột thố lộ, và chỉ trong một tuần, bẩy tiệm “Nail” đang phát triển, hốt của ngùn ngụt, cũng đã vội vã sang tay người khác để gom thành những tờ giấy màu xanh chứa hình ngôi sao mười ba cánh theo chị nọ dâng hiến cho nàng quên bẵng cả đường tình nghĩa chồng con. Bà khác, mượn cớ chồng có những lời nói thô tục, nặng nề theo thói những kẻ vũ phu, kêu cảnh sát lấy chứng cớ ly dị, chia của, để rồi đem tất cả tài sản có được cung phụng nàng. Thực thể, chồng của bà có xấu xí gì cho cam; ông ta đẹp trai, thanh lịch, chủ nhân hai hãng tôm cá hàng năm hốt bạc triệu. Hai người ăn ở với nhau đã ba mươi hai năm và được bốn người con, ai nấy đã trở thành kỹ sư nọ, bác sĩ kia. Cái tội của ông chồng phải mang chính là nét quyến rũ của nàng Biloxi làm mê đắm lòng bà vợ.


Sự thật không thể bỏ qua, đó là ngay cả giới tu sĩ đạo này, phái kia, một số cũng không thể đè nén lòng ham mê, mơ ước do nàng Biloxi quyến rũ. Có những vị theo đuổi nàng thâu đêm tới sáng, bốn giờ ban mai hãy còn đang luẩn quẩn chưa thể dứt lòng trở về với bổn phận chăm sóc con chiên. Thế nên đã có những người liệt danh cô bé lọ lem nghèo nàn ngày xưa, nay là con quỷ thu hút lòng người. Nói cho đúng, không hiểu nàng thu hút lòng người hay lòng người muốn thu hút nàng. Tuy nhiên, hầu hết mọi người thuộc mọi giới quy phục nàng, từ lão ông, lão bà, tụt dần xuống vị thành niên, dẫu mới nứt mắt, chỉ vừa đủ tuổi đi bầu. Có lẽ, bởi ghen tức với tuổi trẻ dư thừa nhựa sống, liều lĩnh nên dễ đạt cơ may, mấy cụ già thúc đẩy con cháu làm luật treo những bảng yết thị to tổ bố ngay nơi cổng vào: Cấm vị thành niên dưới 21 tuổi bén mảng, bất tuân sẽ bị nhốt vô khám.


Nàng hấp dẫn, ăn khách hơn bất cứ ca sĩ, nghệ sĩ tài danh nào. Đã không thiếu danh ca người Việt xưa nay nổi tiếng từ California đi hát, nhân tiện ghé thăm nàng để rồi cùng chung số phận với muôn ngàn kẻ đắm say. Tất nhiên nghệ sĩ nào lỡ bước hứng khởi thăm nàng, rốt cuộc rồi cũng cháy túi, chỉ đôi phút hứng khởi, thiêu đốt hết tài năng và công sức đi “Show;” vì đâu ai thoát được sức cuốn hút mê đắm chẳng khác gì bùa mê, thuốc lú nơi nàng Biloxi, kỹ nữ không hồn, không biết thương xót, mà thẳng tay vùi dập những ai rơi vào phận số làm nhân tình hờ dù chỉ trong đôi giờ ngắn ngủi. Có điều lạ, kẻ hận nàng thì ít mà người mê đắm nàng lại nhiều, và cho dù hận thù cách mấy, chỉ thoáng qua đôi giây phút; bởi nếu có tiền nắm sẵn trong tay, chính kẻ hận thù lại hùng hục, cắm đầu cắm cổ kiếm nàng dâng hiến. Cô bé lọ lem mấy năm trước xấu xí khiến bao tâm hồn người già nua tỏ niềm thất vọng, giờ là con ma hấp dẫn, cuốn hút lòng người.


Du khách từ khắp phương đổ về mong chiếm hữu nàng, hoặc ít nhất cũng được đôi phút thoải mái, quên lãng thực tại cuộc đời bon chen ma mãnh. Họ đến rồi đi, người giầu nhiều, kẻ nghèo cũng lắm. Có điều, càng những ai giầu có, tiền rừng bạc bể, càng mê nàng bấy nhiêu. Nhưng nếu để ý, nàng vẫn như ngây ngô, vô tình lúc tiễn chân, mặn nồng đón người đến, đôi khi thân thiết, nhiều lúc hững hờ đúng điệu “mê tình, tình lẫn, trốn tình, tình theo.” Trong số những khách giang hồ tứ chiếng rình rập bắn sẻ ấy, không ai có thể dò thấu lòng ruột của nàng Biloxi đối với họ ra sao. Chỉ tội cho đám ngư nhân bao bọc quanh nàng, khát khao từng cơ hội, đặc biệt giới độc thân. Bao nhiêu công sức chịu đựng sương gió nơi ngành nghề biển rả, các ngư phủ trai trẻ, đa số mê say tranh nhau thể hiện tính cách hào hoa vung tay đãi đằng dầu chỉ trong đôi phút mong được may mắn, ánh mắt mê đắm liếc qua; để rồi khi đoàn tầu lao mình vào màn sương vô giới hạn của biển khơi, những thân thể cường tráng dẻo dai ấy lại rán sức gồng mình đánh đổi năng lực thiên bẩm lấy món quà nhỏ mọn mua vui người tình Biloxi khi trở lại. Con ma lem luốc ngày nào, giờ cuốn hút công sức ngư nhân. Phỏng có ai run rủi được phần chiếm hữu, hay tất cả chỉ là hy vọng mờ ảo, nghiệp chướng tự muôn đời dán liền nơi số phận con người bắt phải trả.

 

Tuy nhiên, đôi trường hợp do tính chất cố hữu khác thường của nàng Biloxi, độc hại, mặn nồng, lạnh lùng, và vô tình vô nghĩa, những kẻ đam mê nàng có cơ may thức tỉnh hầu kiếm được niềm vui an ủi giữa đôi kẻ thất tình đắng cay. Chán chường do mòn mỏi theo đuổi trong vô vọng, có những cặp đã tìm đến nhau chia sẻ nỗi thất bại thương đau để kết thành vợ chồng, cặp vợ chồng rách nát từ thể xác tới tâm hồn, có được tình nghĩa keo sơn phải là do sự chán chường gắn bó, kết quả của đôi lòng đồng bệnh tương lân. Không những thế, nàng Biloxi quyến rũ nhưng cay nghiệt, cũng phần nào thức tỉnh một số tâm hồn ù lỳ, ỷ lại xưa nay đã quen thói “ăn cơm mớm” như bản chất bẩm sinh cố hữu của những đầu óc thủ cựu, sợ sai lầm, đã trở thành nô lệ cho những giáo điều một cách ngu si, chỉ biết vô ý thức tuân theo những gì người khác cho là phải với ý đồ gắng sức moi móc tìm kẽ hở lề luật hầu hồ hởi vấp phạm trong niềm vui tâm tưởng có được nỗi an bình giả tạo. Nàng Biloxi đã lột sạch những mặt nạ luân lý giả hình từng người, từng đoàn thể, từng lề luật. Trải qua các thời đại, biết bao kẻ cao giọng hò hống, tuyên truyền “đánh bạc có tội.” Ngày nay, đánh bạc có pháp luật bảo vệ; khiến chính những kẻ ngày nao lạm dụng danh xưng tội lỗi đè đầu đè cổ tín đồ, cũng phải gang mồm bào chữa cho tính chất đam mê nàng Biloxi nơi mình. Xét theo phương diện này, ít nhất nàng Biloxi đã phần nào điều chỉnh được ảo vọng lạm dụng của một số thày đời lòng ruột trống rỗng mà tham vọng chính là ý đồ sống bám trên lưng những tâm hồn ù lỳ, dốt nát, con đẻ của tính chất lười lĩnh suy tư. Có lẽ đã đến thời điểm lòng người phải được thức tỉnh cho niềm khát vọng tâm linh khơi nguồn phát triển. Vì thế, có thể nàng Biloxi chính là ngọn roi Thượng Đế dùng để công phạt những thành phần vô ý thức, bắt họ phải suy tư, nghiệm chứng, tự quay về với lương tâm chính trực hằng tiềm ẩn nơi tâm thức con người; đồng thời vạch mặt những kẻ thày đời lạm dụng công sức con cái Ngài bằng cách ngu dân, phỉnh gạt những tâm hồn non dại, ngờ nghệch, e sợ suy tư sai lầm.


Nếu những chim non suốt đời được cha mẹ đùm bọc, công mồi, góp mớm cho ăn, chúng sẽ không bao giờ cảm nhận được nỗi sướng vui tuyệt vời khi giang đôi cánh làm bạn với trời mây, đùa vui muôn làn gió, hoặc thách đố của những trận mưa dồn dập đuổi theo hăm dọa thấm ướt đôi cánh khi rán sức thu ngắn khoảnh trời mây tìm về tổ ấm. Nàng Biloxi cung ứng cơ hội chia duyên rẽ thúy nơi những tâm hồn non nớt đã vô tình hay bị ép buộc nhắm mắt đưa chân lao vào cuộc tình mù tối mà không chịu hay chưa kịp thực sự tìm hiểu ý nghĩa và bổn phận làm người. Dẫu hôn nhân là cơ hội tuyệt vời cho đôi lứa phát triển tâm thức, cùng dìu dắt nhau dần tiến đến mức thiện hảo thì đối với những người chưa đủ ý thức nó lại trở thành khung cảnh ngục tù khốn khổ, đau thương bậc nhất chốn trần gian. Phỏng còn hình phạt tâm tưởng nào tàn ác hơn cảnh chung sống coi bộ thơ mộng, uyên ương, mặt đối mặt, vai kề vai, mà lòng chừng như ngàn dặm xa cách? Phỏng có chốn đọa đày nào khổ ải hơn lòng khát khao nỗi an bình tâm tưởng trong khi luôn phải chiến đấu với tâm trạng dằn vặt nội tâm. Con tim mỗi người vừa kỳ cục, vừa huyền nhiệm. Nó mang tần số riêng và chỉ hòa hợp với tần số đặc biệt nó khao khát kiếm tìm. Nó được sinh ra để kiếm tìm và dường như hoàn cảnh xã hội mang bổn phận và là phương tiện cho sự tìm kiếm nhiệm mầu dẫu khó ai hiểu tại sao. Thế nên, nếu gia đình thực sự là tổ ấm, là chốn con người lãnh nhận được niềm vui tâm tưởng, là nơi giúp họ cảm nhận được sự bao bọc, chở che, ươm mát tâm hồn, lời mời gọi nào bên ngoài có thể thôi thúc hay khuyến dụ đôi chân họ cất bước ra đi. Dẫu nàng Biloxi có năng lực mê hoặc cách mấy cũng chỉ có thể gạt gẫm những tâm hồn tự tại hướng ngoại một thời ngắn ngủi; bởi chỉ những kẻ không cảm nhận được niềm hứng khởi hài hòa nội tâm mới để lòng hoang đàng đuổi theo ngoại vật. Thế nên, những con thiêu thân dẫu còn đang có thể bay vòng vòng, thân xác chưa chết thì cũng như đã chết do tự căn bản hiện hữu, nguồn sinh lực của chúng đã bắt đầu tàn tạ. Mái ấm đầy thơ mộng ấp ủ những tâm hồn vô ý thức trở thành đông lạnh chỉ là vấn đề thời gian. Bé em Biloxi chính là mụ phù thủy biến sự thơ mộng giả hình thành tảng băng giá buốt nơi những mái ấm vô tâm, thiếu ý thức.


Từ xa lộ 10 bắt xuống hướng Nam nơi ngã rẽ mang số 46, ít nhất người ta có thể thấy hình ảnh nàng Biloxi vượt lên trên mặt biển, tựa lưng chân trời từ đàng xa khi hãy còn bên ngoài cầu 110 nơi lối xuống D'Iberville. Nếu lái xe trên con lộ 90 dọc theo bờ biển từ Mobile về hướng Tây, cũng vừa chạm đầu cầu cuối phần đất Ocean Springs, nàng ngồn ngộn phô bày nét tươi thắm bấp bênh bên bờ nước. Ngược lại, đi từ đàng Tây dọc theo bờ biển nổi tiếng Long Beach, MS, về hướng Đông và khi chạm tới lãnh thổ Biloxi, người ta có cảm tưởng lao vào vùng phù hoa tiên cảnh. Tâm trí họ không thể thoát khỏi sự đam mê cám dỗ toát ra từ khung cảnh thanh lịch, hiển hiện nơi từng ánh đèn chớp nháy cho tới những nét dễ thương mời mọc phô bày rõ rệt ở dáng điệu thanh bai, chúm chím bờ môi mấp máy ngỏ lời đón tiếp kèm theo sóng mắt đong đưa khuyến khích con người trỗi lòng mong ước. Nàng Biloxi thực sự hiện thân tất cả sức lực ham muốn tiềm tàng nơi con người tự thuở ngàn xưa, ẩn trong huyết quản, hòa tan từng thớ thịt, giờ đây gom hết năng lực, dội lên giúp bạn thỏa mãn tính chất đam mê. Thế là du khách mờ mắt, chỉ tỉnh trí khi nào cháy túi, nhưng mắt vẫn mờ. Kẻ nào mê đắm quá nặng, nhà cửa, tầu bè, tiệm này, xưởng nọ, đều bị chủ nhân không cưỡng lại được lòng ham muốn, bán sạch, tiếp tục dâng hiến cho nàng. Vợ đẹp cách mấy, con xinh thế nào, cũng thua nét mơ say đầy hấp dẫn của cô bé lọ lem Biloxi mấy năm xưa, giờ đây biến thành con ma không hồn quyến rũ những ai lòng còn vấn vương nặng nề ham muốn chiếm hữu nàng làm của riêng. Thoát khỏi nét khuyến dụ của nàng phải chăng chỉ những bậc thánh nhân?

 
* * *


Nhà Phủ ở thành phố D'Iberville cách Biloxi một con cầu. Trãi dài mười bẩy năm ngoi ngóp dành sống trên đồng đất nước người, vợ chồng con cái tổng cộng mười ba mạng chui rúc nơi căn nhà tồi tàn, cửa long đàng cửa, tường vênh đàng tường, đứa này chẳng chịu hòa hợp với đứa kia khiến hình dáng vốn dĩ đã bệ rạc, bên trong lại càng thêm thảm não. Mười hai năm trước, căn nhà trị giá mười chín ngàn đối với dân tị nạn kể đã khá nặng nề chi phí. Sở dĩ Phủ mua được vì đa số dân chúng ít con, nào ai cần đến căn nhà sáu phòng cửa nẻo luồn lạch rối tung cả lên; rồi nào mùa nóng máy lạnh, mùa rét máy sưởi; tiền của đâu chịu cho thấu chi phí điện đóm, hơi đốt. Cũng may, nhân có người chỉ ngõ ngách để xin chương trình chính phủ cho vay mua nhà không tiền lời, giúp dân nghèo có nơi ăn chốn ở, vợ chồng Phủ bàn tính hơn thiệt cả tuần lễ và quyết định mua căn nhà. Căn nhà ngày ấy kể cũng quá rộng đối với gia đình hai vợ chồng và năm đứa con, đứa lớn nhất mới mười bốn tuổi. Thế nhưng sáu năm sau, dù nhiều phòng, lắm buồng, nó đã chẳng khác gì hộp cá khổng lồ. Số là chị Phủ, không hiểu vì e thiếu người xài khí  nóng hơi lạnh hao tốn một cách uổng phí chăng, hoặc vì “quen dạ đẻ cách năm đôi” (Tú Xương) mà liền tù tì sáu năm, nhà thêm sáu nhóc. Đứa này chưa biết chạy, đứa kia đã sẵn sàng tham gia cuộc thi đua. Gia đình thêm người, đồng thời dù con nhà nghèo, bố mẹ nào có to lớn gì, mà xấp nhỏ, đứa nào đứa nấy cứ như được uống sữa voi. Bốn thằng con trai cao hơn bố, thân xác coi chừng hùm ăn bẩy ngày không hết thịt. Mấy đứa con gái dẫu dáng dấp thanh bai nhưng chẳng khác gì sếu vông. Ấy, may mà chị Phủ phải luôn miệng hò hét chúng nó bớt ăn bớt uống mới được vậy, còn nếu không, cứ nhìn mấy trẻ nhà hàng xóm thì biết. Vừa đúng mười hai tuổi mà con bé mập rụt đầu rụt cổ, đi đâu cứ như trái trứng lăn.


Vợ chồng Phủ đã ít lâu bàn luận kiếm công việc gì thêm cặp hầu dành dụm chút tiền đặt cọc làm lại căn nhà thì đùng một cái, nội trong tuần lễ, hết người này đến kẻ khác đòi rước mớ khung gỗ ẩn dưới mái che tồi tàn mà bình thường lên tiếng biếu không vẫn e bị ăn đòn, phương chi đòi bán. Không, viện bảo tàng đâu có chỗ để chứa thứ của nợ ấy; người ta nhăm nhe vì miếng đất lọt vào địa giới mở sòng bài. Tạ ơn trời, thăm giá hơn, dìm giá kém, cuối cùng Phủ bán được một trăm rưỡi ngàn. Thế là vợ chồng, con cái đàn đúm nhau thếch sang D'Iberville ngự hẳn vào căn nhà gạch sáu phòng tươm tất, hai gian đậu xe, rõ tiện bề nấu phở, kho cá, những khi cần thiết.


Cuộc đời nào không thế, mỗi cái may mắn lại hàm chứa bài học mắc mỏ phải trả. Có được nỗi an tâm không phải lo lắng nơi chốn cho con cái chui rúc tránh nắng mưa, Phủ sinh tật mê bé em Biloxi. Gần một năm trời tầu bè được đồng nào, Phủ đem nướng sạch nơi sòng bài. Tất cả gánh nặng chồng lên vai chị Phủ; gia đình đông con, tiền bạc chi phí như đốt hàng mã, đến nỗi nợ nần đã quá nhiều, không còn nơi nào có thể vay chạy. Van lơn kiểu nào Phủ cũng không chịu từ bỏ, y lại còn học được ở đâu câu nói mới thoạt nghe đã muốn lộn ruột: “Bỏ vợ thì được chứ bỏ đánh bài không được.” Y chưa dám có ý định bỏ vợ nên hãy còn may thoát được cảnh bị vợ bỏ. Số là đã bao nhiêu lần to nhỏ, nói xa nói gần mà Phủ vẫn cứ chứng nào tật nấy, chị Phủ đành quyết định một mình. Chị hiền lành, nhã nhặn, chịu đựng, và lịch sự nhưng lại rất cương quyết. Đàng khác, sức chịu đựng nơi con người dẫu sao cũng chỉ có hạn; thêm vào đó, người nào lịch sự, tự trọng bao nhiêu thì tự ái lại cao bấy nhiêu. Bởi thế, sự túng bấn đến độ không thể vay chạy vào đâu được thì mặc cảm bị khinh khi do hoàn cảnh dồn ép không lối thoát đã đẩy chị vào đường cùng. Chị đã tính đến chuyện xin việc làm tại các công sở, nhưng tiền gửi chăm nom mấy đứa nhỏ còn non dại lại quá cả tiền lương, chỉ còn hãng sò.


Hai giờ sáng dù trời quang tạnh, ấm áp, hay mưa bão, giá lạnh, mấy đứa lớn cũng bị lôi cổ dậy, đứa chở mẹ đi làm, đứa canh chừng các em nếu có chuyện cần thiết, và khi tới giờ, lo nấu nướng ăn sáng, sắp xếp bữa trưa cho xấp nhỏ mang theo, và chở các em đi học. Cũng may, con nhà khó quăng đầu đường không chết; con cái chị ngoan ngoãn, biết vâng lời, và chăm sóc nhà cửa. Đúng bẩy giờ sáng, thằng lớn tới hãng chở chị về nhà, đoạn lái xe chở các em nhỏ tới trường học.


Con tàu thân thiết ngày nao là phương tiện cung cấp những giây phút mê đắm em Biloxi, từ khi mùa tôm chấm dứt, cũng đã vội bỏ chủ sang tay người khác; thế là Phủ hết đường đeo đuổi những giây phút sút mồ hôi với mấy hột xúc xắc xanh xanh đỏ đỏ hoặc mặt ngửa mặt úp của những cây bài, đành chấp nhận theo vợ phục vụ hãng sò hầu có đủ ngày giờ thấm thía hương thừa nỗi vui say bài bạc còn sót lại trong thời hạn trắng tay. Cũng may, con tàu ra đi kéo theo mọi sự liên hệ, để lại nơi Phủ bộ lòng ruột trống vắng, nhường cả tháng trời cho y có cơ hội ngậm đắng nuốt cay với nỗi tái tê đã lỡ dại dột nên cảm nhận được lòng hy sinh của vợ. Phủ sợ nàng Biloxi từ dạo ấy nên quyết định không lấy dù chỉ một đồng bỏ túi, mà để vợ toàn quyền quyết định tất cả chếch chiếc do công sức đêm hôm khuya khoắt lần mò làm thuê, búng đầu tôm, đập sò. Bài học mắc mỏ đam mê ấy, giờ này trở thành cơ may, vợ chồng Phủ sau những tháng ngày gồng sức chịu đựng đã tậu được gian hàng bán thực phẩm và nhu yếu lặt vặt đem lại nguồn lợi tức tương đối dễ thở. Con cái, đứa lớn dẫn dắt đứa bé học hành, chăm nom nhà cửa, do đó, cái thân “già,” Phủ hay nói thế, có quyền đàn đúm, ba hoa trở lại, nhưng vẫn e ngại quyền lực bất bại của “đền thánh casino.”


* * *


Ba giờ chiều thứ bẩy, nhà Phủ, người đông như mở hội. Xe pháo hơn chục chiếc, đậu ngang, dọc không thứ tự nơi sân cỏ hơn sáu mươi mét bề ngang và hai mươi lăm mét từ con đường trước mặt tới mái hiên khiến ông đi qua bà đi lại tưởng nhà có đình đám lớn. Trẻ con không hiểu đâu ra mà lắm thế, gần hai chục em, trai gái tụm năm, tụm ba thảy bóng rổ hoặc tranh nhau đá bóng. Trẻ con ở Mỹ không phân biệt trò chơi nam nữ, lắm đứa con gái thích thể thao hơn con trai khiến chị Phủ đôi khi la lên chói lói răn đe các tướng coi chừng đá bóng lỡ bể kiếng xe. Ấy, nam nữ bình quyền, các bà các chị dân mắt xanh, mũi lõ truyền lại cho con cháu như thế; mà có thể còn hơn vì với mức tiến triển của đà văn minh, người ta đã tạo nên chủ thuyết “Lady first.” Không hiểu họ “first” vì nguyên nhân hay lý do nào. Nhưng đối với những gia đình Việt ăn nhờ ở đậu, dẫu đã là công dân của đất nước tự do nhất thế giới, truyền thống nội tướng vẫn luôn luôn ngự trị dưới mái ấm mũi tẹt da vàng. Không hiểu Phủ mồi chài thế nào mà chị vợ đồng ý để con coi cửa tiệm nửa ngày cuối tuần, ở nhà chỉ huy công cuộc bếp núc đón tiếp cụ Tài và nhóm nhậu. Chẳng biết y muốn tỏ sự cả sáng căn nhà tọa lạc giữa hơn mẫu đất hay vì ý định tạo cơ hội cho những người quen biết gặp gỡ kết tình thân ái bạn bè, Phủ kêu gọi các tướng đem vợ con theo bởi nhà có phòng lớn cho các cháu dàn quân phá phách, đồng thời cũng hứa cung cấp những thực phẩm đặc biệt theo ý thích của bọn trẻ.


Nơi phòng khách hai mươi bộ (feet) vuông vức, hai chiếc bàn dài chen giữa bốn hàng ghế trang trọng nâng đỡ bốn chão điện chứa vịt nấu chao tỏa hương vị hấp dẫn; kè kè tám đĩa rau cải xanh được xếp đặt ngay ngắn. Những đĩa tiết canh dậy màu đỏ tươi, đĩa nào đĩa nấy vươn cao lên bởi chiếc tô lớn đặt phía dưới, sẵn sàng chờ đợi thực khách san sẻ. Bình Hennessy, lít rưỡi, thấp thoáng ẩn hiện màu cánh gián chất rượu chẳng khác gì vị tướng lãnh đứng sừng sững một đầu bàn, dường như cố nghển cổ canh chừng hai dãy ly thủy tinh, giữ nghiêm lệnh đợi thời điểm cùng xuất quân dẫn độ các món ăn tranh thủ đua nhau xâm nhập lòng ruột thực khách. Nơi bàn bên kia, cũng một bình Hennessy thống trị hai dãy ly khác.


Mọi sự đã sẵn sàng khi cụ Tài với Hưng tới, và các tướng trong hội coi bộ sẵn sàng hơn. Chạm phải màu sắc điềm đạm của Hennessy như kết quả cộng hưởng do nét đỏ thắm tiết canh với màu rau cải xanh non tươi mát, ánh mắt các tướng dường như chợt lóe lên hòa với ánh đèn điện giúp cho phòng khách thêm rực rỡ. Không đợi ai giục dã, Phủ vào đề tuyên bố lý do,

- Thưa bác, thưa quý anh, quý chị, chẳng nói giấu gì, hôm nọ lỡ hứng khởi mời bác và mọi người, quên chưa xin phép bà xã, nên nhà cháu đã phải năn nỉ muốn chết mới có được sự tốt lành của chiều nay để đón tiếp bác và quý anh chị chiếu cố. Vì vậy, để khỏi phụ tấm lòng độ lượng của mợ nó, cũng như bõ công sức tốn nước miếng dụ khị của nhà cháu, xin bác cùng quý anh chị nể tình đưa cay. Đàng khác, đoàn quân Heineken đang sẵn sàng chầu chực giải nhiệt. Ấy là kết quả tu chứng nhà cháu cảm nghiệm được; riêng điều gì thiếu sót do công phu non nớt, nhà cháu xin bác cùng quý anh chị thông qua cho lần này để lần sau vẫn cứ như vậy, amen. Nhà cháu tạm hết lời, và kính mời bác thực nghiệm khai mở bách hội huyệt giải tỏa áp lực nơi vòng luân xa của thánh Hennessy.


Cụ Tài với thái độ chừng mực, trang trọng, cụ vẫn thế nơi bất cứ trường hợp nào, mở nắp chai rượu trong khi nhẹ nhàng lên tiếng,

- Thế còn bách hội huyệt và vòng luân xa của anh?

- Cháu thì càng biết thêm, càng sinh lắm điều phiền não, và, Phủ ngập ngừng, sự thức ngộ vẫn như còn xa lắc, xa lơ, nhiều khi cảm thấy nản lòng nếu không muốn nói là bực bội với chính mình.

- Chuyện đó phải xảy ra đối với những ai có lòng khát khao muốn thăng tiến trên đường tâm linh. Cụ nói với giọng điệu bình thường mang rõ tính chất xác quyết khiến người nghe có cảm tưởng cụ đang tâm sự đương khi rót rượu vào ly, đoạn chuyền chai rượu cho ông Thung ngồi kế bên tay phải. Điều hiển nhiên theo kinh nghiệm, kẻ nào không dám chấp nhận chính mình mà tự dối lòng hoặc e sợ đối diện với bộ mặt thật của mình sẽ kiếm đủ mọi phương tiện lấp liếm hòng chạy trốn chính họ dưới mọi hình thức, phương diện, được thể hiện ngay nơi thái độ thường thì hướng ngoại. Đàng khác, con người tự bản chất dẫu tuyệt vời huyền nhiệm, nhưng cũng có thể nói, rất khó cho chúng ta có được nhận định chính xác về thực thể nơi mình vì đã được sinh trưởng do vòng vô minh quá nặng nề. Thế nên, bước đầu của hành trình thức ngộ phải là lòng sám hối, một hiện trạng hữu ích để nhận chân và chấp nhận những gì vì vô minh mình đã vô tình vấp phạm. Lòng sám hối này chỉ có thể xảy đến nơi những tâm hồn thao thức kiếm tìm thế giới tâm linh.

- Bác muốn nói người nào càng cảm thấy mình xấu xa, không ra gì, càng có cơ may thức ngộ?

- Hỏi như vậy có phải suốt tuần qua anh đã mang nặng mặc cảm mình chẳng ra gì?

- Bác nói đúng. Cháu thấy mình xưa nay quá tệ, và quá ngu, ngu không thể tưởng, mà, Phủ ngập ngừng chừng như khó diễn tả. Không biết bao nhiêu lần đã không nhận ra, ngược lại, phải nói là cố chạy trốn con người của mình. Hèn, cháu nghĩ, phải dùng tiếng “hèn” mới đúng.

- Tôi có lời chúc mừng anh Phủ, và những anh em nào có đồng tâm trạng. Riêng những ai không cảm thấy thế, tôi muốn nói, tôi không biết tâm trạng anh em ra sao; những ai chưa nhận thực được những sự hèn mạt nơi mình thì thật đáng thương vì thời điểm vẫn chưa tới với họ. Qua nghiệm chứng, tôi có thể nói với anh em, người nào càng thực sự nhận ra mình hèn hạ, đốn mạt bao nhiêu, thời điểm thức ngộ của họ gần kề bấy nhiêu, ngoại trừ kẻ nào bị tự ty mặc cảm. Cảm nghiệm được tính chất hèn nơi mình chính là thực trạng đối diện vọng tưởng, vô minh. Nói theo nhà Phật, không có cách nào chứng được Chân Như hay Phật Tánh mà chỉ có thể chứng vọng tưởng để nhận ra Tự Tánh bất khả tư nghị nơi mình. Tôi muốn chứng minh điều này bằng câu nói nghịch của anh Hưng, “Người minh triết vô minh, kẻ vô minh, minh triết.” Người nào càng nhận ra trạng thái vô minh nơi họ xưa nay bao nhiêu, càng là người minh triết bấy nhiêu.

- Nhưng thưa bác, dẫu cho minh triết bao nhiêu thì cũng chỉ là sự hiểu biết, chưa phải chứng nghiệm.

- Chúng ta là những cá nhân khác nhau từ tinh thần đến thể chất; do đó có nhiều phương cách để đạt tới giác ngộ cho những con người khác nhau. Nhận định như vậy, tôi muốn nói, còn có nhiều bậc thức ngộ không bao giờ tỏ lộ nên không ai biết tới. Tuy nhiên, nếu xét về những phương thức thực nghiệm đạt tới thức ngộ được đại đa số áp dụng như tôi đã nói lần trước, chúng ta có thể chia ra ba đường lối tu trì; đó là thờ phượng, minh triết, và thiền tông. Đa số quần chúng theo con đường thờ phượng. Con đường này đặt nền tảng trên niềm xác tín, dùng niệm chú dẫn tới định tâm. Các tôn giáo là một trong những hình thức của lối thờ phượng nhưng quá chú trọng về tính chất cổ võ, phát triển, cũng như lệ thuộc luật lệ tổ thức thế tục. Dẫu những nghi thức sùng bái mang tính cách lớn lao, đồng nhất cho những nhóm tín đồ cùng niềm tin, phỏng nơi đại đa số quần chúng tham dự, mấy ai ý thức được những hình thức cử hành nơi nghi thức chỉ phần nào diễn tả thực thể tâm linh đang diễn tiến ngay nơi thờ phượng công cộng. Thử nhìn về thực thể nơi sự thờ phượng hay cúng bái anh em có thể nhận định rõ ràng hơn. Chẳng hạn nơi Phật giáo hay Thiên Chúa giáo, tín đồ bái, lạy, cúng, dâng đồ vật hay tiền tài trong những nghi thức của họ. Anh em đã bao giờ đặt vấn đề đấng nào sẽ nhận lãnh những tài vật ấy? Câu trả lời đúng đắn nhất tất nhiên phải là họ dâng những phẩm vật hoặc tiền tài ấy cho lợi ích của họ chứ không cho đức Phật hay đức Chúa; bởi đức Phật hay đức Chúa nào hưởng được chút gì! Qua lần trước đàm luận, chỉ có một pháp độc nhất là Phật pháp, tức kiến tính, hoặc gọi là gì, phương cách nào, hoặc dưới hình thức chi, miễn sao đạt tới giác ngộ. Đến ngay như nghiệm chứng mà cũng chỉ có thể nghiệm vọng tưởng thì tên gọi đâu quan trọng gì. Như vậy, theo con đường thờ phượng, tài vật chỉ biểu hiệu lòng xác tín, tâm thành. Thực tế cần được nhận định rõ ràng, đó là những tài vật được dùng để bảo trì nơi chốn cho con người tụ họp để có cơ hội bày tỏ lòng thành qua hình thức minh xác với chính mình bằng cử điệu và nghi thức. Đồng thời, những tổ chức tôn giáo cũng cần có ngân quỹ để giúp cho những vị đặc trách hướng dẫn hành trình tâm linh cho tín đồ thuộc tổ chức tôn giáo và tiếp tục đào tạo những vị hướng dẫn tâm linh trong tương lai. Sự thực hành đơn giản nhất ai cũng có thể nghiệm được, chẳng hạn đốt hương. Không thần thánh nào ăn hay ngửi được hương; mà chúng ta vẫn đốt; chúng ta vẫn xông hương. Đốt hương chỉ chứng tỏ lòng thành; bởi vậy, nếu có tâm ngay thì đốt hương hay không chẳng thành vấn đề, mà không có lòng thành thì đốt cả hãng làm hương coi chừng sẽ bị nhốt vào khám mà thôi. Tụng niệm nơi nghi thức thờ phượng đóng vai trò định hướng tâm thức con người, dồn tâm thành, niềm xác tín để nghiệm chứng. Nếu để ý thái độ, cử điệu của các vị cử hành lễ bái, anh em sẽ cảm nhận được ngay vị đó đang cử hành một nghi thức tâm linh hay đang thông qua những cử điệu hình thức tôn giáo. Cũng như thiền, nếu miệng tụng niệm mà đầu óc bay tít mù khơi nơi đâu nào được ích chi! Cử hành nghi thức thờ phượng, lễ bái mà tâm hồn đang vướng mắc nơi cõi đâu đâu chẳng khác gì những tên bù nhìn giang tay giang chân, bạt bên này, lật bên kia theo gió và để chim đậu trên chính cánh tay đang giang. Bởi vậy, dẫu nơi hành trình tâm linh nào thì động lực cốt cán vẫn là tâm thành với lòng xác tín.

- Thưa bác, nếu thế đâu cần minh triết, đâu cần thiền tông, mật tông.

- Thôi! thôi! Ông ơi, để bác nâng ly. Chưa được chút cháo thì đã chết bởi nói khô cả cổ họng trong khi chúng tôi cũng đang ngấp ngoái vì khát. Xin mời bác, mời quý vị. Sỹ nhà con oang oang phân bì.

 
Những hũ chìm đang thời kỳ khô cạn mà cứ phải chịu trận với mùi nước thánh xông lên ngào ngạt thì còn nỗi khổ chi cay cú hơn. Dẫu ba hoa chích chòe lắm lúc coi trời bằng vung, nhưng vẫn chưa ai dám tợp hớp nào khi cụ Tài chưa nâng ly. Quả là điều lạ! Các tướng hãy còn biết chút ít phép tắc.

- Đã đợi thì đừng kêu, và đã kêu tại sao lại đợi, đúng là vừa đánh trống vừa ăn cướp. Đâu ai mượn quý ông hình thức dổm! Vậy từ xưa tới nay chưa bao giờ được hưởng những giọt cam lồ của vị thánh to lớn này thì các ông đang là những con ma đói khát không hồn hay sao? Ừ thì uống, thế mới biết ẩn sau các khuôn phép lịch sự lại chính là những thèm thuồng thối nát, con đẻ của vô minh; cũng như lòng ruột của một thân xác đẹp đẽ, oai phong, không mang được vẻ hấp dẫn chút nào nếu đem so sánh với lòng ruột loài heo loài bò. Bao năm nay, người ta ca tụng, khâm phục nhà danh họa Picaso, nhưng đã mê muội hùa theo kẻ khác hầu chứng tỏ ta đây hay giỏi mà tâm hồn thực sự trống rỗng, uổng công sức cầm cọ của ông. Bá ngồi cuối góc bàn, nhỏ nhẹ như nói với chính mình, nhưng ai nấy để ý nghe khiến sự ồn ào đáng lẽ phải xảy ra khi hoạt cảnh nâng ly đầu tiên của mỗi bữa nhậu lại trở nên im lặng khác thường.

- Tôi có lời chúc mừng anh Bá và anh Phủ, cụ Tài nâng cao ly rượu, mời anh em.

Chẳng đợi gì hơn, thế là một phần ba chất rượu của bình lít rưỡi vừa được rót vào những ly thủy tinh vội biến tan nơi các thân xác của thành viên nhóm nhậu như chưa từng bao giờ hiện hữu trên cõi đời này. Rượu vào, lời ra, trong lúc bình Hennessy được tiếp tục chuyền tay san qua các ly. Ông Thung dạo này coi bộ cũng ngon cơ dẫu phải nhắm mắt nhăn mũi chịu đựng những giọt rượu thơm ngon vì mùi cay xốc lên tới óc đến độ muốn bị sặc. Qua bao lần đàn đúm với nhóm nhậu, ông đã tự nghiệm được phương thức đẩy rượu qua cổ họng mà hơi men cay không làm ngộp buồng phổi phát sinh “chết sặc.” Mấy lần đầu, màn khai ly đã làm ông khốn khổ, thở không được, ho không xong mà cứ sặc sụa chảy cả nước mắt nước mũi chẳng khác gì kẻ chết đuối. Tệ hơn nữa, ông bị ngộp rượu vì đã hít đầy phổi luồng men cay nồng nặc. Tự đặt câu hỏi tại sao người khác cũng uống như ông nhưng không sao, chợt có lần ông hớp rượu một ngụm nhỏ, nuốt xuống. À thì ra thế, ông thầm nghĩ. Nguyên tắc đơn sơ chỉ là khi uống rượu, bia, phải nín hơi, ngưng thở trong khi nuốt, cùng lắm chỉ cảm thấy cay xé cần cổ nhưng không thể bị sặc. Đợi cụ Tài san miếng tiết canh và ăn xong, ông nói,

- Theo như cụ giải thích về Phật học lần trước nơi nhà anh Hưng, nghiệm chứng mới là hành trình thiết yếu vì kiến thức hay minh triết đâu phải điều thực sự cần thiết!

- Minh triết không những bao gồm kiến thức, ý thức mà còn đòi hỏi lòng thực sự khát khao thăng tiến tâm linh hầu đạt tới giải thoát, giác ngộ. Bởi vậy, Phật học được gọi đạo minh triết. Dùng tiếng đạo không có nghĩa tôn giáo mà là hành trình, con đường hành giả thực tâm muốn kiếm tìm để đạt tới Thực Thể Tuyệt Đối. Xét theo phương diện tâm linh, minh triết là hành trình nhanh nhất cho con người giác ngộ, ít bị phiền hà hay lệ thuộc bởi ảnh hưởng thói quen hoặc truyền thống, đồng thời cũng không nguy hiểm như thiền mật tông hay điểm đạo; nếu người theo đường này biết mở rộng cõi lòng sử dụng tự do suy tư tuyệt đối.

- Có phải cụ muốn nói đến nghiệm xét mọi sự?

- Đúng, điều kiện ắt có và đủ cho một người muốn đạt đạo nơi hành trình minh triết phải là nghiệm chứng bất cứ sự gì, ngay cả những vấn đề hoặc sự việc xưa nay được đề cao là tốt lành thánh thiện.

- Như vậy, thưa cụ, phải giải thích thế nào đối với những sự tốt lành đã được mọi người công nhận xưa nay?

- Có câu truyện dụ ngôn về một con khỉ khi lội ngang qua khe suối cạn. Hắn vớt ngay con cá bỏ lên bờ. Hỏi tại sao, con khỉ trả lời vì muốn giúp con cá khỏi bị chết đuối. Con khỉ có lòng tốt và hành động đáng khen nhưng không phù hợp đối với con cá. Nơi trường hợp của một bé gái năm tuổi, bẻ ngay miếng pizza bỏ vào miệng đứa em của nó mới được hai tháng làm đứa nhỏ chết hóc gần ngất xỉu. Như vậy, những sự tốt lành thiếu suy xét hay nghiệm chứng chẳng những đôi khi mà thường thì trở thành độc hại. Hiểu như thế, người minh triết lắm lúc hành động không thể hùa theo quan niệm phiếm diện; bởi chẳng thực tại nào có thể làm khuôn mẫu cho mọi trường hợp, và những kinh nghiệm cũng không thể được áp dụng một cách máy móc, thiếu ý thức. Chúng ta tôn trọng đức Thích Ca, đức Giêsu nhưng không chịu suy tư, cảm nghiệm về những lời các ngài để lại mà chỉ cố tình hùa theo sự giải thích hạn hẹp của một số người dám cả gan tuyên dương họ đã nắm được chân lý; rồi lấy những điều đó làm khuôn mẫu để tự lừa dối mình nơi cảm nghĩ chỉ cần hiểu được những điều họ giải thích sẽ thành Phật thành thánh. Nếu thực sự đối diện với lòng mình, tôi dám nói, bất cứ ai suy nghĩ về những lời dạy của các bậc đạt đạo, chắc chắn sẽ nhận ra mình là con người bết bát, tệ hại khôn cùng thì sao dám có ước mơ trở thành thế nọ thế kia.

- Thưa, cụ nói như vậy có ý gì?

- Thử đem một đôi câu nói của nhà Phật hay nơi Phúc Âm áp dụng vào thực tại ông sẽ thấy. Chẳng hạn lời của Lục tổ, “Tu hành mà chẳng vọng động, nghĩa là lúc thấy cả thảy mọi người mà chẳng thấy các điều phải quấy lành dữ, tội lỗi của người, tức là tánh mình chẳng động” (KPBĐ; Tr.96). Nguyên câu nói tự nó đã minh chứng vọng động vì nếu đã không vọng động sao phải đặt vấn đề vọng động. Nơi Phúc Âm có những câu, “Kẻ yêu cha mẹ hơn ta, ắt không xứng với ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn ta, ắt không xứng với ta” (Mt. 10:37), hoặc, “Nếu ngươi muốn được trọn lành, thì hãy bán những gì ngươi có mà cho kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo ta” (Mt. 19:21). Có phải cứ theo nghĩa từ chương mà không suy nghiệm sao cho hợp tình hợp lý nơi cuộc đời mình, chúng ta tự tạo mặc cảm tội lỗi không cách nào xóa bỏ được. Đối diện với con người thực của mình, suy tư, nghiệm xét mọi sự, dùng nghịch luận, thách đố chính mình sống phù hợp ý nghĩa thực chứng thâm trầm của những lời khôn ngoan đạo học, đó là hành trình minh triết để đạt đạo, và đây là con đường nhanh nhất; vì dẫu theo thiền tông hay mật tông, dẫu thờ phượng đấng nào rồi cũng phải trải qua đoạn đường minh triết trước khi khai ngộ. Chẳng hạn Ramakrishna, một tu sĩ mật tông Ấn Độ. Thuở ban đầu ông theo con đường Bhakti, thờ phượng đức thánh mẫu Kali. Tuy nhiên, để vượt qua chặng đường cuối cùng của đại định, ông đã phải nhờ một tu sĩ và một nữ tín đồ thông hiểu kinh sách chỉ điểm cho ông về lối tu bằng trí tuệ.


- Thưa cụ, nếu thế thì thiền tông hay mật tông chỉ dành riêng cho một số người đặc biệt.

- Thiền tông đặt căn bản trên nền tảng minh triết và dùng một số phương thức thiền định thúc đẩy hành giả đạt tới sự thức ngộ mau hơn. Bình thường, thiền được hiểu chỉ là định tâm quán tưởng và điểm cuối cùng đưa hành giả vào giai đoạn đại định. Thực ra, thiền tông bao gồm quán tưởng và mật tông. Mật tông dùng định và những phương thức vận chuyển khí huyết phát triển năng lực tự nhiên nơi con người. Nguyên tắc chính của mật tông không khác gì căn bản luyện khí của hiệp khí đạo bắt nguồn từ năng lực của ý chí, tư tưởng, ý định theo lý thuyết ý dẫn khí, khí dẫn huyết, và huyết được chuyển tới để đả thông kinh mạch. Đó là lý do tại sao người ta nói đến mật tông, huyền thuật Tây Tạng, Zen bên Nhật Bổn, Yoga ở Ấn Độ, Điểm Đạo tại Ai Cập.

 
Mấy người ngồi gần cụ Tài nghe cụ nhắc tới mật tông, huyền thuật, Yoga, Điểm Đạo, lộ vẻ chú ý. Đối với họ, những danh hiệu này bao hàm muôn sự huyền bí xưa nay loáng thoáng nghe nói đâu đó hoặc đọc nơi sách vở về những quyền năng cả thể cứ như là phép lạ chẳng hạn đi trên lửa, hoặc chôn dưới đất bốn mươi tám ngày không chết, hay chỉ cần một đụng chạm nhẹ của người tu Yoga hay mật tông, huyền thuật đã có thể chữa lành những bệnh bất trị hoặc có những người sau thời gian tu luyện không phải ăn mà vẫn sống. Đầu bàn bên kia, chị Sỹ chợt lên tiếng nói với qua,

- Thưa bác, con nghe người ta nói tu Yoga sẽ làm được nhiều sự lạ lắm phải không bác?

- Đâu phải chỉ thực hành Yoga mới đạt được kết quả sử dụng được năng lực thần thông, các bậc giác ngộ đều có thể thực hiện được những điều mà chị gọi là sự lạ. Ngay chính chúng ta, bất cứ ai cũng hàm chứa sẵn năng lực ấy; vấn đề chỉ là làm thế nào để phát huy năng lực nội tại nơi mình theo ý muốn. Tuy nhiên, hành trình phát triển năng lực nội tại này đòi hỏi nhiều điều kiện tâm linh và thể xác, đồng thời cũng có nhiều đường lối luyện tập. Đó là lý do tại sao có nhiều cấp bậc cũng như thành quả nơi hành trình thực hành huyền thuật, yoga, mật tông, hay điểm đạo. Ngay cả các pháp sư đều là những người tu luyện một trong những phương pháp phát triển năng lực nội tại nơi con người để sử dụng quyền lực tự nhiên. Có điều, sự khác biệt được phân chia rõ rệt. Những bậc đạt đạo không sử dụng quyền lực này ngoại trừ những trường hợp tối cần thiết. Dẫu họ biết cách và có thể sử dụng nhưng thực ra đó là quyền lực vũ trụ, quyền lực của Thượng Đế, không phải để lạm dụng kiếm kế sinh nhai hay khoe khoang tài năng; vì bất cứ hành động nào cũng đều mang năng lực ảnh hưởng ngược lại chính bản thân chủ thể thực hiện.

- Thưa bác, nếu nói theo hành trình thức ngộ nơi nhà Phật thì bất cứ ai cũng có thể theo con đường tiệm ngộ. Và nếu đàng nào cũng ngộ tất nhiên cuối cùng cũng đạt được những quyền năng không sớm thì chầy. Như vậy, ngoài điều kiện minh triết để bước vào mật tông hay Yoga, huyền thuật, người muốn theo con đường này cần có những điều kiện nào khác? Phủ lên tiếng trong khi những câu chuyện riêng tư nơi bữa nhậu chợt ngưng ngang vì mọi người cảm thấy háo hức khi nghe cụ Tài nói ai cũng hàm chứa sẵn năng lực thần thông.

- Minh triết không phải là điều kiện vì ai cũng có thể đạt tới được nếu họ thực sự muốn; tuy nhiên, điều kiện không thể thiếu nơi mọi hành giả, được trình bày qua nhiều nhận định; đó là tâm thành rộng mở và lòng khát vọng, có thể gọi sự sám hối, sự nhận biết và chấp nhận chính mình. Tôi tạm đưa ra trường hợp điển hình để anh em tự nghiệm. Nếu tôi không lầm, suốt tuần qua sau khi nghe quan điểm về hành trình kiến tính nhà Phật, một số anh em phần nào đó bị nỗi tự ty mặc cảm dày vò. Ít nhất như anh Phủ đã nói, “Quá tệ và quá ngu, ngu không thể tưởng, phải dùng tiếng “hèn” mới đúng.” Hoặc anh Bá nhận ra mặt trái của thói quen, “Đã đợi thì đừng kêu và đã kêu tại sao lại đợi.” Chỉ những tâm hồn chân thành dám đối diện với lòng, nói theo nhà Phật, dám nhận định đúng đắn về ứng thân, mới thực sự sám hối để dứt khoát với con người cũ, và bắt đầu cho cuộc sống ý thức tiến dần đến trạng thái minh triết. Kẻ nào không thực lòng cảm thấy mình đã quá hèn, quá ngu để chết cho con người cũ, không thể nào chạm tới ngưỡng cửa minh triết, lẽ dĩ nhiên, không hòng gì giác ngộ. Anh em nên để ý điều này, đó là tất cả các đạo học không dạy chúng ta bất cứ điều gì mà chỉ nêu lên trạng thái đạt tới Chân Thể nơi con người. Nhận biết hay không tùy cá nhân. Các bậc giác ngộ không nói đến những sự việc bên ngoài mà nội tại. Dành thời gian nghiệm chứng sẽ thấy, đức Thích Ca rao giảng Phật tính bao trùm vũ trụ ở mọi chúng sinh. Một Đạt Ma sư tổ hô lên, “Cả thế giới được nghĩ trong tâm. Tất cả chư Phật, quá khứ và vị lai đã và sẽ được tạo thành trong tâm” (KCGL; Tr.201). Lục tổ Huệ Năng bảo, “Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật.” Đối với Trang Tử, nhận chân được cái sống thật của mình tức hòa đồng với nguyên lý của vũ trụ được gọi là Tào. Ấn học trình bày Đại Ngã ngay trong chính tiểu ngã của con người (CTC; 13:24). Đức Giêsu công bố chỉ một tin mừng, và đó là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Ngài còn táo bạo hơn bất cứ bậc đạo gia nào khi nói, “Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23-24).

 
Mấy tướng con nhà Công giáo cảm thấy ngạc nhiên đến độ chỉ biết giương mắt ếch ngỡ ngàng nhìn cụ già. Tuần trước thuyết về Tâm Phật, giờ này đang thao thao về năng lực nội tại và đem lời nói của các bậc thức ngộ minh chứng, thế mà cụ nêu ngay câu Kinh Thánh không ông cha nhà thờ nào có thể dùng để giải nghĩa về quyền lực sẵn có nơi con người. Điều khiến các tướng phải dặn lòng từ nay cần thay đổi nhận định; đó là ẩn nơi vẻ hiền hòa với thân xác về chiều của cụ, cả một tâm thức xác tín vững vàng minh chứng quyền lực niềm tin. Có lẽ từ nay các tướng sẽ nhụt bớt nhuệ khí tự cao hằng ấp ủ. Dẫu mang thân tị nạn nhưng những mảnh bằng BS, BA, M này, M kia, cũng tạm khích lệ các tướng nghểnh mặt nhìn đời nhiều khi coi rẻ dân bản xứ, vác sức vóc làm thuê mướn, mà câu Kinh Thánh đã bao nhiêu lần nghe đến độ nhàm tai, không cần để ý, giờ này xuất phát từ cửa miệng cụ Tài chẳng khác gì ngọn roi quất vào tâm tư, thức tỉnh các tướng nên đặt lại vấn đề nhận thức.

- Thưa bác, bác muốn nói mọi người đều đã có sẵn quyền lực nội tại? Sỹ nhà con nhào vô hỏi.

- Tôi đợi anh nói thêm, tại sao chúng ta không thể sử dụng được để yêu cầu mọi người phạt thêm một chầu nhậu. Cụ Tài nhìn hắn chừng vài giây chờ đợi đoạn lên tiếng. Sở dĩ chúng ta không sử dụng được vì không biết cách sử dụng. Những phương pháp thiền tông, mật tông, huyền thuật, yoga, điểm đạo, chỉ là hành trình phát triển các phương thức sử dụng năng lực nơi con người chứ không có gì được gọi là bí mật. Tôi muốn nêu lên bằng chứng hiển nhiên, đã nhiều lần khi ngủ, chúng ta mơ. Vậy con mắt nào để chúng ta nhìn trong giấc mơ mặc dầu khi ngủ chúng ta không nhận biết ngay chính bản thân mình? Sự kiện nhìn thấy trong giấc mơ minh chứng rõ ràng bất cứ ai cũng có khả năng nào đó và đã chẳng bao giờ để ý phát triển. Có những người mù mờ giải thích đó là hiện trạng tâm lý chứa đựng những ảnh hưởng đã được chìm sâu nơi tâm thức bất chợt gợi lại khi hệ thống thần kinh bị kích thích cách nào đó do ảnh hưởng sinh lý, thực phẩm, hoặc trạng thái lưu thông của các mạch máu. Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra không đơn giản theo lối nhìn hạn hẹp nhân danh khoa học; vì có những giấc mơ mãi sau này mới xảy đến khiến chúng ta ngỡ ngàng, tưởng như đã gặp sự kiện hoặc sự việc bao giờ rồi. Anh em hãy để ý tìm kiếm và sử dụng con mắt nhìn thấy sự việc trong giấc mơ trước khi chúng xảy ra. Đây chính là khởi điểm nhận thức về hành trình tu chứng, nghiệm chứng các quyền lực nội tại. Mỗi người chúng ta mang một thực thể huyền nhiệm nhưng không được để ý tìm hiểu. Các đạo học nói về hành trình phát triển năng lực huyền nhiệm này, và thiền tông, mật tông, yoga, điểm đạo, huyền thuật là các phương pháp thực hành. Tuy nhiên, muốn thực hành lại cần nhiều điều kiện.

- Thưa bác,

- Anh Tùy muốn hỏi điều kiện nào phải không?

- Dạ, thưa bác.

- Anh em biết hết rồi nhưng không để ý nghiệm chứng mà thôi. Điểm căn bản ai cũng thấy rõ, chúng ta không phải chỉ là những thân xác trôi nổi theo giòng đời mà còn có một thực thể tâm linh, có con mắt nhìn trong giấc mơ. Ai cũng cảm nghiệm được thân xác không đơn giản gì, đồng thời cũng là điểm đứng cho bước đầu tiên theo bất cứ chiều hướng nào. Hoạt động của tâm thức để tìm kiếm thực thể tâm linh được cấu tạo ra sao, gốc gác ở đâu, làm thế nào liên lạc, đó là hành trình tâm linh, hành trình nhận biết bản thể thực con người của mình. Tuy nhiên, dẫu có nhiều quan niệm về cơ cấu tâm linh của con người, tất cả mọi quan niệm cũng chỉ quy về một mục đích nhận thực ra bản thể chủ thể suy tư; vì quan niệm phải nhờ đến ngôn từ mà ngôn từ thì giới hạn. Đây là nguyên nhân khiến chúng ta cảm thấy như rợ vào rừng khi tìm kiếm hành trình thực dụng nơi các kinh sách; vì chẳng những văn tự được dùng ám định khác nhau mà quan niệm cũng như chiều hướng khác nhau. Kỳ mới lên lon đại úy được hai năm, tôi bị trường hợp kích ngất và mấy người lính đã vội đưa tôi vào nhà thương cấp cứu. Có điều lạ, tôi không theo đạo nào nhưng đa số những người làm việc với tôi lại là Công giáo hay Phật tử. Ở phòng cấp cứu, tôi thấy mình lơ lửng nơi trần nhà, nhìn rõ ràng các y tá, bác sĩ giật điện đánh thức con tim nơi thân xác tôi đập trở lại. Những anh em Công giáo, người thì cầu nguyện, người lần chuỗi kêu cầu Chúa cứu tôi. Mấy anh em Phật tử cũng niệm Nam Mô A Di Đà cầu cho tôi. Biết họ đang cầu nguyện cho mình, biết lòng họ tha thiết, yêu mến mình trong khi tôi không cảm thấy thiết tha gì đến thân xác đang nằm trên giường. Nói đến đây cụ Tài chợt ngưng, nhắm mắt dường như tưởng nhớ lại cảm nhận đã bao năm trôi qua, đoạn tiếp,

- Mãi về sau tôi mới để ý đó là khi hồn tôi lơ lửng nơi trần nhà với đầy đủ nhận thức những diễn tiến nơi phòng cấp cứu, bộ óc trong thân xác đang nằm bất tỉnh trước mặt mọi người đã không cảm nhận được bất cứ gì. Sau này coi trên truyền hình, người ta trình chiếu các hoạt động của bộ óc về cảm ứng, tạo lập những sáng kiến, hoặc ban phát các mệnh lệnh truyền qua hệ thống thần kinh nơi băng tần Disovery. Những phim ảnh này đã giúp tôi nhận thức một điều thật trái nghịch với sự nghiên cứu của khoa học. Khoa học gia, bác sĩ cho rằng não bộ là trung tâm điều hành và phát xuất các hoạt động thể xác cũng như tâm linh. Nơi kinh nghiệm kích ngất, hồn lìa khỏi xác, tôi lại thấy bộ óc hay những hệ thống thần kinh chỉ là phương tiện cho linh hồn cảm ứng. Mọi mệnh lệnh, ý nghĩ, suy tư, sáng kiến, nhận thức đều do linh hồn phát xuất. Trong khi hồn tôi vẫn lơ lửng phất phơ phía trên cái thể xác trống rỗng, tôi đã kinh nghiệm sự tồn tại của linh hồn bằng minh chứng hiệu quả nhất đó là nó đã di chuyển thật sự ra khỏi thể xác! Tôi tiếp tục nhìn cái xác phàm còn bỏ sót lại. Phải chăng cái xác bất động kia mà đã bao nhiêu năm tôi vẫn gọi là cái tôi? Một đống nhục thể, vô tri giác, chỉ có thế thôi! Chính lúc ấy tôi mới khám phá, với bằng chứng rõ ràng, cái tôi linh thiêng hoàn toàn khác biệt với thân xác. Cái tôi linh thiêng hay linh hồn mới thực sự là chủ thể con người của tôi. Bởi vậy, gọi là tôi có nghĩa linh hồn chứ không phải thân xác đang nằm bất động nơi đó.

- Đọc nơi sách vở, nhà Phật gọi là bản ngã và thân; Ấn học cho rằng đó là tiểu ngã và xác phàm; Kinh Thánh, đặt tên linh hồn và thể xác; Lão học cũng nói đến bản ngã và con người. Tôi suy nghĩ nhiều về sự liên hệ giữa thực thể vô hình, bản ngã đích thực không ai có thể nhìn thấy của tôi, tạm gọi là linh hồn và xác thân trong cuộc sống. Cứ theo cảm nghiệm nhận được, những gì chúng ta gọi là tâm lý, lương tâm, lý trí, trí khôn, nhận thức, ý thức đều thuộc về linh hồn. Những hành động, ý nghĩ, suy tư trong cuộc sống không một chút nào dính bén tới xác thân mà ngược lại; xác thân chỉ là công cụ thể hiện hoạt động của linh hồn. Trong khi linh hồn tôi lơ lửng nơi trần nhà, định luật hấp lực đã không còn ảnh hưởng. Hồn tôi phất phơ trên không trung đồng thời nhận thực được rằng thực thể được gọi là tôi không lệ thuộc bất cứ gì nơi trần gian vì nó bất diệt dẫu không ai nhận ra, ngay cả chính tôi từ bao năm qua. Lúc ấy tôi mới có câu trả lời chính xác cho nỗi thao thức từ lâu; vì nội tâm đã cảm thấy thiếu thốn một thứ gì không thể diễn tả được. Tôi là một thực thể tâm linh bất diệt, không thể nào chết. Cũng như mọi người, ai cũng là một thực thể tâm linh mà kinh sách gọi bằng nhiều danh hiệu khác nhau tùy thuộc quan niệm nhận thức. Thực thể này hoàn toàn độc lập và là chủ thể chịu trách nhiệm tất cả mọi hành vi, ý nghĩ nơi con người. Như vậy, phần thân xác không phải là chánh phạm hay chủ động của các hành vi, suy tưởng, ý định, mà linh hồn, tâm vô hình, mới thực sự là chủ phạm. Xác thân, trí óc của tôi không thể khởi niệm nếu nói theo nhà Phật. Nó cũng không thể có vọng niệm vì nó đang bất động, sõng xoài dưới những bàn tay y tá, bác sĩ, và những vật dụng y khoa giữa đám bạn lính của tôi mà chưa có được lấy một phản ứng nào trong khi hồn tôi nhận thức cũng như cảm nhận rõ ràng nỗi lòng, ý muốn từng người phía dưới. Xác thân tôi như thế tuyệt đối yên lặng chẳng khác gì dụng cụ y khoa hay những đồ nghề nơi tay người thợ. Nó chẳng qua chỉ là công cụ cho tâm, linh hồn bất diệt được gọi là “tôi.” Một điều không thể chối cãi đó là tâm thức của tôi không hề kết hợp với cái nhục thể được gọi là thân này. Dẫu xác phàm của tôi tăng trưởng và thay đổi theo giòng thời gian nhưng linh hồn tôi trước khi sinh ra đã như thế. Nó dùng thân xác liên hệ với cuộc sống hầu phát triển tâm thức cho trưởng thành hơn mà vẫn biệt lập, hoàn toàn không một chút kết hợp chẳng khác gì những bộ áo quần dẫu đẹp đẽ đến mấy, được ưa thích đến mấy đối với mọi người.


- Suy rộng hơn, tôi nhận ra thực thể tâm linh, còn được gọi là sự sống, sự hiện hữu, là gốc gác, căn bản, mặc lấy xác phàm. Sự hiện hữu được thể hiện qua mọi hình thức sống động nơi con người, động vật, hay bất động vật nơi cây cối, gỗ đá, cũng như nơi cõi vô hình mà linh hồn tôi hiện hữu. Sự sống, sự hiện hữu hiện diện tràn ngập qua mọi hình thức, trạng thái. Từ hữu thể vô tri giác, bất động đến thực thể tâm linh thức ngộ vì sự hiện hữu không phải là một cái gì bất động. Dẫu sự hiện hữu nơi thế giới hữu hình tuân theo các định luật khoa học nhưng mang tính chất huyền nhiệm sống động và biến chuyển trong thân thể, tư tưởng, tình cảm, ý thức con người. Từ sự nhận thức này, tâm trí tôi đã hoàn toàn thay đổi và trở thành mẫn cảm hơn, cảm nhận được sự mầu nhiệm của sự hiện hữu thường được gọi trong ngôn ngữ hạn hẹp hơn đó là sự sống. Đối với tôi, sự hiện hữu, cội nguồn hiện hữu hay quyền lực hiện hữu hoặc bản thể hiện hữu chính là Thực Thể Tối Thượng đang hiện diện và hoạt động nơi mọi người, mọi vật hữu hình hay vô hình. Như vậy, cõi đời là môi trường, cơ hội, hay phương tiện cho thực thể tâm linh của mỗi người rèn luyện, một trường học hay giai đoạn để cái “ta” đích thực hay linh hồn thăng tiến. Có điều, tôi vẫn chưa cảm nghiệm đích thực được sự liên hệ giữa linh hồn với Thực Thể Tuyệt Đối thế nào dẫu linh hồn cũng như mọi sự mang Thực Thể Hiện Hữu Tuyệt Đối. Thế nên chẳng lạ gì, các kinh sách đều khuyến khích chúng ta nhận thức về điểm quan trọng đầu tiên, phải biết mình là gì và được sinh ra để làm gì.

- Xét như vậy, sự chết xác thân là một điều hiển nhiên và cần thiết vì nhờ có sự chết người ta mới ý thức được sự sống. Chết là một điều hiển nhiên vì thân thể, hao mòn theo năm tháng, hư hoại do ảnh hưởng của già lão, bệnh hoạn cần phải được thay thế bằng một thân thể khác mới mẽ và tốt đẹp hơn để linh hồn tiếp tục các kinh nghiệm đã được học hỏi hầu phát triển hơn nữa. Đàng khác, sự học hỏi sắp đặt các kinh nghiệm cấu tạo nên trí thông minh. Nhưng thông minh không phải là nấc tiến cuối cùng trong mức tiến hóa như nhiều người lầm tưởng bởi tâm thức còn phải vượt lên từ vô thức đến ý thức và từ ý thức đến trạng thái ý thức tuyệt đối nơi tất cả mọi hành động, lời nói đến tư tưởng của mình. Từ kinh nghiệm kích ngất, tôi nhận rõ ràng sự thể và đó là những ý nghĩ, ước muốn, tham vọng cho đến lời nói, hành động đều phát xuất từ thực thể tâm linh, linh hồn, chứ không phải do thân xác. Ngay như bộ óc, hệ thống thần kinh vẫn chỉ là công cụ thì thân xác cũng không hơn được chi. Thể xác con người chỉ là một lớp vỏ, cái vỏ nhục thể bên ngoài bao bọc nếu không muốn nói là giam hãm linh hồn bất diệt. Một tử thi không có giá trị gì nếu không muốn nói là chỉ làm phiền người sống. Như vậy, trong trường hợp chết tự nhiên, nghĩa là không phải do tai nạn bất đắc kỳ tử, thì đây là diễn biến của sự chết xác thân. Cái thể xác mệt mỏi, già cỗi đã trở nên bất tiện cho linh hồn đến mức không còn có thể giúp cho linh hồn tiến hóa nữa; đó là lúc cần phải loại bỏ lớp vỏ bên ngoài và xuất ra khỏi thể xác vật chất (TTHB; Tr.181). Ngày nào người ta ý thức được sự sống bao la mầu nhiệm và khi hiểu được giá trị sự sống thì sự chết chỉ là một hiện tượng tự nhiên, một trạng thái cần thiết không có gì đáng phải e ngại nhưng lại là cơ hội không thể thiếu cho hành trình thăng tiến tâm thức của con người. Từ đó, tôi thực sự nhận được rằng tôi không phải chỉ là cái xác thân theo ngày tháng trở nên già lão, sắp qua đi này mà là linh hồn, một thực thể tâm linh bất diệt.

 
- Sau này, càng suy luận về thực thể linh hồn, tôi càng nhận ra chúng ta không thể kết luận bừa bãi một cách ngu dốt về ý nghĩa của sự sống qua cái nhìn phiếm diện và giới hạn của một kiếp sống ngắn ngủi mà cần kinh nghiệm nó như một sự tiếp diễn liên tục. Chết không phải là chấm dứt sự sống mà chỉ là một giai đoạn biến chuyển của sự sống cũng như ngày và đêm, sáng và tối. Hơn thế nữa, chết thực sự là cơ hội thăng tiến tâm linh. Xét qua lịch sử nhân loại hay của vạn vật, sự sống vẫn tồn tại giữa những cơn tàn phá, hủy diệt. Bởi vậy, hẳn là phải có một định luật cao cả hơn định luật hủy hoại trong thiên nhiên. Chỉ có định luật ấy mới đem đến một xã hội có trật tự, điều hòa và mới nói lên được ý nghĩa của cuộc đời. Nếu sự biến chuyển là định luật của đời sống, chúng ta phải thể hiện nó trong cuộc đời hằng ngày. Trong mọi cuộc tranh chấp xung đột, mỗi khi chúng ta phải đương đầu với một địch thủ, hãy chinh phục họ bằng ý thức sự sống vĩnh cửu nơi mình cũng như nơi người. Nhận ra như thế, cuộc đời chính là cơ hội và cũng là ông thầy tâm linh của chúng ta.

- Dùng kinh nghiệm khi kích ngất để nhận định những tiến triển khảo sát tâm lý, tôi thấy các nhà bác học về tâm lý chưa dám công khai nhìn nhận một cách thẳng thắn rằng còn nhiều điều mới lạ mà họ chưa thể hiểu nổi, hoặc đã vì thiếu lương tâm nghề nghiệp không dám bỏ giờ nghiệm chứng, hoặc đôi khi vô tình cảm nhận được thì cũng không dám tuyên bố những điều không phù hợp với quan niệm thông thường bởi không cách nào chứng minh, hay do nỗi e ngại bị đồng nghiệp phản đối ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo nên cũng không dám lên tiếng về những điều chưa được đa số quần chúng chấp nhận. Dù tự do tư tưởng được tôn trọng, các khoa học gia vẫn không dám vượt qua bức màn thiên kiến cố hữu, con đẻ của tự ti mặc cảm, hoặc quá cao ngạo thành ra tự đóng khung trí tuệ chẳng khác gì kẻ mù bẩm sinh cho rằng không có mặt trời. Họ không dám đả phá các thành kiến cố hữu có thể vì e sợ không được chấp nhận thuộc về hàng ngũ nào đó. Họ e sợ dư luận và bám víu một cách lạm dụng lý thuyết cho rằng những gì chưa được kiểm chứng bởi khoa học thì sẽ không xẩy ra, không hiện hữu. Có lẽ cũng vì thế mà quan niệm của đa số quần chúng với đời sống vẫn còn là một cái gì mù mờ, không rõ rệt, không mục đích, và cũng không biết sống để làm gì. Người ta chỉ chú trọng đến những lợi lộc phù du, những giá trị vụn vặt nhỏ nhen vật chất ngắn hạn trong thế giới đầy rẫy những thay đổi vô thường, bỏ tiền mua đôi giây phút vui vẻ tạm bợ hầu tạo thêm khoảng trống tâm tư để rồi càng ngày càng chịu gánh nặng cô độc lầm lẫn ám ảnh.


Lời cụ Tài điềm đạm, trầm trầm, mang thêm tính chất xót thương khi nói tới nhận thức của những tâm lý và khoa học gia nhận định về sự sống nhưng mang năng lực cuốn hút và thức động thực thể nào đó nơi lòng trí mọi người.

- Thưa bác, Tam phá bầu khí nghiêm trọng nặng nề, thế lúc hồn bác lơ lửng trên trần nhà, bác có thấy hình dáng ra sao không?

- Lúc đó tôi không để ý chuyện này mà chỉ cảm thấy vui sướng đồng thời thâm cảm tâm tình anh em bạn lính đang cầu nguyện cho tôi nơi phòng cấp cứu. Sau này, tôi cố tra cứu sách vở nói về hình dáng của hồn thì hầu hết những sách báo tra cứu về kinh nghiệm này, đặc biệt nơi những cuốn sách tự thuật nơi hành trình thiền định mật tông đều cho rằng hồn có hình dáng như thân xác của một người nhưng mắt trần không thể nhìn thấy. Tôi có biết một người Mỹ, Công giáo, tên là Bob, bị kích ngất bởi đứng tim và ông ta được cứu sống. Tuy nhiên theo như lời vợ ông ta kể, ngay khi được cứu sống lại, ông ta rất bực bội vì cho rằng họ đã cướp mất sự hạnh phúc tuyệt vời mà ông ta vừa đạt tới. Hiện giờ, ông ta rất sùng đạo, tham gia các sinh hoạt của nhà thờ Công giáo nhưng đôi khi phàn nàn về những lời giảng của linh mục là không hợp với kinh nghiệm về tâm linh đã xảy đến với ông.

- Thưa bác, ông ấy phàn nàn thế nào? Tùy con chen vô.

- Hãy để bác nói tự nhiên! Đang không chen vô mất hứng.

- Để tôi trả lời anh Tùy rồi nói tiếp về vụ ông Bob. Thêm vào đó, những gì cảm thấy cần được biết, anh em cứ việc hỏi bởi đôi khi vấn đề được đặt ra không quan trọng với người này lại có thể cần thiết cho người khác. Ông Bob nói rằng có lẽ vì không có cảm nghiệm về thực thể linh hồn một cách rõ ràng, hầu hết các linh mục hoặc mục sư đã không có cảm nghiệm thực sự về Thượng Đế thế nào mà có chăng nói đến Thiên Chúa như một thực thể được nhân cách hóa, duy lý theo suy luận nhân sinh, ngự trị nơi cõi xa xăm nào đó cách biệt với con người, và đặc biệt không phù hợp Phúc Âm. Ông Bob nói với tôi, kể từ ngày ông có cảm nghiệm qua kinh nghiệm chết, đọc Phúc Âm, ông ta hiểu hoàn toàn khác với những gì được giảng dạy. Ông có nỗi thao thức rất mạnh mẽ sao cho mọi người nhận thực được thành phần tâm linh nơi họ. Theo ông, Phúc Âm viết về hành trình của thực thể tâm linh được gọi là linh hồn trong khi người ta cứ hiểu Phúc Âm qua nhãn quan luân lý hoặc tâm tưởng đạo đức. Tôi nghĩ, lý do mà ông nói những điều này với tôi vì khi gặp ông lần thứ hai, tôi kể về chuyện được cứu sống nơi lần kích ngất. Hơn nữa, những gì ông kể về kinh nghiệm chết không có gì đối nghịch với kinh nghiệm của tôi; sự thông cảm có lẽ phát xuất từ điểm này...

- Ông Bob nói rằng ông gặp bố và ông nội của ông ta. Người bố đã chết chín năm trước, và ông nội đã chết hai mươi bẩy năm. Lúc ấy, ông cảm thấy nỗi an bình tuyệt vời, một trạng thái chưa từng có trong suốt cuộc sống của thân xác ông. Đồng thời ông nhìn thấy một nguồn sáng lạ kỳ, không thể diễn tả mà ông gọi là ánh sáng của đức Kitô kéo ông tới. Cứ theo sự kể lại này thì linh hồn có hình dáng của một người khi còn sống. Anh em có thể đọc thấy nhiều mẫu truyện, hay phỏng vấn ghi lại nơi cuốn sách Bí Ẩn về Tiền Kiếp Hậu Kiếp do Đoàn Văn Thông biên soạn. Điểm khác biệt giữa kinh nghiệm của tôi và của ông Bob đó là tôi đã không gặp hồn những người đã chết mà nhận biết rõ ràng mọi biến chuyển nơi phòng cấp cứu khi bác sĩ và y tá giúp tim tôi đập lại, cũng như cảm nhận những tấm thịnh tình của anh em bạn lính nhưng không để ý về hình dáng thực thể vô hình của mình. Ông Bob nhận ra bố và ông nội nhưng không biết gì về hoạt cảnh xảy ra nơi phòng cấp cứu. Dẫu cảm nghiệm khác biệt nhưng tựu trung cả hai trường hợp của tôi và ông Bob đều chứng tỏ chúng ta thực sự là những hữu thể vô hình mà thân xác chỉ là công cụ nơi cơ hội có cuộc sống hữu hình để tiếp tục học hỏi và thăng tiến. Đây chính là lý do tại sao tôi không theo bất cứ một tôn giáo nào mà chỉ tìm hiểu về đạo học. Nói chuyện với khá nhiều người, điều khiến tôi ngạc nhiên là sự hiểu biết của họ rất mù mờ về tôn giáo. hoặc chỉ hiểu đại khái về tôn giáo như tổ chức họ phải tùy thuộc nơi cuộc đời này chẳng khác gì một loại bảo hiểm mà giá phải trả là tuân theo luật lệ tôn giáo để hưởng phúc sau khi chết, hoặc vì lo sợ bị luận phạt nên cố gắng ép mình ép xác chấp nhận chịu sự khổ đời này hầu tránh phải chịu nơi cuộc sống kế tiếp. Có thể do không muốn hiểu biết nên ít người chịu tìm hiểu về các đạo học do đó thái độ về tâm linh mang phần nào tính chất khoán trắng sự tìm hiểu cho những vị tu sĩ, trong khi nghĩ rằng cứ tuân theo những gì các vị đó nói là đã chu toàn trách nhiệm hay bổn phận. Phỏng thái độ này do bởi không có hoặc không muốn biết cảm nghiệm tâm linh chăng. Hơn nữa, các vị giảng thuyết tôn giáo dẫu hiểu lý thuyết nhưng chưa chắc đã thực sự có được những cảm nghiệm tâm linh thì sao họ có thể rao giảng hoặc chỉ bảo cho tín đồ. Ai không biết muốn hết khát phải uống nước; tuy nhiên, lý thuyết về lợi ích của nước và hành động uống nước là hai sự thể khác biệt. Trải qua những năm tháng tìm hiểu mà vẫn còn nhiều điểm khúc mắc, tôi tự nhủ đành chấp nhận; chẳng hạn lý do gì đã bao ngàn năm con người vẫn chưa nhận ra hoặc không muốn nhận ra mục đích và thực thể tâm linh của mình nơi cuộc sống. Nơi cơ hội cuộc sống, chúng ta học hỏi được gì và cần học hỏi những vấn đề nào thật khó mà phân tích được. Như anh em đã biết, nguyên tắc cốt yếu nơi nhà Phật để nhận ra thực thể tâm linh nơi mình là kiến tính, nhưng muốn kiến tính nào phải dễ dàng chi, ngược lại, nếu ai đã đạt tới mới nhận ra tất cả những công sức cho tiến trình kiến tính thật là vô giá trị nhưng không có chúng không được. Lão học đưa lên câu nói “Không làm gì mà không việc gì là không làm” (LTĐĐK; Tr.96), hay được nói một cách gọn ghẽ, không làm gì là làm tất cả. Nơi Kinh Thánh, Phúc Âm khuyến khích hãy tỉnh thức và cầu nguyện (Mt. 26:41; Mc. 14:38). Ấn học cho rằng xả kỷ là nhân đức quan yếu nhất (CTC; Tr.164). Anh em nhận thấy, dù lối phát biểu thoạt nghe coi bộ khác biệt nhưng thực ra chỉ khác ngôn từ mà đồng một ý nghĩa. Kiến tính chỉ là trực diện tâm thể. Trực diện tâm thể đâu cần suy nghĩ, hoạt động gì thì đâu cần làm gì vẫn đạt tới mục đích tối thượng là nhận chân thực thể nội tại. Tỉnh thức để nhận ra tâm thể, linh hồn, hoàn toàn khác biệt thân xác nơi dòng đời và trực diện tâm thì những gì thuộc về vị kỷ đâu còn thế đứng hay ảnh hưởng. Thế nên, dù xả kỷ, tỉnh thức, không làm gì, hay kiến tính cũng chỉ là một mà được gọi khác nhau. Điều này cũng giống như cùng một vật thể bằng thủy tinh dùng để uống nước, người miền Bắc gọi cái cốc, người miền Nam gọi cái ly. Ấy thế mà ngày xưa vào thời di cư 1954 đã có khá nhiều chuyện rắc rối phát sinh phiền não; bởi người gọi cái cốc thì bảo cái ly sai, người gọi cái ly nói cái cốc không đúng! Tôi nghĩ, gọi là ly hay cốc chẳng thành vấn đề, miễn sao có thứ đựng nước uống là được; đây cũng có thể là một trong những lý do giúp tôi tìm hiểu đạo học.

- Điểm thực dụng chung các đạo học nêu lên là lòng thương xót, từ bi, bác ái, phục vụ tha nhân. Tuy nhiên, điểm chung này cũng đòi hỏi điều kiện hiểu biết đúng đắn chứ không phải cứ mù mờ nghe sao biết vậy để rồi thực hiện một cách thiếu hiểu biết; coi chừng chẳng những hại người mà hại cả chính mình. Tôi nghĩ, cho dù mục đích của các đạo học chỉ là cố gắng khuyến khích con người nhận thức được thực thể tâm linh mà nơi thực tại cuộc sống rất ít ai đạt tới điểm khởi đầu này. Có lẽ chưa tới thời điểm cho con người nhận ra chăng, hoặc còn có phương cách nào khác mà lúc này vẫn đang là thời gian chuẩn bị.

- Bác làm ơn giải thích lý do tại sao được gọi là thời gian chuẩn bị.

- Thực ra, bất cứ nhận xét nào được gọi là lý do thì cũng vẫn là suy tư phỏng đoán bởi ngay quý anh chị đang hiện diện nơi đây vẫn chưa chứng nghiệm được thực thể tâm linh nơi mình mà vẫn không biết lý do thì ai có thể nói được lý do chính xác! Tôi muốn nêu lên một bằng chứng cụ thể, nghiệm được hay không tùy mỗi người, đó là nếu ai cảm nhận thực sự mình là thực thể tâm linh, hay linh hồn, tất nhiên, nhãn quan, thái độ, cách sống sẽ hoàn toàn khác biệt với những người chung quanh, và thường bị người đồng thời có nhận xét qua hai chiều hướng thật đối nghịch, hoặc là thái độ tôn trọng, kính phục nhưng cảm thấy rất khó hiểu, hoặc cho rằng đó là một người dị hợm. Thử hỏi, khi nhận ra mình là một thực thể bất diệt, mọi hành vi, thái độ, ngay cả tư tưởng đều ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống tâm linh, ai dám cả gan có những ý nghĩ hay lời nói dự đoán tới người khác, phương chi là thái độ hay hành động. Hơn nữa, người thực sự cảm nghiệm được thực thể tâm linh nơi mình sẽ nhận ra dù chỉ là ý nghĩ, tự nó đã mang quyền lực tác thành một thực thể vô hình; phỏng người đó dám khởi xướng bất cứ ý định nào nữa không? Tôi muốn nói thêm, chỉ ai đã đạt đến sự cảm nghiệm này mới có thể hiểu được tại sao nhà Phật nhấn mạnh về vô niệm và đồng thời cũng mới có thể hiểu được giá trị của những câu thần chú, niệm chú, hoặc lời kinh Kim Cang, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh...” (KCGL; Tr.241).

 

Và thế là bàn dân thiên hạ cảm thấy lòng ruột giao động, ngay cả những người không để ý gì đến đạo Phật. Đạo Phật là đạo giải thoát, đức Phật nhập niết bàn để độ chúng sanh thoát khỏi những nỗi khổ ải; xưa nay ai không hiểu như thế! Nếu đức Phật không độ chúng sanh thì ai có thể được giải thoát! Thế mà cụ Tài nêu ngay câu nói nghịch hẳn với quan niệm đạo Phật, chẳng khác gì Hưng. Hình như cảm nhận được điều gì, đôi mắt cụ Tài chợt ánh lên, miệng nhẹ mỉm cười nhưng thái độ vẫn điềm đạm. Đưa mắt rảo qua các gương mặt đang chăm chăm nhìn mình, cụ lên tiếng,

- Nhắc tới nửa câu nói của đức Thích Ca nơi kinh Kim Cang, nếu tôi không lầm thì hình như mấy anh em Công giáo cũng có vẻ bất đồng ý!

- Thưa bác, Sỹ nhà con nhanh nhẩu, có lẽ vì bác nói đức Phật không độ chúng sinh.

- Anh nói rất hợp lý với lối hiểu biết mù mờ về nhà Phật. Câu kinh nói về quyền lực của ý niệm, ý nghĩ, ước muốn, vọng tưởng, tham vọng, thuộc về tâm linh chứ không phải độ trì hay giải thoát con người. Trước hết, kinh sách Phật học không nói đức Thích Ca hay bồ tát giải thoát hoặc cứu độ bất cứ ai mà sự giải thoát phát sinh tự hành giả, do từng người nghiệm chứng phá vòng vô minh đạt tới thức ngộ. Anh em không nhớ tuần trước anh Hưng đã giải thích rồi sao? Tôi nhắc lại câu kinh, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả” (KCGL; Tr.241). Như vậy, còn ý niệm, còn khởi nghĩ thì còn tạo chúng sanh nên không có ý niệm thì không có chúng sanh. Bởi thế, vô niệm tức là không tạo chúng sanh, không tạo nghiệp, nói cách khác tức là độ. Câu kinh thoạt nghe mang nghĩa phiếm diện giải thích cứu độ hoặc giải thoát người khác. Nếu quán tưởng chín chắn hơn, câu kinh nói về quyền lực kiến tạo của ý niệm.

- Quý anh em Công giáo có lẽ đã được nghe hay đọc nhiều lần về câu Phúc Âm, “Phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng...” (Mt. 5:28), hoặc “Phàm ai tức giận anh em mình thì sẽ can án...” (Mt. 5:22). Có phải thoạt nghe ai cũng đều cho rằng những câu Phúc Âm này dạy về luân lý phải không? Tôi thử đặt vấn đề, mắc mớ gì Phúc Âm phải răn dạy luân lý trong khi dân tộc nào mà không có nền văn hóa, luân lý, đạo đức riêng? Nếu có dịp, quý anh chị thử đếm xem Phúc Âm được bao nhiêu chữ, Lão học bao nhiêu, Trang Tử, kinh Kim Cang, Viên Giác, Pháp Bảo Đàn Kinh, Chí Tôn Ca, xem mỗi kinh dài ngắn ra sao. Các kinh sách đạo học được viết rất ngắn, rất gọn. Thế mà cũng nơi Phúc Âm, đã bao giờ anh em Công giáo tự đặt vấn đề tại sao câu nói kỳ cục “Ai có tai thì hãy nghe” (Mt. 11:15) lại được thêm vào khiến người mới đọc hay nghe đều cảm thấy thừa thãi, không cần để ý; mà đâu chỉ một lần, những bảy lần lập đi lập lại đến độ chối tai. Hai ngàn năm trôi qua, tôi nghĩ, chưa ai dám đặt vấn đề về câu nói thừa nhưng quá ư thâm trầm, u mặc này.

- Qua kinh nghiệm thoát chết, tôi nhận thực được linh hồn con người hàm chứa quyền lực vô song. Ý niệm, ý nghĩ, ước muốn, phát sinh từ linh hồn nên chúng cũng mang quyền lực tác tạo. Nhà Phật nêu lên ý niệm tạo chúng sanh, Phúc Âm nói tức giận anh em thì bị can án, nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã phạm tội ngoại tình trong lòng. Tôi nghĩ, từ nghiệm chứng quyền lực tâm linh này phát sinh sự thực hành thiền, mật tông, điểm đạo, Zen, và các phương thuật mà chúng ta thường gọi là phép lạ.

- Thưa bác, Bá lên tiếng, con có mấy câu hỏi cùng một lúc, nếu được, xin bác giải thích thêm.

- Anh cứ việc hỏi.

- Có câu nói, chúng ta chỉ có thể biết được những gì đã có, đã được sinh ra với chúng. Theo như kinh nghiệm trở về từ cõi chết của bác, câu Phúc Âm “Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì” (Gioan 6:63) có thể hiểu theo nghĩa nào vì cũng có câu khác nói, “Sự gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, và sự gì sinh bởi Thần Khí là Thần Khí” (Gioan 3:6). Như vậy, nếu nói rằng xác thịt không ích gì thì phương tiện nào cho con người thức ngộ tâm linh? Thêm vào đó những vấn đề bác vừa nhắc tới, tức là sự liên hệ của quyền lực nơi ý nghĩ với thiền, zen, mật tông, điểm đạo, các phương thuật, và nếu cháu không lầm thì cả về thuốc trường sinh nữa.

- Sau nhiều ngày tháng suy gẫm về sự thể mà anh gọi là trở về từ cõi chết, tôi nghiệm được một điều đó là linh hồn chịu ảnh hưởng giới hạn chứ không lệ thuộc thân xác. Sự kiện này không khác gì con người chịu ảnh hưởng văn hóa dân tộc, địa dư sinh sống, hoặc nhãn quan tùy thuộc thời điểm tiến hóa. Điển hình hơn, hãy ví thân xác như những dụng cụ thường dùng chẳng hạn chiếc búa đóng đinh. Thay vì đóng đinh chúng ta đập ngay vào ngón tay thì tại búa hay tại người đóng. Đàng khác, tùy đồ vật có thể sử dụng vào nhiều công việc hay ít, người sở hữu đồ vật ấy có nhiều cơ hội hoàn thành những việc theo ý muốn hay không. Tương tự như thế, thân xác chỉ là dụng cụ cho linh hồn trong hành trình tiến hóa tâm linh. Nơi môi trường hay thời điểm thiếu phát triển, tất nhiên hành trình tâm linh bị giới hạn. Ngược lại, anh em thường nghe câu, “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Điều này nói lên thân xác lệ thuộc tâm trạng linh hồn dẫu khi chiếc răng hay bộ phận nào trong cơ thể đau yếu ảnh hưởng sự suy tư của linh hồn. Nói cho đúng, sự ảnh hưởng này chỉ giống như sự trục trặc của thành phần nào đó nơi bộ máy xác thân ngăn cản sự thể hiện hoạt động của linh hồn nơi thế giới hữu hình.

- Xét về mối liên hệ giữa linh hồn và thân xác, tất nhiên thân xác rất cần thiết cho sự thăng tiến tâm linh, ít nhất trong giới hạn con người có thể cảm nhận và nghiệm chứng được vì không có thân xác sao chúng ta có thể nói tới tâm linh. Tuy nhiên, đem so sánh hai thực thể, vĩnh cửu và giai đoạn, có lẽ không chỉnh. Đàng khác, dùng biểu tượng hữu vi để bắc cầu nhận thức, thân xác chỉ giống như dụng cụ hoặc tôi tớ của linh hồn nên chúng ta không thể đánh giá linh hồn qua giá trị thân xác. Lẽ đương nhiên, người ta không thể lên án một vị giám mục vì ông ta có một tên làm vườn thô lỗ! Cũng như người ta không trông mong người làm vườn ấy sẽ trở nên một vị thánh chỉ vì y làm tôi tớ cho một vị giám mục (TTHB; Tr.82). Nói như vậy, tôi hy vọng có thể giải đáp được phần nào câu Phúc Âm “Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì.” Trong Phúc Âm còn có câu khác nói về sự liên hệ giữa linh hồn và thân xác nhưng nếu không để ý nhận thức chín chắn, chẳng dễ chi hiểu nổi. Đó là câu, “Điều tự trong lòng người ta phát sinh ra, điều đó làm cho người ta nhơ uế” (Mc. 7:22). Có lẽ vì được viết nơi phần giải đáp về quan niệm nhơ uế nơi xã hội Do Thái ngày xưa nên câu Phúc Âm chỉ được viết gọn như thế. Quyền lực tác sinh ý định, ước muốn, tham vọng, tự bản thể tâm linh đã bị hiểu lầm là sản phẩm của bộ não, quả là thiếu sót và thấp kém. Câu Phúc Âm “Sự gì sinh bởi xác thịt là xác thịt, và sự gì sinh bởi Thần Khí là Thần Khí” coi bộ rất thường nên không mấy ai để ý nhưng thực ra không đơn giản chi. Nó nói lên thực trạng phân biệt rõ ràng giới hạn liên hệ giữa linh hồn và thân xác. Linh hồn bất tử nên khi nhục thể của chúng ta già yếu, không giúp ích gì cho hồn thăng tiến được nữa phải bị bỏ đi; đó là sự chết để hồn tiếp tục cơ hội mới trong hành trình thăng tiến. Tôi nghĩ, đây là căn bản cho sự luân hồi xưa nay vẫn bị hiểu một cách sai lầm nơi giới bình dân về đạo học Đông Phương. Có điều, qua sự hiểu biết về những phương pháp thực hành áp dụng quyền lực tâm linh nơi thiền, mật tông, điểm đạo, dẫu tôi không thực hành, tôi xác tín rằng, linh hồn cũng mang quyền lực biến thái xác thân nếu người nào biết sử dụng quyền lực này đúng cách. Phỏng đây là một phần tạo nên nguyên tắc cho sự tìm kiếm thuốc trường sinh bất tử hay không, tôi chưa dám xác quyết. Anh em có thể thử nghiệm năng lực hội tụ của chiếc kính lúp. Dùng kính lúp cho hội tụ ánh sáng mặt trời sẽ phát sinh lửa đốt miếng giấy. Các phương pháp mật tông, thiền, điểm đạo, hay phương thuật sử dụng quyền lực ý định, và sự tưởng tượng hội tụ nơi phương diện nào đó, tất nhiên phát động biến chuyển. Nguyên tắc lý thuyết chính yếu chỉ có thế, nhưng áp dụng trong thực hành lại cần rất nhiều điều kiện chẳng hạn thể chất xác thân, ý thức, sự hiểu biết, niềm xác tín của hành giả, cũng như sự chỉ dẫn đúng đắn của vị thầy đã dầy công và hoàn thành thực chứng. Nếu không có đầy đủ những yếu tố quan thiết này, người thử nghiệm vô tình tạo nên hậu quả không thể đo lường được. Có lẽ vì những đặc tính nguy hiểm khó lường của sự thực hành mà những vị chân sư hoặc đạo sĩ đạt đạo đã không ai dám viết thành sách chăng. Sau nhiều suy luận, tôi nghĩ, đây không phải vấn đề ích kỷ mà lại là sự bảo vệ những người hiếu kỳ thiếu ý thức tránh khỏi lầm lỡ lớn lao đáng tiếc. Chẳng hạn những câu thần chú, ai cũng có thể đọc mà sao người thì đạt ước nguyện, kẻ lại không cảm thấy gì; đồng thời có những người dùng thần chú để đạt nguyện ước lại phải đối diện với giá trả không muốn chút nào.

- Thưa bác, nếu người áp dụng quyền lực tâm linh vào thực hành không đúng cách sẽ bị hậu quả thế nào?

- Nói về hậu quả phát sinh bởi sự thực hành thiền, mật tông, hay điểm đạo, đòi hỏi sự am hiểu quyền lực của ý định, ý nghĩ, ước muốn, nên giới hạn bao gồm nhiều phương diện. Chẳng hạn sự tế lễ hoặc cúng bái, thiền, nếu không có lòng thành, tạm gọi tâm ý, đều trở nên vô ích vì đó chỉ là những hành động của một thân xác vô hồn. Những sự thực hành các phương thức thiền, mật tông, căn bản dựa trên sự sử dụng quyền lực tâm ý. Sự quán tưởng trong mật tông chỉ là dồn mọi năng lực vào sự tưởng tượng. Anh em nên nhớ, ý nghĩ, ước muốn, ước mơ là hoạt động của linh hồn nên chúng mang quyền lực chứ không phải chúng phát xuất từ bộ óc vì bộ óc hay hệ thống thần kinh chỉ là phương tiện. Hành giả khi thực hành các phương thức phát triển quyền lực nội tại sử dụng chính quyền lực ý nghĩ, ý định hay ước muốn chứ không có gì được gọi là bí mật. Chỉ một điểm khác biệt đó là họ dồn mọi nỗ lực vào một ý định, hoặc một ý niệm thay vì những mơ ước không đích xác như chúng ta thường để tâm trí ao ước mông lung, không rõ rệt. Sự chỉ dẫn thực hành ở cuốn Du Già Lục Pháp của Naropa chứng tỏ rõ điều này nơi những chương quán tính không của thân xác, quán các kinh mạch chính yếu, kiểm soát tinh chất (Tr.40-47). Sự quán tính không, các huyệt đạo trung ương hoặc giọt tinh chất chỉ là dồn mọi năng lực tập trung để tưởng tượng cho tới khi nhìn thấy rõ ràng những hình ảnh được đặt ra nơi mình. Chẳng hạn quán về các huyệt đạo chính, hành giả phải ngồi thiền để tưởng tượng đến khi nào nhìn thấy huyệt đạo trung ương ở trung tâm của cơ thể từ đỉnh đầu nối qua điểm giữa hai lông mày và chạy xuống tới đan điền. Chính sự định tâm tưởng tượng này tạo nên hình ảnh hoàn toàn khác biệt với những gì khoa học phân tích về con người. Tuy nhiên, nói như vậy quá mơ hồ vì chỉ ai thực hành, người ấy mới có thể thực chứng quyền lực tưởng tượng đạt tới kết quả nào.

- Thưa bác, như thế, quán tưởng chỉ là tưởng tượng.

- Không phải chỉ là sự tưởng tượng suông mà là sử dụng quyền lực tâm linh áp dụng nơi tưởng tượng. Tôi đề nghị, chúng ta không nên bàn thảo thêm về điểm này vì đây là sự thực hành chứ hiểu biết chẳng đem lại ích lợi gì. Sở dĩ tôi nhắc tới chỉ cốt để chứng minh sự tưởng tượng, ý nghĩ, ý định phát xuất từ linh hồn, thực thể tâm linh nơi mỗi người, và như thế, chúng đều mang sẵn quyền lực tâm ý. Quyền lực này là căn bản cho tất cả các phương pháp thực hành mật tông, thiền đại định, điểm đạo, pháp thuật, phù thủy, cũng như sự xuất hồn chu du nơi các cõi giới vô hình hoặc phát triển khả năng sử dụng thần nhãn.

Cụ Tài nói một cách xác quyết khiến lòng dạ ai nấy cảm thấy ước muốn biết về phương pháp thực hành để có được quyền năng thần thông nào đó. Tâm lý chung ai không thế, biết chỉ để được gọi là biết chứ không thực biết thành ra muốn biết hết mọi sự.

- Thưa bác, Sỹ nhà con nhanh nhẩu chừng như e không nói vội, kẻ khác chuyển đề tài, bác nói thực hành thế nào?

- Anh muốn thực hành hay chỉ muốn biết phương pháp thực hành? Và nếu thực hành, anh muốn biết phương pháp đạt tới tâm thức giải thoát, hoặc phát triển năng lực nội tại, hoặc mật tông hay Yoga, điểm đạo, hoặc muốn biết về phương thuật, phù thủy?

Thế là chẳng những Sỹ nhà con mà mọi người tham dự bữa tiệc đều cảm thấy bối rối. Họ bối rối vì không biết mình muốn gì dẫu cảm thấy ước ao muốn biết. Đợi ít giây cho mọi người tự cảm nhận, cụ Tài nói tiếp,

- Nói chung, chúng ta thường không biết mình muốn gì nên không định tâm rõ ràng nơi bất cứ vấn đề nào. Tôi thử nêu lên một thí dụ. Mọi người đều cần tiền bạc làm phương tiện giúp cho cuộc sống, nhưng tâm chúng ta không thực sự định nơi chủ đích kiếm tiền, và có tiền, nên đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội, đồng thời vì ước muốn lung tung do đó đã nhiều khi hoang phí làm tiêu hao biết bao công sức. Có thể nói, chúng ta muốn tất cả mọi sự cùng một lúc. Chẳng hạn vừa có tiền, vừa có danh, lại muốn có xe đẹp, nhà cao cửa rộng, và nhiều thứ phụ thuộc, lắm khi đến độ không cần thiết hay mang hại cho chính bản thân. Lấy đặc tính của tấm kiếng hội tụ để so sánh, nếu chúng ta dồn tâm ý và tất cả năng lực vào một mục đích nơi giai đoạn nào đó trong cuộc đời, có thể nói, mọi ý định sẽ được thực hiện một cách hoàn hảo. Tôi đề nghị anh em nên tự nghiệm thử lòng mình bằng nhiều cách, nếu có thể, cho biết rõ thực sự mình ra sao, muốn gì, quyết tâm thực hiện ước muốn nào và nơi phương diện chi. Tôi nghĩ mấy anh em Công giáo không lạ gì câu Phúc Âm, “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ gặp; hãy gõ thì sẽ mở cho. Vì phàm ai xin thì lĩnh; ai tìm thì gặp; và ai gõ thì sẽ mở cho” (Mt. 7:7-8). Nếu chúng ta không biết mình thực sự muốn gì thì sao có thể đặt tâm trí vào điều mình muốn. Anh em đã bao nhiêu lần nghe câu “Kho tàng của ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mt. 6:21)! Chỉ cần ít phút tự hỏi câu nói mang ý nghĩa gì nơi cuộc đời mỗi người, chúng ta nhận ra ngay kho tàng tức là ước muốn, ý định, và như thế, ước muốn thực sự ở đâu thì lòng dạ chúng ta luôn để ý về vấn đề đó. Chúng ta đã không hiểu giá trị của đời người, không biết và không chịu tìm biết về chính mình, nên không nhận ra năng lực huyền nhiệm nơi mình. Chúng ta đã chưa thực sự sống dẫu đang mang ơn huệ có được cuộc sống hữu hình. Chúng ta phí phạm dịp may hiếm có bằng cách theo đuổi những ý thích nhất thời, thiển cận, nên không tự tìm hiểu về bản thể chính mình. Tôi thử hỏi anh em, lý do gì Kinh Thánh viết câu, “Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế, Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23-24). Mỗi lần nghĩ đến câu này tôi vẫn cảm thấy nhột nhạt vì mình vẫn còn quá mê muội dẫu tôi không theo đạo Công giáo.


- Tôi nói thật lòng từ suy tư dựa trên những điều hiểu biết về đạo học; xin anh em Thiên Chúa giáo đừng chấp nhất; đó là kỳ mới đọc Phúc Âm, tôi thường có ý nghĩ coi thường những người Công giáo bởi họ đã dùng các ngôn từ “người ngoại giáo” hay “kẻ ngoại đạo.” Sở dĩ tôi đã có ý nghĩ này vì Phúc Âm của họ nói về quyền lực tâm linh vô song mà khi nói chuyện với họ, tôi thấy họ vẫn mù mờ không chịu hiểu biết, ngược lại chỉ nghe sao chấp nhận như vậy và lập lại chẳng khác gì con vẹt rồi cho rằng những ai không tin tưởng giống họ thì sẽ bị phạt sa hỏa ngục. Tôi thấy điều tin tưởng của họ mang nhiều điểm trái nghịch với Phúc Âm; không những thế, bởi chẳng hiểu gì về thực thể được họ gọi là Thiên Chúa hay linh hồn nơi chính họ, quan niệm tâm linh của họ chứng tỏ họ quá coi thường Thiên Chúa mà vẫn không nhận biết. Thử hỏi, nếu con người chỉ có một kiếp sống duy nhất thì mục đích của cuộc đời là gì? Phải chăng chúng ta sinh ra để rồi chết? Không lẽ kiếp sống ngắn ngủi lại quan trọng đến nỗi chỉ phạm một lầm lỗi thôi cũng bị đầy đọa xuống địa ngục vĩnh viễn? Không lẽ một Thiên Chúa công bình và thương xót lại có thể khắc nghiệt như vậy sao?

- Đàng khác, nếu con người chỉ có một kiếp sống thì tại sao họ lại không giống nhau, người được sinh ra thông minh; kẻ lại khù khờ; người này may mắn, kẻ khác bất hạnh? Ai đã quyết định về tính nết con người? Ai đã ban cho người này một sức lực khỏe mạnh và kẻ khác một thân thể tật nguyền? Nếu con người chỉ có một kiếp sống duy nhất thì chúng ta giải thích thế nào về hiện tượng thần đồng (ĐMQXT; Tr.129)? Lý do gì giải thích sự kiện văn hào Voltaire thuộc lòng tất cả những bài ngụ ngôn của La Fontaine từ năm lên ba, bắt đầu viết sách khi vừa lên trung học; Pascal chứng minh những bài toán phức tạp khi lên tám, và soạn sách giáo khoa khi chưa đầy mười bốn tuổi (ĐMQXT; Tr.131). Về điểm này, chỉ có một giải đáp duy nhất mà các đạo học Đông Phương gọi là luân hồi, sự thay đổi thân xác qua nhiều kiếp sống của linh hồn mà Phúc Âm gọi là thần khí. Tôi nghĩ chúng ta phải nhận định rõ ràng như thế mới có thể hiểu được ý nghĩa của câu “Thần Khí mới tác sinh, xác thịt thì không ích gì.” Thân xác thay đổi và là những cơ hội, môi trường cho linh hồn vĩnh cửu tiếp tục thăng tiến. Đây cũng là điểm mà nhà Phật nói, “Không biết bổn tâm học pháp vô ích,” hoặc “Không biết tự thân cũng chẳng thể nào học đạo” (VNVT; Tr.93). Hơn nữa, tất cả các bằng chứng của cuộc sống đều đưa đến kết luận; có một yếu tố nào đó sắp đặt sự cấu tạo nên con người, một yếu tố vượt xa sự suy luận của toán học, ra ngoài tầm phán đoán của lý luận, và không thể giải thích bằng những công thức, định luật của khoa học thực nghiệm (ĐMQXT; Tr.131).

- Đọc sách báo, anh em thấy, được viết về nhiều trường hợp có những người nhớ lại tiền kiếp, hay phục hồi các kinh nghiệm học hỏi từ kiếp trước, vẫn xảy ra khắp nơi, không phân biệt vị trí hay địa dư, phong tục, tập quán. Phật tính, tâm Phật, tâm bất sinh, tánh linh giác, tự tính, tiểu ngã, linh hồn bất tử, Thượng Đế nội tại, hay thần khí đang hoạt động nơi những thân xác con người, và quyền lực nội tại cũng từ đây phát sinh và được thể hiện qua nhiều hình thức. Những sự kiện này, nếu đem so sánh nơi kinh sách đạo học, minh chứng rõ ràng chúng ta thường hiểu lầm về thực thể con người của mình. Nói cho đúng, tôi may mắn trải qua kinh nghiệm kích ngất nên nghiệm chứng được thành phần tâm linh là chủ thể cuộc đời một người.

- Đến khi tìm hiểu về khoa huyền môn và lễ điểm đạo Ai Cập tôi mới mường tưởng được phần nào. Quả thật, cũng tội nghiệp cho những người không dám suy tư, không dám sử dụng nguồn năng lực sẵn có nơi mình để thăng tiến tâm linh, nên đã trở thành nô lệ cho những giáo điều một chiều không sao thoát ra được. Trước Công Nguyên nơi thời đại cổ Ai Cập, đã có những vị chân sư nghiệm chứng được sự bất diệt và có một đời sống của linh hồn sau khi xác thân chết. Thế nên họ dạy dân chúng, khi con người bắt đầu bước vào cuộc sống mới đó, những đấng thần minh phân xử linh hồn và duyệt xét lại những hành động thiện ác của y đã làm trong lúc ở dương gian. Kẻ dữ sẽ bị trừng phạt thích đáng, người hiền sẽ được vào cảnh thiên đàng hưởng hạnh phúc và hợp nhứt với Osiris (ACHB; Tr.108), thủy tổ của Huyền môn Ai Cập. Những điều này khá thích hợp với quần chúng, và đem đến cho những tâm hồn chất phác viễn ảnh mà họ có thể quan niệm được dễ dàng; đồng thời cũng phần nào giúp cho họ có được đời sống luân lý tập thể khá hơn. Theo những gì tôi được biết, ngày xưa, với trình độ dân chúng đơn sơ, người ta không giảng dạy những lý thuyết hoặc tâm lý hay triết lý thâm sâu vì có thể chỉ làm cho những đầu óc đơn sơ thêm bối rối. Nếu tôi không lầm, có lẽ quan niệm hưởng phúc thiên đàng được phổ biến từ đó nên đã phát sinh những câu chuyện huyền thoại, vừa gợi ý cho những tâm hồn muốn hiểu biết, lại vừa ngăn chặn những kẻ chưa đủ tâm đức lạm dụng khoa huyền môn thỏa mãn ý đồ thấp kém. Đây cũng là lý do nhắc nhở chúng ta không nên coi thường những huyền thoại mang đầy tính chất hoang đường hoặc những câu chuyện ngụ ngôn bình dân; vì phần nào chúng hàm xúc một ẩn ý hợp lý, và chứa đựng chân lý thâm sâu nào đó.

- Thưa bác, sở dĩ con người có tự do để quyết định hành động nên phải chịu trách nhiệm của mình. Nếu nói rằng mọi ý định, suy tư, hoặc quyết định đều do linh hồn, tâm Phật, thì thân xác đâu phải chịu trách nhiệm gì!

- Anh khá thông minh! Anh muốn nói nếu hồn chịu trách nhiệm thì thân xác không bị tù tội hoặc bất cứ ảnh hưởng liên hệ nào phải không? Cùng đồng luận điệu này, bởi con người không thể kiến tạo nhà tù, hay bất cứ sự trừng phạt đối với linh hồn linh thiêng, nên con người tha hồ muốn làm gì thì làm hay sao? Hãy xét về những mối liên hệ nhân sinh, những tình cảm, niềm tin, ảnh hưởng thế nào đến một người khi so sánh với luật lệ nơi cuộc sống anh sẽ thấy. Có những điều không luật lệ nào nói tới nhưng đã trói buộc anh bao nhiêu năm tháng; phỏng anh giải thích ra sao? Suy nghĩ một chút, chúng ta sẽ nhận thấy, luật lệ được đặt ra vì lợi ích cho con người trong liên hệ cuộc sống đồng thời ngăn cản những sự lạm dụng mà thôi. Anh em thử nhớ lại, chỉ một lời nói vô tình ai đó xúc phạm đến mình đã bao nhiêu năm sao vẫn còn ảnh hưởng tới thái độ hay tâm tình của mình đối với người ấy. Hoặc vì vô ý nói câu nào đó không kịp suy đụng chạm đến người khác, bao nhiêu năm rồi mình vẫn cảm thấy áy náy, ăn năn, thì luật lệ nào có quyền trên sự ăn năn này? Luật lệ, luân lý, phong hóa, do con người kiến tạo vì lợi ích của cuộc sống liên hệ nơi xã hội, nhưng vì nhận thức tâm linh còn quá ấu trĩ, nên con người vẫn còn bị trói buộc trong vòng vô minh. Luật lệ, luân lý chẳng khác gì một loại kham đóng hàm và miếng da che phần nào mắt con ngựa cho khỏi bạ đâu gặm đó, hoặc xông xáo bất kham. Tôi thử hỏi, nhà tù giam giữ thân xác nhưng lấy gì giam giữ linh hồn bất diệt? Hơn nữa, đặt vấn đề và suy nghĩ chín chắn, chúng ta thấy, ngay như các liên hệ tình cảm vợ chồng, con cái chỉ có tính cách giới hạn trong một kiếp sống. Sợi dây thân ái mà chúng ta tưởng bền vững lâu dài thật ra chỉ có tính cách tương đối; bởi sự chết xóa bỏ những liên hệ tình cảm, kỷ niệm một kiếp người; vì những điều đó chỉ có giá trị giúp hồn con người học hỏi, kinh nghiệm mà thôi. Chúng chỉ đóng vai trò như một cuốn sách giúp học sinh thu tập kiến thức, một cái đò đưa người ta qua sông, và khi hồn đã đạt được mục đích là kinh nghiệm và phát triển những khả năng nào đó nơi cuộc sống, hoặc đã qua thời hạn mà vẫn chưa đạt được gì, những phương tiện này không còn giá trị gì khác và phải được xóa bỏ (ĐMQXT; Tr.128). Nhận định như thế mới có thể giải thích được hiện tượng thần đồng vì thần đồng không phải là người từ trên trời rơi xuống mà chỉ là kết quả của nhiều kiếp sống không ngừng học hỏi (ĐMQXT; Tr.130). Như vậy, dẫu trách nhiệm thuộc về linh hồn, tự tính bất diệt thì những luật lệ, luân lý, nhà tù, chỉ là những phương tiện giới hạn; chẳng khác gì công cụ được thiết lập giúp những tâm hồn thiếu ý thức tránh làm phương hại không những chính họ mà còn ảnh hưởng tới người khác. Tuy nhiên, suy đi cũng phải nghĩ lại, luân lý, hay luật lệ xã hội thay đổi tùy theo chiều hướng quan niệm tùy thời và tùy nơi. Anh em đã bao giờ nghe câu nói, “Thiết câu giả tru, thiết quốc giả hầu” (TTTH; Tr.93)? Ăn trộm một cái đai lưng thì bị tội tử hình, còn cướp cả nước của người ta thì được làm vua một chư hầu (Trang Tử)! Thực thể cuộc đời minh chứng, biết đâu những lỗi lầm, tai họa, hoặc bị vạ nọ, tật kia, lại là những cơ hội hay bài học phải xảy đến, và phải như thế; người trong cuộc mới có thể học được những điều cần phải học nơi kiếp sống! Như vậy, con người chỉ có tự do thăng tiến một cách ý thức mà thôi. Nơi trường hợp vẫn còn luẩn quẩn trong vòng vô minh thì thực thể được gọi là tự do lại chẳng tự do chút nào, mà chính là nô lệ, bởi vẫn còn bị ảnh hưởng quá nặng nề ham muốn thế tục không thể nào vượt thoát được.

- Thưa bác, tại sao không thoát được?

- Chúng ta thừa kinh nghiệm để nhận biết rõ ràng khi một người đeo kiếng râm (kiếng mát), tất nhiên họ nhìn thấy mọi sự đều mang màu sắc tối hơn. Cũng đồng một thể như thế, những quan niệm, suy tư giới hạn ảnh hưởng nhận thức của con người tạo nên lối nhìn chật hẹp một chiều nhất là đối với những ai e sợ hoặc lười lĩnh không dám suy tư. Tôi thử đề nghị anh em nhắm mắt lại vài giây xem thế nào.

- Thưa bác, nhắm mắt lẽ đương nhiên sẽ thấy tối hù.

- Anh nhận thấy tối hù hay anh nói theo ai đó đã bảo anh rằng nhắm mắt sẽ thấy tối hù? Khi nhắm mắt, bởi không nhìn thấy sự vật chung quanh chúng ta quen thói cho rằng tối hù. Nhưng nếu để ý, đâu phải tối hù mà có những điểm sáng và tối lẫn lộn không phân biệt được. Sự nhận thức hay nhận định thực thể con người cũng bị ảnh hưởng bởi những thói quen in trí tương tự như thế. Ai dám đặt lại mọi vấn đề và tìm hiểu, nghiệm chứng chúng như chưa từng bao giờ nghe nói hay chưa biết thì sẽ nhận thức được nhiều điều mới lạ cả thể. Chẳng hạn, chúng ta nghe các nhà học thức nói giấc mơ là một hiện tượng tâm lý, và nô lệ chấp nhận lời giải thích ấy để rồi không bao giờ đặt vấn đề phát triển thực thể khả năng nhìn trong giấc mơ. Thêm vào đó, mượn thành ngữ “nhân danh khoa học,” nếu không thể giải thích điều gì, chúng ta thường quen thói phủ nhận ngay rằng điều đó không có thật. Nếu đầu óc lý luận dựa hơi khoa học hoặc không thể chấp nhận hay lười suy tư về một vấn đề gì, chúng ta cũng vội lên án ngay rằng đó chỉ là một sự tưởng tượng, và nhiều khi tệ hơn nữa, dám cả gan chụp mũ người khát khao tìm hiểu bằng những danh hiệu bất xứng, đã chẳng giúp gì cho họ mà chỉ càng chứng tỏ bộ lòng ruột tự khinh khi. Xét về giấc mơ, tôi nhớ rõ mấy câu giải thích của lạt ma Lobsang Rampa nơi cuốn Tây Tạng Huyền Bí, “Nhiều người không tin rằng sự xuất hồn như thế có thể thực hiện được, nhưng thật ra thì tất cả mọi người đều xuất hồn để di chuyển trong cõi vô hình bằng cách đó trong giấc ngủ. Có điều khác là ở Phương Tây, người ta xuất hồn trong giấc ngủ mà không hề hay biết; còn các nhà đạo sĩ Tây Tạng có thể xuất hồn đi châu du khắp mọi nơi tùy ý muốn; nhờ đó họ có thể nhớ rõ tất cả những gì họ đã thấy và làm, cùng những nơi nào họ đã đến viếng. Bí thuật này đã mất đi ở Phương Tây; bởi đó khi họ thức tỉnh, nhiều người tin rằng họ đã trải qua một giấc mộng (TTHB; Tr.171). Tất cả các xứ đều biết về việc đi châu du bằng thể vía. Ở Anh quốc, những nữ phù thủy đã từng nổi tiếng là biết bay. Ở khắp nơi trên thế giới, người ta đã từng biết về những vấn đề này, dẫu rằng sự hiểu biết này đã mai một với thời gian và đã mất đi trong ký ức loài người. Người ta đã tập luyện “cho tôi” có thể xuất hồn đi ngao du trên các cảnh giới vô hình, như vậy thì phép ngao du bằng thể vía cũng ở trong tầm tay của tất cả mọi người” (TTHB; Tr.171-172).

- Thưa bác, nếu giấc mơ là thực thể của hồn thoát ra khỏi thể xác trong giấc ngủ tại sao cháu chưa bao giờ nhìn thấy thân xác của chính mình trong lúc hồn thoát ra đi chu du hay khi về nhập trở lại.

- Tôi không thể trả lời chính xác câu hỏi này. Tuy nhiên, có thể bởi hồn chúng ta đã quá quen với thân xác của mình nên không để ý chăng. Vì thực ra, ngoại trừ lần kích ngất, tôi chưa bao giờ có ý nghĩ thử tưởng tượng hình dáng mình thế nào trong giấc ngủ. Theo lạt ma Lobsang Rampa, thoát hồn chu du nơi cõi vô hình và ý thức được diễn tiến của hành trình là một sự kiện vừa tầm khả năng của hầu hết mọi người với điều kiện phải có một sự luyện tập thích nghi. Tuy nhiên, vào thời điểm mới bắt đầu luyện tập, họ cần phải sống biệt lập ở một nơi vắng vẻ không bị ai làm phiền một cách bất ngờ. Thêm vào đó, họ cũng cần được chỉ dẫn bởi một vị đạo sư lão luyện để tránh những sự hoang mang, sửng sốt. Sở dĩ tôi không luyện tập vì tim tôi bị yếu, lỡ bị xúc động quá trong thời gian đầu hoặc ai đó vô tình náo động làm ngưng trệ lúc tập luyện, tim tôi yếu có thể chết bất đắc kỳ tử. Đàng khác, nếu chết bất đắc kỳ tử theo như những lời dặn bảo nơi sách vở, hồn tôi sẽ bị đầu thai ngay lập tức để hoàn tất kiếp sống vừa bị gián đoạn trước khi bước qua giai đoạn kế tiếp nơi hành trình tiến hóa. Nói về sự chu du của hồn con người khi ngủ, anh em có lẽ đã nghe nói khi một người ngủ mệt mà kẻ khác lấy nhọ nồi bôi vào mặt, lúc thức dậy, người đó sẽ bị ú ớ vài giây trước khi thực sự thức giấc. Có người giải thích đó là tình trạng khi hồn trở về thấy khác lạ nên ngỡ ngàng. Điều này xảy ra nhưng đúng hay không tôi chưa bao giờ để ý. Có điều anh em nên biết, đó là chỉ những ai dành thời giờ tu chứng mới thực sự nghiệm được rõ ràng bản thể mình thế nào, và kết quả của sự nghiệm chứng lại tùy thuộc căn cơ của chính người tu chứng. Tôi không biết dùng cách nào hoặc diễn giải ra sao để có thể tổng hợp tất cả những quan niệm hay nhận định được viết nơi kinh sách vì những cảm nghiệm tu chứng lại lệ thuộc quan niệm của chính người tu chứng về bản thể tối thượng nơi mình. Chẳng hạn, mặc dầu Phật học không quan niệm sự hiện hữu của linh hồn hoặc một thể nào trường tồn bất biến, nhưng đa số người Tây Tạng vẫn tin tưởng rằng có một bản ngã di chuyển từ kiếp sống này qua kiếp sống khác ví như con người cởi bỏ các bộ quần áo cũ để mặc bộ đồ mới. Nếu giải thích giản dị như thế thì tất cả mọi người đều là hóa thân của chính bản ngã của họ, trôi nổi từ kiếp này qua kiếp khác (HTTT; Tr.119-120).

- Thưa bác, nếu hồn tách biệt với thân xác hoặc là một với thân xác thì cảm nghiệm của bất cứ ai đối với hồn cũng như nhau sao có thể bị lệ thuộc bởi quan niệm cá nhân.

- Tôi đã giải thích nhưng có lẽ anh em không để ý. Quan niệm ảnh hưởng con người chẳng khác gì tấm kiếng màu ảnh hưởng đôi mắt. Thế nên muốn nhìn rõ ràng màu sắc sự vật, chúng ta không nên dùng kiếng màu. Tuy nhiên, cũng có những người vì lý do vật lý nào đó ảnh hưởng cặp mắt hoặc mắt kém không nhận được màu sắc chính xác như người khác. Có thể đây cũng là lý do đức Thích Ca đã phải lên tiếng không chấp nhận những kẻ tin vào lời ngài nói mà họ cần thực chứng (PHTH; Tr.56). Đâu phải vô lý mà câu “Lời ta nói như chiếc bè” lại có thế giá dẫn đàng nghiệm chứng nơi Phật học. Đọc nơi Phúc Âm, mấy anh em Công giáo gọi là lời Chúa, có những câu, “Người ta không đổ rượu mới vào bì cũ” (Mt. 9:17), “Không lấy vải mới vá áo cũ” (Mt. 9:16), “Kẻ nào vừa tra tay cầm cày vừa ngó lui sau là người bất kham đối với nước Thiên Chúa” (Lc. 9:62), hoặc, “Kẻ nào yêu cha mẹ, con cái hơn ta ắt không xứng với ta” (Mt. 10:37-38). Lời Chúa mắc mớ gì tới rượu, áo cũ, áo mới, chiếc cày. Đàng khác, chẳng lẽ đức Giêsu đến để phá bỏ tình yêu thương gia đình, ruột thịt hay sao mà muốn con người yêu ngài hơn? Để ý suy nghiệm, nếu thay thế quan niệm hoặc những lời dẫn giải vào vị trí của chiếc bè, rượu, vải, áo, chiếc cày, hoặc cha mẹ, con cái, chúng ta thấy rõ, các đạo học đều đòi hỏi con người cần bỏ quan niệm cũ để có lối nhận thức chính xác chẳng khác gì bỏ cặp kiếng màu khi mình muốn nhìn màu sắc sự vật rõ ràng hơn. Bởi đó, tôi nghĩ, những nhận định hay các lối giãi bày cảm nghiệm tu chứng vẫn còn bị lệ thuộc nặng nề quan niệm cá nhân hoặc tông phái đạo học. Điều này đòi hỏi chúng ta cần có nhận định phân biệt sao cho khỏi bị vướng mắc nơi ngôn từ hay văn tự của các bậc tu chứng.

- Xét về phương diện thăng tiến tâm linh, dẫu cho con người noi theo đường tiến hóa, chúng ta cũng phải chịu lệ thuộc những định luật về vật chất hay tinh thần; vì chúng ta có thân xác hữu hình. Hơn nữa, hình thái là cần thiết; vì nó là phương tiện nơi cơ hội, chứa đựng, và nối kết các phẩm chất khác nhau. Tình cảm cũng cần thiết; vì nó tạo ra sự hòa hiệp giữa các chiều hướng giống như độ nóng của lửa nung chảy các kim loại khác nhau, trộn lẫn chúng thành một bản vị mới thuần nhất, đồng đều. Trong lúc ấy thì ý niệm là chất liệu, năng lực nguyên sơ bị thức động bởi tất cả các yếu tố trong tâm một người khi chúng nó kéo các lực tiềm ẩn ra khỏi vị thế của chúng. Anh em nên hiểu, ý niệm tôi muốn nói đó là ý định, ước muốn thực sự, một động lực sáng tạo hoặc là một kinh nghiệm sống động mang quyền lực hiện hữu rất ít khi chúng ta nhận thực được bản thể quyền lực này dẫu chúng ta đã sẵn có. Chúng ta có hình hài, bản năng, cảm giác, tư tưởng, ý nghĩ. Tất cả lớp thể chất đó đều là những lớp bụi dầy khiến con người khó thể làm sáng tỏ được cái nguồn tinh lực uyên nguyên của mình. Vậy phải làm thế nào để thức giác con người đạt tới chỗ viên giác đại ngộ (TTÂĐ; Tr.240) thì chúng ta sẽ sử dụng được nguồn quyền lực tiềm ẩn này. Nhận định như vậy, anh em mới có thể hiểu, tôi muốn nói hiểu chứ chưa dám nói đến thực hành, đúng mức câu nói của đức Giêsu, “Kẻ nào tin vào Ta thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm, và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gioan 14:12). Như vậy, thân xác chúng ta mặc dù dễ hư hoại nhưng lại là thánh điện của các lực, và đồng thời là phương tiện cũng như cơ hội cho  các sự thành tựu tâm linh cao siêu nhất. Thế nên, một khi chúng ta còn nhàm chán thân thể, tức là chúng ta chưa nhận thức cũng như ngự trị được nó. Nói vậy có nghĩa chúng ta chưa nhận ra được cuộc sống hữu hình là cơ hội thức ngộ độc nhất vô nhị.

- Thưa bác, tại sao bác nói chúng ta đã có sẵn quyền lực hiện hữu?

- Hỏi như thế có lẽ anh Tùy vẫn bị ảnh hưởng bởi quan niệm có một Đấng Sáng Tạo hữu thể ban phát tất cả mọi sự hiện hữu, sự sống cho muôn vật, muôn loài. Điều tôi muốn nói đó là trước khi chúng ta có thể nghĩ tới sự hiện hữu thì đã có sự hiện hữu vì nếu chúng ta không hiện hữu sao có thể nhận biết sự hiện hữu. Thứ đến, phỏng ý nghĩ phát sinh câu hỏi của anh do đấng nào ban cho? Ý nghĩ, câu hỏi, là những sự hiện hữu vô hình. Từ kinh nghiệm kích ngất, tôi nhận ra được ý nghĩ không phát sinh từ não bộ mà từ bản thể linh thiêng tạm gọi là hồn hay tự tính. Anh em kinh nghiệm thường ngày nhưng không để ý đó là ý nghĩ ảnh hưởng toàn bộ con người. Chẳng hạn, khi nghe tin tức nào đó, chúng ta cảm thấy tâm thần giao động, nhịp tim đập mạnh hơn và có thể khiến chúng ta bối rối, khùng lên. Nhận ra như thế, có thể nói, tất cả những gì có tính năng lực vận chuyển, có động lực, gây ra các sự thay đổi và biến chuyển thì nó hiển lộ thực tính của sinh lực. Tất cả các đặc sắc về phương diện thể chất hay tinh thần, tất cả các vật lực và tâm lực, từ các chức năng hô hấp, tuần hoàn, hay thuộc hệ thần kinh cho đến các chức năng của tâm thức, của tư tưởng, và tất cả các hoạt động cao siêu của tinh thần đều là hình thức biểu lộ của sinh lực (MGTT; Tr.186). Đây là một trong những nguyên tắc chính yếu được áp dụng nơi Yoga Ấn Độ, Mật Tông Tây Tạng. Nguyên tắc lý thuyết rất đơn giản, đó là, cũng một sinh lực nhưng nó không những chỉ chịu sự biến đổi thường xuyên; mà nó cũng có thể dùng nhiều cách lưu chuyển khác nhau, không hề gián đoạn chẳng khác gì dòng điện có thể chạy trong dây dẫn và cũng có thể không dây dẫn như những làn sóng. Dòng tâm lực cũng vậy, nó có thể dùng hơi thở, máu, dây thần kinh, và trong trường hợp có cường độ đủ mạnh, nó có thể không cần các phương tiện ấy, hay thoát qua bên kia các phương tiện ấy lan truyền ra ngoài không gian và tác động qua những khoảng cách vô hạn (MGTT; Tr.196). Phương tiện tâm linh của giòng sinh lực này chính là ý định, ước muốn, ước mơ, hoặc niềm tin, đức tin, tùy trường hợp được sử dụng. Nói cách khác, đó là ý định sử dụng quyền lực tâm linh, quyền lực sáng tạo, quyền lực hiện hữu được áp dụng nơi sự tưởng tượng khi tham thiền hoặc sử dụng phương thuật, huyền môn, mật tông, Yoga, Zen.

- Thưa bác, Tùy con lên tiếng.

- Anh để tôi nói hết rồi hãy hỏi. Theo nhận định của những người Tây phương thì não bộ là trung khu duy nhất của tâm thức. Kinh nghiệm Yoga Ấn Độ lại chứng tỏ rằng tri thức thuộc não bộ của chúng ta chỉ là một sự kiện riêng biệt trong số nhiều hình thái tri thức khả hữu. Các hình thái này tùy theo chức năng hay tính cách của chúng có thể được qui tụ hay tập trung tại nhiều cơ quan khác nhau của thân xác. Các cơ quan này ở dọc theo trục thẳng đứng của thân, tập hợp, biến đổi và phân phối các giòng năng lực. Những cơ quan này được gọi là trung khu tâm lực, từ đó tỏa ra nhiều dòng sinh lực phụ, đồng thời lại đem trở về trung khu, giống như các căm bánh xe hay cây kèo dù. Các trung khu tâm lực này là các điểm trong đó năng lực thuộc tâm và năng lực thuộc thân giao hòa và thâm nhập nhau. Nơi các điểm đó, tâm và thân lực biến đổi thành năng lực nội tại. Các đạo sĩ Yoga cho rằng trung khu tâm hồn ở tại nơi mà ngoại giới và nội tâm tiếp xúc nhau. Khi chúng xâm nhập nhau thì có những điểm tương xâm ở mỗi bên. Vậy chúng ta có thể nói rằng: ở mỗi điểm mà chúng ta ý thức được sự tương xâm ấy là trung khu của tâm hồn, và khi chúng ta kêu gọi các trung khu khác nhau trở vào hoạt động, ấy là chúng ta kích thích, linh tính hóa và biến đổi thân ta (MGTT; Tr.181). Bởi vậy, đối với quan niệm Yoga, thân thể là công cụ hay phương tiện và cơ hội thực hiện trọn vẹn định luật chân thực về chơn tính của con người. Anh Tùy, anh muốn hỏi gì?

- Thưa bác, sao các tôn giáo chỉ dạy con người gồm có thân xác và linh hồn, đại khái bao gồm phần thể chất và linh tính.

- Anh quên rằng đã mấy lần chúng ta nói tới tôn giáo chỉ là phương thức giãi bày niềm khát vọng tâm linh sao. Nói theo nghĩa bao quát và lấy tôn giáo làm chuẩn thì tôn giáo nào cũng được chia làm hai phần công truyền và bí truyền. Phần công truyền hay hiển giáo được đề cập rõ rệt trong các kinh điển, sách vở, các bộ luật và luận nhưng phần bí truyền hay mật giáo chỉ được truyền dạy cho một thiểu số chọn lọc trong vòng bí mật. Các kinh điển chỉ đề cập đến phần bí truyền một cách hết sức lờ mờ, không rõ rệt nếu không muốn nói là được viết theo ẩn ý nghiệm chứng. Bởi vậy, người ta chỉ có thể học hỏi qua hình thức khẩu truyền với các bậc thực sự tu chứng và nếu không gặp được bậc thầy như thế chỉ còn cách tự nghiệm chứng. Lý do các bậc đạt đạo không truyền dạy công khai vì chân lý không phải điều để mang ra tuyên bố một cách ồn ào, hời hợt trên đầu môi chót lưỡi, nhưng là một thứ mà người ta chỉ có thể chứng nghiệm được mà thôi. Đây chính là thực chứng của câu nói nơi Lão học, “Người biết không nói, kẻ nói không biết.” Ngôn ngữ không thể diễn tả những sự kiện tuyệt đối này, và không phải ai cũng có kinh nghiệm như nhau. Thực ra, tùy căn cơ nhận thức mà người ta nghiệm được một cách khác nhau, đôi lúc điều người ta tưởng như là một chân lý vĩnh cửu lại chỉ là một ảo ảnh, một hư vọng của tâm thức, tưởng như thật nhưng chỉ thật một nửa. Có khi đứng trước một sự thật, người ta đâm ra bàng hoàng sợ hãi mà không dám nhìn thẳng vào đó, không dám đối đầu với nó bởi không dám đặt câu hỏi nghịch luận. Bình thường, chúng ta chỉ thích nghe, thích thấy những gì hợp với điều mong ước của mình hầu được an tâm chứ không muốn nhìn thẳng vào thực thể sự việc. Có phải vừa mới nghe tôi lặp lại câu nói “Người biết không nói, kẻ nói không biết” anh em đã cảm thấy chướng tai rồi không? Đó cũng là lý do các bậc tu chứng ít xuất hiện và chỉ dậy dỗ cho một thiểu số người thiết tha cầu đạo, có căn cơ nhận thức vững chắc, sau khi đã vượt qua các thử thách để xứng đáng nhận lãnh các tinh hoa này (ĐMQXT; Tr.85). Đàng khác, điều khó nhất vẫn là những quan niệm khác biệt ngự trị và chi phối mạnh mẽ nhận thức hành giả tùy từng mức độ nên đã phát sinh nhiều tông phái khác nhau.

- Thưa bác, tại sao người nói lại không biết.

- Chịu khó đọc kinh sách và suy nghĩ để nghiệm chứng, anh em sẽ gặp nhan nhản những câu nói nghịch lý tương tự như thế. Để tôi nêu lên kinh nghiệm thực tế anh em đều biết thay vì giải thích. Anh yêu thương vợ con anh nhưng phỏng anh có thể giải thích bằng bất cứ cách nào cho ai đó thực sự thương chị ấy và các cháu như anh được không. Đây chính là ý nghĩa câu “Người biết không nói.” Đàng khác, giả sử anh cố ý giải thích, biện luận để minh chứng lòng yêu thương của anh ngay cả đối với chính chị ấy, thì càng minh chứng, chỉ càng khiến chị ấy hiểu lầm chẳng khác gì “Kẻ nói không biết.” Nơi cảm nghiệm thực chứng đạo học cũng thế. Nếu tôi không lầm thì anh Hưng đã nói, “Ông chứng, ông biết, và chỉ ông biết mà thôi. Nói ra không được mà càng diễn giải càng lộn tùng phèo” chẳng khác gì anh diễn giải lòng yêu thương vợ con cho bất cứ ai.

- Thưa bác, tại sao bác nói chúng ta không dám đặt câu hỏi nghịch luận cũng như không dám đối đầu với sự thật. Cháu nghĩ, …

- Tôi thử nên lên một trường hợp; với điều kiện những anh em theo Thiên Chúa giáo nên bình tĩnh nhận định trước khi có ý kiến. Có phải tất cả những người theo Thiên Chúa giáo, dù Tin Lành, Công giáo, Anh giáo, đều thực sự tin tưởng và tuyên xưng rằng Đức Giêsu xuống thế để chết vì và cho tội lỗi con người không? Và tôi thử hỏi đã anh em nào dám đặt vấn đề về niềm tin tưởng này bao giờ chưa? Có ai tự cho rằng mình cứ thực hiện những điều lỗi lầm rồi người khác có thể lãnh đủ để mình tự do sống khơi khơi là hợp lý hợp tình không? Nếu suy tư đôi chút, nói rằng Đức Giêsu chết cho tội lỗi loài người phỏng có phải là lối khuyến khích con người phạm tội hữu hiệu nhất không? Đàng khác, nếu không có luật có thể phạm luật được không? Anh em thử nghĩ, luật lệ do con người đặt ra vì lợi ích liên đới xã hội. Chẳng lẽ Đức Giêsu, như anh em tin tưởng, là Thiên Chúa quyền năng mà lý do chính để Ngài nhập thể lại chỉ là chết để xóa bỏ những kết quả do sự vi phạm lề luật được đặt ra bởi cũng chính giòng giống những người vi phạm? Tôi thử hỏi, tại sao bao nhiêu ngàn năm qua, ở những nước chấp nhận đa hôn người ta sống vui vẻ, đề huề, dẫu có những trường hợp ngoài ý muốn, như Trung Hoa và Tây Tạng; mà nơi đất Mỹ này thì lại tuyệt đối cấm? Cũng như các anh em Phật tử, chúng ta thường được nghe nói rằng vì thấy con người đau khổ trong vòng sinh, bệnh, lão, tử, nên đức Thích Ca động lòng thương xót đi tu kiếm đường giải thoát chúng sinh. Đã bao giờ anh em nghiệm chứng câu nói của đức Thích Ca, “Đừng bảo Như Lai độ chúng sanh?” Chúng ta đã bao giờ đặt vấn đề tự nghiệm chứng về những điều mình tin tưởng hay chỉ hùa theo những lời tuyên truyền của người khác để rồi đành chấp nhận hô hoán giống như họ, hầu được gọi có lòng tin, mong có nỗi an bình giả tạo? Tất cả các đạo học đều nhắm vào điểm này hầu phá tan những sự tin tưởng mù mờ được gọi là vô minh để dẫn dắt con người nhận chân sự thật. Thêm vào đó, hành trình thức ngộ tâm linh cũng là nguồn gốc phát sinh nhiều phương cách phát triển năng lực nội tại nếu ai đó thực sự muốn và gặp cơ hội.

- Thưa bác, nếu như vậy thì các tôn giáo đã không thực hiện được điều các nhà sáng lập chủ trương?

- Tôi vừa mới nói xong mà anh đã vội quên. Tôn giáo thuộc thành phần công truyền của đạo học và được thành lập do lòng khát khao tìm kiếm cũng như bày tỏ ước vọng thăng tiến tâm linh. Đạo học khuyến khích và diễn giải thực thể tối thượng hiện hữu nơi mọi loài mọi vật, hữu hình cũng như vô hình. Nói tóm tắt, đạo học trình bày nghiệm chứng Quyền Lực Hiện Hữu đang hoạt động, biến chuyển nơi mọi hình thái hiện hữu, đồng thời cũng chính là nền tảng của mọi sự hiện hữu từ không khí, nước, đất, đến những trạng thái cao hơn. Quyền lực này thống trị mọi nguyên tố biến chuyển; nó khiến vật chất tan rã rồi lại kết hợp thành các hình thái mới của sự sống như một nhà điêu khắc nhiệm mầu luôn luôn kiến tạo và tô điểm cho vạn vật với muôn ngàn hương sắc khác nhau. Quyền Lực Hiện Hữu là nhạc sĩ dạy cho những con chim biết hót, tạo nên tiếng côn trùng ngân nga, là nhà hóa học bào chế các hương thơm của hoa, chất chua, chất ngọt, chát, đắng nơi quả. Quyền lực hiện hữu tổng hợp thành các loài thảo mộc thu hút thán khí biến đổi thành dưỡng khí cung cấp cho muôn loài (HTVPĐ; Tr.47). Đạo học trình bày nghiệm chứng thực thể Quyền Lực Hiện Hữu nơi chính người tu chứng. Tuy nhiên, tùy trình độ và căn cơ ảnh hưởng tạo nên những quan niệm cũng như những lối giãi bày khác biệt theo nhiều chiều hướng cảm nghiệm; chúng ta thấy có nhiều đạo học khác nhau, và mỗi đạo học lại chia nhiều tông phái. Thực ra, khi ai đó đã thức ngộ, cho dù các chiều hướng cũng như lối trình bày tùy thuộc các tông phái đạo học lệ thuộc những hệ thống ngôn từ khác nhau, họ sẽ dễ dàng nhận ra tất cả các ngành đạo học đều qui về một mối đó là Quyền Lực Tối Thượng đang hoạt động nơi mọi sự, mọi vật.

- Thưa bác, có cách nào để thực chứng quyền lực nội tại nơi mình hay không? Cháu nghĩ, tất nhiên, nói có sách, mách phải có chứng. Thế nên, cháu xin lỗi bác, ít nhất phải có điểm nào hay phương cách nào căn bản thô sơ nhất khả dĩ giúp cho người tu chứng nghiệm chứng được hầu tạo niềm tin tưởng cho hành trình thực chứng tiếp theo. Im lặng hướng tâm tư theo dõi những lời giải thích của cụ Tài, chợt Bá lên tiếng.

- Tôi đã dự đoán không lầm, thế nào anh cũng hỏi câu này. Cụ Tài dường như cảm hứng khá cao lộ nơi nét mặt hướng về phía Bá, nhưng giọng điệu vẫn trầm tĩnh. Câu trả lời bao gồm Yoga Ấn Độ, Mật Tông Tây Tạng, Điểm Đạo Ai Cập, quán tưởng khi tọa thiền, huyền thuật hay phương thuật và thần chú. Tuy nhiên, trước khi nói về những pháp môn thực nghiệm này, điểm thiết yếu cần được nhận định rõ ràng đó là quyền lực nơi ý định, ước muốn, ước mơ, mà tôi đã nói sơ qua khi đề cập tới quyền lực ý niệm.

 

Trải qua những năm tháng suy nghiệm, tôi nhận thấy con người là một thực thể tâm linh mang quyền lực vô song liên hệ mật thiết với quyền lực tuyệt đối được gọi là Tâm Phật, Tào, Đại Ngã, Thiên Chúa. Thực thể này biến chuyển, và thân xác là công cụ nhất thời nơi hành trình thăng tiến tâm linh. Sở dĩ tôi có thể nói như thế, vì so sánh nghiệm chứng cá nhân với những gì được viết nơi một số kinh sách đạo học đã đọc qua, tôi nhận ra điểm khác biệt chung giữa các đạo học; đó là mỗi đạo học giãi bày nghiệm chứng hoạt động của thực thể tuyệt đối qua những chiều hướng tâm thức hay quan điểm nhận thức riêng tùy điều kiện nhận thức của tác giả trong ảnh hưởng ở thời điểm và nơi chốn nền đạo học đó ngự trị. Con người có sức mạnh tư tưởng, nhưng vì họ đã không biết sử dụng hoặc để cho nó hao tán. Khi tập trung mọi sức mạnh tư tưởng vào một trung tâm, sinh lực duy nhất, nghĩa là dồn mọi ý định, ước muốn vào một sự thể nào, người sử dụng quyền lực sẵn có nơi mình tiếp xúc với nguồn năng lực của Thượng Đế để vận chuyển hành trình biến đổi sự vật. Thực thể sự kiện này được gọi là hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng, và khi đó chúng ta hợp nhất với mọi quyền năng tâm linh. Như vậy phương pháp duy nhất để hòa hợp với quyền lực thiêng liêng là tiếp xúc một cách ý thức hay còn được gọi là định tâm, loại bỏ ngoại cảnh để quay về nội giới; vì năng lực thiêng liêng ẩn tàng toàn diện nơi con người.

- Thưa bác, cháu xin lỗi đã cắt ngang lời bác nhưng không nói vội cháu quên mất. Sỹ nhà con phá ngang.

- Anh cứ nói,

- Nếu nói rằng quyền lực hiện hữu ẩn tàng toàn diện nơi con người nào khác gì con người chính là năng lực quyền lực này?

- Anh nói cũng có lý nhưng lý có một nửa chẳng khác gì một cộng một là hai.

- Thưa bác,

- Có phải anh muốn nói chẳng lẽ một cộng một là ba hay là một phải không? Có gì đâu mà vội! Nếu tư tưởng của anh thuộc về vô hình đã được phát sinh từ một thực thể hữu hình là bộ óc hay thân xác anh thì tất nhiên một cộng với một là bao nhiêu mà chẳng được, đâu cần gì phải vội biện luận là hai hoặc một. Anh thử xét coi, tư tưởng, thân xác, dẫu là những thực thể hoàn toàn khác biệt nhưng gốc của chúng là gì nếu không phải là những hình thức kết hợp khác nhau của năng lượng. Giới New Age ngày nay gọi Thượng Đế là năng lượng nào có gì sai trái đâu. Xét như vậy, khi tập trung sức mạnh tư tưởng tất nhiên cũng chỉ là sự sử dụng năng lượng tập trung vào một điểm nào đó để biến đổi. Nói theo lối trình bày của tôn giáo hữu thể, kẻ nào đến với Thượng Đế bằng trái tim, sùng kính Ngài với tất cả lòng ước muốn mến mộ trong cô tịch, thinh lặng, sẽ nhận biết quyền năng tối thượng qua sự hiện thể các điều mong muốn của họ. Mấy anh em Thiên Chúa giáo từ nay nên để ý lời Kinh Thánh đặt nơi miệng đức Giêsu, “Còn ngươi khi cầu nguyện thì hãy vào buồng, khóa cửa lại mà cầu nguyện với Cha ngươi, có mặt cả nơi kín ẩn; và Cha ngươi, Đấng thấu suốt cả nơi kín ẩn sẽ hoàn trả lại cho ngươi” (Mt. 6:6). Bản Kinh Thánh tiếng Việt hình như dịch chưa được hoàn chỉnh vì nơi cuốn New American Bible câu này được viết, “Go to your inner room.” “Inner room” không phải nội tâm, nội tại nơi con người thì là thứ gì. Như vậy, khi cầu nguyện nếu nói theo nhà Phật tất nhiên cần dẹp sang bên tất cả lục căn, ngũ uẩn, để hòa nhập làm một với quyền lực tối thượng nơi mình tức Phật tính, Thượng Đế. Đây cũng là điều kiện không thể thiếu nơi tâm thức những người thực hành thiền, yoga, phương thuật, huyền thuật, hay nghi thức lễ bái. Những nghi thức hành lễ phải phát xuất từ nội tâm, từ sự tha thiết của người chủ lễ, từ sự chân thành của những người tham dự thì mới được cảm ứng. Bất cứ nghi lễ nào cũng đòi hỏi một sự chí tâm, chí thành, kính cẩn trang nghiêm; vì nghi lễ là sự nối liền tâm thức người hành lễ với những động lực thiêng liêng. Chỉ có sự xác tín và lòng chân thành mới có thể đem lại sự cảm ứng (ĐMQXT; Tr.256). Những động lực thiêng liêng như luồng điện, lòng xác tín, chân thành, không khác gì dây dẫn điện được tạo do quyền lực tâm thức phát sinh bởi ý định. Thế nên, tôi đề nghị anh em chịu khó suy nghiệm câu “Vạn vật đồng nhất thể” nơi đạo học Đông Phương chắc chắn sẽ nhận thức thêm được nhiều điều hữu ích.

- Thưa bác, Sỹ nhà con lại chen vô, sao có thể đồng nhất.

- Thôi, thôi, ông ơi, khóa dùm cái mỏ lại cho chúng tôi nhờ! Nghiệm thì chẳng chịu nghiệm, chưa chi đã tơm tớp sao với giăng. Vạn vật đồng nhất thể có nghĩa ông và thằng cu thêm, cu nếm cũng như nhau. Bố cũng như con, con như bố, ông nào cũng “you” và thằng nào cũng “you.” Bác đang nói mà cứ nhảy xổm vào cổ họng phá đám. Phủ oang oang ngắt lời Sỹ.

- Tớ không biết thì tớ hỏi!

- Biết mình không biết tức là đã biết nên càng hỏi chỉ càng làm cho mình không biết. Bá chen giọng, xin bác tiếp tục.

- Đối với người Tây Tạng, huyền thuật chỉ là một khoa học nghiên cứu sức mạnh của tâm thức để sử dụng vào một mục đích nhất định nào đó. Bí quyết của các môn huyền thuật chỉ là sự tập trung tư tưởng để tạo ra một sức mạnh trong thiên nhiên. Sức mạnh của tư tưởng chính là động năng thúc đẩy, tạo tác ra mọi sự kiện. Vì tư tưởng con người thường bị hao tán, không tập trung nên rất yếu, chỉ hiện diện phất phơ một lúc rồi tan biến đi, không đủ sức mạnh để tạo tác ra chuyện gì. Một người biết cách tập trung và sử dụng tư tưởng, thu góp các sức mạnh khác trong thiên nhiên để hỗ trợ cho tư tưởng của mình gia tăng cường độ, họ có thể tạo ra được các quyền năng vô cùng đặc biệt (HTTT; Tr.274).

- Bác nói như thế thì phép lạ hay bùa ngãi cũng là quyền lực của sức mạnh tư tưởng?

- Sách vở huyền môn Tây Tạng nói rõ rằng, tất cả mọi quyền năng sẵn có trong mọi người, nhưng vì không biết cách phát triển nên rất ít ai sử dụng một cách chính xác. Tuy nhiên, ít người biết sử dụng không có nghĩa là những điều đó khác thường hay có tính cách trái tự nhiên. Phát triển quyền năng tức là tập sử dụng những giác quan có sẵn của thể xác, thể vía, và tâm thể (HTTT; Tr.108). Anh em thử lật nơi Kinh Thánh phần bốn Phúc Âm xem có câu nào đức Giêsu nói Ngài chữa hay Thiên Chúa chữa không, hay Ngài chỉ nói “Lòng tin con chữa con, cứu con” (Mt. 9:22; Mc. 5:34; 10:52). Theo quan niệm tu chứng Ấn học, anh em nên biết, lòng tin, đức tin hay niềm tin vững chắc, và quyền năng chữa bệnh, thường được gọi là sự lạ, liên hệ mật thiết với nhau. Đức tin là khả năng nhận lãnh; quyền năng chữa bệnh là khả năng chuyển vận những luồng thần lực vào người khác để giúp họ điều hòa cơ thể. Người chữa bệnh chỉ là một con đường vận hà, một chất xúc tác, một động cơ để những luồng thần lực thiên nhiên tác động. Họ không phải là người sở hữu quyền năng đó; một tu sĩ đã diệt ngã không bao giờ vỗ ngực xưng là đấng này, đấng nọ, hay khoe khoang một quyền năng nào (ĐMQXT; Tr.75). Trong việc chữa bệnh, đức tin đóng vai trò như một chất dẫn điện; vì luồng điện chỉ có thể được truyền đi nếu có chất dẫn điện mà thôi. Tóm lại, quyền năng chữa bệnh chỉ hiệu lực khi có đức tin (xác tín), dù đó là đức tin vào một quyền năng nào, một cá nhân nào hay một lý tưởng trừu tượng nào (ĐMQXT; Tr.76-77). Nói như vậy có nghĩa người đã đạt tới mức độ tâm linh nào đó có thể thực hiện bất cứ việc nhiệm mầu nào; do bởi nguồn thần lực vô biên ẩn tàng trong chân ngã, hồn, hay tâm lực của mình. Một cục đá có tiềm năng chứa đựng cả một kho nguyên tử lực vô tận. Chính cũng bởi đó mà một người phàm có sẵn tiềm lực hàm xúc một quyền năng vô biên: đó là nguồn gốc thiêng liêng ẩn tàng nơi mọi người (XPHB; Tr.77). Anh em nên nhận thức rõ ràng, con người mang năng lực vô biên phát xuất tự linh hồn hay tâm lực được thể hiện bằng quyền lực tư tưởng. Sức mạnh của tư tưởng vốn là một năng lực hết sức lạ lùng và mạnh mẽ. Nếu được đặt trong các điều kiện thuận tiện, nó có thể tạo ra các hình ảnh như thật mà người ta gọi là ảo giác cũng được mà gọi là ma quỷ thì cũng không sai (HTTT; Tr.145). Khi đạt đến trạng thái tâm thức nào đó anh em sẽ chứng thực rõ ràng được ma quỷ vốn chỉ là phần hình thức biến thái của tâm lực nơi tư tưởng. Không những chúng có thể biến hóa thành nhiều hình ảnh lạ lùng mà còn có thể giúp ích hay làm hại những người nào thờ phụng hay sợ hãi chúng. Chúng ta không thể phủ nhận suông qua các lý luận thông thường mà phải thực sự hiểu rõ các trạng thái của tâm thức ở ngay nơi mình.

- Thưa bác, như vậy phỏng con người có quyền năng như Thượng Đế! Cháu muốn nói, ước muốn, ý định tạo nên số phận của một người?

- Nói theo nhà Phật thì luật nhân quả nhận định rằng mọi ước vọng của con người rốt cuộc sẽ được thực hiện. Bởi đó, mọi điều ham muốn, dục vọng, là sợi dây trói buộc con người vào vòng luân hồi sinh tử (XPHB; Tr.74). Như vậy, tùy theo dục vọng, tư tưởng, ước muốn của mình, con người sẽ phải trải qua những hành trình tâm linh tương ứng. Lẽ đương nhiên, nếu nói một cách hết sức khoa học, lý luận, thì con người có toàn quyền định đoạt số phận của họ khi sống cũng như sau khi chết. Nhận thức như vậy, các dục vọng, tư tưởng của một người khi còn sống tạo ra sẽ bay vẫn vơ tác động vong linh hay hồn của họ sau khi chết cho đến khi sinh lực chúng hao mòn, tan rã mới thoát được. Do đó, vấn đề chuẩn bị tư tưởng cũng như lối sống của một người hết sức cần thiết và quan trọng. Nếu các tư tưởng, ý định chỉ hoàn toàn nhắm về vật chất thì dĩ nhiên hoàn cảnh tâm thức cá nhân sau khi chết sẽ hết sức bi đát; vì vong linh không còn thỏa mãn chúng được nữa mà phải đợi cho tới khi ý thức được để có những tâm nguyện hăng hái về tâm linh hơn, chuẩn bị cho hành trình nơi một kiếp sống khác. Lật nơi Phúc Âm, anh em sẽ thấy điều này đã được ghi chép rõ ràng nhưng ít ai để ý suy nghĩ, “Ta sẽ trao cho ngươi chìa khóa nước trời, và điều gì dưới đất ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời” (Mt. 16:19). Nếu nhận định cuộc sống hữu hình là dưới đất, cuộc sống vô hình là trời, anh em sẽ nhận ra quyền lực ảnh hưởng tác động của ý định nơi hồn một người sau khi chết.

- Thưa bác, có cách nào giúp những hồn còn đang vương vấn với ước muốn thế tục không?

- Hãy cầu nguyện cho họ. Sự cầu nguyện hay cầu siêu cho ai đó đã qua đời là một điều hết sức quan trọng và ích lợi vì nó chứa đựng một sức mạnh tư tưởng vô cùng mãnh liệt. Oai lực lời kinh mang âm hưởng vô cùng ở cõi âm nếu người tụng niệm chú tâm, sử dụng hết cả năng lực tinh thần. Đây là bí quyết mật tông Tây Tạng (HTVPĐ; Tr.184). Tuy nhiên, thường thì chúng ta chỉ coi tụng niệm, cầu siêu, cầu nguyện như những việc làm cho qua hoặc theo một hình thức, lặp lại các câu kinh, đoạn sách, nơi đầu môi chót lưỡi mà quên tập trung tâm ý nên đã tiêu phí năng lực một cách vô ích. Với lòng chân thành lồng trong ý định hay ước muốn rõ ràng, sự cầu nguyện mang quyền lực rời núi lấp sông. Đừng bị phiền hà bởi tự ái vặt, tôi nghĩ, mấy anh em Thiên Chúa giáo chẳng hiểu gì lời Kinh Thánh, hoặc có chăng chỉ hiểu theo nghĩa đen và cùng lắm dưới nhãn quan luân lý, và nếu tôi không lầm, có thể nói anh em quá coi thường là đàng khác. Thử đặt vấn đề, lý do gì Phúc Âm viết, “Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự.” (Mc. 11:23) Tôi nghĩ, hai ngàn năm qua, những người theo Thiên Chúa giáo quá coi rẻ những lời Kinh Thánh. Nói đúng hơn, có thể họ cho rằng Kinh Thánh chép những điều không tưởng.


Dẫu lời nói nhẹ nhàng, đắn đo từ cửa miệng cụ Tài, nhưng chúng chẳng khác gì những bàn tay gang thép tạt vào tâm tưởng mấy tướng, xưa nay vẫn cho rằng mình “có đạo.” Miếng ngon nhớ lâu, điều đau nhớ đời! Hơn nữa, chẳng những mấy tướng có đạo mà ngay cả nhóm nhậu cùng các bà vợ xồn xồn đang lắng tai nghe, ai nấy đều cảm thấy bàng hoàng. Bàng hoàng vì thực thể không ngờ nơi mọi người được cụ già phanh phui sự thiếu sót to lớn; xưa nay mình đã vô tình không để ý tìm hiểu về chính con người của mình, về thực thể huyền nhiệm nơi mình. Cảm nghĩ này đồng thời tạo nên mối ăn năn hòa lẫn nỗi lòng nuối tiếc những tháng ngày đã qua chỉ vì thiếu ý thức nên bỏ lỡ biết bao lợi ích của tâm ý, hèn chi vẫn còn mù mờ nơi hành trình thăng tiến tâm linh. Mười mấy người im lặng, đượt mặt ngồi một đống, lộ rõ những nét trầm tư ráng chừng suy nghĩ lung lắm. Cụ Tài cẩn trọng nâng ly; vừa cạn miếng rượu thì Sỹ nhà con đã vội xách bình lít rưỡi dốc hết phần còn lại khiến rượu và miệng ly gần hòa thành mặt phẳng. Vẫn chứng nào tật nấy nhưng giọng mang đầy vẻ cảm nhận, hắn phá tan bầu không khí nặng nề,

- Bác nói phê quá.

Lòng cụ Tài chợt chùng xuống! Dẫu sao, mấy người anh em này cũng có học thức và cuộc sống tương đối dễ thở, nhưng vì đâu suy tư nghiệm chứng tâm linh vẫn còn như xa vời ngoài tầm tay với? Phỏng họ không được sinh ra để chứng ngộ hoặc chưa đến thời điểm. Nếu nói rằng chưa đến thời điểm thì có đi đâu mà đến, có tìm đâu mà gặp! Hành trình nào không khởi đầu bằng một bước chân! Như vậy, điều gì là chướng ngại ngăn chận những bước chân xuất phát bởi lòng khao khát? Đâu đó câu Kinh Thánh gợi về, “Khốn cho các ngươi, luật sĩ, các ngươi cất đi chìa khóa mở đàng hiểu biết! Chính các ngươi đã không vào mà những kẻ muốn vào, các ngươi lại ngăn cản” (Lc. 11:52; Mt. 23:13). Cụ không “theo đạo” nhưng những lời Kinh Thánh khiến cụ say mê. Đã nhiều lần cụ tham dự các buổi giảng thuyết của mấy mục sư Tin Lành hay đến nhà thờ “đi lễ” với người Công giáo, nhưng sao mà lời Kinh Thánh bị mấy ông cha nhà thờ hoặc mục sư diễn giải quá nặng mùi thế tục đến nỗi tạo nơi tâm trí cụ nỗi ngỡ ngàng pha lẫn tính chất coi thường. Đôi khi gặp được linh mục hay mục sư nào đó đặt tâm điểm vào “lời Chúa” thì chỉ thao thao lặp lại và giải thích theo nghĩa đen hay áp dụng nơi luân lý khó bề chấp nhận. Với tuổi gần đất xa trời này mình có thể làm được gì, cụ thầm hỏi. Tại sao lòng mình mang mối xốn xang thương cảm. Những người anh em đang hiện diện sẽ có phản ứng nội tâm thế nào khi nghe mình nói về đạo học? Lời Kinh Thánh chừng như giục giã cụ nên tiếp tục. Cụ tự nghĩ, đặt thêm vấn đề nào có ích lợi gì; việc đến sẽ phải đến, thôi thì cứ coi như người gieo hạt giống. Nghĩ đến đây, lời Kinh Thánh lại hiện về nhắc nhở, “Người gieo giống ra đi gieo lúa, có những hạt rơi dọc đường, có hạt rớt vào đất đá, có hạt nơi bụi gai, những hạt khác được gieo nơi đất tốt. Ai có tai thì hãy nghe” (Mt. 13:4-9). Đã lỡ biết thì phải nói! Cụ cảm thấy niềm vui pha lẫn nét diễu cợt nơi ý nghĩ “phải nói.” Không nói thì lòng dạ xốn xang; nói lên, tâm tư thanh thản phần nào, nên cho rằng phải nói, hay thích nói, hoặc muốn nói, cũng không đàng nào đúng. Mình nói cho mình hay nói cho họ, cụ tự hỏi! Bởi vậy, khi Sỹ nhà con lên tiếng, cụ chợt buột miệng,

- Phê cũng vô ích; vì cho dù nói cũng chưa chắc hơn gì ai đó biếu cụ Nguyễn Khuyến bình hoa trà.

Lời cụ Tài điềm đạm nhưng ý tứ cay cú đối với đám thính giả xưa nay ồn ào, “to miệng,” đã quen thói coi trời bằng vung. Khổ nỗi, những gì cụ nói đều quá ư tầm thường, ngay nơi lòng ruột mọi người, nhưng chứa đầy thách đố nghiệm chứng; mà bất cứ ai chưa bao giờ hay ít khi để tâm nghiệm xét đều không thể nào mở miệng. Qua lý luận đặt căn bản nơi nền tảng nghiệm chứng lồng trong lối giải thích tâm tình, cụ muốn khuyến khích những người trẻ dấn bước vào hành trình nghiệm xét tâm linh. Điều rõ ràng, kinh nghiệm tâm linh là một kết quả hiển nhiên qua công phu tu hành chứ không phải một điều trừu tượng dựa trên lý thuyết hay một cái gì cao xa mà không ai có thể đạt đến được (ĐMQXT; Tr.79). Đàng khác, chỉ thông minh mà thôi thì không thể nắm bắt được thực thể siêu linh; thế nên, hành giả cần thực chứng, nghiệm chứng. Kinh nghiệm bản thân nơi cụ chứng tỏ rõ ràng một điều; đó là dù theo con đường nào, khuynh hướng nào, chính cá nhân phải nỗ lực chứ không thể ỷ lại vào một sức mạnh hay sự giúp đỡ của ai khác. Thêm vào đó, sự nhận thức tâm linh lại tùy thuộc căn cơ và thể chất hành giả; nên chẳng những, không ai có thể giúp ai mà đồng thời không phương pháp hay đường lối nào có thể là mẫu mực chung. Cá nhân phải tìm vị thầy nội tại vì chỉ có vị thầy này mới phù hợp và thấu suốt hành trình nào người đó phải trải qua. Không những thế, khi quay vào bên trong để lắng nghe, người ta sẽ phải đối diện với những sự thật phũ phàng mà trong cuộc sống hàng ngày ít ai dám nghĩ đến (BRTS. Tr.31). Bởi vậy, dẫu biết rằng cay cú nêu lên sự thật cần được phanh phui sẽ đem lại cảm nghĩ khó chịu nơi những người trẻ, cụ Tài đành chấp nhận với hy vọng may ra sự nhức nhối do tự ái bị va chạm phần nào khuyến khích tri thức nơi họ thức động. Chủ đích của cụ đạt ngay điểm tới, lời cụ chưa dứt âm vang, Hưng đã lên tiếng,

- Thưa bác, cứ theo một số kinh sách giải thích sự thực nghiệm, kẻ nào muốn thực tập cần có một vị thầy, nếu không sẽ bị tẩu hỏa nhập ma thay vì đạt tới được phần hỏa hầu nào đó. Cháu nói như thế bác biết cháu muốn nói gì.

- Câu hỏi của anh phần nào chứng tỏ sự hiểu lầm bao lâu nay của những người nghiên cứu, tu tập, và nghiệm chứng đạo học Đông Phương. Tôi muốn nói riêng về người Việt Nam mà thôi. Trước hết, sự hiểu lẫn lộn ý nghĩa của ngôn từ hay văn từ “thiền” và “Yoga.” Thiền hay thiền định của nhà Phật đặt trọng tâm vào định để tiến tới kiến tính. Yoga phát xuất từ Ấn học; đó là phương pháp đào luyện thân xác, phát triển năng lực nội tại tiến dần tới trạng thái đại định, xả kỷ, giúp tâm thức hòa nhập với thực thể tối thượng. Tùy theo những tông phái và các phương pháp thực nghiệm, thiền cũng như yoga được chia thành nhiều giai đoạn hay cấp bậc kể chẳng xiết. Thêm vào đó, có những phương pháp giao thoa giữa thiền định và yoga chẳng hạn như Mật Tông Tây Tạng, phương thuật hay tương tự như thế nơi huyền môn Ai Cập. Khi nào nói đến Ấn học tôi sẽ phân tích các giai đoạn hoặc phương cách thực hành yoga cho quý anh em hiểu rõ. Điều tôi muốn nhấn mạnh trước khi nói về thành quả thực chứng hay tu luyện; đó là cho dù ai đó phát triển được năng lực nội tại tới đâu hoặc đạt được khả năng huyền môn nào đó, khi sử dụng chúng tất nhiên đã bị chúng mê hoặc, nói cách khác, đã tự lao mình vào cơn cám dỗ; như tôi đã nói khi nãy, đó là lạm dụng quyền lực thiêng liêng ẩn tàng nơi mọi người.

- Thưa bác, nếu như thế đâu cần gì phải nghiệm chứng hay tu luyện làm chi, thà rằng cứ chấp nhận đã được sinh ra để sống thì cứ sống, chờ ngày chôn vùi cùng cây cỏ và làm bạn với giun dế. Sỹ nhà con thêm lời xông xáo.

- Cần gì phải chờ, và chưa bằng bụi đất sao dám đòi làm bạn cùng giun dế. Nói cho đúng, trên răng dưới dế thì có chứ giun chắc chắn không. Xin ông làm ơn hành thiền nín nói cho bà con nhờ. Bá ngắt lời Sỹ đoạn tiếp, thưa bác, nếu thiền và yoga có thể giao thoa, có nguyên tắc hoặc điểm căn bản nào làm đầu mối cho sự hòa hợp các phương thức thực nghiệm này không?

 

- Như tôi đã nói, nguyên tắc căn bản cho mọi sự thực hiện nghiệm chứng tâm linh chỉ là sự sử dụng quyền lực nơi tư tưởng. Tùy sự sử dụng này mà các phương pháp thực nghiệm phát sinh. Nơi thiền định, quán tưởng chính là dồn hết năng lực tư tưởng để chứng những vọng tưởng hay ý niệm hầu nhận thức năng lực hiện hữu hay Tâm Phật, Pháp Thân, hoặc Tự Tính, đang biến chuyển, hoạt động nơi mọi sự. Yoga dùng năng lực nơi ý nghĩ, ý định áp dụng nhận thức ý dẫn khí, khí dẫn huyết đả thông các kinh mạch để phát triển năng lực nội tại mà tiếng bình dân gọi là nội lực. Tuy nhiên, muốn sử dụng được năng lực tư tưởng, hành giả cần thực chứng thực thể tuyệt đối nơi mình; tức là hiểu biết và nhận chân chính mình bằng cách trả lời cho đến tận cùng câu hỏi mình là ai. Sự tìm kiếm này sẽ giúp cho hành giả khám phá, xuyên qua những hang ngách của tâm thức những gì ẩn giấu đàng sau tâm trí của con người. Khi một người giải quyết được vấn đề căn bản này, họ sẽ giải quyết được tất cả những vấn đề khác. Dĩ nhiên, những ai tu trì theo tông phái đều có những vị đã thực chứng hướng dẫn. Tuy nhiên, các vị tổ hay thầy chỉ là những người đi trước dẫn đường, những người giúp đỡ, hướng dẫn trong một giai đoạn ngắn chứ không phải là người có thể cứu giúp hay đưa ai đến mục đích tối hậu là giải thoát (HTTT; Tr.248). Nhận thực như thế, sự giải thoát chỉ đến với sự tinh tấn riêng của từng người. Người tu hành chân chính là kẻ tự biết mình vì trên đường đạo không có vấn đề vinh hay nhục mà chỉ có sự tiến bộ. Nếu chẳng may sa ngã, hãy đứng dậy, và tiếp tục, và chỉ cần luôn định hướng để khỏi lầm đường lạc lối (HTVPĐ; Tr.143). Tương tự, khí công bên yoga hay mật tông Tây Tạng chỉ là một phương pháp để định tâm, và dụng công định tâm mới là hành trình chính yếu dẫn tới đại định. Hơi thở chỉ là một con ngựa tốt, nhưng tâm con người mới là kẻ cưỡi ngựa. Một khi kiểm soát được tâm thì mới có định mà chỉ có định rồi thì trí huệ mới phát sinh (HTTT; Tr.260).

- Thưa bác, nếu như vậy sao một người đùm đề vợ con phải lo chạy ăn từng bữa có thể tu chứng nghiệm chứng? Chẳng lẽ sự nhận chân thực thể nội tại chỉ đến với một số người có trường hợp đặc biệt?

- Nói rằng chỉ đến với một số người có trường hợp đặc biệt may ra đúng được một phần, nhưng cho rằng những người nơi cuộc sống gia đình không có cơ hội thức ngộ thì hoàn toàn không có một lý do nào làm căn bản. Anh em nên tự nghiệm, thực thể sâu kín của thiên nhiên và của cuộc đời tức là bí quyết của sự bất diệt không thể nào tiếp nhận được với sự làm việc gian khổ của trí óc, hay với một hướng tâm ích kỷ; mà chính là nhờ vào sự tiếp xúc với cuộc sống trọn vẹn và không ngụy tạo với trực giác tức thời (MGTT; Tr.72). Qua những kinh nghiệm tu chứng được viết nơi kinh sách, tính đồng nhất của muôn vật hiện diện nơi tổng thể đang yên ngủ trong mỗi vật chỉ được nhận thức qua nghiệm chứng chứ không bằng suy luận. Tuy nhiên, nghiệm chứng đâu cần ngồi một chỗ mà chỉ cần định tâm. Định tâm đâu đòi hỏi phải có thời gian hay không gian nào cố định. Dành một thời giờ riêng cho sự tham thiền là việc làm của kẻ sơ cơ. Người đã tiến bộ ít nhiều trên đường tìm chân lý sẽ tìm thấy sự an lạc là điều bình thường dầu cho y đang bận rộn công việc. Trong khi hai tay người ấy đang thực hiện công việc thì trí óc hướng về cõi giới siêu hình. Người nghiệm chứng cố gắng đưa tâm trí của mình tập trung nơi mục đích cũng ví như kẻ điều khiển tay lái khiến xe chạy trên đường thay vì lọt vô lề hay mương rãnh hai bên.


- Thưa bác, nếu người nào làm việc bằng sự tính toán đầu óc sao có thể định tâm? Sỹ nhà con lại chen vô.

- Anh chưa thử sao dám đặt vấn đề đơn sơ như vậy! Có lẽ anh không biết câu “Ước muốn của ngươi ở đâu, thì lòng dạ ngươi cũng ở đó.” Giọng cụ Tài bỗng trở nên thương cảm sau tiếng thở dài. Tôi nói hơi quá vì Kinh Thánh viết, “Kho tàng ngươi ở đâu thì lòng ngươi cũng ở đó” (Mt. 6:21). Khi một người thực sự ước muốn thực hiện việc gì hay điều gì tất nhiên tâm trí của họ luôn luôn suy nghĩ về điều đó bất cứ lúc nào. Cũng một lẽ đó Kinh Thánh viết thêm, “Vậy nếu mắt ngươi đơn thuần, thì toàn thân ngươi sáng láng. Nhưng nếu mắt ngươi vạy vò thì toàn thân ngươi sẽ sầm tối” (Mt. 6:22-23). Câu này có nghĩa sự tập trung tinh thần vào nhãn quan tâm linh giúp cho người nghiệm chứng cảm ứng với thực thể tâm linh nơi mình. Tuy nhiên, nếu không thực nghiệm hoặc không biết mà để tâm trí phiêu diêu lơ đãng bất định hoặc trụ vào những ham muốn thế tục thì suốt đời cũng chẳng đạt tới đâu. Thế nên, sống trong bóng tối là những kẻ chỉ hướng về các tri kiến hữu hạn được gọi là những kẻ tôn thờ thế gian.

- Thưa bác, Hưng ngập ngừng, nhưng dầu sao chúng ta cũng chỉ là người.

- Lần trước anh đã lặp lại câu nói của Pascal, “Con người không phải là thánh cũng chẳng là thú, nhưng kẻ nào muốn làm thánh lại biến thành thú” mà vẫn chưa thông hiểu ông ta muốn nói gì. Chúng ta chớ nên phân biệt tâm và thân như hai thành phần khác biệt có thể tách rời nhau; mà cần hiểu rằng tâm và thân là một. Nơi ngôn ngữ Việt có hai chữ thân và thần trùng hợp về điểm này ở hành trình tâm linh. Dẫu được kiến tạo do sự vô tình nào đó chúng vẫn đem lại ý nghĩa thật tuyệt vời về sự hợp nhất căn bản của nghiệm chứng; mà những ai chối bỏ hay không nhận biết thực tại này đều chỉ đang theo đuổi những sự phù phiếm. Nghiệm chứng đạo học minh chứng, một người muốn thức ngộ, trước hết phải nhận biết mình tức là nhận biết thực thể của thân, đó là thực thể chính họ. Thần mang ý nghĩa người đã thức ngộ. Không một đạo sư hay đấng giáo chủ nào bảo người đi theo con đường tinh thần phải đè nén mọi tình cảm. Con người là một sinh vật hữu tình, nghĩa là có tình cảm, chứ đâu phải trơ trơ như gỗ đá. Không một phương pháp đạo học nào chủ trương con người phải trở thành trơ trơ bất động, không còn tình cảm nữa. Phải chăng đi theo con đường tinh thần thì con người sẽ không còn là người nữa hay sao? Đàng khác, nếu đã không phải là người đâu cần thức ngộ. Tâm chúng ta đầy những bất an, vọng động có thể chỉ vì chúng ta quá chú trọng đến việc đè nén cảm xúc, hoặc theo đuổi những ước muốn nhất thời mà không hiểu rằng tâm và thân đâu phải là hai thực thể tách biệt. Thực tế chứng minh, nếu thân bệnh hoạn thì làm sao tâm có thể an được. Nói như vậy có nghĩa muốn thành thần phải có thân, muốn đạt đạo phải là con người đúng với ý nghĩa của nó.

- Thưa bác, sao trong kinh sách nói gì đâu những sự rèn luyện cần phải từ bỏ hoặc tuân theo nhiều thứ kỷ luật thân xác gắt gao, trong khi cuộc sống lại quá ư phức tạp.

- Chỉ có những tâm hồn cố chấp và lạm dụng mới dám mở miệng nói rằng đường dẫn đến chân lý chỉ có một. Có hàng trăm ngàn con đường cùng đưa đến một mục đích. Người Tây Phương có câu thường bị hiểu lầm, “Đường nào cũng dẫn tới La Mã.” Nói cách khác, có bao nhiêu người, sẽ có bằng ấy phương pháp hay hành trình nâng cao tâm thức con người. Thử xét về những tổ chức mang tính chất truyền bá đạo học, lịch sử cho thấy không một đấng khai sáng tâm linh chân chính nào lại lo thiết lập một tôn giáo khi các ngài còn sống cả. Các ngài đến với nhân loại để giảng dạy chân lý chứ không phải thành lập một tổ chức hữu hình nào. Tổ chức chỉ được dựng lên do tín đồ sau khi các ngài từ trần mà thôi (BRTS; Tr.180). Xét về cuộc đời, mỗi kiếp sống, mỗi giai đoạn, hay sự việc nơi cuộc đời đều là những chặng đường, những bài học quan trọng trong hành trình phát triển và tiến hóa của mỗi người. Khi đã học xong một bài học, con người tiếp tục lên đường để học thêm những bài học khác. Thế nên, chẳng có việc gì hoặc sự kiện gì nơi đời người trên thế gian này là tầm thường cả; tất cả mọi việc đều có sự quan trọng riêng của nó. Đừng gán cho công việc những giá trị này nọ mà quên rằng người ta chỉ đạt đến chân lý bằng cách mở rộng trái tim và ý thức hành động của mình qua những công việc dường như tầm thường nhỏ mọn (BRTS; Tr.158). Thực ra, nơi nghiệm chứng, vấn đề được đặt ra không phải là việc làm của chúng ta mà là thái độ của chúng ta đối với những việc làm đó. Chúng ta đến cuộc đời này một mình thì khi ra đi cũng vậy thôi. Những sự việc đều là phương tiện cho chúng ta hoàn thành điều gì đó cần phải học. Là người đi trên đường tinh thần, chúng ta đã biết rõ mục đích của cuộc đời là để học hỏi, kinh nghiệm nên cần biết tuân theo các định luật thiên nhiên. Luật thiên nhiên đã định như thế thì cưỡng lại có ích gì đâu (BRTS; Tr.175). Cưỡng lại lối sống tự nhiên tất nhiên còn muốn trở thành gì nếu không muốn nói là chống trời. Sống theo tự nhiên của con người mới có thể thành thần, mới có thể phát triển tâm linh.

- Thưa bác, cháu nghĩ có điều gì đó bác không muốn nói đến khi cho rằng có những trường hợp đặc biệt. Vấn đề cháu đặt ra đó là làm sao biết mình có thuộc về trường hợp đặc biệt hay không?

- Tôi không ngờ anh quá thông minh. Sở dĩ tôi không muốn nói đến vì sự tin tưởng nơi một lý thuyết và sự nhận thức qua một kinh nghiệm khác nhau rất xa. Tự xét, quý anh em sẽ nhận thấy, chúng ta xưa nay đã quá quen thói muốn hiểu hết mọi sự để tưởng rằng mình đã đạt được một cái gì. Nơi trường học, những sự hiểu biết này đến mức độ nào đó được gọi là bằng cấp. Tuy nhiên, nơi hành trình nghiệm chứng tâm linh, sự hiểu biết thiếu nghiệm chứng kiến tạo trạng thái đối nghịch; nó chỉ giết chết lòng khao khát thức ngộ của con người mà thôi, thay vì bổ túc và hướng dẫn tu chứng. Điều mà tôi cho rằng “Sự nhận chân thực thể nội tại chỉ đến với một số người có trường hợp đặc biệt may ra đúng được một phần;” cũng vì chúng ta chỉ muốn hiểu mà hiếm ai muốn nghiệm. Tôi muốn chứng minh cho mọi người rõ. Suốt tuần qua, có ai trong anh em để tâm suy nghĩ dù chỉ một đôi lần về lý do hay nguyên căn nơi sự thức ngộ của hòa thượng Hương Nham không? Anh Tùy nêu lên câu hỏi nhưng tôi đã không trả lời, và thế là hết; ngay cả câu trả lời của tổ Huy Sơn cũng không gây chút thắc mắc nào nơi tâm trí anh em. Ý tôi muốn nói, bất cứ ai cũng thuộc về trường hợp đặc biệt nếu dám đặt vấn đề hầu suy nghiệm cho sáng tỏ, nhưng rất ít người để ý nhận thức.


Cụ Tài ngưng lời, nhắp miếng rượu đoạn đưa mắt rảo qua mọi người. “Điều đau nhớ đời,” nhưng đành phải hạ màn luẩn quẩn, cụ nghĩ. Vì thiếu hiểu biết nên đa số con người đã lầm tưởng phương tiện sống là cứu cánh cho cuộc đời và lao đầu tìm kiếm, nắm bắt. Dĩ nhiên họ sẽ phải đối diện với muôn vàn thất vọng vì cái mà họ muốn luôn luôn hãy còn ở ngoài tầm tay. Đạt được cái này thì lòng ham muốn lại thúc giục họ đi tìm kiếm thêm cái khác, và cứ thế họ tìm mãi, trường kỳ đuổi theo vật chất mà chẳng bao giờ toại nguyện. Thế rồi đau khổ, thất vọng chồng chất tạo nên muôn vàn gánh nặng ưu tư, chán chường. Dẫu đến lúc nào đó để tâm tự nghiệm, họ sẽ nhận biết bài học; vì đau khổ, thất vọng là những kinh nghiệm quan trọng giúp họ ý thức rõ về mục đích của cuộc đời; thì đã bao nhiêu người chẳng bao giờ đạt được cơ hội thức ngộ. Về phía tướng tá nhóm nhậu, thiên hạ thấm đòn khá nặng. Cụ Tài lôi ngay con tẩy bạt của mọi người phơi bày nơi ánh sáng khiến tên nào tên nấy chẳng những ngọng miệng mà còn cảm thấy tự xấu hổ vì đã bỏ lỡ cơ hội ý thức. Lấy gì để bào chữa, nói sao cho thật lòng! Cụ già coi bộ hiền hòa, thái độ mang phần nào hơi lẩm cẩm nhưng dễ mến, chỉ vài câu nói đã lột trần bộ lòng ruột của những kẻ quen thói tự hào.

- Thưa bác, ngay từ lúc mới đọc câu chuyện đó trước khi bác nói, cháu đã mấy lần tự hỏi hòa thượng Hương Nham thức ngộ nhờ điểm nào nhưng tâm trí cứ tối như đêm ba mươi nên đành phải lờ đi. Thực ra, đến lúc này cháu vẫn không thể nào hiểu được thì biết làm sao hơn!

- Anh sẽ có cơ hội, tôi muốn nói anh sẽ thuộc về trường hợp đặc biệt nếu vẫn còn thấy tối mù, với điều kiện cứ để tâm trí luẩn quẩn nơi câu hỏi đó.

Thế là không những thoát nạn mà mọi người còn cảm thấy may mắn vì đã học được bài học chẳng ngờ mặc dầu không ai nói lên. Nét mặt họ chứng tỏ phần nào niềm vui ngỡ ngàng thay thế vẻ đăm chiêu chỉ mấy phút trước. Cụ Tài cảm thấy lòng rộn ràng. Nước cờ giải thế bí đạt thành quả trông thấy, nhưng cụ vẫn tỏ ra như không hay biết. Nhớ lại thời buổi đầu tiên, không biết bao nhiêu năm trời, câu Kinh Thánh, “Nhưng có nhiều kẻ đầu hết sẽ nên cuối hết, và có những kẻ cuối hết sẽ nên đầu hết” (Mt. 19:30; 20:16) đã khiến cụ rối mù không sao có thể nhận thức được. Đọc nơi sách nhà Phật, sự giải thích qua hình ảnh những người lên đò sang sông, cụ thấy không thỏa mãn. Cụ nghĩ, những câu nói đạo học tất nhiên ý nghĩa không giới hạn chứ đâu chỉ dành riêng cho một vài trường hợp nào. Năm tháng dần trôi, những câu khác chẳng hạn “Người biết không nói, kẻ nói không biết” hoặc “Không làm gì mà không sự việc nào không làm” nơi Lão học, hay “Lửa không nóng nhưng tại mình cảm thấy nó nóng,” hoặc “Người khôn học người ngu,” cho dù đôi ba năm hay một vài tháng chúng đã lần lượt được giãi bày nhờ ánh sáng suy nghiệm. Đàng này, câu hỏi “Tại sao kẻ đầu hết sẽ trở nên cuối hết” cứ triền miên ám ảnh mà không có sự giải đáp nào có thể thỏa mãn tâm trí của cụ. Khoảng giữa năm 1990 đi với Hưng mua chiếc máy giặt tại Sears, đang loanh quanh luẩn quẩn nơi quầy sách, cụ vô tình thấy cuốn “Tao of Leadership” nên cầm lên lật một đôi trang ngó qua. Ngay nơi bài viết thứ nhì, ngắn gọn chỉ vài chục chữ, nói về sự hòa hợp đối nghịch của thực thể sự vật, chẳng hiểu mắt quáng gà thế nào mà cụ đọc câu “Who would be first ends up last” trở thành “What would be first ends up last.” Chính lúc ấy cụ nhận biết câu Kinh Thánh mang ý nghĩa gì! Bài học vỡ lòng sẽ giúp mấy anh em gặp nhiều điều thú vị, cụ thầm nghĩ.


- Thay vì đi tìm một cái gì cao xa huy hoàng ở bên ngoài, người tu chứng tìm cách làm sao cho nội tâm được sung mãn, dồi dào, nghịch lại là sự hướng ngoại, theo đuổi đam mê vật chất trong cuộc sống hữu vi. Nơi hành trình hướng nội, mọi hoạt động sẽ có tính cách thoải mái, ung dung, tự tại; vì nó xuất phát từ một nội tâm phong phú, không bị giới hạn hoặc gò bó; do đó tư tưởng được tập trung, chuyển hóa và thăng hoa. Nếu hướng ngoại, mọi hoạt động thường có tính cách lo âu, trói buộc, sợ hãi; vì nó được xây dựng trên sự suy luận của lý trí luôn luôn ảnh hưởng bởi ngoại cảnh. Và như thế, tư tưởng hay sản phẩm của tâm thức chỉ là những gì lăng xăng, biến đổi, hao tán do tùy thuộc những biến chuyển ngoại giới không ngừng. Đây là lý do tại sao nhà Phật có những công án, hoặc Phúc Âm được viết kết hợp những câu nói nghịch thường đối với luân lý hay thói quen suy nghĩ của con người. Như vậy, tôi có thể tóm tắt, bước đầu cho hành trình thức ngộ, anh em nên để ý suy tư những công án hay những câu nói nơi kinh sách đạo học. Không nên học hỏi ý nghĩa từ người khác mà cần phải tự mình suy nghiệm. Thật ra, đó chỉ là những câu nói khôn ngoan đơn thuần nhưng thường thì được nói hay viết theo lối ám định giúp tâm trí con người ngưng đọng để nhận ra những biến chuyển về thực thể của sự vật, sự việc.

- Nhưng thưa bác, như vậy cho dù hướng nội hay hướng ngoại thì vẫn là mê.

- Đây là hành trình khởi đầu của tu chứng để nhận biết điều mà nhà Phật gọi là vô minh. Tôi đề nghị anh em sau khi đã tự mình nghiệm được một công án hay bất cứ câu nói nào nơi đạo học, hãy suy tư về lời phát biểu nơi nhà Phật, “Chứng Cái Không.” Tôi nói nghe có vẻ khơi khơi như thế; tuy nhiên, nếu anh em nào thực sự muốn thăng tiến về đường tâm linh, áp dụng vào suy tư sẽ gặt hái được nhiều sự lạ lùng. Thực ra, cuộc đời là môi trường cho con người học hỏi, kinh nghiệm, dẫn đến sự tự biết mình. Nhiều người sau một thời gian tu chứng hay nghiệm chứng nghĩ rằng họ đã biết rõ về mình, nhưng coi chừng họ chỉ là nạn nhân của bản ngã, của một cái gì vô cùng sâu sắc và biến hiện khôn lường. Sự hiểu biết lý thuyết mà thiếu thực hành là một cái học thiển cận; do đó một người đi trên đường đạo cần phải kinh nghiệm qua việc va chạm với thực tế khổ đau. Nguyên nhân của đau khổ không phải tại hoàn cảnh, cũng không phải tại ai khác mà chính là do nơi mình (BRTS; Tr.106). Mọi hành trình nghiệm chứng hay tu chứng chỉ là công phu theo dõi tư tưởng một cách thành thật, nhận biết tất cả cho đến khi có thể hiểu trọn vẹn về chính mình. Thế nên, người có lý tưởng lúc nào cũng suy gẫm về điều mình theo đuổi, thấy rõ kết quả mà họ mong sẽ đạt được, và cương quyết đi trọn con đường. Họ phải biết tuân giữ những định luật bất biến trong vũ trụ và không bao giờ quên rằng chân hạnh phúc là một phần thưởng quý báu, chỉ đến sau khi họ đã vượt qua được những thử thách mà thôi (BRTS; Tr.179). Như vậy, muốn biết mình, người ta cần phải biết về luật biến hóa của vạn vật trong cuộc tuần hoàn của vũ trụ. Trong trời đất, tất cả đều thay đổi biến chuyển không ngừng. Để tiến hóa, con người cần có một động lực mạnh mẽ thúc đẩy họ hoạt động đó là lòng đam mê. Đây là một yếu tố cần thiết và hữu dụng đối với loài hữu tình như chúng ta; vì thiếu yếu tố này, con người sẽ sống thụ động như cây cỏ, gỗ đá, chẳng có cảm giác và không thể tiến bộ bao nhiêu. Nhờ đam mê mà người ta hoạt động, thay đổi. Điều quan trọng phải là chúng ta có nhận biết được mình thế nào hay không. Như thế, nguyên lý căn bản của đạo học chỉ là biết mình và sự liên hệ của mình với quyền lực tối thượng, Phật Tính hay Thượng Đế, Đại Ngã mà thôi.

- Thưa bác, như vậy đâu cần tôn giáo.

- Nói cho đúng, sự biết mình là căn bản quan trọng nhất mở đường cho hành trình thức ngộ. Chính vì không biết mình do lười suy tư hoặc sợ hãi phải đối diện với con người thật của mình mà xưa nay bao nhiêu người đã chạy theo những lời hứa hẹn thiếu nghiệm chứng để cổ võ tổ chức thế tục vẫn thường xảy ra khắp nơi. Sự tự biết mình đòi hỏi một công phu nghiệm chứng, quán chiếu, để phản ánh trung thực các ý tưởng, các điều sâu kín ẩn náu trong nội tâm, chứ không phải điều mà người ta có thể tìm thấy trong sách vở, dù đó là sách gì chăng nữa. Nhờ liên lỉ nghiệm chứng, quán chiếu để tự biết mình, con người đạt đến tâm trạng minh triết trong tâm hồn, và từ đó họ có thể sử dụng hợp lý các kiến thức đã thu thập được nơi cuộc sống. Mọi truyền thống tôn giáo, dù cao siêu đến đâu, thì cũng quy về con người, và những gì họ tự hiểu biết về thực thể bản thân. Nếu không tự biết mình thì họ không thể biết được bất cứ điều gì khác một cách chính xác. Bởi vậy, sự nhận biết về liên quan giữa con người và Thượng Đế đòi hỏi sự biết mình vì khi biết mình là ai thì câu trả lời về Thượng Đế sẽ hiển hiện một cách rõ rệt hơn bao giờ hết (BRTS; Tr.189).

- Ngay từ tuần trước, nghe bác nhắc đi nhắc lại mấy điểm coi bộ quá thường, cháu cảm thấy hơi ngạc nhiên tại sao qua bao năm tháng với muôn vàn kinh nghiệm sống mà mãi cho tới lúc này bác vẫn nhắc tới chúng. Cháu xin lỗi đã có ý nghĩ ấy và dám thực lòng nói lên nếu có điều gì không phải. Nhưng bây giờ mới thấy thấm và nhận ra mình đã nghĩ sai; nói cho đúng, cháu đã nhận thức sai mà không biết. Có điều, hình như những gì đơn giản nhất hoặc gần với mình nhất lại khó khăn nhất nếu cháu không lầm. Chẳng hạn vấn đề biết mình, ai không tự hào rằng đã hiểu quá rõ ràng về mình. Cứ như bác giải thích thì xưa nay mọi người chỉ tưởng tượng sai lầm về chính họ mà thôi. Và như vậy, có thể nói, tất cả các phương pháp tu luyện, nghiệm chứng đều chỉ dồn vào một điểm tự nhận thức chính mình; vì không thế, tại sao các kinh sách đạo học luôn luôn nhấn mạnh về tự thể, tự giác, giác ngộ. Tuy nhiên, giải thích bằng chữ nghĩa hoặc bằng lời nói cũng chẳng khác gì nước đổ đầu vịt. Vấn đề cháu đặt ra phải là làm sao cho đầu vịt thấm nước. Xin lỗi bác và anh em, cháu chỉ muốn nói về chính cháu mà thôi!


Cũng như một vài người khác, ngồi nghe và cứ lầm rầm uống hết chai bia này đến chai bia khác suốt buổi tối tuần trước, mãi tới lúc này Hinh mới lên tiếng. Hắn xưa nay vẫn ít nói lại không thích lý luận giành phần hơn thiệt. Dẫu những lúc bạn bè “rượu vào lời ra” hắn vẫn thế. Uống thì cứ uống nhưng có ai chọc chạch thế nào hắn vẫn ngậm miệng ngoại trừ những điều cần phải nói. Bảo rằng thế nào hắn cũng chẳng đặt thành vấn đề và thường có thái độ như không để ý đến những chuyện thời sự sôi nổi lắm khi nhóm nhậu ý kiến qua lại như o­ng vỡ tổ.

- Thế ra lẩm ngẩm mà đấm chết voi. Tôi xin tặng ông danh hiệu “đầu vịt.” Sỹ nhà con chen giọng.

- Anh Hinh nói đúng, cụ Tài lên tiếng. Chúng ta chỉ cho rằng biết mình chứ thực sự rất ít ai nhận thức được rõ về chính mình vì có chăng đã được gọi là đạt đạo. Anh dùng ngôn từ “đầu vịt” không sai bởi kinh sách nói về sự nhận thức và những phương thức giác ngộ trong khi chúng ta chỉ đọc cho qua, hoặc khác hơn thì đọc để mà hiểu. Nói chung, chúng ta kiếm tìm kiến thức chứ không phải tự nhận thức. Tệ hơn nữa, chúng ta thường dùng quan niệm cố hữu nơi mình làm mẫu mực xét đoán những điều kinh sách viết rồi cho rằng đúng sai, phải trái theo sự hiểu biết hạn hẹp; mà không để ý đặt mình vào trường hợp của những lời phát biểu hầu nghiệm chứng ẩn ý của câu nói hoặc câu viết đó thế nào. Đây là căn bản của nghiệm chứng mà ít ai để tâm thực hành, thế nên luôn luôn bị giao động, khát khao tìm hiểu ngoại vật, chẳng khác gì con o­ng quanh quẩn đi kiếm từng giọt mật. Muốn thức ngộ phải tìm tự nơi mình; vì chân lý vốn tự nơi ta chứ không đâu xa. Sự vô minh phát sinh từ tư tưởng hướng ngoại được gọi là kiến thức; bởi đó, kiếm tìm sự minh triết nơi mình tức là tự biết mình.

- Bất cứ kinh sách đạo học nào cũng trình bày sẵn phương pháp thức ngộ mà mấy ai để ý. Sự nghiên cứu theo văn tự, sách vở chỉ đem đến những hiểu biết hời hợt bên ngoài chứ không thể giải thích thấu đáo những vấn đề huyền bí, ẩn mật của thực thể sự việc. Các lý luận chỉ là cái biết ngoài da và tổng hợp những cái biết của người khác. Sự hiểu biết thật sự chỉ có thể có được khi người ta đã kinh nghiệm được chúng như chúng thực sự thế nào (HTTT; Tr.167). Thế nên, kiến thức từ chương chỉ giúp cho những người sơ cơ, bắt đầu tìm hiểu con đường tâm linh để có một căn bản hiểu biết, nhưng đó không phải là tất cả. Nếu người ta cứ tiếp tục bám víu vào kiến thức thì chính nó sẽ trở thành chướng ngại cho việc nghiệm chứng. Tu chứng tức là áp dụng những điều đã hiểu vào đời sống; vì chỉ những gì mình nghiệm được mới thật sự là hiểu biết mà thôi. Tất cả những điều gì người khác nói ra đều chỉ là kiến thức, nghiệm chứng của họ. Đàng khác, sự giải thoát xuất phát từ chính mình chứ không thể do một ân huệ nào từ bên ngoài mang đến (HTTT; Tr.44); bởi vì những kiến thức hoặc sự thực hành tôn giáo như nghi thức lễ bái, cúng kiến bề ngoài không dẹp tan được vô minh nơi con người mà có khi lại còn cổ võ con người chìm sâu hơn. Chỉ có sự nghiệm chứng mới có thể dẹp tan cõi vô minh của tâm hồn. Sự hiểu biết hay kiến thức thực nghiệm chỉ có thể đạt tới bằng sự tìm tòi của lý trí qua nghiệm chứng.

- Quý anh chị em đã nghe hay đọc về một số nguyên tắc thăm dò tâm thức nơi hành trình tu chứng nhà Phật. Xét về lịch trình phát triển Phật học, chúng ta không nên quên rằng bối cảnh giai cấp xã hội Ấn Độ ngày xưa, và hệ thống giáo điều nơi Ấn giáo, đã đóng những vai trò quan trọng cho sự phát triển nhà Phật. Thực ra, trước khi có Phật học, các tông phái Ấn Độ, nhất là phái Yoga, đã xác định rõ ràng phương cách thực nghiệm những phương thức cùng trình tự tu luyện. Nơi hành trình tu luyện này, người nghiệm chứng thường được gọi là tu đạo cần nhớ một điều: không có một hành động nào, không một lời nói nào, một ý nghĩ hoặc tình cảm nào mà không có ảnh hưởng tới tâm linh hành giả; nên không một giây phút nào mà tâm thức con người không phải chuyên chú cẩn trọng; bởi các tác vi, lời nói, cùng ý nghĩ đều tạo nên những luồng ba động gây ấn tượng trong tiềm thức của người tu đạo (TTÂĐ; Tr.241).

- Tất nhiên, muốn nghiệm chứng, hành giả cần định tâm, và Yoga bao gồm những phương thức thực nghiệm nơi hành trình tu chứng của Ấn học để đạt tới đại định; trạng thái nhà Phật gọi là viên giác đại ngộ hay niết bàn. Chẳng khác gì nơi nhà Phật, nếu ai đó muốn tìm hiểu Phật học phải đối diện với muôn chiều hướng lý thuyết cũng như những hành trình tu chứng nhiều khi khác biệt tới độ đối nghịch; thì việc tìm hiểu về Ấn học lại còn khó hơn gấp mấy lần. Tuy nhiên, dẫu các tông phái tại Ấn Độ rất phức tạp, mà thực ra, những quan niệm căn bản nơi các giáo lý Ấn học có nhiều điểm tương đồng (TTÂĐ; Tr.236). Những điểm tương đồng dựa trên vài quan niệm căn bản đó là vô minh, nghiệp báo, niết bàn, hay trạng thái siêu thức, và Yoga là phương thức thực nghiệm để diệt trừ những vọng tưởng do vô minh và nghiệp chướng gây ra. Các tu sĩ Ấn Độ, nhất là các tu sĩ Yoga, cho rằng phương pháp thực tiễn để biết mình là diệt trừ mọi vô minh, mọi vọng động, vọng tưởng, vọng niệm đã từng cấu tạo nên những màng lưới hình hài, bản năng, tâm tư. Tất cả những vọng tưởng, vọng niệm, vọng chấp đó, tương tự như những đợt sóng luôn luôn biến hiện trong giòng sống con người khiến tâm thức không bao giờ phẳng lặng, thanh tịnh để bộc lộ trạng thái thuần túy của thức giác hiển lộ tinh lực uyên nguyên (TTÂĐ; Tr.240). Như vậy, người nào thoát khỏi trạng thái vô minh, đương nhiên đạt đến viên giác, đại ngộ; tâm thức họ sẽ tới cõi thường tịch, an lạc không kể xiết.

- Dù có nhiều phương pháp đạt tới thức ngộ nơi Ấn học, nhưng nguyên tắc chỉ có một đó là diệt ngã hay xả kỷ. Tôi nghĩ, anh em sẽ không ngạc nhiên khi tìm hiểu Ấn học nếu đã biết về Phật học; vì sự khác biệt giữa Ấn học và Phật học cũng như đối với các đạo học khác, tựu trung chỉ là những quan niệm nơi hành trình tu chứng mà thôi; bởi chân lý chỉ có một, và điểm khởi hành chính là tự biết mình. Chẳng hạn, Ấn học quan niệm về Đại Ngã dẫu ngôn từ diễn giải khác biệt thì cũng chỉ như Thượng Đế, Chân Như, hay Tào. Thực thể tâm linh nơi con người được gọi Tiểu Ngã, nhà Phật gọi là Phật tính, Thiên Chúa giáo gọi linh hồn. Yoga bao gồm nhiều cách tu luyện nhưng tựu trung đều là phương thức nâng tâm thức; tiểu ngã hòa nhập Đại Ngã bắt nguồn từ nghiệm chứng nơi Ấn học.

- Thưa bác, nếu Ấn học rất phức tạp sao có thể đặt vấn đề tổng hợp.

- Khi nhắc đến tôn giáo, chúng ta đều nhận biết, có nhiều tôn giáo và mỗi tôn giáo được phát sinh và thiết lập dựa trên nền tảng niềm tin chung nơi tín đồ. Thêm vào đó, cuộc đời thay đổi và thăng tiến, cộng hưởng với sự diễn giải kết quả tu chứng của một số vị chân tu; do đó quan niệm cũng như niềm tin biến đổi cho phù hợp với nghiệm chứng đạo học. Sở dĩ Ấn học cũng như Phật học phức tạp vì hành trình tu chứng phát triển theo thời gian đã phát sinh rất nhiều khuynh hướng giãi bày cảm nghiệm. Chẳng hạn chúng ta thấy, hành trình phát triển Ấn học từ thời thượng cổ mang tính chất mật truyền được bao trùm dưới nhiều bình diện thức giác trải qua những truyền thống Kỳ Na, kinh Vệ Đà, Upanishads, và sau này vào thế kỷ thứ ba hay thứ tư sau tây lịch, kinh Bhagavad Gìtà xuất hiện. Kinh này rất được người Ấn Độ ngưỡng mộ và đọc tụng (TTÂĐ. Tr.187). Kinh được viết dưới hình thức một cuộc đối thoại giữa tôn giả Krishna và Arjuna trên chiến trường Kurukshetra (CTC. Tr.IV) để trình bày nguyên lý thương đau chứa đựng trong tác phẩm và đưa các dữ kiện tôn giáo vào thực tại của cuộc đời, hầu nói lên thực thể quyền lực tuyệt đối đang hoạt động dưới nhiều hình thức khác biệt. Thực ra, mọi kinh sách đạo học đều có xuất xứ khá mù mờ đồng thời được bổ xung do những bậc thức ngộ. Kinh Bhagavad Gìtà là một đoạn của thiên anh hùng ca Mahabharata không biết do ai trước tác. Tuy nhiên, chỉ cần một chút suy nghiệm, chúng ta sẽ nhận thấy, chân lý bao giờ cũng hiển hiện một cách mầu nhiệm trong không gian và thời gian. Sự sống thật sự không thể bị ràng buộc trong giới hạn thời gian mà ngược lại rất huyền nhiệm, sống động không ngừng biến chuyển chẳng khác gì giòng nước luôn luôn tuôn chảy. Cũng như các đạo học khác, Ấn học đặt căn bản trên nền tảng nghiệm chứng này; bởi nếu chúng ta nhận thức được sự thiêng liêng duy nhất ở tất cả thì ta sẽ thấy sự sống biểu hiện khắp nơi qua thiên hình vạn trạng. Ngược lại, con người thường thu hẹp nguồn lực thiêng liêng, quyền lực hiện hữu, thường được gọi là sự sống trong các danh từ giới hạn, và cố gắng giải thích bằng những ý niệm của tư tưởng. Ấn học khuyến khích sự ý thức và kinh nghiệm thực thể biến chuyển không ngừng của quyền lực tối thượng hầu giúp con người nhận ra định luật điều hành vũ trụ tuyệt vời mà chúng ta thường cho là ở bên ngoài, vốn thực không khác những định luật hiện nay đang chi phối bên trong mỗi con người.

- Có điều, nơi kinh sách diễn giải, các tác giả kinh sách Ấn học hay đề cập đến thực thể tối thượng được gọi là Đại Ngã như một vị chúa tể mang nhân tính chẳng hạn đức Thế Tôn hoặc Thượng Đế hay nhân cách hóa bằng đại danh xưng “Ta.” Chẳng hạn nơi kinh Bhagavad Gìtà viết, “Này Arjuna, Ta là Đại Ngã ngự trị trong tâm hồn vạn vật: Ta là lúc khởi đầu, là chốn trung gian và là cứu cánh của vạn vật. Trong các tập Phệ Đà, Ta là Sàmaveda. Trong số các bản thể ngời sáng, Ta là bản thể ngời sáng, Ta là bản thể Vàsava. Trong các quan năng, Ta là tinh thần (Manas), và trong khắp phù sinh, Ta là tri thức (CTC. Tr.100-101). Ta là thần chết cấu xé muôn loài, Ta là nguyên ủy của tất cả những gì sắp sửa sinh ra. Trong các phẩm hạnh của nữ tính, Ta là danh giá, là giàu sang, là thịnh vượng, là lời nói, là ký ức, là thông minh, là đức kiên trì và lòng tha thứ (CTC. Tr.103). Ta là trò xảo trá của kẻ đại bịp, và là sự rực rỡ của những vật thể huy hoàng. Ta là vinh quang, Ta là quả cảm, Ta là chân tính của lẽ phải. Ta là yên lặng của mật tính và là tri thức của những bậc hiền giả. Ta là hạt nhân của tất cả thực hữu. Chẳng có chuyện gì, dù chuyển động hay bất động lại có thể hiện hữu ngoài Ta (CTC. Tr.105). Như vậy, Thượng Đế nơi Ấn học lớn hơn không gian nhưng đồng thời cũng nhỏ hơn một hạt nhân nguyên tử; vì Thượng Đế là đời sống của nguyên tử. Không có gì lớn hơn Thượng Đế và cũng không có gì nhỏ mà có thể thoát ra khỏi Ngài. Thượng Đế hay chân lý tuyệt đối không có hình dạng, màu sắc hay đường nét gì, nhưng nhờ Thượng Đế mà các sắc tướng được đẹp đẽ, rực rỡ và tinh vi (BRTS; Tr.42).

- Tuy nhiên, anh em nên để ý sự khác biệt giữa đạo học và tôn giáo. Như tôi đã giải thích nhiều lần, chúng ta cần mở rộng lòng quan sát và học hỏi chứ không phải để phê phán hay chỉ trích; vì làm sao người ta có thể kinh nghiệm được gì khi lòng còn đầy tự hào như con đẻ của nhận thức hạn hẹp, hoặc đã bị ám ảnh quá nặng nề do sự nhồi sọ của những lý thuyết, hoặc bởi mang nặng tính chất ỷ lại hay lười suy nghĩ. Đàng khác, điều rõ ràng chúng ta đều nhận biết; đó là không ai có thể đạt tới những gì chưa bao giờ biết hoặc chưa thử nghiệm, nhưng lại e sợ những gì chưa bao giờ đối diện nên dễ sinh lòng đố kỵ. Thực ra, sự e sợ này chính là đặc tính của những tâm hồn thiếu nhận thức nên mất hết khả năng sinh động mà nhà Phật thường gọi là trạng thái vô minh. Xét về Ấn học, trọng điểm nơi giáo huấn của Bhagavad Gìtà, tiếng Việt dịch là Chí Tôn Ca, bàn về con đường đạt đến tinh thần giải thoát. Con đường giải thoát này chính là con đường của đạo Yoga hướng về hành động (Karmayoga), hay là con đường hoàn tất nghĩa vụ bằng tư tưởng của đạo Yoga, một phương thức hợp thể với tinh thần đức Thế Tôn vô thượng (CTC. Tr.XXI). Quan niệm hành động nơi Ấn học có nghĩa chính là cuộc sống của một người. Ăn uống, vận chuyển, linh động qua những quan năng xác thân nơi cuộc sống thường ngày đều có nghĩa là hành động. Hành động là một phương thế hiệu nghiệm nhất để tự biểu lộ tự ngã của mình trong trần thế (CTC. Tr.XXI). Nói cách khác, cuộc đời một người chính là sự thể hiện linh hoạt của Đại Ngã nơi thế giới hữu hình. Chỉ có một năng lực tuệ mẫn luôn luôn biến chuyển hàm chứa mọi tính chất sinh động nằm sau những hoạt động vô tận của vũ trụ là đức Thế Tôn. Chỉ có ý muốn của Người là hữu hiệu trong mọi hành động; Người là một thực thể duy nhất hiện hữu, nhưng Người hoạt động qua bản ngã nhân gian, và dùng nhân gian như thể công cụ của Người (CTC. Tr.XXIII). Nói cách khác, những định luật sinh hóa, biến động tự nhiên, phức tạp nơi thế giới hữu hình cũng như vô hình chính là sự hoạt động của Đại Ngã nơi muôn loài muôn vật. Thế nên, đời sống thực sự không phải là một sự cố gắng, phấn đấu để đạt được cái này hay cái khác nhưng là một sự thoải mái trong tự do tuyệt đối (BRTS; Tr.16). Như vậy, con đường thức ngộ theo Ấn học đòi hỏi một sự cảnh giác không ngừng; con người cần luôn đặt tâm tưởng nơi mục đích chính của mình đó là sự nhận thức thực sự mình là một với đấng cao cả (BRTS; Tr.25) hầu vượt qua những sự cám dỗ của các tư tưởng nhỏ mọn, ích kỷ, vẫn tiềm ẩn trong tâm tạo nên đau khổ vì coi mình như chủ thể hành động.

- Thưa bác, cháu xin được ngắt lời, vì nếu mình đã là một với đấng cao cả nào đó thì dù nhận thức hay không có gì thay đổi đâu. Và nếu đã là một với đấng cao cả thì sao còn có mình, sao còn nói đến đấng cao cả.

- Tôi nghĩ anh chưa bao giờ suy nghiệm lời đức Thích Ca nói “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành.” Đức Đạt Ma sư tổ nói rằng “Thấy thẳng tánh mình thì gọi là thiền. Thấy tánh tức là Phật” (SCTT. Tr.124). Danh hiệu Đấng Cao Cả được dùng trong Ấn học chính là Thượng Đế, Đại Ngã, chẳng khác gì Phật tánh hay Chân Như nơi Phật học. Đó là lý do tại sao Đạt Ma Sư Tổ nói “Phật không giữ không phạm giới. Tâm tánh vốn không, cũng chẳng dơ, sạch. Các pháp đều không tu, không chứng, không nhân, không quả. Phật là người vô tác” (SCTT. Tr.118). Bất cứ ai đã giác ngộ tức là đã thực sự thấy được chính quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi mình, và con người mình, cuộc đời mình chỉ là công cụ cho quyền lực này thì được gọi là Phật. Đây cũng là điểm giác ngộ tận cùng nơi Ấn học. Đại sư Swami Nikhilananda nơi phần tựa của cuốn Chí Tôn Ca đã giải thích, “Mục đích của tư tưởng Krishna là xóa bỏ những mối nghi ngờ và lầm lẫn ngự trị con người trong mọi vấn đề, tầm thường cũng như trọng đại. Những lầm lẫn và nghi ngờ này chỉ có thể được xóa bỏ nhờ tinh thần giác ngộ chân tính; đó là đức Thế Tôn hiện hữu ngay trong tâm thức của mình” (CTC. Tr.XVI). Như vậy, người nào ý thức được tinh thần vô thượng đang hoạt động nơi mình, sẽ xa thoát khỏi bản ngã trì nệ của con người. Nếu xét theo nhận thức khoa học, chúng ta không thể phân tách vật chất khỏi năng tính, cũng vậy, nếu chỉ đựa trên bản thể vô thượng, một người không thể phân biệt được hành động và không hành động (CTC. Tr.XXXVI) hoặc người hành động và thực thể hành động vì tất cả chỉ là những hoạt động, biến chuyển của thực thể tối thượng. Nếu nghiệm chứng được nhận thức này, con người đạt tới cảnh giới tâm linh vô thượng. Nói cách khác, người có ý thức vô thượng sẽ không bao giờ còn phải tái sinh nữa vì đã hợp nhất với chính tinh thần hiện hữu (CTC. Tr.XXXVIII); bởi khi tâm trí, quan năng hoàn toàn vượt khỏi thế giới ngoại lai, thoát đắm mê thế tục vô thường, khi tâm trí và quan năng được hướng về thực thể vĩnh cửu, lúc đó một tình trạng mặc khải vĩ đại, một ý thức về chân tính xuất hiện tiêu diệt tinh thần ngu lậu và lầm lẫn trong cõi đời hữu hạn như con người mê ngủ ra khỏi giấc nồng và bước vào một thế giới với một chiều hướng mới (CTC. Tr.XXXVIII).

- Thưa bác, dẫu đạt tới cõi giới nào thì hành động vẫn chỉ là hành động và thực tính của hành động nào khác biệt chi! Chẳng lẽ người thức ngộ tinh thần vô thượng ăn ớt không cay, uống rượu không say, hoặc sẽ thức đêm, ngủ ngày, khác với những người chung quanh!

- Anh nói nghe cũng có lý, nhưng lý một nửa. Để tâm nghiệm chứng anh sẽ nhận thấy, chính ý thức gợi lên tinh thần hành động chứ không phải tạo nên những hành động. Do đó, người chưa giác ngộ và người đã giác ngộ tinh thần vô thượng đều có những hành động giống nhau, chẳng hạn như ăn, ngủ, nhưng trong khi người chưa giác ngộ thấy trong hành động của mình mang đầy tinh thần tự ngã và yếu tố vật chất; người giác ngộ chỉ thấy hành động của mình trong bản ngã vô thượng mà thôi. Như vậy, chỉ có ý thức mới phân biệt được con người giác ngộ và con người chưa giác ngộ (CTC. Tr.XXXV); bởi lẽ đương nhiên, điều phi thực không hiện hữu, điều chân thực không ngừng hiện hữu. Muốn thấy được yếu tính của chúng phải là người đã nhìn ra chân tính (CTC. Tr.15).

- Thưa bác, nếu thế đâu cần luân lý.

- Tôi hiểu anh muốn nói gì. Anh em nên để ý nhận định, luân lý là những lề luật, thành văn hay bất thành văn; chúng chỉ là sản phẩm của con người vì lợi ích nhân sinh trong sự liên hệ cuộc sống. Tuy nhiên, đâu phải lề luật hay luân lý giúp chúng ta trở nên toàn thiện. Đàng khác, nơi hành trình tâm linh theo Ấn học, hành động chính là cuộc sống, cách sống, và tất cả hoạt động nơi sự hiện hữu. Nhịp tim đập, lá phổi thở, suy nghĩ nơi tâm trí, mọi sự đều là hành động của Đại Ngã thì sao chúng ta có thể dùng nhận định luân lý hạn hẹp làm tiêu chuẩn nhận định. Ai là người đặt ra lề luật qui định con tim phải đập bao nhiêu nhịp trong một phút hay nó đập ra sao con người đành chịu như thế! Bởi vậy, vấn đề cần được đặt ra chỉ là chúng ta có ý thức quyền lực khiến con tim đập, lá phổi thở hay không. Nếu quyền lực này đang hoạt động nơi mình mà không nghiệm chứng, tất nhiên được gọi là vô minh. Do đó, dẫu thức ngộ hay vô minh cũng chỉ là một người; vấn đề khác biệt tùy thuộc trạng thái tâm thức mà thôi. Nhận thức như vậy, anh em hiểu được tại sao Ấn học có câu: “Không phải nhờ giới luật của hành động con người mới đạt đến tự do, cũng không phải chỉ biết khước từ hành động (xả kỷ) con người mới đạt được toàn thiện. Sự thực, ngay trong giây lát, chẳng có ai ngồi ỳ ra mà không hành động, vì những phẩm tính bẩm sinh (Gunas) từ Prãriti mọi người sinh ra để mà hành động, bắt buộc hắn phải hành động” (CTC. Tr.31). Như thế, xác thân có mục đích riêng của nó; vì với sự hỗ trợ của xác thân, linh hồn tù túng được giải thoát (CTC. Tr.XXXIX). Có thể nói theo lối duy lý, xác thân chỉ là công cụ cho linh hồn thăng tiến nơi cuộc sống hữu hình.


- Tuy nhiên, Ấn học không coi rẻ xác thân; vì dẫu đôi khi gọi xác thân là nhà tù của linh hồn; nhưng đồng thời, qua cơ hội cuộc sống, nó lại là phương tiện linh hoạt duy nhất để phát triển tâm linh một người; vì nó cũng chính là hiện thân của quyền lực tối thượng nơi hành trình hữu vi. Trong kinh Chí Tôn Ca, Arjuna biểu hiệu của một linh hồn nhân thế, còn tôn giả Krishna là linh hồn vô thượng hiện hữu trong tâm thức phàm nhân (CTC. Tr.VI). Krishna nhắc nhở cho Arjuna đại diện cho thế nhân ý thức cốt cán về cuộc sống; hoạt động của con người chính là ý thức về thực thể. Hành động thoát khỏi ý niệm về con người hành động, thoát khỏi năng lực hành động, và hậu quả của hành động mới đúng là ý thức vô thượng (CTC. Tr.XXXV). Atman hay linh hồn là hiện thân của tinh thần toàn thiện, vĩnh phúc, hòa bình nên linh hồn bất biến và không hành động, nhưng bản ngã vô thượng hay Atman hiện ra để hành động; vì năng lực huyền ảo cứng nhắc của Màyà xâm nhập vào bản thể vô thượng và làm cho tinh thần nhất thể hiện ra muôn ngàn vóc thể; do đó bản ngã tối thượng bị nhận thức thành bản ngã hữu hạn (CTC. Tr.XXX). Như tôi đã nói với anh em, không phải bộ óc chúng ta suy nghĩ hay sáng tạo hoặc ước mơ; mà những suy tư tâm linh hay tinh thần đều là hoạt động của linh hồn. Nơi Ấn học, đạo trình Yoga là phương pháp thực nghiệm dùng xác thân như phương tiện giúp linh hồn nhận thức thực thể về bản thể uyên nguyên tối thượng nơi mình.

- Thưa bác, yoga có phải là thiền không? Cháu nghe có người nói là đạo yoga trong khi bác lại nói phương pháp yoga.

- Thiền hay Yoga là phương pháp hoặc hành trình giúp người tu chứng tiến tới đại định, trạng thái ý thức hòa nhập với thực thể tối thượng đang hoạt động nơi mọi loài mọi vật...

- Thưa bác,

- Khoan hãy hỏi, bác đang nói, chưa chi đã nhảy xổm vào cổ họng...

- Ai nhảy vào cổ họng ai! Ông biết tôi sẽ nói gì mà đã vội chận họng...

- Các chú nên bình tĩnh, Ông Thung lên tiếng và hướng về cụ Tài, xin cụ phân định.

- Anh Sỹ, anh muốn nói gì?

Men rượu, men bia, khiến hắn cần phần nào thái độ chứng tỏ có lý phá ngang của mình nên thái độ hơi nghênh ngang phơi bày quyền ưu tiên với Bá vì vừa lên tiếng chặn câu hỏi của hắn,

- Ông đã nhận thức được ai nhảy xổm vào cổ họng ai chưa?

- Chú Sỹ, ông Thung ngắt lời, thời gian cũng khá muộn.

- Vấn đề cháu muốn đặt ra đó là, nếu Thượng Đế, Đại Ngã, Chân Như, Quyền Lực Uyên Nguyên đã và đang hoạt động nơi mọi người thì đâu cần phải thiền, phải định, phải “giô ga,” “giô rượu.”

- Anh em biết rõ, có giô ga, giô rượu thì cuối cùng cũng như chưa giô sao vẫn cứ giô?

- Nó phê... lắm..., Hinh lấy giọng trầm trầm, kéo dài âm “phê” khiến mọi người cảm thấy vui lây...

- Kiến tính thành Phật hoặc Yoga đều có cùng một mục đích đó là nhận ra bản thể tuyệt đối đang hoạt động nơi mình. Nhà Phật gọi là chứng ngộ, chứng nghiệm, chứng cái không để vượt khỏi vòng vô minh. Đây chính là điều kinh Niết Bàn của nhà Phật nói: Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, chỉ vì vô minh che lấp nên không được giải thoát (SCTT. Tr.43). Nếu anh em nào có cơ hội đọc cuốn Vô Niệm Viên Thông nên để ý nơi phần lời tựa, sư Thích Minh Thiền hý lộng, “Đời là một đại hí trường, đã trót đến hí trường, không thể không tìm trò chơi cho thoải mái. Muốn chơi theo chúng sinh hay chơi theo Phật thì cứ mà tùy ý, miễn đừng quên là mình đang chơi được rồi!” (VNVT; Tr.1-2). Nguyên tắc chơi của ngài chỉ là không mong cầu tất cả những gì thuộc về tài, tình, danh lợi xoay quanh trục lợi hại bổn thân của cái tôi - không nương dựa vào bất cứ một quyền oai thần thánh nào - không sợ hãi một điều gì xuất phát từ lợi hại bổn thân - phải tuyệt đối thành thật với chính mình. (VNVT; Tr.36). Cao điểm kiến tính thành Phật hay yoga cũng chỉ có thế. Tuy nhiên, chẳng khác gì thứ lừa ưa nặng, nhân sinh muốn mang ách thì tạo ra ách cho thêm phiền hà; bởi văn từ yoga lấy từ tiếng Phạn “Yog” có nghĩa là cái ách. Hành trình thực nghiệm phát xuất từ Ấn học được áp dụng theo nhiều phương pháp Yoga. Nhà Phật thì có những Phật pháp gọi chung là thiền. Ngược lại, đối với những người bình dân thiếu hiểu biết, nghe đây lõm bõm vài câu, hóng đó dăm ý kiến đồn đãi nên thường cho rằng thiền hay yoga cũng như nhau; có những người khác gọi đạo thiền hay đạo yoga. Qua lần nói chuyện buổi tối tuần trước và tối hôm nay, tôi nghĩ anh em đã biết thiền là gì. Riêng về Yoga, đó là hành trình thực chứng tối quan trọng nơi Ấn học. Tôi muốn anh em thực nghiệm đôi phút. Mọi người hãy chống cùi chõ lên bàn và giơ ngón tay trỏ lên một cách tự nhiên. Nào, nhắm mắt lại, từ từ hít hơi vô bằng lỗ mũi, và dồn hết tâm trí, tưởng tượng rằng luồng khí nhẹ nhàng xuyên qua lỗ mũi được dẫn trực tiếp tới ngón tay trỏ. Anh em cứ ngồi tự nhiên thoải mái, không động đậy. Nào, từ từ thở ra, từ từ hít vô. Cụ Tài hướng dẫn mọi người hít vô, thở ra bẩy lần.

- Anh em cảm thấy thế nào nơi ngón tay trỏ.

- Ô!, lạ quá, nó giật giật giống như động mạch ở cổ chạy lên đầu. Tùy con lên tiếng.

- Đây là nguyên tắc thực nghiệm chính yếu của Yoga; nếu anh em nào học võ theo môn phái hiệp khí đạo sẽ không lạ gì về trò chơi này, vì ý dẫn khí và khí dẫn huyết đến đả thông những kinh mạch bị bế tắc. Nếu được chỉ dẫn đúng đắn theo hành trình luyện khí công nào đó, người thực hành sẽ phát huy được luồng nội lực và đồng thời sẽ phát triển được một số quyền năng hữu ích nơi cuộc sống hữu vi, có thể thực hiện được những việc thường được gọi là phép lạ. Ngược lại, sử dụng những quyền năng này với ý đồ chẳng nên nào đó sẽ phải trả giá khá nặng mà chỉ ai vấp phải mới biết. Tôi nói trước, nếu anh em nào tò mò muốn thử, cứ việc thử nhưng chắc chắn sẽ gặp phiền hà đầu tiên tạm gọi là tẩu hỏa nhập ma. Bởi vậy, nếu ai liều mạng muốn thử, khi nào cảm thấy mỏi phía đàng sau gáy hay ê ẩm ngang thắt lưng tất nhiên đã bắt đầu bị tẩu hỏa nhập ma. Muốn chữa thì đứng thẳng người một cách bình thường, dồn hết tâm trí vào hơi thở, từ từ hít hơi dẫn vô nơi nhức mỏi trong khi hai tay theo luồng hơi đang hít vào giang ra và từ từ đưa cao ngang bằng với vai. Khi không khí đã đầy phổi, từ từ thở ra và hai tay xuôi dần xuống hai bên thân. Làm như vậy ít nhất là năm lần thì máu huyết tắc đọng nơi đó sẽ được thông.

- Thưa bác, nếu cứ tiếp tục luyện thì sao?

- Thì hai năm mươi, Bá lên giọng chen ngang.

- Dĩ nhiên, chết thì không chết nhưng sẽ bị điên khùng.

- Thưa bác, như bác nói, mọi suy tư, ước muốn, đều do hồn con người thì sự điên khùng phải phát xuất từ hồn chứ đâu phải là kết quả của sự luyện tập dẫn luồng khí huyết không đúng phương pháp?

- Trước khi trả lời câu hỏi, tôi muốn phân định rõ ràng đó là sự liên hệ giữa hồn và xác thể không thể tách rời, và xác thân là phương tiện duy nhất cho hồn trong hành trình thăng tiến tâm linh. Linh hồn hay atman cũng là một với ý thức, nhận thức, kiến thức, ước muốn, ý định. Ai cũng nhận thấy qua kinh nghiệm sống của mình, lòng buồn sanh bịnh, bịnh sanh lòng buồn; lòng quanh quéo sông càng quanh quéo, cảnh đìu hiu dạ lại đìu hiu (VNVT; Tr.10). Theo Ấn học, linh hồn và xác thân là hiện thể của Đại Ngã, thực thể tối thượng. Thế nên, sự luyện tập xác thân theo phương pháp Yoga thanh tẩy những phần tử trọng trược do thiếu ý thức nhận biết thực thể chính mình. Dẫu được sinh ra với bản tính khác nhau, điều lầm lạc lớn nhứt của chúng ta là tưởng rằng con người tự nhiên vốn yếu đuối, xấu xa, hèn kém. Thực ra, cá tính chỉ là kết quả do những thói quen, lòng ham muốn, và dục tình sinh ra chớ không phải chúng là bản chất của con người. Cũng thế, tính tình của một người chỉ là thói quen của tư tưởng. Tư tưởng thanh cao cũng như hèn hạ đều nhập nhiễm và trực tiếp ảnh hưởng đến tình cảm con người. Bằng chứng là người có tâm hồn thanh cao không thể hợp với những nơi ồn ào, náo nhiệt, ngược lại, kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu nơi vắng vẻ, êm đềm (HTVPĐ; Tr.191). Thế nên, khi phần tử nào của thân xác gặp trục trặc, nó sẽ trở thành sự cản trở, hoặc phương tiện biến những mệnh lệnh thành rối loạn thì hồn không thể sử dụng xác thân một cách chính xác vì vậy được gọi là điên khùng.

- Theo lời giải thích của những hành giả Yoga, sinh lực là phương tiện để ngự trị các năng lực sinh hoạt của tâm linh trong mọi hình thức biểu hiệu của chúng. Hình thức biểu hiệu hiển nhiên nhất là hơi thở (MGTT; Tr.204). Thế nên, tập thở theo một phương pháp nhất định, đó là bí quyết của nhiều hiện tượng lạ lùng. Nhưng cần lặp lại một lần nữa, phép luyện khí công có thể có hại nếu không nói là tối nguy hiểm đến tánh mạng trừ phi hành giả được sự chỉ dẫn của một bậc danh sư có nhiều kinh nghiệm (TTHB; Tr.174). Chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng, hai bộ máy hô hấp và tuần hoàn đều có liên quan chặt chẽ với nhau đồng thời tinh thần có liên hệ trực tiếp đến hai bộ máy nói trên. Theo quan niệm Yoga, hơi thở chỉ là sự biểu lộ trên địa hạt vật chất của một sức mạnh tế nhị hơn; sức mạnh này mới là trụ cốt sinh hoạt của xác thể. Chính sức mạnh đó ẩn tàng, vô hình, vô ảnh trong tất cả những bộ phận cơ thể của chúng ta. Khi nó rời khỏi xác thân thì hơi thở sẽ ngưng lại, và đó là điều mà ta gọi là sự chết. Sự kiểm soát hơi thở sẽ giúp chúng ta làm chủ được phần nào sinh lực vô hình đó (ĐPHB; Tr.79-80). Như vậy, Yoga là phương pháp chế ngự giác quan tiến tới đại định. Có nhiều phương pháp chế ngự giác quan. “Phương pháp thông thường là dồn hết tâm trí để ý đến nhịp thở được gọi là “quán sổ tức.” Khi để hết tâm chuyên chú vào nhịp thở, lấy tâm mình noi theo nhịp thở, ta có thể dần dần khóa kín các ngõ ngách của giác quan khiến ngoại giới không lọt vào được tâm thức. Phương pháp thức hai là dồn tất cả sự chú ý của mình vào nội tâm và cơ thể trong người được gọi là “hồi quang phản chiếu.” Tỉ dụ quán tưởng vào điểm giữa hai lông mày hoặc nơi trái tim, thường được hình dung như một bông sen có nhiều cánh. Khi đạt đến trình độ này, hành giả thường ngồi tĩnh tọa bất động, hai mắt nhắm lại, giữ hơi thở đều hòa, các ngũ quan khép chặt, toàn thân gần như trở thành vô tri giác đối với ngoại giới; tâm thức tập trung vào một điểm nào nơi cơ thể hoặc một ý niệm nào đó. Theo kinh sách kể lại, nơi giai đoạn này hành giả sắp đối diện với những thời điểm hiểm nghèo cũng như có thể đạt tới những thành quả khá kỳ lạ. Họ có thể khai thông được những nguồn sinh lực mới mẽ và hết sức mãnh liệt vẫn tiềm ẩn nơi mình” (TTÂĐ; Tr.251-252). Tuy nhiên, những quyền năng như kết quả phát triển năng lực nội tại theo phương pháp Yoga sẽ là những cạm bẫy ngăn cản bước đường tu chứng vì càng có quyền năng bao nhiêu, con người càng dễ rơi vào vọng chấp bấy nhiêu và phát sinh lòng kiêu căng, tự mãn. Bậc thức giả phải biết vượt lên trên nữa để đi tới thiền định hầu đạt tới địa hạt huyền diệu tuyệt đối, hòa nhập làm một cùng quyền lực vũ trụ tức Thượng Đế (TTÂĐ; Tr.256).

- Có nhiều pháp môn Yoga. Mimmamsa: khuyến cáo sự tu luyện bằng việc hành lễ và tụng niệm giống như phái tịnh độ tông của nhà Phật. Phái Tantrisme khuyến cáo sự thờ phượng và tụng niệm các chân ngôn. Phái Védanta chủ trương dùng trí tuệ tu luyện để thấu triệt cái lẽ phi nhị huyền diệu trong tạo vật. Phái Jnana-Yoga cũng tương tự như vậy (TTÂĐ; Tr.237). Pháp môn Hatha Yoga để tu luyện xác thân; Kundalingi Yoga để luyện các năng khiếu thần thông như thần nhãn, thần nhĩ. Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ sắc bén; Râja Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết, và Samadhi Yoga đưa đến trạng thái giác ngộ tối cao, nhờ đó hành giả thấu triệt ý nghĩa và sự thật của những gì chờ đợi y ở bên ngoài cuộc đời (TTHB; Tr.177).

- Thưa bác, cháu nghe đâu đó nói rằng ai muốn luyện tập yoga phải theo những quy luật rất khắt khe về ăn uống cũng như những thế ngồi, nằm, đi đứng.

- Nguyên tắc siêu thoát của Ấn học bắt nguồn từ nhận thức tâm linh. Uyên nguyên của vũ trụ bắt nguồn ở một tinh lực duy nhất, thường hằng tự tại, vô thủy, vô chung. Bất cứ một hiện tượng nào, bất cứ một chúng sinh nào cũng đều do tinh lực đó tạo nên và cũng đều hàm chứa thứ tinh lực đó. Nhưng càng đi sâu và hiện tượng hóa, tinh lực đó thường bị vùi lấp dần dưới những lớp thể chất tương tự như một tấm gương trong sáng bị phủ đầy bụi nhơ (TTÂĐ; Tr.239-240). Chỉ khi tập trung quán tưởng, con người mới có thể thực hiện những nỗ lực cuối cùng để diệt trừ vọng tưởng đưa thần thức mình hòa nhập với thực thể uyên nguyên của vũ trụ (TTÂĐ; Tr.242). Bởi thế, phương pháp Yoga cũng như thiền, tức là dồn mọi nỗ lực vào sự tập trung quán tưởng; dùng tâm thức tập trung sự quán tưởng theo chiều hướng chuyên nhất để đưa thức giác vượt lên trạng thái siêu thức bằng cách diệt vọng tưởng. Muốn đạt tới trình độ này, hành giả cần phải tập luyện để điều thân, điều tức, và điều tâm. Điều có nghĩa vừa điều hòa vừa điều khiển. Điều thân tức là điều hòa và điều khiển nhịp sống sinh lý của mình. Điều tức là điều hòa và điều khiển nhịp thở của mình. Nhịp thở là nơi tiếp giáp giữa tâm và vật. Có điều khiển được nhịp thở mới hoàn tất được nhịp sống của sinh lý và tiến tới sự điều tâm. Điều tâm nghĩa là điều hòa và điều khiển sự sinh hoạt của tâm thức mình (TTÂĐ; Tr.242).

- Hành trình Yoga bao gồm những nấc thang giúp hành giả đạt tới đại định. Như vậy, những phương pháp hay điều lệ Yoga đều nhắm tới sự luyện tâm. Chẳng hạn Yama Yoga bao gồm sự tuân giữ năm giới: cấm sát sanh, cấm nói dối, cấm trộm cướp, cấm hành lạc và dâm dục, không được tham lam ích kỷ. Niyrma có 5 điều luật: trong sạch, an phận, khổ hạnh, tu học và tập luyện, tôn kính Thượng Đế Icvara của phái Yoga. Ý nghĩa chính của những điều luật Niyama là sự luôn luôn khước từ những dục vọng tầm thường. Đối với những người tu Yoga, sự khước từ có một ý nghĩa tích cực vì khi can đảm khước từ một ý muốn nào như một chức vị, một chén rượu ngon, mỗi khước từ đều trau giồi cho tâm thức lớn mạnh và tự do hơn trước (TTÂĐ; Tr.245-246).

- Theo lý thuyết thực nghiệm Yoga, vấn đề ngồi hay đứng trong một tư thế và trong một thời gian bao lâu không phải là vấn đề quan trọng. Sự tập trung ý chí cần thiết để thi hành những tư thế đó một cách đúng phép làm thúc động những mãnh lực tiềm tàng trong người chúng ta mới là chủ đích. Những mãnh lực đó là những bí mật của thiên nhiên; nó chỉ hoàn toàn phát triển khi nào có kèm theo những phép luyện hơi thở; vì hơi thở mang những quyền năng rất nhiệm mầu. Sự khích động những mãnh lực tiềm tàng đó là mục đích chính của pháp môn Hatha Yoga (ĐPHB; Tr.70). Nơi các sách vở viết về thực hành Yoga thường nhắc tới thế ngồi Liên Hoa. Thế “liên hoa tọa bộ” giúp cho thân thể được vững vàng, nhờ đó hành giả khỏi bị té ngã nếu y thình lình xuất thần trong cơn nhập định. Thế ngồi này thường được dùng để luyện tập điều hành hơi thở, dễ tập trung tư tưởng và tự tin. Những người thực hành Yoga quan niệm rằng sự phối hợp của thế ngồi và lòng tự tin làm thức động luồng hỏa hầu tiềm tàng trong cơ thể và giúp cho hành giả khai mở một vài luân xa và có được một số khả năng trỗi vượt thường được gọi là quyền năng (ĐPHB; Tr.75).

- Các đạo sĩ Yoga giải thích rằng cơ thể con người có bẩy trung tâm lực được gọi là luân xa; mà chỉ những người đã dầy công tu luyện mới có thể nhìn thấy. Luân xa là đầu mối và qua đó tinh lực vũ trụ đổ dồn vào tiểu vũ trụ tức con người. Nơi cơ thể người thường, những luân xa bị bế tắc, chưa được khai thông nên không thể sử dụng được những nguồn tinh lực này. Luân xa thứ nhất được gọi là Mulâdhâra, nằm ở đầu chót xương sống. Luân xa thứ nhì mang tên Svadischtana nơi cuối bụng dưới, cách rốn một lóng tay, thường được gọi là đơn điền. Luân xa thứ ba ở lưng, ngang rốn, hình hoa sen mười cánh gọi là Manipura. Luân xa thứ tư nằm ở trái tim, Anahata. Luân xa thứ năm, Vischuda, tiểu não, phía sau yết hầu. Luân xa thứ sáu tức Ajna ở khoảng giữa hai lông mày. Luân xa thứ bảy gọi là Sahasrana ngay nơi chóp đỉnh đầu, cũng được gọi là huyệt bách hội. (TTÂĐ; Tr.253-254). Theo Lama Anagarika Govinda, trung khu thấp nhất ở cuối xương sống, tương ứng với màng lưới thần kinh linh thiêng được gọi là Mulâdhâra; nó chứa sinh lực gốc, dùng để hoặc là sinh sản hay đổi mới các tiềm lực, hoặc là thăng hoa chúng thành năng lực tinh thần. Năng lực tiềm tàng của trung khu này được mô tả như là luồng hỏa xà (Kundalini); với tính cách là nguyên ý sáng tạo ra vũ trụ. Nó đại diện cho quyền lực thiên nhiên, mang sức mạnh không gì kháng cự nổi; nó tác động như thiên thần, hoặc như ác quỷ; nó giúp cho triết nhân chiếm hữu nó đạt được sức mạnh tinh thần siêu việt; còn người điên kích động nó thì bị nó phá hoại (MGTT; Tr.187).

- Thưa bác, cháu hơi tò mò, vậy trong cuộc đời bác đã gặp vị nào chứng đắc được quyền năng nào do luyện tập Yoga chưa?

- Anh em nên hiểu thêm, những bậc đại giáo chủ như đức Giêsu, đức Krishna, đức Thích Ca, xuất hiện trên thế gian vì một mục đích nhất định với một sứ mạng to tát vĩ đại rồi tịch diệt sau khi mục đích của các ngài đã được hoàn thành (XPHB; Tr.61). Riêng những vị tôn sư, chân sư, được gọi là những đấng lâm phàm ẩn dấu cuộc đời của họ trước mắt những kẻ tò mò hoặc thế nhân phàm tục. Những vị thực sự tu hành, vì đã biết hậu quả khốc hại cũng như bản tính mê đắm của con người với quyền năng nên họ chẳng bao giờ có ý đồ muốn đạt được quyền năng; mặc dầu khi tu luyện đến một trình độ nào đó quyền năng chỉ là kết quả của sự tu luyện, nhưng họ bị cấm bởi những lời thề nguyền trước khi nhập môn tu chứng. Như thế, có thể nói trong cuộc đời, chúng ta đã gặp và chúng ta chưa gặp những vị chân sư đạt đạo. Nếu có thể được, anh em chịu khó kiếm và đọc hai cuốn sách Tây Tạng Huyền Bí và Xứ Phật Huyền Bí, may ra hữu ích cho việc chứng nghiệm. Một cuốn viết do Lạt Ma Lobsang Rampa và cuốn kia do một tu sĩ Yoga Ấn Độ. Nhân tiện tôi kể lại cho anh em một đoạn trong câu chuyện gặp gỡ của tu sĩ Ấn Yoganada và nữ thánh Công giáo Therese Newman người Đức:

- Cô không bao giờ ăn uống gì chứ? Tôi hỏi để được nghe lời xác nhận từ miệng cô thốt ra.

- Không, trừ ra một miếng bánh thánh lúc sáu giờ sáng mỗi ngày.

- Miếng bánh thánh ấy độ bao lớn?

- Nó mỏng như giấy và nhỏ chừng bằng một đồng xu. Tôi ăn nó vì lý do tâm linh. Nếu nó không được làm phép bí tích, tôi không thể nào nuốt trôi qua cổ họng!

- Tất nhiên cô không thể sống bằng bấy nhiêu đó suốt mười hai năm trường?

- Tôi sống trong ánh sáng của Chúa.

- Tôi nghĩ chắc cô cũng biết rằng cơ thể cô hấp thụ khí lực của trời đất trong không khí và ánh sáng thiên nhiên.

Một nụ cười hiện trên gương mặt, cô đáp:

- Tôi rất sung sướng mà thấy bà hiểu tôi sống bằng cách nào.

- Đời sống thánh thiện của cô đã chứng minh cho lời dạy của Đức Kitô: “Con người không phải chỉ sống bằng cơm gạo mà thôi, mà còn bằng lời nói của Chúa Trời” (XPHB; Tr.116).

Tôi liền dừng chân trên ngưỡng cửa, kinh ngạc mà nhìn thấy một cảnh tượng vô cùng kỳ dị và rùng rợn. Một giòng máu rỉ xuống liên tục từ hai mí mắt dưới của Therese, mắt cô nhìn lên tập trung vào bí huyệt ở giữa trán. Cái khăn quấn trên đầu cô đẫm máu ướt sũng chảy ra từ những vết thương do cái mão gai nhọn đặt lên đầu Chúa Kitô khi xưa. Cái áo dài trắng bị đẫm máu ở trên chỗ quả tim do vết thương đâm bên hông khi đức Kitô bị ngọn giáo của người lính đao phủ hành quyết. Vì đã điều chỉnh tần số nhịp điệu rung động của tôi để có sự giao cảm tâm linh truyền thanh và truyền hình với nữ thánh nên tôi bắt đầu nhìn thấy những cảnh tượng diễn ra trong cơn linh ảnh của cô. Cô đang chiêm ngưỡng đức Giêsu khi Ngài mang trên vai cây Thập Tự Giá bằng gỗ đi giữa đám đông la hét, nguyền rủa và phỉ báng Ngài (XPHB; Tr.119-120).

- Tu sĩ Yogananda có thêm thắt chi nơi câu truyện hay không tôi chẳng biết. Tôi chỉ kể lại để anh em cảm nghiệm được điều gì thì tự biết lấy. Có điều tôi muốn hỏi, qua câu truyện này, anh em có nhận thức thêm được điểm gì đặc biệt không?

- Thưa bác, Tùy con đắn đo, nếu đó là chuyện thật thì thánh nữ Newman đã đạt tới đại định như người tu luyện Yoga. Và như vậy, cháu thấy hơi khó nghĩ.

- Cảm ơn anh Tùy. Ai có thêm ý kiến gì nữa không?

- Theo ý cháu thì, Hinh lên tiếng, sự việc này nói lên phần nào chiều sâu của các tôn giáo. Cháu theo đạo Công giáo nhưng chưa bao giờ được nghe cha nào hoặc sơ nào nói về phương cách để gặp gỡ Chúa diện đối diện như trong trường hợp thánh nữ Newman. Mà có chăng đều cho là phép lạ hoặc ân sủng đặc biệt, Chúa ban cho ai thì người nấy được. Như vậy, cháu muốn nói, e rằng các cha, các sơ cũng chẳng biết gì về hành trình tâm linh để đạt tới trạng thái thấy được linh ảnh. Nhưng, chẳng lẽ các ngài không được học về tu chứng. Thực ra, cháu hỏi để mà hỏi thôi; các ngài học những gì thì các ngài biết, nhưng cháu chưa bao giờ được nghe đến. Kể cũng hơi lạ!

- Anh Sỹ. Cụ Tài gọi đích danh.

- Bài học này đắt giá quá thưa bác. Bác hỏi con để chừa tội nói tào lao phải không thưa bác. Tuy nhiên, con cũng có đồng ý nghĩ với anh Hinh, mặc dầu không thâm thúy bằng. Thực ra, từ tối tuần trước tới giờ, con suy nghĩ rất nhiều về phương diện tôn giáo, vì bác đặt vấn đề nhận biết chính mình. Con thấy hình như xưa nay mình theo đạo vì mối lo sợ nào đó. Nói cho đúng, đi nhà thờ theo thói quen, và khi đã quen rồi, không đi sẽ mang mặc cảm tội lỗi vì không giữ luật buộc. Nhất là khi bác nói tới sự tuân theo lề luật không thể giúp chúng ta trở nên thiện hảo. Ngược lại, nói theo nhà Phật, còn muốn trở nên thiện hảo thì cũng chỉ là vọng tưởng. Thế rồi cháu nghĩ tới nếu nói rằng tất cả những sinh hoạt, tâm tưởng đều là kết quả của thói quen cuộc sống thì cứ kệ nó, bởi mình có bộ lòng ruột; ăn thì cứ ăn nhưng tâm tình ăn chơi phải như thế nào. Cháu chỉ nói theo lời sư Thích Minh Thiền thôi. Bởi vậy, cháu cảm thấy mình chơi vơi thế nào ấy. Nếu nói theo nhà Phật thì cháu đâu phải tuân theo lề luật nào đâu, mà không làm theo thói quen lại bị phiền lòng chẳng những cho mình mà còn dây dưa liên hệ đến phản ứng của những người quen biết chung quanh. Ối chà chà, cái ông Phật nơi cháu còn lắm chuyện rắc rối không sao kể xiết.

- Anh Bá nghĩ thế nào?

- Thưa bác, đối với cháu, thấy thì cứ thấy, nhìn thì cứ nhìn, nghe thì cứ nghe, nhưng chẳng thấy chẳng nhìn chẳng nghe gì. Nào có chi đâu mà nói.

- Anh nói nghe cũng có lý. Thế còn anh em nào có thêm ý kiến không?

- Thưa cụ, ông Thung lên tiếng, nói cho đúng, mang danh Phật tử mà chỉ là hùa theo và hình như có được hai lần nghe giảng kinh chứ chùa chiền cũng rất ít khi có mặt; nói thật xin cụ và anh em đừng cười. Tôi thấy thích suy nghiệm về Phật học vì lần trước cũng như lần này tôi học được khá nhiều nhưng cần phải có thời gian nghiệm chứng. Khi cụ hỏi lý do gì nhà sư Hương Nham thức ngộ khiến tôi nhột nhạt vì nghĩ mãi cũng chẳng ra. Đọc nơi cuốn sách nào đó dùng thí dụ lên đò, xuống đò để giải thích câu “Người trước hết trở nên sau hết và người sau hết trở nên trước hết” vẫn không làm tôi thỏa mãn. Hình như có đám mây mù nào đó cứ triền miên bao phủ khiến tâm trí càng nghe, càng cố gắng nhận biết thì lại càng cảm thấy tối tăm mù mịt. Đôi khi tôi suy luận, đi chùa cầu phước điền mà còn cầu thì còn vọng tưởng; lạy Phật có mở mang tâm trí chút nào đâu mà như cụ giảng giải thì vấn đề là sự thức ngộ. Nếu chỉ nghe anh Hưng nói thì lại càng mù tịt. Thật ra, tôi cũng chưa biết xoay xở cách nào, dẫu cũng đã có tí tuổi.

- Đã mấy lần tôi nói nhưng anh em không để ý. Bất cứ nền đạo học nào, trải qua thời gian nghiệm chứng lâu dài cũng đều phát sinh thành các tông phái. Mỗi tông phái lại bao gồm thành phần công truyền và mật truyền. Phần công truyền bao gồm những giáo lý dạy cho đại chúng, và nhấn mạnh nơi sự thờ phượng. Anh em có thể nhận thấy, khi một đám người cùng suy nghĩ về một điều gì thì sức mạnh của tư tưởng này sẽ được gia tăng lên gấp bội; bởi sự rung động của tư tưởng đó đã được khuếch đại lên nhiều lần. Điều đó giải thích tại sao trong đám đông, nhiều người thường dễ mất tự chủ và hành động theo sự xui khiến của đám đông ấy (BRTS; Tr.36). Tâm tình cầu nguyện trong sự thờ phượng cũng thế. Khi nguyện cầu, thâm tâm con người không hề bị bất an, đầu óc họ không bị các vọng tưởng chi phối mà nhiệt thành, sùng kính; phỏng nghiệm chứng nào hơn được trạng thái ấy. Cầu nguyện đúng nghĩa là nâng tâm thức mình hòa nhập với quyền lực tối thượng. Dẫu không biết thiền hoặc tu chứng hay suy gẫm sâu xa, nhưng con đường của họ là đức tin, và đó là động năng mạnh nhất. Anh em đừng tưởng công phu tu tập hàng trăm kiếp của bất cứ ai đã hơn được đức tin của những người mộ đạo chân thành. Có thể họ vô tư không biết ý định hoặc ước muốn của những người hướng dẫn họ đã âm mưu gì, nhưng điều đó đâu ăn nhập gì đến lòng thành kính và đức tin của họ. Anh em nên biết, sự tin tưởng mãnh liệt vẫn là một động năng rất mạnh để giúp chúng ta đến gần Thượng Đế. Dĩ nhiên, khi mong cầu có được một điều gì thì sẽ không thể đạt được gì hết; vì chính sự mong muốn đó đã khuấy động lòng ước ao phá tan lòng sùng kính của người cầu nguyện. Thế nên, giữ tâm yên lặng bởi nguyên tắc của lòng sùng kính tức là không ước muốn hay mong cầu; mà cứ để tự nhiên vì lúc nào Thượng Đế cũng đang hiện diện và hoạt động. Đây chính là cao điểm của những tôn giáo được thiết lập nơi lòng sùng kính, tôn thờ.

- Công giáo cũng như Ấn giáo hoặc Phật giáo, đại khái mọi tôn giáo, vì mang tính chất công truyền nên được đặt cơ sở trên lòng sùng kính của tín hữu. Đồng thời tùy thuộc mục đích hiển giáo nơi đại chúng. Những người rao giảng được huấn luyện dựa theo những nghi thức, giới luật đã được ghi chép rõ ràng trong các bộ luật và luận; nên bất cứ ai đã đạt đến một trình độ học thức kinh điển và thời gian tu hành nào đó đều được công nhận vào hàng ngũ triển giáo. Xét như vậy, sự khác biệt chỉ xảy ra giữa các nghi thức tôn giáo dựa trên lòng sùng tín và quan điểm thờ phượng cũng như cơ cấu tổ chức của tôn giáo. Tuy nhiên, về phương diện thức ngộ hoặc những ai theo đường tu chứng hay mật truyền, bởi chân lý chỉ có một, đó là đạt tới sự hiệp nhất nơi quyền lực hiện hữu tối thượng, nên bất cứ đường hướng, quan niệm nào, và dẫu được giải thích khác biệt ra sao thì các hành giả đều gặp nhau nơi bình diện tâm linh nào đó. Nhận thức như thế, thiền sư Yogananda nhìn thấy linh ảnh đức Giêsu trên đường thập giá trong khi thánh nữ Therese Newman đang trực diện không có gì đáng nói lạ lùng; mà sự lạ lùng ở ngay nơi anh em; vì chúng ta cho đó là sự lạ lùng mà thôi.

- Sự nhận định của anh Tùy, anh Hinh, và anh Sỹ, chứng tỏ phần nào tính chất ỷ lại nơi chính mình. Tại sao chúng ta không đặt vấn đề mình phải ra sao, đạt tới đâu, phải thực hiện hoặc nghiệm chứng như thế nào mà đòi hỏi người khác, bất cứ họ ở vị thế nào, phải đạt tới điều mình mong muốn. Chúng ta xưa nay vẫn quen thói hay đâu chầu đấy chẳng khác gì muôn người, do bản tánh hiếu kỳ, ồn ào, náo động khi nghe tin Phật bà hiện ra nơi này, Quan Âm nơi kia, Đức Mẹ, Đức Chúa tỏ mình với người này, truyền thông điệp cho người khác. Chẳng những thế, lại còn tốn tiền nay hành hương thánh địa này, mai viếng mộ bia đấng thánh kia; rồi nào nước suối thiêng, nước phép lạ, chỉ thấy ai đó được chữa lành những bệnh tật còn mình thì cứ đành cam phận, lăng xăng, mất tiền, mất thời giờ mà tật vẫn còn mang, biết đủ mọi truyện trên trời dưới đất mà thực ra chính mình thế nào thì lại không biết. Anh em nên nhận biết rõ ràng, Thượng Đế không hề làm ngơ trước những lời cầu nguyện thiết tha của những kẻ khát khao tìm đạo còn sống nơi thế tục. Sống nơi thế gian, người tầm đạo làm tròn các bổn phận mình một cách vị tha, vô kỷ, chắc chắn sẽ đạt tới sự giác ngộ tâm linh. Cuộc đời hoàn toàn sống theo kỷ luật tâm linh của một người sẽ giúp cho muôn vàn người khác hiểu rằng sự giải thoát là tùy nơi sự nhận biết thâm sâu và dứt bỏ ham muốn thế tục từ bên trong chứ không phải chỉ bên ngoài. Như thế, dù theo đường hướng tôn thờ, hoặc tu chứng, nghiệm chứng, hay mật tông, và dù có gặp được chân sư chỉ dẫn hay không, sự giác ngộ phải đến sẽ đến tùy lòng khát khao nơi mình. Vị thày đích thực hiện diện ngay chính lòng mình, nhưng nào mấy ai để ý. Kinh Bhagavad Gìtà ghi rõ, “Khi tâm trí đã nhập vào Đại Ngã, ta không còn gì để tư duy nữa. Ta, Đại Ngã sẽ mãi mãi hợp nhất cùng Đại Ngã của con người; nếu con người biết rằng Ta hiện hữu trong vạn vật, và vạn vật hiện hữu trong Ta. Ai ý thức được vui buồn, đau khổ của người khác cũng là vui buồn đau khổ của mình, người ấy là một bậc đạo sư Yoga toàn thiện” (CTC. Tr.64,65). Mấy anh em Thiên Chúa giáo nên suy gẫm kỹ câu Phúc Âm, “Hết thảy chúng sẽ là môn sinh của Thiên Chúa. Phàm ai nghe và học nơi Cha thì sẽ đến với Ta” (Gn. 6:45), và, “Kẻ tin vào Ta thì các việc ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gn. 14:12). Nhà Phật nói, “Kiến tính thành Phật” chính là ở điểm này. Lời cụ Tài trầm trầm, nhẹ nhàng như mật truyền những giáo điều cho nhóm nhậu.

 
Ai nấy đều cảm thấy ngỡ ngàng vì mấy lời trích từ kinh điển thoát ra nơi miệng cụ già. Những vốn liếng học thức bay bổng đâu mất tạo thành khoảng trống nội tâm giúp họ cảm nhận sự thật chẳng ngờ được ghi chép rõ ràng nơi kinh sách mà nào ai để ý. Những trường lớp chỉ dạy họ kiến thức hữu vi biến con người thành công cụ kiếm tiền phụng dưỡng tham vọng, ham hố, bon chen, lâu dần thành quen, khiến con người cao cả trở thành nô lệ vật chất. Kiến tính thành Phật! Câu nói quá ngắn gọn nhưng bao hàm cả một sự thức ngộ lớn lao. Bầu không khí giữa nhóm nhậu chợt bao phủ màn thinh lặng khác thường. Đây đó vang vọng từ những cánh cửa phòng đóng kín tiếng video games, những dòng nhạc trẻ nơi chương trình MTV, pha lẫn giọng phim ảnh truyện Tàu. Dòng đời bao giờ chẳng thế, những sinh hoạt thế tục ồn ào náo nhiệt đã che mờ ý thức tâm linh; khó ai có được cơ hội tìm lại thực thể chính mình. Một lúc sau, chợt Bá lên tiếng,

- Bác có thể nghĩ rằng mọi quyền lực đã có sẵn nơi con người nhưng chưa được nhận biết?

- Nào có gì mới lạ đâu, nhưng đã bao ngàn năm rồi con người vẫn thế! Lạt Ma Lobsang Rampa chứng minh rằng ông đã được huấn luyện để có thể xuất hồn đi ngao du nơi các cảnh giới vô hình thì mọi người cũng có thể xuất hồn mà nào ai nghĩ như thế! (TTHB; Tr.171-172).

- Nhưng thưa bác, theo như cuốn Tây Tạng Huyền Bí do ông viết, Lạt Ma Lobsang Rampa là hóa thân của một vị nào đó, nên khi sinh ra đã có đủ năng lực để phát triển những quyền lực thần thông.

- Nói như vậy có nghĩa anh tin có luân hồi?

- Thưa bác, theo sự nhận xét của cháu vấn đề không phải là tin hay không, vì dẫu nói rằng tin hay không tin, sự thực vẫn là sự thực. Sự thực không cần ai chứng minh, cũng chẳng cần ai bào chữa hay quảng bá. Điều này cũng giống như nếu chúng ta nhắm mắt lại nói rằng không có mặt trời thì mặt trời vẫn soi sáng.

- Anh muốn nói còn nhiều sự thực mà chúng ta không biết hoặc không có cơ hội được biết hay đã không chịu tìm hiểu để biết.

- Vâng, cháu cảm thấy như vậy.

- Đã có anh em nào đọc cuốn Transformed by the Light chưa? Cuốn này được viết do bác sĩ giải phẫu Melvin Morse. Ông nghiên cứu hiện tượng biến đổi tâm não xảy đến nơi những người bị kích ngất và được cứu sống lại. Nơi một đoạn sách ông viết: Nên nhớ rằng, thân xác con người giống như bộ máy được điều hành bởi năng lượng; khi năng lượng thay đổi thì con người thay đổi. Người ta thực nghiệm về sự làm cho trái tim đập chậm đi hoặc áp xuất máu giảm sẽ phát sinh hiện tượng năng lượng tối thiểu nơi tâm não gây kích thích ảnh hưởng tới thân xác con người (TL. Tr.163). Điều này phù hợp với quan niệm của lý thuyết thực hành Yoga nơi Ấn học. Theo nhận định về thể lý của lý thuyết Yoga, luật tự nhiên đã định cho con người thở với một số nhịp độ là hai mươi mốt ngàn sáu trăm lần trong một ngày và đêm (ĐPHB; Tr.79). Như vậy, nếu người nào thở mau, nhịp tim đập nhanh hơn sẽ mau chết, người nào thở chậm hơn sẽ kéo dài thời gian sống hơn vì số hơi thở tiết kiệm được sẽ tích tụ lại thành một số dự trữ để giúp con người kéo dài sự sống thêm nhiều năm. Lý luận này được dựa trên sự nhận xét về loài rùa, thở chậm nên sống lâu. Quan niệm thực hành Yoga còn đưa ra khá nhiều lý thuyết giải thích sự lợi ích của điều hành nhịp thở. Mặc dầu những lý thuyết này coi bộ hữu lý, nhưng nếu đem so sánh với sự thực nghiệm theo phương pháp khoa học thì sự thực hành Yoga đúng mà lý thuyết lại chỉ là những lý luận suy luận. Áp dụng theo khoa học thực nghiệm do bác sĩ Melvin Morse, khi năng lượng oxy tối thiểu được cung cấp cho bộ não, khu vực tâm não nằm trong óc phía bên trên tai phải sẽ phát sinh phản ứng kích thích. Hiện tượng này thường xảy ra ngay lúc bắt đầu chết của một người. Nếu anh em để ý nghe quý cụ già nói về sự tỉnh táo trước khi chết giống như ngọn lửa của chiếc đèn dầu bùng lên trước khi tắt. Người nào chết thì đó là lúc hồn rời khỏi xác. Bởi thế nói theo khoa học nơi hành trình Yoga, hành giả điều chỉnh sự hô hấp chậm lại để kích thích trạng thái xuất hồn phát sinh.

- Qua sự nghiên cứu, Bác sĩ Melvin Morse cho biết, những người trải qua cơ hội xuất hồn đã nhận được bản thể thực sự của con người không phải chỉ là xác thân; mà xác thân chính là cơ hội hay phương tiện để hồn, thực thể, hoàn thành nhiệm vụ nơi cuộc đời. Theo sự kể lại của một số người được chọn làm đối tượng nghiên cứu, vì đã trải qua kinh nghiệm thoát hồn, họ đều gặp một thực thể khác như một loại ánh sáng chỉ có thể nhận biết bằng con mắt thứ ba, thường được gọi là huệ nhãn; thực thể linh hồn đối thoại bằng cảm nhận từ thực thể ánh sáng này. Và những người sau khi trải qua trạng thái xuất hồn đã gặp được ánh sáng nguồn sống; họ đều không sợ chết, vì đối với họ, chết chỉ là bước qua cuộc sống tốt đẹp hơn. Đàng khác, tinh thần và nhãn quan về cuộc đời của họ đều thay đổi. Có những người phát triển thêm những khả năng tâm linh đặc biệt như chữa lành, nhìn thấy trước những sự kiện sắp xảy ra, và cuộc sống của họ nơi trần thế trở nên rất hoạt động; vì theo như lời họ kể, cuộc đời quá ngắn ngủi trong khi bổn phận làm tươi đẹp cuộc đời nơi mỗi người lại quá lớn lao. Ngược lại họ không chạy theo hơn thua vật chất mà an nhiên với mọi hoàn cảnh xảy đến nơi cuộc sống.

- Điểm tôi muốn nhấn mạnh đó là những lời phát biểu của các vị Yogi và các đạo sĩ Mật Tông Tây Tạng về Thượng Đế như là nguồn sáng, hoặc ánh sáng là năng lực cấu tạo vũ trụ hay con người của chúng ta. Ánh sáng hay nguồn sáng tôi muốn nói ở đây không phải là ánh sáng bình thường chúng ta nhận thấy nhưng là thực thể mà những người đã có kinh nghiệm thoát hồn nhắc tới, ánh sáng mà đạo sĩ Yogananda nói với thánh nữ Theresa Newman. Nơi các sách vở tu chứng Ấn học thường nhắc tới trạng thái đạo sĩ trong cơn đại định đã hòa hợp tâm thức mình với Đấng Tạo Hóa, nhận thức được tinh hoa của vũ trụ vốn là ánh sáng. Điều này chúng ta cũng có thể đọc được nơi Kinh Thánh, “Các con là ánh sáng thế gian” (Mt. 5:14). Đọc nơi Phúc Âm Gioan, chúng ta thấy chính đức Giêsu cũng nói ngài là ánh sáng thế gian (Gn. 8:12; 9:5).

- Thưa bác, bác muốn nói các vị đạo sĩ dùng thiền định hay phương pháp Yoga để đạt tới nguồn ánh sáng này?

- Mục đích của thiền định hay Yoga hoặc các phương pháp khác chỉ là nhận chân được bản thể đích thực của hành giả, và ngay khi đó cũng nhận chân được thực thể tối thượng, cội nguồn của vũ trụ và tất nhiên sẽ biết mục đích và giá trị cuộc sống con người. Đây chính là ý nghĩa câu nói “Kiến Tính thành Phật,” hãy cố làm sao biết được mình thực sự là gì, anh em sẽ biết được chân lý. Chúng ta không phải làm chi hết, chỉ cần làm một việc là hãy đào sâu nơi nội tâm, và nếu làm được như vậy, anh em sẽ tìm được sự giải đáp cho mọi vấn đề.

- Thưa bác, vậy sao lại phải thiền, phải định, phải Yoga, phải tu chứng, phải nghiệm chứng, phải muôn thứ, phải ăn năn đánh tội, phải cầu Phật bà Quan Âm, Phật A Di Đà, phải ăn chay, phải niệm chú, phải,

- Tôi biết anh muốn nói gì nhưng có lẽ chính anh không biết anh nói gì. Có phải vì anh thấy nhiều cái phải quá mà anh chưa thực hiện được cái phải nào trong khi lòng ham muốn đạt được quyền nọ lực kia nên kêu lên hầu che lấp mặc cảm lười lĩnh của mình không. Tôi nghĩ, anh em hãy thử rồi mới nên đặt vấn đề. Những lý thuyết phải thế nọ, phải thế kia chỉ là lý thuyết giải thích về ly nước uống. Hãy uống nước anh em sẽ cảm thấy và biết phải thế nào. Tôi muốn nói, Yoga, thiền định, hoặc bất cứ gì, những điều các tác giả trước tác gom lại thành những “Cái phải” bao quát nhiều phương pháp nơi hành trình thiền định, chỉ là những kiến thức về lý thuyết vô bổ, nếu không đem so sánh với nghiệm chứng của sự thực hành. Tôi muốn nhắc lại, vấn đề chỉ là thực hành nghiệm chứng vì ước muốn suông chỉ ngăn cản hành trình thức ngộ.

- Thưa bác, thế tại sao Yoga bao gồm nhiều phương pháp thực hành trong khi Phật học chỉ cần định tâm?

- Sự thực hành các phương pháp Yoga bắt nguồn từ quan niệm chuẩn bị xác thân để đón nhận nguồn năng lực tối thượng. Có lý thuyết cho rằng xác thân con người cũng giống như bóng đèn 100 watts không thể nào chịu đựng nổi dòng điện cao thế cả triệu watts. Bởi vậy con người cần luyện tập để thăng hoa xác thể và tâm thức hầu đón nhận nguồn năng lực tối thượng. Từ quan niệm này phát sinh lý thuyết giải thích sự hiện diện quyền năng của Thượng Đế nơi mỗi người tùy thuộc sức chịu đựng của người đó. Qua sách vở được viết về những năng lực đạt được của các vị chân sư nơi Ấn học, chúng ta thường thấy nói về những quyền năng khác thường mà các vị ấy đạt được do dày công tu luyện. Nếu anh em nào đã đọc về phương pháp tập luyện võ công của phái Võ Đang sẽ hiểu rõ hơn về kết quả của những người chuyên nhất luyện tập một khả năng nào đó. Chẳng hạn sự tập luyện thường xuyên đấm từ miệng giếng hướng xuống mặt nước, hoặc đưa ngón tay trỏ chỉ nơi ngọn đèn đang cháy, sau mười hoặc hai mươi năm sẽ đạt kết quả nơi những mức độ nào. Qua nhận định giải thích về sự luyện tập như thế, tôi nghĩ rằng, các phương pháp Yoga cũng giống như các phái võ thuật, chính sự luyện tập phát triển nơi con người những khả năng mà chúng ta vì đã không hoặc chưa bao giờ có ý định muốn thử, thế nên cho đó là quyền năng khác thường. Đồng ý rằng có những người có được những khả năng khác thường tự bẩm sinh mà chúng ta gọi là thần đồng. Điều này minh chứng mỗi người được sinh ra dưới sự ảnh hưởng bởi một quá khứ nào đó, và nơi quan niệm Ấn học được gọi là Luân Hồi. Như vậy, sự thực hành Yoga hay được nhắc nhở tới và đề cao có lẽ cũng bởi lòng ham muốn phát triển hoặc đạt tới những khả năng tạm gọi là thần thông nào đó nơi con người. Tuy nhiên, nếu anh em nào chịu khó tìm hiểu qua sách vở đạo học trước khi quyết định thực tập những phương pháp Yoga hoặc bất cứ phương pháp nào phát triển năng lực nội tại, xin làm ơn để ý điểm tối ư quan trọng mà tôi tạm gọi là điều luật tâm linh; và đó là, bất cứ năng lực hay quyền lực nào dù bẩm sinh hay đạt thành nơi một người đều không thuộc quyền sử dụng theo ý muốn bình thường của người ấy; vì mỗi khi sử dụng năng lực này tất nhiên đã lạm dụng quyền năng tối thượng của Thượng Đế. Ai cố ý lạm dụng sẽ phải trả giá một cách mắc mỏ gấp trăm lần sự thỏa mãn nơi ý định hay ý muốn của người ấy. Trường họp này, người Mỹ có câu, “You use it; you abuse it.”

 
- Thưa bác, quyền lực nơi mình sao lại phải trả giá?

- Vào khoảng giữa năm 1970, tôi được biệt phái về Phú Quốc dưới danh hiệu kiểm tra dân số và tình hình thuế khóa, nhưng với mục đích theo dõi hoạt động tuyên vận cũng như hệ thống liên lạc của đối phương. Dĩ nhiên với nhiệm vụ này, các cơ quan quân sự cũng như dân sự đã được thông báo mật có bổn phận phải giúp tôi mọi sự dễ dãi cũng như cung cấp mọi phương tiện khi tôi nhờ vả mà không cần truy xét lý do. Đại khái, khi tôi yêu cầu, bất cứ điều gì nơi bất cứ văn phòng hành chánh dân sự, hoặc các bộ phận quân sự thuộc đặc khu vùng bốn, và những bộ chỉ huy các quân đoàn đang tạm trú, họ đều phải thực hiện những gì tôi yêu cầu trước khi báo cáo cấp trên. Dầu tôi vẫn mang lon đại úy bộ binh để che giấu nhiệm vụ tình báo, tôi không lệ thuộc giờ giấc làm việc của bất cứ cơ quan dân sự hay quân sự nào; do đó tôi thường hay la cà nơi những cơ quan thuế vụ, tưởng chừng xem xét sổ sách hoặc nơi các văn phòng hộ tịch xã để kiểm tra hệ thống làm việc của các ban ngành. Hôm ấy, ông Thịnh, một chủ tiệm bán cá khô và nước mắm đến nộp thuế. Tướng mạo của ông ta coi bộ rất tầm thường, thái độ nhã nhặn mang phần nào khép kín, tỏ lộ sự chịu đựng khó diễn tả, nhưng không hiểu sao tôi cảm thấy có thịnh tình đặc biệt với người dân buôn này. Tôi định ý chờ sẵn để làm quen với ông ta sau khi đóng thuế, và được ông ta mời về nhà dùng cơm trưa. Thế rồi từ sự quen biết đó, tôi có cơ hội giúp ông ta một số công chuyện. Anh em cũng nên biết rõ, tại Phú Quốc có cả một tư lịnh hải quân, một hải đội duyên phòng, duyên đoàn hải thuyền 42, căn cứ tiếp liệu hải quân, rồi đặc khu Phú Quốc, bao gồm hai tiểu đoàn địa phương quân, bẩy tiểu đoàn quân cảnh, thêm vào đó một đại đội công binh, đại đội tiếp vận ba trực thuộc Sài Gòn, đặc biệt cung ứng cho trại giam với trên dưới hai mươi ngàn tù nhân chính trị cũng như những thành phần bất hảo mang đầy thành tích phá rối trị an được gửi tới từ các thành phố trên toàn quốc. Và như vậy, lực lượng cảnh sát, và nhân viên chìm, nổi, tổng số cũng không thua gì số người nơi trại tù, ấy là chưa nói tới quận, xã, nhân dân tự vệ, và các thành phần binh sĩ. Tất nhiên, ở chốn sĩ quan đông hơn binh lính thì lon đại úy trên vai tôi nào có nghĩa gì. Dầu cấp chỉ huy mang lon từ đại úy trở lên chẳng là bao nhưng ở đời, nào ai lạ chi thứ nhất cận lân, thứ nhì thân cận. Có những người dân thường nhưng gốc gác họ có bà con quen biết với tướng vùng hoặc tỉnh nọ, tá kia; do đó lon đại úy bộ binh của tôi đã trở thành tâm điểm cho một số người để ý tới, mượn cơ hội dùng tôi làm nấc thang may ra bước lên đài danh vọng trong một vài lãnh vực nào đó. Cỡ hơn sáu tháng quen biết và một đôi lần chứng kiến cảnh trớ trêu, anh thư ký xã chẳng hiểu có gốc gác thế nào cứ nhè tôi kiếm cách làm khó dễ, đôi khi gây nên những sự phiền hà dẫu chẳng đáng, nhưng khiến người hiểu chuyện bực bội tâm tưởng. Bởi từ ngày tôi giúp ông Thịnh trong việc khai báo sản phẩm buôn bán hầu được giảm phần thuế má, anh thư ký xã thấy tôi chỉ là một đại úy bộ binh tứ cố vô thân mà gốc gác lại xa xôi trong khi mang nhiệm vụ được khai báo quá ư khiêm nhượng. Sáng hôm ấy, ông Thịnh mời tôi tới dùng điểm tâm, và lẽ đương nhiên máu me cũng như anh em bây giờ, dù điểm tâm vẫn không thể thiếu món nước mắt quê hương. Khi ăn uống gần xong, ông Thịnh tỏ nỗi lòng bất mãn về những lúc thấy tôi bị mấy sĩ quan hải quân lon thấp hơn và nhất là anh thư ký xã đã có những thái độ bất nhã đối với tôi. Ông đứng lên, tiến đến khang thờ, lật tấm vải điều để lộ một con dao găm cắp ngập tận chuôi ngay trước mảnh án đỏ ngoằn ngoèo những chữ Phạn, đoạn nói,

- Đã sáu tháng qua từ ngày quen biết dầu không thân thiết hoặc có liên hệ anh em họ hàng, đại úy đã giúp tôi những việc mà tôi nghĩ cả đời mình cũng không bao giờ thực hiện nổi. Chẳng hạn như chuyện thuế má, đã bao năm rồi tôi làm ăn không khấm khá được cũng vì không biết nên phải trả thuế quá nặng. Rồi những cảnh chèn ép giá cả của kẻ giầu có khiến khi mua phải trả giá cao, lúc bán lợi lộc không được bao nhiêu. Đến ngay như cửa tiệm này cũng được đại úy giải quyết đất đai, đường xá ra vô mà đã bao lâu nay tôi vẫn phải nín nhịn, đành ngậm tăm mỗi lần bị lôi vào cảnh xô xát để tránh điều đôi chối làm phiền tâm tưởng. Nhưng đã đến lúc tôi cảm thấy mình không thể chịu đựng nổi mấy cảnh trái tai gai mắt đã xảy đến với đại úy từ ít tháng qua mà tôi biết rõ nguyên nhân phát sinh từ tên thư ký xã. Hắn không những lộ diện đối đầu làm khó dễ đại úy, lại còn xúi bẩy mấy tên sĩ quan hải quân nghinh ngang lên mặt khinh thị đại úy. Nhất là vụ vừa qua, chính tên thư ký xã đã cầm đầu cho mấy thằng tù vượt ngục ăn nhậu định đón đường hại mạng đại úy. Tôi là kẻ mang ơn đại úy nhưng không biết cách nào trả nên tôi đã quyết định nếu đại úy bằng lòng, tôi sẽ bỏ lời thề trước bàn thờ tổ, và rút lưỡi dao găm minh chứng lời thề của tôi để trả ơn đại úy.

- Ông đã thề gì và tại sao phải rút lưỡi dao găm mới có thể trả ơn được? Tôi hỏi.

- Tôi chỉ cần niệm một câu thần chú, dùng lưỡi dao găm này đâm xuyên qua hình của thằng thư ký xã là nội trong một tuần lễ nó phải chết bất tử. Ông Thịnh nhấn mạnh từng tiếng nói giải thích. Đại úy có bằng lòng cho tôi rút dao găm không?

- Ông chưa giải thích cho tôi biết ông đã thề gì, thì sao tôi trả lời được.

- Tôi đã tự nguyện trước bàn thờ tổ từ 6 năm trước đây, là sẽ không bao giờ sử dụng quyền lực nơi tôi để trả thù hoặc làm hại bất cứ ai vì bất cứ lý do gì. Vì như đại úy đã biết, vợ chồng tôi chỉ có được mỗi đứa con gái, sáng nay tôi phải sai bà ấy đưa cháu đi chợ để tôi mời đại úy đến bày tỏ tâm tình. Thế mà mười năm trước đây tôi đã dùng quyền lực của mình giết chết tên đầu đảng cướp xông vào mấy nhà hàng xóm đánh người lấy của, và kết quả tôi phải trả đó là vợ tôi bị bại một cánh tay như ông thấy. Năm năm sau, một tên đốn mạt ăn ngủ với vợ người bạn tôi để rồi vu oan giá họa cho tôi, và tôi đã giết hắn bằng quyền lực niệm chú của mình. Kết quả đem lại, đứa con gái độc nhất của tôi bị què giò đi đứng khấp khểnh từ dạo ấy.

- Bà ấy liệt tay và con gái ông đi đứng khấp khểnh có lẽ do nguyên nhân bất thường nào đó nơi cơ thể sao ông lại cho rằng đó là những kết quả do sử dụng quyền lực niệm chú?

- Đại úy không biết đó thôi. Khi còn thiếu thời, tôi sang Miên lên núi học bùa gần hai mươi năm. Tôi biết khá nhiều bùa ngải và cũng biết cách sử dụng một số năng lực thần thông, nhưng trước khi học tập, sư cụ giảng giải và bắt tôi phải tuyên thệ lời thề vì nếu không thề, không tuân giữ điều luật đã thệ nguyện, sư cụ không cho học mà còn đuổi xuống núi. Sau này trong suốt thời gian học, tôi mới dần dần nhận ra những quyền lực tôi có được không thuộc về tôi mà đó là quyền lực tối thượng điều hành vũ trụ này. Ngoại trừ trường hợp bất khả kháng để tránh thoát bảo tồn sinh mạng, dù trong hoàn cảnh nào hay vì ý hướng tốt lành đến đâu mà sử dụng quyền lực này tất nhiên là đã lạm dụng nên đều bị trả giá chẳng những ngay nơi kiếp này mà còn bị lệ thuộc nơi kiếp sau. Tôi mang ơn đại úy nơi kiếp này quá nặng nên chỉ còn cách rút lưỡi dao găm phát bỏ lời thề mới có thể đền ơn được.

- Ông đền ơn tôi phỏng có phải trả giá không?

- Hai lần trước đã xảy đến với vợ và con tôi thì chắc chắn lần này phải xảy đến với tôi, nhưng tôi bất chấp. Giả sử chúng chặn đường đập chết đại úy rồi thì sao tôi còn cơ hội đền ơn đại úy.

- Ông định dùng sự trả giá phải đến với chính ông để đền ơn tôi ư? Chẳng lẽ ông cho rằng tôi sẽ cảm thấy hài lòng khi sự khốn khổ xảy đến với ông sao? Ông hiểu tôi muốn nói gì chứ?

- Nhưng tôi không biết cách nào để đền ơn đại úy cho xứng; mà không trả ơn được đại úy thì tôi là kẻ vô ơn, chết không nhắm mắt.

- Ông thử nhìn xem tướng của tôi mấy người đó có thể hại được không rồi hãy nói đến chuyện trả ơn.

- Đại úy nói như thế tôi mới nhớ ra đã có lần nói tướng của đại úy chẳng những được thần thánh phù trợ mà ngay cả ma quỷ, âm binh cũng phải giúp đỡ. Hà hà, vì nóng sốt, bực bội bởi tên thư ký xã toa rập với mấy tay bất hảo làm tôi quên khuấy không để ý, nhưng tôi, tôi…,

- Không nên nói gì, nghĩ gì nữa. Ông muốn trả ơn tôi phải không, đây, muốn trả ơn thì hãy cạn những giọt nước mắt quê hương này, thế là xong nhiệm vụ.

Ông Thịnh đứng như trời trồng nhìn chăm chăm tôi đang giơ cao ly rượu đế vừa được rót thêm, đôi tay run rẩy vì ngạc nhiên với câu trả lời và thái độ kỳ cục của tôi.

- Ông còn cố giữ chằng chằng chiếc khăn nơi tay làm chi, sao không trả nó lại nơi án thờ.

Ông Thịnh nước mắt chảy ròng, quay người bước tới khang thờ, nghiêm trọng phủ chiếc khăn điều lên chuôi dao găm đoạn trở lại bàn ăn ôm lấy tôi như một hành động tỏ lộ tâm hồn cảm mến. Ngưng nói, chiêu ngụm rượu, cụ Tài lên tiếng hỏi,

- Phỏng sự kiện tôi vừa kể đủ giải thích luật tâm linh trói buộc những ai phát triển được những năng lực thần thông nội tại?

- Thưa bác, vậy những thày phù thủy hay những thày bùa, thày ngãi, giải cứu những người bị thư, bị ám thì sao?

Cụ Tài lờ như không nghe thấy, chợt hỏi,

- Đã anh em nào đọc hoặc nghe nói về Đạo Đức Kinh chưa? Nơi Đạo Đức Kinh có câu nói, “Đi xa là trở về” (ĐĐK1. Tr.141). Ai có thể thử giải thích câu nói này cho mọi người nghe được không?

- Thưa bác, Bá lên tiếng, Đạo Đức Kinh quả là khó hiểu, hơn nữa cháu lại không biết chút gì về chữ Tàu do đó chỉ đọc bản dịch thành ra không thể nào nghiệm được tính chất thâm thúy của Lão học. Tuy nhiên, khi đọc bản dịch của cụ Nguyễn Duy Cần tới câu, “Tràn khắp là đi xa. Đi xa là trở về” mà bên chữ nho phát âm “Thệ viết viễn. Viễn viết phản,” cháu thấy hình như có sự gì không ổn nhưng suy nghĩ mãi không biết nên hiểu sao cho hợp tình hợp lý để có thể may ra áp dụng được.

- Trong bản dịch và chú giải, cụ Hạo Nhiên Nghiêm Toản viết, Đạo “đi là xa vì không đâu không tới chỗ cùng cực, lại không ngưng trệ, tùy thuộc vào một thể nào hết thảy, nên mới nói xa là trở lại, là quay về (LTĐĐK. Tr.161).

- Thưa bác, hiểu như vậy chỉ mới nói lên tính chất trùm khắp, không đâu là không có, và hiện thể khắp nơi của Đạo, của Thượng Đế, Chân Như. Cháu nghĩ hình như câu nói còn ẩn chứa điểm nào đó mà có thể vì tam sao thất bổn nên phát sinh trùng hợp.

- Anh muốn nói trùng hợp nơi điểm nào?

- Thưa bác ở chữ “Đi xa.”

- Tôi có đồng quan điểm với anh. Đã lâu tôi nghiền ngẫm về điểm này nhưng những sách chữ Hán đều dùng hai chữ “viễn” giống nhau, cùng bộ “sước.” Tuy nhiên, nếu nói về thực thể tâm linh tối thượng hiện diện và hoạt động cùng khắp qua nhiều dạng thức, đặc biệt nơi con người, anh em có để ý và thấy nơi kinh sách nào chứa đựng câu nói bao hàm phần nào ý nghĩa tương tự không?

Ai nấy im lặng vì câu hỏi mang vẻ kỳ cục. Sao có thể đem Chúa, Phật, trộn lẫn nhau. Cụ Tài đưa mắt rảo quanh một lượt nơi những gương mặt lộ phần ngơ ngác, đoạn nhẹ nhàng thêm,

- Chẳng lẽ mấy anh em Công giáo không nhận ra được câu nào nơi Kinh Thánh ư?

- Thưa bác, nghe các cha giảng mà cháu còn không để ý phương chi đọc Kinh Thánh, Sỹ nhà con thú nhận.

- Tôi nghĩ mấy anh em Công giáo đều biết câu Phúc Âm này, “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12).

- Thưa bác, câu này thì dễ quá rồi vì xưa nay chúng cháu vẫn thường thực hiện. Nay anh, mai tôi, chúng ta cùng nâng ly. Chúng cháu áp dụng Phúc Âm chứ không cần đọc, như bác thấy tỏ tường. Sỹ nhà con tơm tớp lên giọng huênh hoang.

- Thôi đủ rồi ông ơi! Ông thì chỉ biết ngốn thực phẩm, và thực hiện cái củ thìu biu. Ăn nói chi vừa láo, vừa lếu, vừa đểu mà cũng thích nói! Giọng Tình trầm trầm đối nghịch âm vang hứng thú của Sỹ khiến hắn dợm người lên như muốn gây gỗ.

- Anh em nên để bác giải thích. Ông Thung trấn an.

- Nhưng,

- Anh Sỹ làm ơn không nhưng không diễu nữa, hãy để cụ giải nghĩa vì thời giờ đã muộn. Ông Thung cố ý cắt ngang lời Sỹ, đoạn quay qua cụ Tài, xin mời cụ.

- Nếu xét theo phương diện tâm linh, vì quyền lực tối thượng là chính Thượng Đế, Chân Như hiện hữu nơi mọi sự hiện hữu, và ý nghĩ, ước muốn, ý định của mỗi người đều là những thực thể hiện hữu thế nên chúng tự mang quyền lực của Thượng Đế. Nhận thực như vậy, mọi ý nghĩ, ước muốn đều mang quyền lực tác thành của Thượng Đế. Điều này có nghĩa, khi chúng ta thực sự mong muốn điều gì, tất nhiên sự việc đó phải xảy ra bằng cách này hay bằng cách khác khi hội đủ những điều kiện và tùy thời điểm nào đó. Suy thế, chúng ta thấy câu Phúc Âm “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12) đã dùng động từ “làm” khiến chúng ta không để ý nên chỉ có thể nhận định theo nhận thức hữu vi là thực hiện một công việc gì. Thêm vào đó, nếu nhận thức được mọi sự, mọi việc, từ ý nghĩ đến những hành động nơi cuộc sống đều là hoạt động biến chuyển của Thượng Đế, câu Phúc Âm phải được đổi lại, “Vậy các ngươi thực sự ước muốn được điều gì thì hãy ước muốn cho người ta như thế.” Suy rộng hơn, chúng ta có thể nói, bất cứ điều gì mình ước muốn xảy đến với người khác, tất nhiên chuyện đó sẽ xảy đến với mình. Câu Phúc Âm này nói về quyền lực nội tại ngay nơi ý định của một người.

- Thưa bác, vậy đâu là sự liên hệ với câu nói nơi Lão học. Bá lên tiếng.

- Anh thử suy nghĩ lại câu nói “Đi xa là trở về” đem áp dụng vào ước muốn thì sẽ thấy.

- Thưa bác, cháu vẫn còn thấy tăm tối hơn đêm ba mươi.

- Vậy nếu anh dùng ngôn từ “phát xuất” hay “đi ra” thì thấy thế nào?

- Ah, bác nói có lý, hèn chi có câu nói, “Không làm điều xấu đã khó; không nghĩ đến điều xấu lại càng khó hơn.” Câu này coi bộ thường nhưng mang ý nghĩa thâm trầm chẳng thường chút nào. Thưa bác, nét mặt Bá chợt lộ vẻ hơi lạ, như vậy, câu Phúc Âm, “Kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23) nói về quyền lực của ý muốn nơi con người?

- Tôi đã nhắc đến câu này khi nói về quyền lực tối thượng hiện diện nơi mỗi người mà nào có ai để ý. Anh nói đúng. Ý định, ước muốn của con người mang quyền lực tối thượng của Thượng Đế. Tuy nhiên, nghĩ đúng, nói đúng cũng vẫn không đem lại ích lợi gì. Vấn đề lại là phương cách nào con người thăng tiến nơi hành trình tâm linh; sau đó, khi đã đạt tới mức độ thăng tiến nào đó, chúng ta sẽ nhận ra những quy luật tâm linh nào cần phải chuyên nhất tuân theo. Hãy để tôi trả lời câu hỏi về những thày bùa, thày ngãi. Về sự sử dụng quyền lực tâm linh, dĩ nhiên thày bùa hay thày ngãi cũng như những vị đã dày công tu luyện có được khả năng ấy đều bị lệ thuộc ý định thực hiện công việc của họ, không thể tránh thoát. Nếu anh em nào quen thân với bất cứ ai đã đạt tới trình độ như thế may ra biết được họ phải tuân theo nhiều điều cấm kỵ mà rất ít khi dám tỏ bày cho người khác biết. Anh em nên hiểu, luật lệ tâm linh không giống như pháp luật hay lề luật tôn giáo. Những ai đã bước vào con đường ấy phải tuân theo rất nghiêm nhặt. Nếu chỉ vô tình, hay hứng chí phạm luật, hậu quả sẽ xảy đến nhãn tiền, và chỉ người đó biết. Nhận biết như thế chắc anh em hiểu được lý do tại sao nơi hành trình tập luyện Yoga có những điều luật rèn luyện tâm trí con người.

- Như vậy cho dù thăng tiến tới mức thượng thừa chăng nữa đều không có quyền sử dụng năng lực nội tại thì đâu ai cần luyện Yoga hay thiền làm chi cho tốn công sức, chỉ hao mòn cuộc sống, chẳng thà không biết để an hưởng tuổi trời, lại khỏi phải tuân theo bất cứ quy luật hay kiêng cữ. Hà, hà, chưa chắc thức ngộ đã hơn không, mà có thể ngược lại, Sỹ chen miệng.

- Ông ơi, ông quả là minh triết nhưng mở miệng nói ra nghe chướng tai chịu hết nổi. Phỏng ông có biết ông nói gì không? Chỉ mới vừa dợm phát biểu đã có thể diễn tả đúng đắn lời Phúc Âm, “Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy. Vì lòng dân này đã ra đần độn, chúng đã nặng tai, còn mắt thì chúng nhắm lại, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng” (Mt. 13:14-15). Bá cắt ngang lời Sỹ.

- Vậy nếu tớ không nói thì sao chú mày có thể hiểu được ý nghĩa câu Phúc Âm như thế. Chú mày nên cảm ơn tớ thay vì chua chát buông lời cay nghiệt.

- Anh Sỹ nhận định cũng phần nào hợp lý, nhưng lý ngang. Tuy nhiên, sự thể này chứng tỏ mọi dữ kiện, sự việc xảy ra trong cuộc đời dù liên hệ đến chúng ta hay không đều là những cơ hội cho sự nhận thức tâm linh. Vấn đề còn lại chỉ là ai có tai để nghe thì nghe, và ai có mắt để nhìn thì nhìn. Không ai có thể nghe hoặc nhìn hay nhận thức dùm cho bất cứ ai. Anh em có lẽ hiểu tôi muốn nói gì.

- Cháu xin cảm ơn bác, Bá tiếp lời cụ Tài. Hèn chi Phúc Âm cứ nhắc đi nhắc lại câu “Ai có tai thì nghe” (Mc. 4:9).

- Anh nói đúng, cụ Tài xác nhận, vì đó là câu nói giúp chúng ta nhận định cần phải có điều kiện tâm trí như thế nào để nghiệm chứng Phúc Âm. Bây giờ đã muộn rồi, có lẽ chúng ta nên ăn cơm cho ai nấy về nhà nghỉ ngơi chuẩn bị sức lực cho những công việc ngày mai.

 
- Khoan, khoan, giọng Tình kéo dài. Thế lần tới sẽ đến phiên ai?

- Thì còn ai trồng khoai đất này, hí hí. Lo về năn nỉ lão bà cho được việc. Sỹ nhà con lên giọng, nếu ai muốn tranh chức chủ xị lần tới xin mời cho ý kiến.

- Nhà cháu xin được hân hoan gồng mình đón tiếp bác và quý ông nọ bà kia ghé qua thăm tổ uyên ương lần tới. Nhờ quý vị đề nghị nhà cháu nên cúng dường vị phật nào, cờ tây hay cờ ta, xáo ngỗng hoặc tiết canh dê, có thể gỏi cá hay nhúng giấm. Tình chiêu ngụm bia như để lấy sức tính toán.

- Tui đề nghị nai đồng quê, Phủ nhẹ nhàng lên tiếng. Thấy bên cạnh nhà chú có ổ cờ tây xoai xoai sáu bát trông thật đã mắt. Mới thử hồi quang phản chiếu để nghiệm chứng lòng ruột của những vị phật đó, chợt đã nghe thèm muốn nuốt trôi cả lưỡi. Xem nào, bộ đồ lòng chấm mắm tôm đánh với chanh, ớt, cắn thêm miếng riềng, kèm thêm chiếc lá mơ, thế là bứt hăm bốn chai Heineken hoặc một thánh bò đi ông. Nhất là phần dồi sau khi luộc, cuốn lên khúc cây đem quệt bơ nướng dòn thêm phần hương lửa, thơm ơi là thơm.

- Hà hà, Sỹ nhà con đế vô, “Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó; chết xuống âm phủ biết có hay không.” Đoạn tợp một hơi bia, hắn tiếp, chôm lấy một con, mang sang nhà tớ, bảo đảm kín đáo. Tớ mới mua được cái “torch gaz” thui nhanh phải biết. Chỉ cần năm phút, đoạn lấy lá sả kỳ cọ, em sẽ thơm lừng như hương tóc nàng gội đầu bồ kết.

- Vậy cái dịch vụ nai tơ của nhà ông dạo này ra sao mà thấy im hơi lặng tiếng cả năm rồi, Phủ hỏi Sỹ.

- Dạ, thưa bởi cái lũ phù thủy mắt xanh này chẳng biết nghe đâu đó nên đặt vấn đề nhà con thương yêu súc vật quá thì sao chịu đựng nổi nên nghi ngờ. Hàng tuần, nhà cháu vô “shelter” nhận nuôi một hoặc hai chú cờ tây. Cũng được đâu đó gần một năm đến độ nhân viên bảo vệ súc vật quen mặt luôn. Lần cuối cùng, gặp ngay một tên phù thủy mắt xanh cựu chiến binh tại Việt Nam; hắn ta biết tiếng Việt nên bập bẹ khi thấy nhà con ẵm cặp chó xoai xoai bỏ lên xe. Hắn nói, “Chời ơi! Thứ này mà nhậu, ngon chỉ có chết.” Mặc dầu chạm tẩy nên nhà con đã phải giả mù sa mưa bằng tiếng Mỹ, “What, I feed them to take care of my chicken.” Nhưng chẳng hiểu hắn ngứa mồm ra sao, lần sau tới, chúng không cho nhận nuôi nữa.

- Nghe cũng có lý, Tình nói. Tui sẽ nói với tên hàng xóm xin một con cho một người bạn vì hắn ta đang muốn tẩy lũ xoai xoai và định thiến luôn chó mẹ. Như vậy, lần nữa xin mời bác và quý vị quỷ quái thưởng thức cờ tây. Xem nào, chó nướng, chó rượu mận, lòng, xáo cầy ăn với bún, cộng thêm đùi chó luộc đưa cay. Chời! Nhm... nhm... Thứ này chắc chắn kỵ bia dzồi. Có lẽ đành phải thử Crown Royal. Đứa con gái lớn mới biếu kỳ tết một chai nửa gallon.

- Không đủ, phải thêm chai nữa mới đủ đô nghiệm chứng. Bá chen vô.

- Yên chí đi, tui còn vài thánh mờ mờ cộng với hai vị bò đi ông, thừa sức quật ngã vài chục cao thủ hạng lông như chú mày.

- Thế là sung sướng cõi thiên thai! Thôi, Tình đứng dậy, con chào bác và tất cả quái vị, em phải đưa bà xã về động.

Mọi người theo nhau lục tục ra về, hai bà ở lại phụ chủ nhà giải quyết một rừng chén, đĩa, ly, chai, để mấy ông ngồi chờ thực tập nghiệm chứng giảm bớt hơi men.

 
0 0 0


Khu rừng dầy đặc nên cây dong dỏng cao, ôm con đường ngoằn ngoèo lượn theo khoảnh đồi. Nối từ đường xe, một con ngõ lao vô đám cây rập rạp đoạn bẻ cong, và biến mất sau những bụi cây được cố ý chừa lại che những cặp mắt vô tình dòm ngó của những người lái xe ngang qua. Nếu để ý nhận định, mấy bụi cây tạp được cắt tỉa một cách sơ sài, miễn sao khỏi chướng mắt che khuất những gì phía sau biểu hiện một sự tính toán thâm trầm nơi tâm hồn chủ nhân đã dày dạn bươn chãi tranh sống nơi cuộc đời hiện tại. Hình dáng coi bộ phần nào thiếu thẩm mỹ cũng nói thêm một đặc tính chủ nhân của chúng đã học được bài học lễ độ cuộc đời, biết che giấu điều hơn người để tránh bị soi mói, đố kỵ.

 
Sống với đám dân ăn xài 160% tiền bạc có thể làm ra nên lúc nào cũng nợ nần nặng nề, sinh lòng mặc cảm, ghen tương, nghĩ rằng những người khác có cuộc đời ổn định hơn đều thuộc loại chụp giựt, ma mánh hơn. Nơi một xã hội pháp trị, được khuyến khích tự do cạnh tranh phát triển đồng thời luôn luôn bị xúi giục ăn xài do quảng cáo ở  mọi phương diện truyền thông. Từ những băng tần truyền hình, vô tuyến truyền thanh, sách báo, mạng lưới điện toán, và ngay cả qua bưu điện, dân chúng đã vô tình tiêm nhiễm thói quen ăn xài theo ý thích để rồi trở thành những con nợ hãnh diện vì đã có thể mua chịu những gì mình muốn với bất cứ giá nào. Và thế là suốt đời lo làm trả nợ; nợ sau chồng nợ trước dẫu gồng mình làm lụng cách mấy vẫn luôn mang nợ. Sống là chủ mang nợ; chết chắc chắn mang tâm trạng quỵt nợ. Dẫu thân phận được sinh ra nơi đất nước giầu có và văn minh nhất thế giới, nên ước mơ của con dân đất này chỉ là làm chủ được một căn nhà và có mảnh vườn nhỏ trồng bông. Thua xa ước mơ bình thường của con dân Việt, như được nói lên nơi bản hát nào đó, “ Có con trâu, có nương rau, thiên đường này mơ ước bao lâu.”

 Ẩn sau những thân thông thẳng tắp, một căn nhà hai lầu nổi bật màu lá úa của tường gạch, nửa như ôm, nửa như muốn phô diễn chiếc lan can được sơn màu xanh lá mạ. Đối diện với căn nhà, phía bên kia chiếc sân được tráng nhựa đường, cột bóng rổ ngạo nghễ như thách đố nhóm trẻ tung banh. Dọc theo hàng rào, hai hàng cây ăn trái tươi tốt chạy dài đến cuối đất bao gồm đủ loại, nào cam, nào quýt, mãng cầu tây, mãng cầu ta (cây na), hồng dòn, hồng mềm, thêm đôi bụi chuối. Tuy nhiên, chỉ hồng, cam, quýt khoe ánh vàng những chùm trái trong khi mấy thứ khác như ổi, mãng cầu dẫu cây lá tươi tốt nhưng vẫn khiêm nhượng son sẻ, dường như chấp nhận thân phận sinh bất phùng thời. Nào có lạ gì, các loại cây ăn trái thuộc khí hậu mưa nắng hai mùa sao có thể đơm bông kết quả nơi miền đất bốn mùa thay đổi ở miền nam nước Mỹ này.

 
Nối tiếp với khoảnh sân sau được tráng xi măng để làm việc và nhuộm lưới bắt tôm, đánh cá, mấy luống rau thơm, cải ngọt, rau đay, mùng tơi, mượt mà chen nhau khoe sắc dưới ánh chiều dợm tắt. Bên kia hàng rào phía phải, ba chú chó xoai xoai đùa dỡn với mẹ của chúng đang rượt nhau vòng quanh sân cỏ được cắt tỉa, chăm sóc kỹ lưỡng. Một chú cún thấy người lạ bên kia hàng rào lên tiếng sủa gây sự chú ý của mấy tay bợm nhậu.

- Gà lọt dậu, chó sáu bát. Ngữ này vô nồi thì tuyệt.

- Ơ cái thằng nhóc này, ông đập củ sả vào đầu mày bây giờ. Chớ dại ra vẻ chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng; Sỹ nói với con chó như nói với người nào đó. Chị gái mẹ kia, dẫn con đi nơi khác bởi các ông thèm rõ rãi ra rồi. Ông mà nuốt trôi cái lưỡi thì mẹ con chị khốn khổ đấy. Chị chó mẹ và hai chú cún khác chẳng biết có hiểu chi tiếng Việt hay không, nghểnh cổ chăm chú nhìn mấy người khách lạ của hàng xóm.

- Chớ nóng tính, thằng anh cả của chúng bác đã thui sáng nay đấy, lát nữa tha hồ nhậu. Tình đi ra từ cửa sau đón khách, lên tiếng.

- Chú dám trộm chó hàng xóm cơ à. Ông Thung hỏi.

- Đâu có! Làm đĩ chín phương cũng cần dành lại một phương lấy chồng chứ. Mới chiều hôm kia, nhân tiện bà xã cuốn chả giò, tui nhắc bả chiên thêm một đĩa. Mười hai chiếc chả giò ngồn ngộn bắt mắt. Tui cũng tốt lành lắm chứ, lấy giấy bạc bọc lại tử tế ngay khi vừa chiên xong, vẫn còn nóng hổi mang qua biếu chủ chó. Thứ nhất thân cận, thứ nhì cận lân mà. Xưa nay thỉnh thoảng hàng xóm và gia đình tui vẫn có thói quen tốt lành như thế. Gặp ngay mẹ con mấy chú cún này chạy ra đón tiếp quẩn cả chân; lại chủ nhà thuộc loại dân quê chẳng khác gì mình, mở cửa đuổi chó, nói rằng muốn cho đi hoặc kêu hội súc vật đến bắt. Tui nói rằng có người bạn thích chó lắm để tui hỏi anh ta có muốn không. Về nhà được dăm phút, tôi gọi sang nói bạn của tui chỉ muốn một con thôi trong khi ông ta muốn cho cả bốn con. Và sáng hôm qua, ông ta xích cổ đàng hoàng, dắt sang nhà tui tặng chó. Cảm ơn qua lại xong, tui chở ngay tới nhà ngữ Sỹ này thui. Tui biết điều lắm đấy chứ, đâu dám thịt tại đây. Cứ để đó, ba con kia thế nào cũng có thêm ba người bạn của tui muốn rước về chăm sóc.

- Lỡ người ta chích thuốc rồi thì sao.

- Ối dân quê mà, họ chỉ chích ngừa chó mẹ thôi. Ai thừa tiền chích thuốc mấy ngữ chó con không định nuôi. Chời! Thui vàng lên, rửa bằng búi lá sả, mổ ra ngon hết sẩy. Trưa nay tui và Sỹ mới thử luộc một miếng, quả là tuyệt cú mèo.

Mọi người theo Tình vô phía sau nhà. Mới ngang lưng chừng đầu hồi đã thấy mùi sả, riềng lất phất quyện trong không khí. Càng đi sâu hơn, mùi rượu mận càng nồng nặc.

- Riềng này, sả này, mắm tôm này, me chua này; giá mà có mẽ thì tuyệt hơn. Ông Thung lẩm bẩm.

Một nồi lớn trên lò hơi đốt đang sôi sùng sục, xì hơi bên mép vung đậy hờ, bốc lên mùi rượu mận thơm lừng. Một thẩu lòng chó còn đang bốc khói, chưa được thái chênh vênh trên chiếc ghế sắt cạnh một chiếc lò khác, nơi đó ngự một nồi lớn chứa nước luộc lòng đang sôi ùng ục. Ở một góc gần cầu nhuộm lưới, hai đứa lớn, con của Tình đang kẹp thịt chó đã được ướp gia vị vô phên để nướng trên chiếc lò than đỏ hồng.

- Chào các bác, mời các bác vô nhà dùng nước, em đang dở tay một chút. Chị Tình, tay đang cầm đôi đũa lớn, hình như vừa mới vớt lòng luộc bỏ vào chiếc thẩu. Đoạn lớn tiếng gọi, cái Thanh, rót nước mời các bác, con.

- Không nước non, non nước chi cho mệt, Tình lên tiếng. Mình súc miệng bằng bia và hưởng mùi vị quê hương cho lòng ruột thanh tịnh mới xứng đáng đón vị phật chó này chứ. Cái Thanh, con lấy bia nơi tủ lạnh mời các bác, nhanh lên.

- Tình, kiếm cho tớ cây “chu bai pho” (2x4) và mang bơ ra đây để tớ nướng dồi. Sỹ nhà con mau mắn.

- Ấy, ấy, bác để nhà em chiên. Chị Tình vội lên tiếng ngăn Sỹ.

- Dồi chó chiên bơ ăn không phê bằng nướng bơ. Nướng nó mới dòn, mới dậy mùi lá mơ chứ chiên ăn như đấm vào miệng ấy.

- Đây, thưa ông. Coi chừng quá lửa khô khốc lỡ gẩy bố nó mấy cái răng tui sẽ kiện ông ra tòa.

- Khô thế nào được, bao nhiêu mỡ và bạc nhạc tớ băm sáng nay sao có thể khô được. Cứ yên trí lớn!

Hưng, cụ Tài, và mấy người nữa tiếp tục tới. Mấy phụ nữ giúp chị Tình luộc bún, nhặt rau, lá thơm. Chẳng mấy chốc thực phẩm, rau rợ, chén đũa đã được xếp đặt ngăn nắp trên hai chiếc bàn dài. Mọi người đã ngồi vô ghế thế mà chủ nhà lại biến đâu mất.

- Chủ xị trốn ở đâu làm mất giờ chờ đợi. Sỹ nhà con nói lớn.

- Có đây, có đây! Chẳng nói giấu gì, nhà cháu hái thêm mấy trái ớt bởi e rằng cuộc đời này vẫn chưa cay đắng đủ để lãnh nhận mùi vị quê hương. Mời, mời bác và quý vị tự nhiên cho.

- Chủ xị phải có lời lẽ đàng hoàng vì ăn có mời, làm có khiến. Có phải ông biết rằng chúng tôi đang muốn nuốt trôi cả lưỡi nên cố tình rềnh rang chăng. Bây giờ, muốn nói gì thì nói coi, nói càng ngắn càng tốt, mà càng không nói gì lại càng tốt hơn, nhưng vẫn phải nói cho đúng nghi thức, phép tắc; Sỹ lên giọng.

- Dạ, dạ, nhà cháu xin có đôi lời thưa cùng bác và quái vị. Hôm nay, được phép của bà chủ nhà, và được người hàng xóm quý mến tặng cho chú nai đồng quê nên nhà cháu sửa soạn bữa cơm rau muối mời bác cùng quái vị thưởng thức. Sự hiện diện của bác cùng quái vị là sẽ là sự mất mát lớn lao cho chú cờ tây. Nếu không, nhà cháu chẳng biết làm gì vì nhậu một mình nó làm sao ấy. Đến đây nhà cháu xin được phép hết lời, và mời bác truyền tâm ấn cho hành giả Crown Royal.

- Tâm ấn sao có thể truyền, chỉ có thể chứng. Cụ Tài nhẹ nhàng. Tôi chấp nhận được hãnh diện khui và sau đó chúng ta cùng nghiệm chứng. Có lẽ cụ Tài dạo này bị lây lối ăn nói của nhóm nhậu.

Cụ Tài rót rượu vô ly đoạn trao bình rượu cho ông Thung ngồi bên cạnh. Ông Thung rót cho mình rồi trao bình cho người kế tiếp, và cầm ly rượu, nâng lên định uống.

- Khoan, khoan, anh cả, đợi, đợi, để mọi người cùng chứng một lúc. Tình bỗng cản.

- Chết tớ rồi, tớ tham quá nên rót hơi nhiều sao chứng.

- Phép vua thua lệ làng. Lỡ rồi, cho lỡ luôn, may ra chừa tội vô minh.

- Tớ là trọng tài; trọng tài như cha mẹ.

- Chủ xị phán là luật bất thành văn.

- Chú Sỹ, để tớ sẻ qua.

- Không được, hạ thủ bất hoàn, hạ bất khoan.

Thế rồi thời điểm nghiệm chứng cũng phải đến. Mọi người đồng nâng ly. Tình nói lớn,

- “Một chăm phần chăm, em ơi, chiều nay một chăm phần chăm.” Ai không chứng hết, yêu cầu đổ rượu lên đầu.

Đến tội cho ông Thung! Mà nào có rót nhiều gì cho cam bởi ông đâu uống được nhiều nên định rót vừa đủ cho cả bữa nhậu. Ai ngờ cái lệ làng quái ác này. Cụ Tài thấy thế nhẹ nói với ông Thung, “Ông có thể san bớt sang ly tôi.” Ông Thung vừa đưa ly rượu kề vô ly của cụ Tài định san qua thì Tình đã lớn tiếng,

- Tửu bất khả ép nhưng đã ép sẽ bất khả từ. Nếu từ chối sẽ bị phạt làm chủ xị.

- Chú mày chơi tớ. Tớ lỡ tham có chút xíu hà. Thôi thì lần này tớ xin chừa; lần sau cứ vậy.

- Vậy thì ai bảo “Ông bẩy mươi phải học ông bẩy mốt.” Thời này văn hóa đảo ngược, ông bẩy mốt học đứa trẻ mười tuổi.

- Chúng ta tôn trọng dân chủ nên lấy đa số thắng tiểu số. Cụ Tài thấy tội cho ông Thung nên đành chen vô.

Thế là cảnh ồn ào chợt bùng dậy,

- “Một chăm phần chăm, một chăm phần chăm.” Những cái miệng của bằng ấy bàn tay đang nâng cao ly rượu cùng đồng loạt hô lên.

- Khoan, cụ Tài nói lớn dành sự chú ý của mỗi người. Nơi phương diện ăn uống hoặc suy nghĩ, không ai có thể đại diện cho ai ngoại trừ chính mình. Và như vậy, sự đồng ý uống trăm phần trăm ly rượu mình đang cầm nơi tay cũng chỉ có một mình mình. Tôi và ông Thung đồng ý uống chung hai ly rượu tất nhiên đa số thắng thiểu số.

Thế là thiên hạ ngớ ra! Ai cũng cảm thấy ngỡ ngàng vì xưa nay đã quen thói hùa theo điều được gọi là dân chủ, đa số thắng thiểu số, nhưng nơi trường hợp vừa được cụ Tài nêu lên, đa số lại trở thành thiểu số đối với hoàn cảnh cá nhân riêng biệt, và thiểu số lại biến thành đa số vì họ đồng ý cùng thực hiện chung một sự việc. Sự ngỡ ngàng bắt nguồn từ nhận thức mình không thể quyết định đường lối bắt người khác phải thực hiện. Ngưng một đôi phút để mọi người có cơ hội nhận định sự thể mới được đề xướng, cụ Tài hỏi tiếp,

- Ai có ý kiến gì nữa không?

Những cái mỏ mới nhao nhao “chăm phần chăm” lúc này im tịt. Câu nói của cụ Tài lần họp trước, “Không ai ăn dùm được cho mình; không ai uống dùm được cho mình, thì cũng không ai suy nghĩ dùm được cho mình” như lẩn quất nhắc nhở điều kiện ắt có và đủ cho một người thực sự khao khát thỏa mãn lòng khát vọng tâm linh cần phải nghiệm chứng, khi đối diện với bất cứ vấn đề nào đều cần được suy nghĩ chín chắn hơn. Và ông Thung chớp cơ hội gỡ gạc,

- “Dzô.” Ông nâng cao ly rượu san bớt qua ly của cụ Tài đoạn khởi đầu thực hiện “chăm phần chăm” mặc dầu phải nhắm mắt, nhăn mặt cố lấy sức nuốt ngụm rượu xuống lòng ruột dù cảm thấy cuống họng cay như bị xé kèm theo cơ thể chợt bừng nóng.

 
Màn khởi đầu đã qua, dân ta bắt đầu thi đua múa cặp kiếm tre. Người hỉ hả với miếng dồi chó chấm mắm tôm chanh đánh với ớt. Kẻ khác thử miếng chó nướng e để nguội mất ngon. Lòng chó dần dà xuôi theo nước thánh. Thịt luộc mềm, thơm quánh mùi sả kèm theo hương vị lá mơ đoạn cắn thêm miếng riềng thái mỏng, quả là thi vị đối với món thuần túy quê nhà. Sau khi thử miếng dồi chó, ông thung gắp miếng bún, chan nước rượu mận vô đoạn lùa một mạch chữa lửa. Bao năm rồi từ ngày xa quê hương, nay may mắn đàn đúm với nhóm nhậu mới tìm lại được hương vị ngày nào. Ông thầm nghĩ.

- Thưa bác, thưa quý ông nọ bà kia, để thêm phần hào hứng cho các hành giả đả phá vô minh nơi hành trình kiến tính, và đồng thời cung cấp cơ hội cho hàng nội tướng phát triển khả năng lãnh đạo điều khiển chủ soái, nhà cháu xin được phép đề nghị hôm nay chúng ta dành ra chừng một tiếng đồng hồ vừa lai rai vừa thưởng thức chương trình “ta ca cô chê” (karaoke) tân cổ giao duyên. Nếu bác và mọi người đồng ý, nhà cháu xin một tràng pháo tay cổ võ.

Chủ nhà xin phép đề nghị, ai nấy mới chợt nhận ra qua những lần ăn nhậu trước chỉ để ý đến đạo học, thức ngộ, ngủ ngộ mà lãng quên vai trò nữ giới cùng họ hiện diện khi các ông đàn đúm ly anh, chén tôi. Và thế là tràng pháo tay nổi lên kèm theo những bộ mặt tươi rói chẳng hiểu hứng khởi vì hơi men mới chớm hay vì sắp được thưởng thức hoặc trình bày danh ca cây nhà, lá vườn, hoa quả ngoài chợ. Đồng thời, họ như được mời gọi để ý đến chiếc màn ảnh ti vi to tổ bố chình ình dựa vô tường đối diện với hai dãy bàn kê song song hướng về nó.

- Mẹ nó đâu, kêu quân ta điều chỉnh dàn âm thanh, ánh sáng, chuẩn bị trổ tài nghệ sĩ chưa kịp vươn lên đã vội tụt xuống; trong khi giọng Sỹ nhà con oang oang vang diễu câu vọng cổ, “Bà ba ơi cho tui mượn chai dầu xức lác tui bôi cái lỗ rún...”

Số là trong nhóm nhậu có ba mụ tham gia hội hát nhà thờ. Họ thích hát lắm, và nhà nào cũng có giàn máy karaoke. Đặc biệt nhà Tình vì bà xã người miền Nam; chẳng những chị ta hát nhạc đạo, nhạc đời, mà đặc biệt lại là chuyên viên ca vọng cổ nơi những buổi văn nghệ văn gừng được nhiều người ngưỡng mộ. Chị ta nhỏ người, khá linh hoạt, tươi vui, lúc nào cũng như mỉm cười. Đặc biệt, chị ta có giọng nói miền nam thật dễ thương, ngọt ngào. Nghe đâu ngày xưa Tình dẫn toán đi hành quân, trong khi dừng chân nơi một làng nhỏ, vô nhà dân xin dừa uống nước, mê ngay giọng ngọt ngào của cô bé con chủ nhà để rồi sau này chà chớ và cưới em làm vợ. Đối với gia đình bố vợ, Tình không gặp trắc trở chi vì con gái miền Nam lấy trai Bắc kỳ năm tư (1954) là nhất, dẫu vẫn có tiếng trai Bắc kỳ xạo ke. Tuy nhiên, gia đình Tình cực lực phản đối; bởi nghe chừng đâu đó (rằng) dân sinh trưởng nơi miền Nam do cuộc sống ngày xưa dễ thở, nửa năm trồng lúa, nửa năm oánh bài lá, không phải cơ cực đối diện với khó khăn, lam lũ, tạo nên thói quen dễ dàng chấp nhận cuộc đời thành ra thiếu cá tính cần mẫn, tranh đua như dân Bắc hoặc Trung. Tình lại là con trưởng kéo một bầy năm đứa em, hai trai, ba gái. Tất nhiên, chị dâu cả mang nặng nề trách nhiệm lèo lái gia tộc sau này. Bố mẹ Tình e ngại nếu gặp con dâu cả thiếu đặc tính mưu toan, đưa đẩy, anh em trong gia đình sau này sẽ lộn xộn sinh ra thực trạng cá đối bằng đầu hoặc cá mè một lứa, chẳng ai nói ai nghe sẽ bị người ta chê cười. Không những thế, có câu nói, “Giặc nhà ngô không bằng bà cô bên chồng.” Gái miền Nam dễ thương nhưng sao có thể đối địch được ba cái mỏ bà cô Bắc kỳ; vì thế, ông bà cho rằng nếu lấy vợ người miền Nam sẽ khổ cho Tình một đời sau này.

 
Tình ít nói nhưng thâm trầm. Đàng khác, sĩ quan ngày ấy cũng khá sáng giá cho dầu các cô gái mới lớn bị tiêm nhiễm câu hát, “Em chỉ yêu có anh binh nhì.” Và thế là mưu ma, chước quỷ, cũng được bố mẹ Tình sử dụng để có nhiều người mai mối cho Tình những cô gái Bắc kỳ “năm tư” quanh vùng. Vỏ quýt dầy có móng tay nhọn; cũng có thể Tình bị bùa mê thuốc lú từ con bé Nam kỳ; bố mẹ Tình sau này nói thế, nên dù không bao giờ phản đối, lại chiều lòng bố mẹ, nay đi nhòm cô này, mai theo mối xem cô kia mỗi lần nghỉ phép, Tình cũng kiếm được nhiều lý do từ chối những em xinh như mộng, nhưng chưa bắt được hồn chàng sĩ quan trẻ ít nói.

Thế rồi gần hai năm sau, nhân một lần nghỉ phép, chẳng hiểu Tình xạo ke, hứa trăng hứa cuội, hoặc thề thốt cách nào với ông bô bà mia cô gái mà bợ ngay con người ta mang về trình diện bố mẹ. Chỉ sau hai ngày, cả nhà Tình thích cô bé tươi vui có giọng Nam kỳ ngọt ngào này. Cũng có thể, “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng,” do được Tình giải thích, huấn luyện, cũng có thể nhờ cá tính rộng rãi dễ thương không chấp nhất, xét nét, vị thế con dâu trưởng chẳng những trong gia đình mà đối với bà con họ hàng, chị Tình được mọi người quý mến, ưa chuộng. Mà quả thật, chị Tình rất dễ thương, rộng rãi, cận nhân tình. Con cái của những bạn bè thân thiết có đứa nói thích chị Tình hơn thích mẹ chúng. Có lần chị đưa các em giúp lễ đi chơi bởi nhà có chiếc xe “van” mười chỗ ngồi. Mười lăm em, trai gái lẫn lộn chen nhau như cá hộp có thêm chị Sỹ đi kèm cho đúng luật tiểu bang, cứ bẩy em nhỏ cần một người lớn chăm sóc. Chị đưa các em đi chơi khu trượt nước, tắm biển, nào ăn uống thả dàn, lại còn mục mười lăm nhóc chễm chệ nơi quán kem. Đứa chọn ly kem ba màu, đứa khác kem thập cẩm; nhiều khi chị Sỹ muốn khùng lên vì lắm ý kiến, nhiều đề nghị của tụi nhóc. Ngược lại, chị Tình giải quyết nhanh chóng và êm đẹp, nhóc nào cũng thích vì được tôn trọng.

 

Dàn máy vừa được bật lên, Sỹ đã vội chộp chiếc “microphone,” đặt sát vô miệng, ông ổng ca, “Nếu em không là người yêu của lính, em sẽ chớp một anh sỹ quan. Nhưng anh ơi nếu mộng không thành thì sao,”

- Khóa cái mõm của ông lại! Tình la lên, mộng không thành mà cả một tiểu đội. Mộng mà thành có lẽ hơn trung đội.

- Ấy, nhà cháu mới sơ sơ một bà. Nếu hai bà có lẽ sẽ ít hơn. Và để mở màn văn nghệ phụ diễn, mời chị chủ nhà làm một mục tân cổ “giao dziên.” Sỹ nhại giọng nói miền Nam của chị Tình.

- Mời chị ca bản “Truyện Tình Lan và Điệp.” Phủ đề nghị.

- Lan ơi, Lan về nắm ấy chuông, Sỹ lại rống lên theo cung cổ nhạc.

Chị Tình không nói không rằng, chọn một đĩa nhạc bỏ vô máy, bấm số đoạn ấn nút cho đĩa chạy. Âm thanh réo rắt nổi lên và chị cất giọng hòa với cung nhạc, “Qua một rừng hoang, gió núi theo sang vương bụi đường trên vai...” Giọng chị ngọt ngào với bản tân cổ giao duyên Hoa Trinh Nữ. Khung cảnh ồn ào bỗng trở nên thinh lặng nhường cho giọng ca thẩm thấu lòng người. Lời hát đã quá thịnh hành từ xưa nên giọng chị dễ được để ý thưởng thức. Những tiếng vỗ tay rộ lên như muốn phá tung cửa kiếng phòng ăn khi chị xuống giọng ngâm chữ cuối của câu vọng cổ khiến chị thêm phần hào hứng diễn xuất. Ai nấy đều mang vẻ mặt vui tươi, hoan hỉ vì có được những giây phút thoải mái giữa đám bạn bè quen thuộc.

 
Niềm phấn khởi trong lòng được cổ võ do tâm tình thân quen, khuyến khích tì vị hoạt động mạnh mẽ hơn đối với món nhắm đã bao lâu quen thuộc nhưng gần hai chục năm mới gặp lại. Chưa hết bản tân cổ giao duyên mà bình rượu lít rưỡi đã được chuyền tay lần thứ ba, cạn tới giọt cuối cùng để rồi nhường vị thế cho thánh Remy Martin rút ruột làm chủ tình hình. Phần chương trình văn nghệ phụ diễn, sau khi chị Tình ca xong bản Hoa Trinh nữ, những mục tân nhạc khác được tiếp nối. Khi các chị hát thì còn đỡ; mỗi lần anh chàng nào lên giọng thì lại yêu cầu mở máy cho to, quả là ồn ào hết sức. Nào lạ chi, khi đã sứa sứa thì hát trở thành hét. Căn phòng thì nhỏ, hai cái loa to tổ bố được nối liền với dàn mixer cộng thêm chiếc “amplify” 250 watts thì tai nào mà chịu nổi. Thế mà người ta vẫn vui vẻ ăn uống, có muốn nói gì thì phải hét lên; kẻ ca cố gào, người nói cố hét, giống phường quân hồi vô phèng, ồn ào, náo nhiệt. Nào ai lạ gì, khi men rượu dồn lên tới óc làm căng thẳng thính nhĩ khiến độ rung chậm lại, thần kinh mệt mỏi sao có thể nghe cho rõ ràng. Tất nhiên, dẫu ca hay hét, các nghệ nhân karaoke đều được tưởng thưởng bằng một tràng pháo tay nhộn nhịp. Cũng may, nhà Tình riêng biệt ngự giữa hai mẫu đất cách xa hàng xóm nên không làm phiền hà chi tới ai.

 
Ở thời điểm này, phong trào hát karaoke đang lên và được người Việt ham mộ. Nhà truyền giáo Tây Phương nào đó nơi bản đệ trình về đặc tính người Việt thời xưa có nhận định, người Việt nói líu lo như tiếng chim hót. Thực ra, tiếng Việt bao gồm năm dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng; tự chúng phần nào đã mang cung bậc âm nhạc. Sử dụng riết thành quen nên thuận lợi áp dụng vào việc hát hỏng, dễ dàng đưa giọng lên bổng, xuống trầm. Hơn nữa, những băng, đĩa karaoke thường bao gồm những bản nhạc tiền chiến và trước năm 1975, thịnh hành ngày xưa, quanh đi quẩn lại một vài điệu như Boléro, Tango, Chachacha, Valse, Boston, hiếm khi có được bản nhạc mang điệu Bebop, March và thường được gọi là nhạc Tour. Đại khái một bản nhạc được chia thành ba phần. Phần đầu được chia làm hai khúc và phần cuối cung điệu giống nhau cho hợp luật cân phương. Phần giữa, tạm gọi là điệp khúc thay đổi kiểu hát phần nào, bởi vậy dễ hát, dễ thuộc. Thêm vào đó, nhạc tiền chiến thường mang nặng sắc thái tâm tình dễ cảm động lòng người, dẫu yểu điệu, nhiều khi gây nản lòng tạo nên tâm tình thương vay, khóc mướn. Nói thế cũng hơi quá, cung điệu nhạc tiền chiến nếu đem so với nhạc tây phương sẽ được liệt vào loại nhạc êm dịu chắc chắn giới mộ âm nhạc rộng mở vòng tay đón tiếp bởi không bị lệ thuộc tâm tình ẩn chứa nơi lời hát.

 
Khi Phủ thượng đài với bản nhạc “Đồi Thông Hai Mộ,” Sỹ nhà con dùng đôi đũa khua chén, đĩa, ly, theo nhịp điệu âm thanh của dàn trống, và rồi hai, ba người khác học theo. Kẻ hát cố gào cho át tiếng chén đĩa bị những nghệ sỹ sứa sứa, hung hăng dùng đũa đập ồn ào. Có người ra sân lôi vô chiếc vung nồi to tổ bố gõ, tưởng tượng nó như tiếng “Hihat” của giàn trống, tạo thành những âm thanh chát chúa khiến ai nấy giật nảy người khi hắn phang lần đầu. Nơi thế giới bạn bè quen biết quân hồi vô phèng này có được giây phút thoải mái, phá phách dẫu đôi khi nghịch thường lại càng khiến lòng người hứng khởi.

- Quá đã, Sỹ nhà con gật gù sau khi tợp một hơi rượu.

Và rồi một giờ đồng hồ vội qua; bình rượu Crown Royal (nửa galon), kèm thêm một cặp Rémy Martin, một cặp Napoléon cùng với mấy món nai đồng quê nướng, rượu mận, lòng, dồi, bún, xáo, thoải mái chui tuột vô lòng dạ các tướng. Bốn ấm trà đậm được chị Tình đem lên cùng với những chiếc chén nhỏ. Đang sứa sứa mà thấm giọng với trà đậm quả là thống khoái.

- Nếu có thêm hương vị lưu hoàng của vài chiếc pháo nổ lan trong không khí thì thật tuyệt vời, cụ Tài nhẹ giọng.

- Đúng không bác, Tình vội hỏi, đoạn kêu thằng con lớn, Nghiêm, con có còn trái pháo nào không, lấy ra đây.

- Dạ, chỉ còn có một cây pháo bay, Nghiêm trả lời.

Chiếc pháo bay lên trần, nổ cái bốp, mùi lưu hoàng tỏa lan hòa cùng hơi men, trà đậm khiến ai nấy tỉnh táo.

- Chưa bao giờ cháu có thể ngờ được mùi thuốc pháo lại tuyệt cú mèo như thế này, Hưng nói.

- Diễn tả được không? Cụ Tài hỏi.

- Dạ thưa bác, người biết không nói; kẻ nói không biết ạ.

- Có tiến bộ. Nghiệm được câu nói của Lão học nào dễ chi!

- Cháu thấy hình như những câu nói nơi đạo học chỉ về những sự việc hoặc sự thể xảy đến nơi cuộc sống thường ngày.

- Anh nói đúng. Có câu nói, “Không có gì mới lạ dưới ánh mặt trời” (KT). Những lời khôn ngoan được phát xuất từ tâm thức của các bậc thức ngộ nói lên thực thể sự việc. Trãi dài qua các thời đại nơi cuộc sống nhân sinh từ xưa tới nay; những nhận thức này được gom góp lại gọi là đạo học. Vấn đề chỉ là chúng ta có để tâm nhận thức hay không. Từ những nhận thức này phát sinh những lý thuyết tạo thành phương cách thực nghiệm. Đây có thể là gốc gác cho bất cứ việc thực hành nào của thiền hay Yoga.

- Như thế tại sao lần trước bác nói có nhiều phương pháp Yoga, Tình lên tiếng.

 
Từ khi tiếng pháo nổ, chẳng hiểu tại mọi người giật mình hay do công dụng của nước trà đậm hoặc mùi thuốc pháo cộng hưởng khiến ai nấy tỉnh táo. Màn văn nghệ phụ diễn cũng được chấm dứt. Cái nhóm lộn xộn, cá mè một lứa đang ồn ào, náo nhiệt, bỗng trở nên bình thản, chăm chú hướng về phía cụ Tài lắng tai nghe.

- Tôi vừa nói mà đã vội quên. Có cần thêm bia để chữa lửa không? Cụ Tài diễu!

- Ồ, bác không nhắc có lẽ con quên. Nghiêm, mang bia ở tủ lạnh ra đây con. Tình sốt sắng.

- Như tôi đã nói, những lời khôn ngoan từ ngàn xưa trãi dài nơi tiến trình nhân sinh được gom lại thành những đạo học tùy thuộc các vị thức ngộ nơi những miền sắc dân chung sống. Từ những nhận thức nghiệm chứng này phát sinh lý thuyết thực nghiệm kiến tạo phương cách hoặc phương pháp áp dụng. Mọi lý thuyết đều phát sinh từ những nghiệm chứng cộng hưởng, kiến tạo phương pháp hướng dẫn sự thực hành. Đây cũng có thể là lý do tại sao có ngôn từ hành giả.

- Nhà cháu cố gắng hành thiệt còn chưa tới đâu phương chi hành giả. Sỹ tơm tớp nhào vô diễu.

- Thế mà cứ tốn tiền đưa bà xã đi biu ti sóp (Beauty shop)! Lúc cưới em thì cưới đồ thiệt, từ khi đưa em đi biu ti sóp trở thành hành giả. Dại dột! Giọng Bá trầm trầm như than thở chen vô.

- Ai dám nói tớ đưa bà xã đi biu ti sóp?

- Kẻ nào có tật thì người ấy giật mình. Giọng Ty trầm trầm vang lên khởi xướng cho tràng cười bùng lớn.

Phía phái nữ im re bởi chẳng nhiều thì ít, người xâm mày, kẻ xâm môi, sửa mũi cho thêm mặn mà hình dáng. Dĩ nhiên, đánh phấn, thoa son là chuyện bình thường đối với mọi phụ nữ. Câu nói “Trai tài gái sắc” tự ngàn xưa đã bộc lộ bản tính ngưỡng mộ tự nhiên của con người dẫu đã gây biết bao ngậm ngùi, đớn đau, cho đến thất vọng nơi những tâm hồn thiếu nhận thức. Theo đà tiến triển văn minh, nghệ thuật trang điểm cũng tiến dần tới thủ pháp y khoa giải phẫu, đắp mông, độn ngực, xẻ cằm tùy theo quan niệm thời trang hoặc ý thích cá nhân. Chẳng hiểu người trang điểm mang chủ ý thế nào, hoặc để tự cảm thấy mình đẹp hay để được người khác chiêm ngưỡng. Có điều, chỉ mới đơn thuần nhận định câu nói bình thường, “Sửa sắc đẹp,” tự nó đã mang nghĩa bất thường chẳng khác chi câu, “Đi khám bác sĩ.” Bác sĩ nào để cho mình khám mà nói, đi khám bác sĩ. Tương tự như thế, chẳng lẽ người có sắc đẹp muốn được sửa thành xấu, nhưng lối phát biểu vẫn được diễn tả một cách nghịch thường xưa nay luôn được chấp nhận chẳng bao giờ thấy ai đặt lại vấn đề.

Ý nghĩ chợt thoáng qua khiến cụ Tài muốn khích động tâm tình để ý nhận thức mọi vấn đề nơi mỗi người.

- Đi đâu hay tới đâu, tôi không đặt thành vấn đề. Tuy nhiên, tôi nêu lên hai câu phát biểu để mọi người thử nhận định; đó là “Sửa sắc đẹp” và “Đi khám bác sĩ.”

Thế là bàn dân thiên hạ ngớ ra. Ai chẳng hiểu ý nghĩa hai câu nói đơn giản thường được nghe thấy trên đầu môi chót lưỡi mọi người, nhưng sao cụ Tài lại nhắc đến. Và tất cả đều như ngậm hạt thị khiến bầu không khí trở nên tĩnh lặng pha đậm nét ngỡ ngàng.

Những tiếng ồn ào mở bia, gắp món ăn nổi lên chừng như muốn che lấp phần nào tâm tình bối rối của nhóm nhậu. Nếu như được hỏi về câu nói khôn ngoan, hóc hiểm nào đó, có lẽ chẳng thiếu những nhận định, ý kiến nổi lên. Đàng này, hai câu quá thường, thường đến độ không ai ngờ được đặt thành vấn đề làm cho mọi người chưng hửng. Nói gì, nhận định gì khi ý nghĩa của chúng quá rõ ràng, ai cũng biết, nhưng tại sao cụ Tài nêu lên vấn đề nhận định. Chẳng lẽ nói lên lý do phải đi khám bác sĩ, hoặc sửa sắc đẹp, điều đó đâu phải nhận định, vậy thì nhận định sự thể gì nơi hai câu nói này. Chợt Hưng lên tiếng,

- Thưa bác, xấu thì đi sửa cho đẹp, và ốm thì đi khám bác sĩ.

- Bác sĩ nào để anh khám?

- Dạ thưa bác sĩ Hoa, Sỹ nhào vô.

- Cái chú quỷ, thế mà cũng rống lên, chị Hoa, vợ Hưng la Sỹ.

- À há! Thế mà đã bao lâu rồi đã chẳng để ý. Công nhận, gừng càng già, càng cay, thậm phục, thậm phục. Ty trầm trầm, vừa nhai, vừa gật gù ra bộ đắc ý.

- Anh Ty, anh vừa nói gì? Cụ Tài hỏi đích danh.

Nuốt xong miếng ăn, Ty nhẹ nhàng trả lời trong khi mọi người hướng về hắn,

- Thưa bác, điều chẳng ngờ lại quá thường đối với mọi người từ xưa đến nay. Cháu chợt thấy ngộ ngộ khi bác nêu câu hỏi, “Bác sĩ nào để anh khám?” Hai lối phát biểu, “Sửa sắc đẹp,” và “Đi khám bác sĩ” ngược hẳn ý nghĩa chúng muốn nói lên. Sự thể này minh chứng thiếu nhận định, thiếu nghiệm chứng nhưng chấp nhận thói quen và cho đó là bình thường, không cần thiết hoặc không cần đặt vấn đề. Điều này chẳng khác chi mình đang thở nhưng không nhận biết không khí chung quanh, hoặc mình đang sống nhưng chẳng hiểu mình sống để làm gì, hay mình có ước muốn thăng tiến mà không đặt vấn đề muốn thăng tiến nơi phương diện nào. Nói tóm lại, sống thiếu ý thức.

- Ai có ý kiến gì nữa không?

Không ai lên tiếng bởi không biết trả lời thế nào. Nếu nói rằng không, lỡ còn khía cạnh nào mình đã không nhận biết chăng. Nói rằng có, đã nghĩ được gì khác đâu. Quả hợp với câu, không cho nói thì khóc, cho nói thì mếu. Đôi phút sau, cụ Tài hỏi tiếp,

- Quý anh chị thấy có câu nào nơi sách vở nói về trạng thái này nơi tâm tưởng con người không?

- Thưa bác, hình như coi thường câu, “Nghiệm xét mọi sự.” Bá lên tiếng.

- Dẫu đã biết nhưng cái biết ấy vẫn chưa nhập tâm, chưa trở thành bản năng thì biết cũng như không; bởi thế, vẫn còn luẩn quẩn nơi vòng ngoài nghiệm chứng. Nêu lên đặc tính nghịch thường của hai câu nói này, tôi không khuyến khích bất cứ ai cố ý bới bèo ra bọ, chỉ muốn anh em luôn để ý nhận thức bất cứ điều gì đang diễn tiến nơi cuộc sống dù một câu nói, một hành vi, và nhất là từng ý nghĩ, mơ ước nơi tâm tưởng của mình. Thí dụ, sự thể đang ồn ào xảy ra nơi đất nước Mỹ này đó là vấn đề phá thai. Có anh em nào thử đưa lên một vài nhận định về sự kiện này không?

- Thưa bác, hai phe ủng hộ hoặc chống đối dùng mọi lý lẽ, luận điệu, ngay cả thần thánh với mọi phương thức, cuối cùng cũng chỉ tiến tới quyết định dùng ngân quỹ đóng thuế của dân chúng để trả tiền cho người phá thai hay không mà thôi. Cứ đem chém phăng tất cả những luật sư đi thì chẳng còn gì để nói. Sỹ hung hăng phát biểu.

- Như vậy nào thêm bớt gì, chỉ bới việc và không đi đến kết quả, kết luận chi, lại tốn tiền chế máy chém luật sư. Hưng giải thích.

Nét đăm chiêu hiện rõ nơi gương mặt mọi người bởi câu hỏi được nêu lên không có câu trả lời. Trả lời thế nào khi mình không phải đối diện với những sự thể chẳng đặng đừng của người trong cuộc. Sự thể được nêu lên chẳng khác gì đặt chiếc cày trước ách con trâu, đi tới không xong, giật lùi chẳng được. Hơn nữa, nơi thế giới loài người, biết bao phương pháp, luật lệ từ những chính quyền, cổ võ hoặc áp lực đã thực hiện từ xưa tới nay nhiều khi nghe đến độ ghê rợn tâm thần.

- Có ai nói lên được lý do tại sao phải phá thai không? Cụ Tài hỏi.

- Thì bởi có bầu, thưa bác.

- Thế tại sao có bầu. Cụ Tài mỉm cười khi nêu câu hỏi nghe đầy vẻ kỳ cục nhưng lại khiến mọi người giật mình.

- Thưa bác, nếu vậy thì phải đặt vấn đề luân lý tính dục. Bá nói.

- Nêu lên vấn đề nóng bỏng của thời cuộc, tôi chỉ muốn dùng nó làm cơ hội nhắc nhở anh em nên tỉnh thức, nghiệm xét mọi sự. Người ta đang nhố nhăng kêu gào, cổ võ, chống đối theo ý thích một cách vô ý thức. Họ lợi dụng sự việc nào đó để có công ăn việc làm, để kiếm tiền, để thoả mãn nhu cầu của họ dưới những danh hiệu, mục đích đao to búa lớn. Cả hai phe chống đối hoặc ủng hộ không nhắc nhở gì tới luân lý tính dục, tất nhiên nơi vô thức đã tự động chấp nhận điều được gọi là “Tình cho không biếu không” thì sao có thể giải quyết dự luật phá thai, nên hay không nên dùng tiền thuế của dân để trả tiền phá thai cho bất cứ ai. Xét lại nơi hiện trạng nhận thức, chúng ta có lẽ vì ỷ lại hoặc lười suy tư, quá quen thói chấp nhận sự thường, thành ra thiếu khả năng nghiệm xét; thế nên, luôn có thái độ nương nương mà sống cho qua kiếp người, luôn lần mò áp dụng bản năng của loài đà điểu, chui đầu vô bụi rậm, nhắm mắt lại tưởng rằng không nhìn, không nghe thấy thì sẽ chẳng có gì xảy đến với mình.

 
Không hiểu sao tối nay cụ Tài giáng đòn cân não quá nặng nề đối với nhóm nhậu. Đưa lên hai câu nói nghịch thường nhưng lại được thường tình áp dụng thách đố họ nhận thức, lại còn quất thêm nguyên nhân sự thể gốc gác của sự việc thiên hạ nhố nhăng lạm dụng vì ý đồ nào đó. Người ngoài cuộc thấy thế cũng chóng mặt phương chi mấy tướng nhóm nhậu bụng dạ đầy ắp rượu chè, thịt chó. Thế mà ai nấy im re không dám quen thói diễu như những lần họp mặt kỳ trước.

- Thưa bác, như vậy, nên hoặc phải giải quyết cách nào? Sỹ ngập ngừng.

- Anh nói giải quyết điều chi? Tôi đâu đặt vấn đề cho anh em giải quyết mà chỉ nêu lên với chủ đích kích thích tính chất để ý nhận định sự thể và sự việc trong cuộc sống. Nếu chúng ta để ý nhận định bất cứ phương diện nào của một sự kiện xảy đến nơi cuộc sống, chúng ta mới có thể nhận thức sự việc như chính nó hầu tránh thói quen hàm hồ nghe sao tưởng là vậy, và đã vội cho rằng sự thể chỉ có thế, dẫn đến nhận định hoặc quyết định sai lầm, vô minh. Trường hợp cá nhân, gia đình, khi đã nhận ra nguyên nhân của sự thể, tất nhiên quý anh chị sẽ biết phải hướng dẫn con cái ra sao tránh trường hợp rơi vào trạng thái “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn.” Riêng hôm nay, e rằng nỗi phấn kích phát sinh từ món quốc hồn quốc túy nơi âm phủ chẳng biết có hay không hòa nhập với thánh nọ thánh kia, lại thêm phần hứng khởi của văn nghệ văn gừng khiến lòng ruột lãng đãng, nên tôi phải nêu lên vấn đề may ra tâm trí anh em thoát khỏi cõi vô minh.

- Bài học nào không phải trả giá, niềm mơ nào chứa men đắng chua cay. Bá lập lờ ngâm, đời đáng chán hay không đáng chán, cuộc sinh tồn vẫn lững lờ trôi, an nhiên, tự tại mấy người.

- Anh Bá nói đúng. Nơi dòng sinh hóa bất tận, một tâm hồn sẽ mang nặng niềm ưu uất khi không chấp nhận sự hiện hữu buồn nản được lặp đi lặp lại thường ngày, ăn, ngủ, làm lụng kiếm sống không chi thay đổi; nên khi có cơ hội, tâm thức vùng lên kiếm tìm một ý nghĩa hay đường hướng vươn lên hầu nhận ra giá trị thực thể sự hiện hữu của mình. Chẳng lẽ mình được sinh ra, cả đời phải lo toan miếng cơm manh áo rồi chết và đi vào quên lãng như đã chưa từng bao giờ hiện hữu nơi cõi nhân sinh. Như chúng ta đã biết, chính lòng khát khao không chấp nhận nhưng muốn nhận biết và giành lại quyền giải quyết vận mệnh của mình, đã thôi thúc con người tìm hiểu lẽ sinh tồn và giá trị của quãng thời gian hiện hữu được gọi là cuộc đời mỗi người. Đây là căn nguyên phát sinh nhận thức tâm linh được gọi là đạo học, và từ nhận thức này, nảy nở hành trình nghiệm chứng dẫn đến những phương cách thực hành thường được gọi là pháp. Nơi phương diện tu chứng Ấn học, sự thực hành này được gọi là Yoga và anh em đã biết có nhiều pháp môn Yoga tùy thuộc quan niệm cũng như trình độ của hành giả.

- Thưa bác, dẫu trình độ của con người khác nhau, thế sao không có một pháp môn Yoga chung nào đi từ dễ đến khó, từ sơ căn tới mức thiện toàn để hành giả tùy nghi thực hành cho hợp với trình độ của họ hầu tiếp tục thăng tiến? Phủ từ trước tới giờ ít nói bỗng lên tiếng.

- Hỏi là đã tự trả lời. Anh nhận nhiệm vụ thuyết pháp về Yoga phải không? Hèn chi dùng được ngôn từ pháp môn. Nơi nhà Phật, chỉ mỗi một pháp “Kiến tính thành Phật;” thế sao biết bao tín đồ, bao nhiêu hành giả, bao nhiêu phật chưa thành mà vẫn đầy rẫy chùa chiền, cúng kiến, vái lạy, xin sâm, trừ tà, truyền tâm ấn khói lên. Phật tâm, Phật tính, Tâm bất sinh sẵn sàng nơi mọi người sao vẫn còn hành giả, hành thiệt. Anh Sỹ, anh hành thiệt như thế nào, có thể nói cho mọi người biết không?

Mọi người phá lên cười khi nghe thấy cụ Tài nhắc lại lời nói tửng tửng của Sỹ.

- Cần chi phải hỏi hắn, cứ nhìn lũ nhóc thì biết hắn hành thiệt thế nào. Bá nói.

Lại thêm một tràng cười rộ như muốn phá bung mấy cửa kiếng nơi tường. Ngược lại hắn tỏ ra nghiêm chỉnh như đang phải đối diện với quan tòa khắt khe, lên giọng,

- Thưa bác, nhà con đã phải tốn hao biết bao công phu tu luyện mà vẫn thua vợ chồng Phủ hai mống. Có nhà cháu đang ngồi đây làm chứng; nào là vợ đẻ chồng đau; nào khi tối lửa tắt đèn chạy thày, lấy thuốc, em bu lăng (Ambulance), em bu lung khói lên; nào nay nhà trường gọi con trốn học bỏ đi chơi; mai hàng xóm la lối mấy tên giặc oánh lộn. Nhà con nghĩ, với những công sức hành thiệt như thế, chắc chắn phải thành chánh quả ngồi chễm chệ trên niết bàn tha hồ hưởng xôi oản cúng kiến sau này. Sỹ được trớn ba hoa.

- Xôi thì có, nhưng oản chẳng biết còn nước non gì chăng. Ty nói trầm trầm.

- Ơ cái ông này, thế ông không biết rằng các cụ thường nói, càng già càng dẻo, càng dai sao.

- Mấy cái ông quỷ này ăn nói tục tĩu. Chị Hoa lên tiếng.

- Chị nói sao! Không tục làm sao có thánh, cũng như không thân làm sao có thần, và không thần sao có Phật. Chứ tôi hỏi chị, không tục sao có con gọi bằng mẹ, cháu gọi bằng bà? Không tục sao có chị ngồi đấy và tôi ngồi đây. Đã cho là tục mà cố tình vấp phạm thì vẫn còn vô minh, Phật sao hiển lộ. Sỹ được nước, xả một hơi.

- Biết dzồi, biết dzồi, nói mãi, nói dai, nói dài, nói dại. Nói riết bay hết hơi men chỉ tốn thêm bia, nào được ích chi! Ty chặn Sỹ.

- Mình phải thức ngộ, phải biết mình đang làm gì, và còn hơn thế nữa, phải biết mình đang nghĩ gì mới có thể nghiệm chứng, mới thoát được vòng vô minh. Sỹ cố níu kéo chứng tỏ sự hiểu biết.

- Vâng thưa ông, có thoát được vòng vô minh thì cũng vẫn sáng như đêm ba mươi. Ty nói.

- Đủ rồi, chú Sỹ. Ai cũng biết chú đã thức ngộ chứ chưa ngủ ngộ nên mời chú im lặng cho mọi người nhờ. Hướng qua cụ Tài, ông Thung tiếp tục, xin mời cụ giải thích về các phép Yoga.

- Sao lại là phép dzô ga, ra ga, phải là pháp môn Yoga chứ không phải phép bùa. Sỹ hăm hở.

 
- Sở dĩ có những pháp môn Yoga khác nhau cũng chỉ vì quan niệm một Thượng Đế hữu ngã được gọi là Brahma; dẫu cho rằng hồn của mỗi người được gọi là Atman là một phần của Thượng Đế Brahma. Ngay như nơi Phật học, chỉ cần kiến tính thành Phật thì cầu xin, vái lạy với đấng nào. Xét như thế, chính những nhận thức thế tục về chủ thể hiện hữu đã là đầu mối cho sự bành trướng những tổ chức mang danh hiệu và đường lối thực hành riêng biệt. Và để hệ thống hóa tổ chức, tất nhiên cần đến nghi thức song hành cùng lề luật được kiến tạo với mục đích quản trị hệ thống tổ chức nhân sinh. Dẫu mọi Phật tử đều thuộc nằm lòng câu nói của đức Thích Ca, “Trong 49 năm rao giảng, ta chưa từng nói lời nào,” thế sao hầu hết các nhà rao giảng, các sư sãi thuộc về Phật giáo đều công truyền rằng vì thấy con người khốn khổ nơi vòng sinh bệnh lão tử nên đức Thế Tôn bỏ ngai vàng, vợ con, bỏ cuộc đời vàng son tu chứng giác ngộ giải thoát chúng sinh. Thêm vào đó, những lời rao truyền của bậc giác ngộ trải qua thời gian, trước hết bị tam sao thất bổn, sau lại bị nhận thức hạn hẹp thế tục làm cho méo mó, đồng thời tham vọng truyền bá cho mọi giới nên cố dùng nhận thức thế tục, muốn biến con khỉ thành nhạc sĩ; do đó cải biện giáo lý thành lề luật, thành thứ mì ăn liền khiến tín đồ yên tâm cho rằng chỉ cần tuân theo những nghi thức, những giới luật phải giữ sẽ được giải thoát, thức ngộ. Tất nhiên, nhiều người, lắm ý; trong trường hợp trời không chịu đất thì đất cũng không chịu trói, thuở ban đầu từ một tổ chức, dần theo thời gian bị phân chia thành nhiều tông phái, truyền thống. Xét như thế, anh em có thể hiểu tại sao có những danh hiệu, Nam Tông, Bắc Tông, Đại Thừa, Tiểu Thừa, v.v... Cụ Tài nhẹ nhàng giải thích một hồi, đoạn nâng ly trà nhấp giọng. Mượn cơ hội này, Sỹ đã vội chen vô,

- Thưa bác, thế sao nơi sách vở có người cho rằng Tiểu Thừa chỉ đạt tới hạnh bồ tát, còn Đại Thừa mới đạt niết bàn?

- Có ai trả lời được không? Nhưng phải hợp lý, hợp tình; nói có sách, mách phải có chứng. Cụ Tài nhìn quanh thái độ chừng như thách đố.

Đáng đời! Các tướng xưa nay quen thói tào lao, dùng mọi đối tượng làm đề tài diễu, từ thần thánh đến quỷ ma, hầu có được đôi phút thoải mái tâm tư sau những ngày miệt mài với công việc lo kiếm miếng cơm manh áo nuôi sống gia đình. Hiện trạng này không phải chỉ giới hạn nơi các nhóm bạn bè đàn đúm mà còn là một phong trào mạnh mẽ bành trướng lan tràn trên những băng tần vô tuyến truyền hình và truyền thanh. Hình như con người thời đại này mang nặng tâm trạng ưu uất do phải đối diện với cuộc đời thăng trầm, biến đổi không ngừng nên khao khát những niềm vui diễu cợt nhẹ nhàng thoáng qua, may ra giảm bớt căng thẳng tâm tư được chừng nào hay chừng nấy. Thực ra, “Lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ” (N. Du). Nếu lòng đã buồn, càng đối diện với cảnh vui thì sau giây phút hờ hững tạm vui, lòng càng chìm sâu nơi nỗi buồn khổ ải khi con người trở lại với chính mình. Thực trạng này chẳng khác gì mượn rượu hầu mong giải sầu, ai ngờ sầu lại càng sầu. Mấy miệng nhanh nhẩu chợt cảm thấy chẳng khác gì mõm ngựa bị bộ cương khóa, hết đường ngó ngoáy.

- Người hỏi tự đã có câu trả lời. Bá chọc Sỹ.

- Tớ không biết mới hỏi. Nếu đã có câu trả lời, ai hỏi làm chi.

- Muốn biết phải hỏi Trạng Quỳnh, cho đại cấm tiểu, ha ha, Phủ phá ngang đoạn cười lớn.

- Anh Hưng, cụ Tài nhắc. Anh diễn thuyết về Phật học mà.

- Thưa bác, giọng Hưng ngập ngừng. Cứ theo lục tổ Huệ Năng, “Giáo ngoại biệt truyền. Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm. Kiến tính thành Phật” (GLTH; Tr.184), thì đâu có gì mà đạt nhưng lại trở về với chính mình, lau gương để hiện rõ bổn lai diện mục thì dẫu đạt niết bàn hay đạt hạnh bồ tát vẫn chưa kiến tính, phương chi là Tiểu Thừa hay Đại Thừa. Cháu chỉ có thể nghĩ được như thế.

- Đó là câu trả lời đúng nhất và hay nhất mặc dầu thấy như không trả lời gì về câu hỏi liên hệ đến điểm đích của Đại Thừa hoặc Tiểu Thừa. Riêng vấn đề người ta nói, hoặc tác giả này, tác giả kia viết, thì đâu có phải là ý kiến hoặc nhận thức của chúng ta. Quý anh em vẫn để lòng trí luẩn quẩn nơi ngôn từ được mượn để thiết lập câu hỏi. Điều này nói lên anh em vẫn còn lệ thuộc nơi những lý thuyết, những giáo lý, những quan niệm nhân sinh thế tục. Có lẽ đây là lý do đã khiến ông Thung yêu cầu tôi giải thích về các pháp môn Yoga. Tôi sẽ giải thích nhưng nói trước với anh em; khi anh em còn nghĩ về chúng thì nên nhớ rằng chúng không phải là hành trình kiến tính của anh em, mà là của người khác. Nói cách khác, chúng chỉ là phương tiện để anh em dùng mà so sánh với nghiệm chứng nơi cuộc đời của mình.

- Chuyên tâm nhận định một chút, chúng ta sẽ thấy rõ một điểm; đó là tùy theo trình độ nhận thức mà các nhà sáng lập tông phái kiến tạo các pháp. Điều này có nghĩa các pháp là sản phẩm của nghiệm chứng và nhận thức. Như vậy, các pháp cũng là công thức thực hành đã được thực chứng do một số hành giả tiên khởi của tông phái và được ghi chép lại cho hành giả hậu thế đỡ tốn công sức khai phá. Tuy nhiên, kết quả tu chứng theo các pháp môn chắc chắn bị ảnh hưởng bởi một số điều kiện chẳng hạn như căn cơ của hành giả, môi trường tu chứng, tâm trí cũng như cơ thể người thực hành. Bởi thế, dẫu trong một tông, phái, thực hành cùng một pháp môn, sự thành đạt của mỗi hành giả ra sao chỉ y biết. Nơi hành trình tâm linh, thành quả nghiệm chứng, tu chứng theo pháp môn không giống như kết quả khoa học hay toán học, một cộng với một bằng hai, hoặc cứ hai phần hydrogen tổng hợp với một phần oxygen dưới một áp suất nào đó sẽ tạo thành nước; bởi điều kiện căn bản là chính hành giả đã khác biệt cộng thêm điều kiện môi trường ảnh hưởng trên hành giả nên thành quả tất nhiên khác biệt.

 
- Dẫu có nhiều pháp môn Yoga, tôi chỉ muốn nói đến nguyên tắc cũng như quan niệm về một đôi pháp môn thực hành. Có ai nhớ lần trước tôi kể tên bao nhiêu pháp môn Yoga không.

- Thưa bác, hình như năm, sáu, bảy, tám, chín cái gì đó, mà những cái tên gì gì ra giô ra gi chẳng thể nào mà nhớ được. Phủ trả lời.

- Như tôi đã nói lần trước, mục đích của thiền định hay Yoga hoặc các phương pháp khác chỉ là nhận chân được bản thể đích thực của hành giả và ngay khi đó cũng nhận chân được thực thể tối thượng, cội nguồn của vũ trụ, và tất nhiên sẽ biết mục đích và giá trị cuộc sống con người. Đây chính là ý nghĩa câu nói, “Kiến Tính thành Phật.” Hãy làm sao biết được mình thực sự là gì, anh em sẽ biết được chân lý. Chúng ta không phải làm chi hết, chỉ cần làm một việc là hãy đào sâu nơi nội tâm, và nếu làm được như vậy, anh em sẽ tìm được giải đáp cho mọi vấn đề. Riêng xét về Yoga, chúng ta thường dùng sai ngôn từ hoặc hiểu sai ngôn từ để chỉ về nó.

Cụ Tài chợt ngưng nói, quay qua Hưng,

- Anh Hưng, anh làm ơn ra xe lấy dùm tôi cuốn sách đang để ở ghế tôi ngồi lúc nãy. Đoạn cụ tiếp tục,

- Yoga bao gồm nhiều môn học từ thiên văn, địa lý, triết học, toán học; trong đó hai ngành đặc biệt về tập luyện xác thân được gọi là Hatha Yoga và Kriyâ Yoga. Đọc nơi sách vở, đôi khi Kriyâ Yoga còn được gọi là Râja Yoga. Cũng nơi sách vở, chúng ta biết, tất cả các đạo học đều phát xuất từ Đông Phương, bởi đó tâm tình mộ đạo phát triển mạnh mẽ. Giống như mọi dân tộc Đông Phương, tôn giáo là lẽ sống của người dân Ấn Độ. Lòng khát khao tìm sự giác ngộ tâm linh để hưởng lạc thú tinh thần được coi là khá mạnh mẽ. Chẳng thế mà họ có thể chịu đựng cảnh sống nghèo nàn lại phải đương đầu với những thiên tai, hạn hán hằng năm xảy đến cũng như nhẫn nhục chấp nhận sự hà khắc của quan quyền thống trị họ.

Hưng đã mang vào cuốn sách, hai tay trao cho cụ Tài. Cụ lật mấy trang đầu đoạn nói,

- Để tôi đọc một vài đoạn nơi cuốn sách này giải thích về pháp môn Kriyâ Yoga cho anh em nghe. Trước hết, lý do nào hoặc quan niệm, nhận định nào bậc Yogi tập luyện thể xác. Nơi sách được viết, “Thể xác của một người thường cũng ví như một ngọn đèn 50 watts, không thể chịu nổi một điện thế một triệu volts gây ra bởi sự thực hành quá mức pháp môn Kriyâ Yoga. Sự gia tăng một cách tuần tự và hợp lý số lượng công phu Kriyâ sẽ từ từ thay đổi xác thân đến mức có thể chịu đựng nổi luồng thần lực mạnh mẽ của vũ trụ, tức là sự biểu lộ đầu tiên của tinh thần” (XPHB tr.5). Và cách thực hành được giải thích như sau, “Hành giả (Yogi) dùng tư tưởng dẫn luồng sinh lực đi theo một đường vòng xuyên qua sáu bí huyệt của tủy xương sống (từ bí huyệt trên đỉnh đầu xuống các bí huyệt ở cuống họng, ở tim, ở rún, ở lá lách và xương mông) rồi đi ngược trở lên để khép một vòng tròn tương đương với mười hai cung hoàng đạo tượng trưng vũ trụ trong con người (tiểu thiên địa). Một lần công phu chừng nửa phút đồng hồ vòng quanh xương sống theo pháp môn Kriyâ, giúp cho con người thực hiện một sự tiến bộ bằng một năm tiến hóa tâm linh thông thường (XPHB tr.4).

 
Một cánh tay giơ lên khiến mọi người ngạc nhiên, lại là cánh tay của chàng thích phá đám, Sỹ nhà con, khiến mọi người cảm thấy hơi khó chịu.

- Thưa bác, nếu chỉ nửa phút mà đã đạt được sự tiến hóa tâm linh tương đương với một năm của người bình thường thì chỉ cần vài ngày đã có thể thức ngộ.

- Ông phải xin ghi danh vô học lớp mẫu giáo đi là vừa. Cái chứng chỉ hai năm kỹ thuật của ông có lẽ chó gặm tan mất rồi còn đâu mà ý kiến với ý bọ. Ông thử tính xem nếu so sánh 50 watts với luồng điện một triệu volts và cường độ sơ sơ vài trăm ampère thì phải bao nhiêu phút ông mới “điện năng,” phương chi là thức ngộ.

- Thế chú mày muốn sống được bao nhiêu tuổi mà đòi giô ga, ra ga? Cứ tính sơ sơ dòng điện 200 ampère với điện thế một triệu volts thì mới có bốn triệu cái nửa phút tức là hai triệu phút; thế giờ đâu cho chú mày ăn nhậu, chơi bời, đàn đúm; giờ đâu khiến vợ đẻ chồng đau; giờ đâu đánh tôm, bắt cá kiếm tiền trả bill, trả bọng. Xin chú mày làm ơn ngồi im cho bà con nhờ. Phủ lửng thửng lên giọng kẻ cả.

- Nhưng sách viết lung tung khiến nhà con điếc cái tai chịu không được.

- Đó là giấu hiệu đáng mừng, cụ Tài lên tiếng. Mới thoạt nghe mà đã thấy khó chấp nhận tức là ít nhất đã có suy nghĩ, nhận định. Có điều các anh nên để ý; như tôi đã nói, mọi sự thực hành phát sinh từ quan niệm tiến dần đến nhận định, tu chứng. Những gì được ghi lại chỉ là lý thuyết giải thích mà thôi. Để tôi đọc tiếp, đạo sư Pâtanjali viết như sau, “Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có kỷ luật của xác thân, kiểm soát tư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ AUM. Pâtanjali cho rằng Thượng Đế tức là sự rung động trong vũ trụ của thánh ngữ AUM mà người hành giả nghe được trong cơn tham thiền. AUM tức là danh từ sáng tạo, là tiếng động cơ của vũ trụ. Người hành giả tu luyện Yoga sẽ có lúc nghe được âm thanh văng vẳng của thánh ngữ AUM vang lên từ chỗ sâu thẳm của nội tâm mình. Trong khi y nhận được một sự khích lệ tâm linh như thế, người hành giả biết rằng y đã tiếp xúc với cõi thiêng liêng (XPHB tr.3). Trong trạng thái tiếp xúc sơ khởi với đấng thiêng liêng như thế, tâm thức của người hành giả đắm chìm trong tâm thức của vũ trụ, nguồn sinh lực thoát ra khỏi xác thân y làm cho xác thân y có vẻ như chết, cứng đơ, bất động. Hành giả (Yogi) hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác y. Khi đạt tới trạng thái cao siêu hơn, tâm thức của y hòa hợp với thiêng liêng trong khi y vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy ra chung quanh mình (XPHB tr.4).

- Sri Yukteswar trình bày, “Pháp môn Kriyâ Yoga là một phương pháp hối thúc sự tiến hóa của con người. Từ thời cổ xưa, các nhà đạo sĩ (Yogi) đã khám phá ra điều bí mật này, là tâm thức vũ trụ được nối liền chặt chẽ với sự kiểm soát hơi thở. Nguồn sinh lực của con người lúc bình thường bị hao tán do bởi sự náo động hằng ngày, phải được gom lại để dùng trong những hoạt động tâm linh cao siêu hơn bằng cách thực hành pháp môn Yoga làm lắng dịu nhịp độ của hơi thở. (XPHB tr.4). Kriyâ Yoga có nghĩa Hợp nhất với đấng Vô Cùng do sự trung gian của một nghi thức hay hành động. (XPHB tr.1). Hành giả của pháp môn Kriyâ Yoga quan niệm rằng đó là một phương pháp giúp cho con người bài tiết chất thán khí của cơ thể ra ngoài và tiếp thêm dưỡng khí vào máu. Những nguyên tử dưỡng khí phụ trội sẽ chuyển thành một luồng sinh khí phục hồi sinh lực cho bộ thần kinh tủy não. Kriyâ Yoga có thể trì hoãn, hoặc ngăn ngừa sự già cỗi của các tế bào bằng cách ngăn chận sự tích tụ của máu đen. Những nhà đạo sĩ tiến hóa cao có thể thay đổi các tế bào của họ thành chất tinh lực thuần túy. Theo truyền thuyết, pháp môn Kriyâ Yoga đã xuất hiện từ xa xưa, nhiều ngàn năm, đức Krishna, một vị tiên tri lớn nhất của Ấn Độ, đã truyền dạy cho Arjuna, đã đề cập đến pháp môn Kriyâ Yoga trong một câu thánh kinh Bhagavad Gita, “Những người khác vận chuyển luồng sinh khí bằng cách điều chỉnh hơi thở ra hít vào, và tập luyện phép khí công pranâyama” (XPHB tr.2). Tuy nhiên, muốn theo con đường tắt của pháp môn Kriyâ Yoga, chỉ có những hành giả đã được huấn luyện thuần thục dưới sự chỉ dẫn của các vị chân sư, nhờ đó họ chuẩn bị thể xác lẫn tinh thần đến mức tuyệt đỉnh khả dĩ tiếp nhận  quyền năng phát triển bằng sự công phu tu luyện thường xuyên.

- Thưa bác, nếu như thế thì mình đâu cần phải biết bởi vì cái biết này cũng như không, chẳng khác gì ăn bánh vẽ. Cháu nghĩ rằng chính tác giả của những lời này cũng không biết gì về cái gọi là Râja hoặc prana Yoga. Hơn nữa, lại đưa thêm điều kiện cần phải có những người đã thực hành để chỉ dẫn cộng thêm lại phải được chuẩn bị từ thể xác đến tinh thần. Tìm đâu ra người đã thực hành! Sự này chẳng khác gì bảo rằng nếu tập luyện sẽ bay được như chim trong khi không được sinh ra với đôi cánh. Đàng khác, giờ giấc nào để tập luyện trong khi đầu tắt mặt tối kiếm miếng cơm, manh áo cho gia đình. Như vậy, có thể chỉ những người ế ẩm, ngay cả những mụ đui, hủi, què, cụt cũng chê mới có thể luyện Yoga mà thôi...

- Ai không biết thừa bộ mặt nát như mặt thớt của ông, cần gì phải quảng cáo. Thôi thì hãy cứ bằng lòng với bộ niết bàn của nhà ông mà hưởng xôi, hành oản, hành thiền, mắc mớ chi phải phiền hà với giô ra vớ vẩn cho mệt cái miệng, phiền đến những cái tai của thiên hạ.

Không hiểu sao hôm nay Bá cứ nhè Sỹ mà đấu. Dẫu nhóm nhậu xưa nay đã quen thói bới móc mọi khía cạnh của bất cứ ai, dù thần thánh nào, để mọi người có cái cười chung vui. Dĩ nhiên, với bạn bè quen biết lâu ngày, diễu như thế cũng chẳng sao bởi không ai xét nét, chấp chiếm những lời nói dựng đứng hầu như kết án hoặc bêu riếu. Quả là khó hiểu.

- Anh Sỹ nói cũng có lý, cụ Tài lên tiếng, nhưng cái lý của anh chỉ chứng tỏ một tâm hồn vẫn nặng nề nông nổi, chưa an định. Nơi cuộc đời, biết bao chuyện được quảng cáo, khuyến dụ chẳng liên hệ gì tới mình; nếu để chúng ảnh hưởng tới tâm trí, có lẽ chúng ta không có giờ để ăn hay ngủ. Thực tế nhan nhản những loại quảng cáo này. Nói đúng ra, chẳng phải bây giờ chuyện mới xảy đến mà đã từ ngàn xưa. Nơi Tục Ngữ, Ca Dao, chúng ta thấy câu, “Đầu ngòi có con ba ba, kẻ gọi con trạnh, người la con rùa.” Anh Sỹ, anh có bị phiền hà khi gặp người tuyên truyền con ba ba là con trạnh hay con rùa không?

- Thưa bác, Sỹ vội chộp cơ hội để nói, hình như ngữ này không nói được thì ăn không ngon, ngủ không yên, nên có dịp hay không cũng chẳng chịu để cặp môi ăn da non e chúng liền lại thì khổ. Đối với con ba ba, người ta cho là con trạnh hay con rùa sẽ không ảnh hưởng gì tới cháu vì cháu đã thực chứng được con ba ba như thế nào, nhậu tuyệt ra sao. Nhưng với loại giô ra, cháu chưa bao giờ được thực chứng nên mới thắc mắc.

- Anh không thắc mắc về những pháp môn được người ta quảng cáo đâu. Anh thắc mắc vì muốn có quyền năng như người ta quảng cáo trong khi không phải làm gì hoặc thực hành sơ sơ một chút sẽ có thể đạt được. Trường hợp anh nói đã thực chứng con ba ba thế nào nên không bị ảnh hưởng bởi những lời tuyên truyền, quảng cáo; điều mà chính những người tuyên truyền không biết lại chỉ càng chứng tỏ sự thiếu tự nhận thức về bản thân mà thôi. Sỹ ra hiệu muốn nói nhưng cụ Tài đưa tay ngăn lại và tiếp tục. Nói có sách, mách phải có chứng; nếu anh thử tự hỏi biết bao vấn đề xảy đến chung quanh cũng như những tin tức nghe được, hoặc mơ mộng anh hằng luôn ấp ủ, phỏng đã có những gì anh thực chứng mà chúng vẫn hình như không khuấy động tâm trí anh đến độ phải đặt thành vấn đề giải quyết.

- Đồng ý rằng tác giả những đoạn sách tôi vừa đọc không thể nói lên phương thức thực nghiệm Kriyâ Yoga cũng như kết quả thực chứng chính tác giả đã đạt được tới trình độ nào; điều này chứng tỏ sự thể mà anh nêu lên là trình bày chiếc bánh vẽ, vô bổ, chỉ thuộc loại quảng cáo, tuyên truyền, nhưng nào có chi ảnh hưởng đến bất cứ ai nếu lòng đã an định, không bị chi phối bởi chính ngay ý nghĩ, ước muốn của mình. Thử xét trường hợp câu Phúc Âm, “Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi; kẻ tin vào Ta, thì các việc Ta làm kẻ ấy cũng sẽ làm và sẽ làm được những việc lớn lao hơn thế nữa” (Gn 14:12). Anh tin vào Thiên Chúa, anh thực sự tin theo đức Giêsu phải không! Anh cũng thực sự tin rằng lời Phúc Âm không tuyên truyền giống như những gì tôi vừa đọc từ cuốn sách phải không? Thế anh đã làm được những gì như lời Phúc Âm bảo có thể làm như đức Giêsu? Và đã bao nhiêu người tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu như anh; chẳng những thế lại đương đường công bố, rao giảng, và khuyến dụ người ta tin theo đức Giêsu, thế sao chẳng ai thực hiện được như lời Phúc Âm đã nói. Thế sao nó không làm phiền lòng anh? Hoặc anh cho rằng Phúc Âm viết những điều không tưởng nên chẳng thèm để ý cho khỏi phiền lòng? Anh thử nói coi, cả đời theo đạo, tin theo đức Giêsu, anh đã nghiệm chứng được gì nơi Phúc Âm, phương chi anh mới chỉ lần đầu nghe câu tuyên truyền, tạm gọi như thế, về Yoga, Yogi.

- Nói người phải nghĩ đến ta, đưa tay rờ gáy mới là người khôn. “Talk, talk, talk cho lắm vào,” không biết mình nói gì mà cũng cứ nói. Nhưng không biết có im miệng được chăng hay cứ vẫn tội chết không chừa mà cố ham cùi dừa, bánh đa. Giọng Ty trầm trầm nổi lên khiến mọi người liếc Sỹ; có kẻ ra dấu chọc quê.

- Chưa chứng được thì tớ cũng đã là Phật, dẫu Phật chưa thành đâu có sao! Thế mà hắn vẫn tơn tơn như chẳng có gì ảnh hưởng. Mở chai bia, hắn tỉnh queo tu một hơi thoải mái.

 
Mọi người giật mình; nỗi thao thức nào đó chợt hiện về nơi tâm não; chỉ đôi lời thách đố về nghiệm chứng lòng tin nơi Phúc Âm như đã  bị mũi tên xuyên thấu lòng ruột. Biết nói sao khi đã bao ngày tháng theo đạo mà lời Kinh Thánh vẫn cứ như ngây, như ngô tựa  khoảng trời xa thẳm mông lung vô định chẳng gì liên hệ đến người tự nhận tin theo. Có tật, giật mình, mấy tướng theo đạo Phật cũng thế. Có mỗi mấy chữ, kiến tính thành Phật mà giỏi lắm cũng chỉ biết lặp đi, lặp lại cho có vẻ Phật tử. Nào những khuyến dụ đạo đức, ăn chay niệm Phật, nào những từ tâm, từ bi, từ hòn, nào những cúng bái lễ Phật ngày rằm, ngày giỗ, sao thực hiện hoài mà chẳng thấy gì được gọi kiến tính. Những lời thách đố của các bậc thức ngộ như gợi về đày đọa tâm trí những kẻ tin tưởng. Phỏng những lời đó là những chiếc bánh vẽ như Sỹ nhà con ám định. Nhưng nếu chúng chỉ là những chiếc bánh vẽ sao có thể ngự trị nơi tâm hồn những người tin theo từ thế hệ này qua thế hệ khác! Phỏng con người tin theo vì nỗi lo sợ nào đó nên cũng ráng tổn ải chút ít hầu trấn an tâm hồn hoang mang, vô định hướng. Quả là càng biết càng phiền. Đức Thích Ca bảo chớ vội tin những lời ngài nói, nhưng hãy nghiệm chứng mới trở nên Phật đã thành. Đức Giêsu phán kẻ nào tin vào ngài, thì các việc ngài làm kẻ ấy cũng sẽ làm. Nghiệm chứng, tin, là thế nào mà thành với chẳng thành, làm được với không làm được. Nay nghe đến những pháp môn đòi hỏi luyện thân xác, luyện trí tuệ, trí huệ, nào thày dạy, nào bực chân nhân hướng dẫn, lại càng rối mù cả lên. Chỉ cần nghiệm, chỉ cần tin đã không xong phương chi pháp nọ, thiền kia, coi chừng chỉ chết đói. Hừ, chẳng nghiệm, chẳng tin chưa chết thằng tây nào nhưng thiếu một bữa ăn thì bầy con kêu gào rối tung lên ngay lập tức. Ôi phận người, cái khó bó cái khôn, nhưng sao lại diệt dục, diệt ước mơ, ham muốn. Chẳng ham muốn ăn thì vẫn phải ăn; không ăn sẽ chết đói, và khi đói thì đầu gối phải bò còn đâu ngày giờ để nghiệm, để tin. Không chấp nhận thân phận con người thì đã là người; tránh trời không khỏi nắng. Ngược lại, nỗi thao thức nào đó vẫn miên tục thách đố; lòng khát khao nhận biết giá trị kiếp người vẫn hằng thúc dục tâm trí tìm đường giải quyết. Trận chiến nội tâm chợt bùng nổ khiến lòng ruột các tướng xôn xao, giao động để rồi những chiếc miệng quen thói ba hoa im như miệng hến tạo bầu khí thinh lặng nặng nề.

 
Cụ Tài chẳng ngờ kết quả của việc dùng câu Phúc Âm thách đố nhóm nhậu đã tạo nên trạng thái im lặng của mấy tướng coi trời bằng vung này. Thích bới bèo ra bọ để diễu như Sỹ nhà con mà cũng hết ngó ngoáy thì còn ai có thể kiếm cớ phá ngang. Cụ nhẹ nhàng hỏi,

- Sao im lặng thế?

- Thưa bác, bác chọc đúng huyệt tụi con, Phủ chầm chậm trả lời. Bác đặt vấn đề về kết quả của sự tin theo đức Giêsu nơi Phúc Âm khiến cháu cảm thấy trống rỗng vì đã bao lâu rồi, nói cho đúng, chỉ biết tuyên xưng rằng tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu, tin vào hội thánh, nhưng thực tế minh chứng chỉ là một sự tuyên xưng, một sự lặp lại giống như quen thói nhắc đến những câu Kinh Thánh in sâu nơi tâm trí đến độ nằm lòng để rồi không bao giờ đặt vấn đề mình tin theo gì, tin thế nào, và thế nào thì được gọi là tin, phương chi nói đến làm được những việc như đức Giêsu. Vẫn biết rằng cần nghiệm chứng những câu nói nơi Phúc Âm nhưng nghiệm thế nào, nghiệm ra sao thì đành bí tịt. Đi nhà thờ nghe các cha giảng phải tin vào Chúa, phải tin vào đức Giêsu, tin nơi giáo hội, thì chỉ biết thế chứ các cha có giải thích tin như thế nào hoặc thế nào thì được gọi là tin đâu. Hơn nữa, cháu chưa bao giờ được nghe bất cứ linh mục nào nói hoặc giải thích về mức độ của lòng tin; điều này có nghĩa, phải làm gì thì đạt đến mức độ tin như thế nào, thành quả ra sao. Tất cả chỉ nhai đi nhai lại tin, tin, tin, không hơn, không kém.

- Anh vừa trình bày nhận thức nơi nghiệm chứng về thực thể trống rỗng của lòng tin của mình. Ai có thêm nhận định nghiệm chứng nào nữa không?

- Thưa bác, Hưng lên tiếng, khi bác nhắc tới tin vào đức Giêsu khiến cháu liên tưởng tới câu nói của đức Thích Ca, ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật chưa thành. Tuy nhiên, khi nghĩ đến câu nói của lục tổ Huệ Năng, kiến tính thành Phật, hình như có sự rắc rối nào lẩn quất ngăn cách hai câu nói này. Nói rằng kiến tính thành Phật thì Phật đã ở nơi mình rồi. Nói như vậy cũng không đúng, bởi Chân Như, Phật tính đều vô ngã; cho nên phải nói mình là Phật. Như vậy, mắc mớ chi phải kiến, phải tìm, phải làm gì. Chẳng lẽ không kiến tính thì mình là con bò, con chó ư? Thế mà lại thêm nào tu chứng, nào nghiệm chứng, nào hành giả, hành thiệt, hạnh nọ, hạnh kia, bồ tát, bồ múc, tam bảo, cúng dường, bái phật, ăn chay, ăn mặn, đi chùa, đảnh lễ rối lên. Cháu chỉ đọc được lục tổ Huệ Năng giã gạo, nhờ người viết kệ lên tường chứ không thấy sách vở nào chép lục tổ đảnh lễ Phật hoặc cúng đường hay đi chùa nào, ăn chay ăn mặn ra sao, hoặc thực thi hạnh bồ tát, bồ nông nào, mà chỉ kiến tính thành Phật. Một điều cứ luẩn quẩn trong đầu cháu đó là vấn đề ăn chay. Đã chắc gì ăn chay niệm Phật giải thoát tâm tư con người hơn ăn mặn nếu không muốn nói ăn chay lại chỉ nhấn chìm tâm thức con người nơi vòng thị dục. Nói ra có vẻ hơi quá, nhưng thử xét nơi phương thức ăn chay. Nếu muốn ăn giò, ăn chả thì đã chết ai đâu, mắc mớ gì phải dùng đậu phụ thêm gia vị vô rồi giả làm giò để ăn như giò, hoặc như gà, như cá. Có phải cái thị dục muốn ăn như ăn cá, ăn giò, đã quá nặng nề ám ảnh nơi tâm trí người ăn chay đến nỗi phải tốn thêm tiền xài của giả để rồi cứ tưởng đang an hưởng đồ thật. Cái tâm trí này chỉ tạo nên nhận thức bệnh hoạn, chìm trong cái dục nên không nhận ra mình đang chạy theo dục vọng ăn uống.

  
Nói một hơi, Hưng thờ dài, đoạn lẩm nhẩm như người thú tội,

- Sao con người luẩn quẩn trong vòng khổ ải đến thế, lợi lộc chi khi xuôi tay nhắm mắt.

- Có lợi chứ, không lợi ai mà làm, lợi cho người nấu cơm chay. Bá lên tiếng diễu cợt.

- Theo kinh nghiệm sống chúng ta thấy, cụ Tài nói tiếp, muốn có gì, muốn đạt được gì, chúng ta phải thực hiện gì và thường thì phải trả giá như thế nào. Chính vì cho rằng Thượng Đế ở bên ngoài như một quyền lực cá thể, con người phải tập luyện để chuẩn bị đón nhận quyền lực này. Một khi đã nhận định rõ ràng như thế, chúng ta không ngạc nhiên khi nghe được biết bao vị nọ, thánh kia đã tiêu pha cả cuộc đời mong phát triển, nói cách khác, đạt được mộng tưởng hoặc do chính mình đề đạt hoặc do kẻ khác truyền bá. Dĩ nhiên nơi phương diện thể chất, những sự luyện tập này mang lại thành quả chẳng khác gì tập thể dục, thể thao, mà có thể hơn thế nữa, chính sự chịu đựng khổ luyện kiến tạo nơi con người năng lực bền bỉ dẻo dai hơn kẻ khác. Xét kỹ hơn, do chuyên nhất đào luyện, nơi phương diện nào đó con người vô tình phát triển một vài khả năng sẵn có để rồi cho rằng cứ thực hiện như thế sẽ đạt được như vậy. Người này truyền tụng đến kẻ khác, trải qua thế hệ này, nối tiếp thế hệ khác kiến tạo nên pháp môn. Có thể rằng, với mục đích quảng bá để cổ võ cho pháp môn bành trướng, hoặc bởi ngại ngùng giải thích cho những đầu óc chỉ muốn biết để mà biết, người ta đã không ngần ngại tạo dựng nên những huyền thoại cho rằng do thần này, vị thánh kia rao truyền như thế.

- Nhưng thưa bác, Tình hỏi, sao người ta không chịu khó tìm hiểu trước khi chọn cho mình một đường lối thực nghiệm phù hợp?

- Câu trả lời đúng nhất là tự xét nơi trường hợp chính mình. Ngay như anh em, ít nhất tương đối là những người mang đầu óc suy nghĩ thì thử hỏi, anh em đã suy nghĩ được những gì, đã tìm tòi, học hỏi được bao nhiêu, và đã có thể kiếm tìm được lý thuyết hoặc phương pháp nào để thực nghiệm thăng tiến tâm linh cho mình chưa; phương chi những người bình thường không chịu tìm hiểu hoặc luôn phải lo lắng miếng cơm manh áo cho cuộc sống. Có điều anh em nên nhận định cho rõ ràng; luật lệ do con người đặt ra vì lợi ích chung cho xã hội tùy nơi, tùy thời. Luật lệ tôn giáo chính thức phải chuẩn bị cho con người thăng tiến tâm linh nhưng chỉ vì nhận thức theo nghĩa phàm tục nên lại trở thành công cụ cổ võ cho luân lý thế tục. Tương tự như thế, những nghi thức tôn giáo phải là phương tiện giúp con người nâng lòng hướng chiều về thực thể hiện hữu tối thượng đang hoạt động nơi tạo vật lại trở thành phương tiện cúng bái, chúc tụng, cầu xin. Nói như thế cũng hơi quá, bởi vì đa số quần chúng đã không được hướng dẫn nên không để ý nhận thức về thực thể bản thân mình nên dễ dàng mở rộng lòng cho mê tín dị đoan, hoặc tâm tình cầu phước nơi ước vọng có được cuộc đời tưởng tượng tạm gọi là hạnh phúc theo lối nhìn thiển cận nhân sinh. Tuy nhiên, thử hỏi có ai nhận biết được những gì tạm gọi là hạnh phúc nơi mình chưa hay là luôn luôn chỉ cảm thấy không hài hòa với cuộc đời. Tất nhiên, khi thấy mình bị bó chân, bó tay đối với ước muốn thì đành chỉ còn nước đặt niềm hy vọng quyền lực ngoại tại nào đó để tạo dựng niềm tin hầu chịu đựng cho qua kiếp sống. Và như thế có thể nói đây là nền móng cho lý thuyết tôn giáo ngự trị lòng người.

- Nói cho đúng, những nghi thức là cơ hội giúp cho con người định tâm, hướng lòng về một điểm chuyên nhất hầu hòa nhập với quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi mọi sự, nhưng chính vì đã không nhận thức sự thể này, nghi thức được coi như phương thức phải theo như thế cho lòng ruột an nhiên với ý nghĩ đã hoàn thành bổn phận. Anh em có nhớ sự giải thích của thiền sư Bankei, “Tâm định mới thực sự được gọi là hành, còn vấn đề đi chùa thì cứ đi, hành thiền thì cứ hành, mỗi ngày hành thiền, tụng niệm, vái Phật năm, ba giờ, hoặc thời gian đốt hết mười, hay hai mươi que hương cũng không sao, nhưng tâm Phật bất sinh không phải là chuyện những que hương, chùa lớn hay nhỏ, thiêng hay không. Khi chúng ta an trú trong tâm Phật thì không cần tìm giác ngộ ở bên ngoài mà mọi sinh hoạt hàng ngày của chúng ta chính là sinh hoạt của Tâm Phật” (TBS; tr.124). Anh em đã thấy lời giải thích này phần nào liên hệ tới câu nói của lục tổ Huệ Năng, “Kiến tính thành Phật,” hoặc nơi Phúc Âm, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta,” hay hành trình dần tiến tới trạng thái vô vi, “Vi đạo nhật tổn. Tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi,” (ĐĐK2; tr.245). Theo Đạo, càng ngày càng bớt. Bớt rồi lại bớt, đến mức vô vi (LTTH; tr.54) được gọi là trạng thái huyền đồng chăng?

- Thưa bác, nếu đã bớt hết, bỏ hết thì con người sẽ trở về thời tiền sử, ăn lông ở lỗ, không xe, không nhà, quần áo ăn diện cũng chẳng có, văn minh, nghệ thuật hết cơ hội phát triển; con người như ngây như ngô thì cuộc sống này buồn như vườn địa đàng đâu còn gì là sinh thú. Sỹ nhà con chụp cơ hội đế vô.

- Anh Sỹ quả là thông minh; thế khi anh mới sinh ra có quần có áo, có nhà cửa, nghệ thuật gì không? Và rồi khi chết anh có mang theo cái được gọi là văn minh, sở hữu của anh không? Anh có nhớ ý nghĩa câu nói, “Điều gì dưới đất ngươi cầm buộc thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và điều gì dưới đất ngươi tháo cởi thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời” (Mt 16:19) mang ý nghĩa gì đối với cuộc đời một người không? Cụ Tài chầm chậm nói một hơi.

- Thưa bác, có đấy ạ. Tình lên tiếng với giọng khá lễ phép. Khi mới sinh ra hắn đã tự biểu diễn nghệ thuật con nhộng, xếch xy chăm phần chăm, vừa “tóp lét (topless) lại vừa bó đâm lét (bottomless)” đấy ạ. Kiểu nói lễ phép lại đầy diễu cợt khiến tràng cười bùng lên sau câu dí dỏm nửa tây, nửa ta khiến bầu không khí bớt căng thẳng làm ai nấy cảm thấy lòng ruột thoải mái hơn.

- Anh em làm ơn để ý; điều chính yếu, đó là đạo học nói về thực thể căn bản của sự hiện hữu, kết quả nghiệm chứng của các bậc thức ngộ trãi dài theo thời gian và không gian. Từ đó, mới phát sinh ra pháp môn cho các hành giả tùy nơi, tùy thời áp dụng. Tôn giáo cũng bắt nguồn từ đạo học, nhưng sự thực hành đặt căn bản trên niềm tin và tôn thờ do đó kiến tạo nghi thức. Như thế, chúng ta thấy, hình thức bên ngoài của pháp môn là Yoga, thiền, của tôn giáo là các nghi thức. Bởi vậy, căn bản của pháp môn là nhận thức, và căn bản của nghi thức là tâm tình, ý niệm, ý định, ước muốn; dẫu mục đích của tất cả pháp môn hoặc nghi thức đều giúp con người nâng tâm hồn hòa nhập với thực thể hiện hữu uyên nguyên, cội nguồn mọi sự hiện hữu từ tư tưởng tới hành động. Những sự việc, sự thể hữu hình và vô hình này được Ấn học gọi là hoạt động, sự vận chuyển, biến chuyển của thực thể tối thượng được mệnh danh Brahma, và nơi mỗi người là Atman. Chúng ta  thường hiểu lầm về ngôn từ hoạt động hoặc hành động được dùng nơi Ấn học. Bình thường, chúng ta cho rằng hoạt động hay hành động là thực hiện công việc hoặc làm chuyện gì, suy tư vấn đề nào đó. Nơi Ấn học, hành động hoặc hoạt động chính là bản thể của Brahma, luôn luôn biến chuyển, biến dịch. Nhận thức như vậy, mục đích của các pháp môn lại là thúc đẩy tâm thức hành giả tiến dần tới sự hòa nhập vào giòng sinh hóa, biến chuyển tối thượng thay vì vọng theo ước muốn, ham hố nhân sinh, thế tục, hữu vi.

- Thưa bác, như vậy đâu cần phải thiền, phải định, dzô ga, ra ga, hành giả, hành thiệt làm chi cho phiền não tâm Phật, bởi càng hành, càng mong muốn kiến tính, càng phát triển vọng tưởng. Tự căn bản, chúng sinh đã là Phật, đã là biến chuyển, sinh hóa của Brahma, cho nên cứ theo lẽ tự nhiên, lỡ được sinh ra làm người, đói ăn, khát uống tự động hòa nhập vào thực thể tối thượng, tự động kiến tính, đâu cần pháp môn, tây môn, mỹ môn, cầu đảo, cầu đường, bái lạy chi cho mệt thân già phật sống này! Sỹ nhà con lại tơm tớp chen giọng.

- Đủ dzồi, đủ dzồi!, nói thừa, nói thãi, nói mãi mà chẳng biết mình nói gì. Không hành thiệt, hành giả thì chỉ còn cách nhập quan tài chứ sao có thể nhập giòng sinh hóa, sinh động, kiến tính, bọ tính. Bá cắt ngang lý luận của Sỹ.

 
Cụ Tài cảm thấy vui vui. Mấy anh chàng ăn nói ngang ngược, bán trời không văn tự này thông minh, lanh trí, lại khá sinh động. Nói về đạo học đòi hỏi nhận thức vượt khỏi giới hạn ý nghĩa ngôn từ đồng thời cần luồn lách ngang dọc nơi phân định mù mờ giữa ham muốn, ước vọng nhân sinh với hành trình tri thức tâm linh; thế mà Sỹ nhà con vừa mới dùng lý luận sơ hở bỏ quên thực thể thân phận kiếp người, nhảy vô vòng duy tâm thì đã bị Bá kéo về thực tại thân, vật, cần phải làm lụng sinh sống. Sỹ định khuyến khích ăn nhậu, sống tự nhiên, bất cần pháp môn, nghi thức; Bá nhắc nhở con người có cuộc sống nên bị cuộc đời thúc đẩy kiến tạo ham muốn. Cái thân trì kéo cái thần. Bá dùng ngôn từ hành thiệt, hành giả mang ý nghĩa bao gồm những lãnh vực khác biệt. Quả thật thông minh, lanh lợi!

- Anh Sỹ nói đúng nhưng đúng nơi trình độ nhận thức vượt khỏi cảnh giới tham sân si của tâm thức bình thường con người. Nơi cảnh giới này, Lão học gọi là vô vi; vô cầu, vô công, vô danh. Bởi nhận thực được tất cả mọi sự kiện đều chỉ là biến chuyển, hoạt động hay hành động của quyền lực hiện hữu tuyệt đối. Ấn học gọi là Brahma, nhà Phật gọi là Chân Như, hoặc nói chung là Thượng Đế thì bất cứ gì xảy đến nơi mình và bất cứ những gì được gọi mình suy tư, thực hiện, cũng chỉ là diễn trình của hành động hoặc  biến chuyển tối thượng mà thôi. Tuy nhiên đối với chúng ta vẫn còn đang trong giới hạn hành giả chứ chưa hành thiệt; cái thân vẫn đang nặng nề trì kéo cái thần thì lý luận duy lý của anh Sỹ sẽ rơi vào sự kiện mà anh Bá gọi là nhập quan tài. Thực trạng này được lục tổ Huệ Năng cho rằng ngồi nhiều sinh bệnh nên đề xướng chủ thuyết hành thiền; làm gì thì cứ làm, nhưng tâm thức luôn định về một điểm trong hành trình kiến tính. Cũng thế, tùy theo quan niệm mà các tông phái Ấn học thiết lập nên những pháp môn để ứng dụng cho hợp với căn cơ của các môn sinh, hành giả.

- Để thăng tiến những tâm hồn sơ cơ dần tới tâm thức chuyên nhất, pháp môn Yama và Niyama là hai bậc thang khởi đầu. Pháp môn Yama bao gồm cấm sát sanh, cấm nói dối, cấm trộm cướp và tham lam, cấm hành lạc và dâm dục (TTÂĐ; Tr.244). Pháp môn Niyama giúp hành giả thăng tiến nơi hai phương diện vật chất và tinh thần. Pháp môn này đề xướng năng tắm rửa, không hành lạc, không uống rượu hầu giữ gìn cho tâm tư được thanh khiết, chánh trực. Biết an phận giúp hành giả diệt dần chấp ngã để tâm hồn sớm có sự thanh thoát, an lạc. Chấp nhận mọi điều khổ nhọc nơi cuộc sống và tâm thức để mạnh tiến trên đường tu đức. Hoàn toàn tin tưởng nơi Thượng Đế để diệt trừ tham vọng cá nhân khiến cho tâm hồn thanh thản. Tuyệt đối không ngờ vực và thực hiện bằng mọi cách khiến nghi ngờ không len lỏi vô tâm hồn mình (TTÂĐ; Tr.245-246).

- Chời! Cứ theo những điều luật này, có lẽ tụi cháu đều là những bậc Yogi hạng nặng, sắp thành chân nhân, chân mã rồi. Không cướp của, giết người, không tham lam, dâm dục! Phủ đắc ý ra bộ hãnh diện lên tiếng.

- Vâng, chúng cháu thành tâm tu luyện khá khắc khổ nên chừa được những một nửa; không đấu cờ, chơi bài, chỉ thích đánh bạc; không mê nhâm nhi cà phê, chè tàu, chỉ thích uống rượu, nốc bia; không ham hố đàn ông, con trai, chỉ thích mơ màng đàn bà, con gái. Hì hì! Chúng cháu thích đủ thứ, chỉ không ham một vài thứ! Từ lúc bắt đầu cuộc nhậu tới giờ Ty hoàn toàn im lặng ngoại trừ vài câu chào hỏi; thế mà đột nhiên cóc nghiến răng, lại nêu lên thích đủ thứ, nguyên những thứ búa tạ khiến bà con chợt cười nghiêng ngã.

 

Cụ Tài mỉm cười, lộ nét mặt tươi vui. Cụ cảm thấy vui vì nhận ra nhóm nhậu này chẳng những coi thường và đem mọi sự làm đề tài diễu cợt lại còn dám đem chính mình làm đối tượng trào lộng. Điều này chứng tỏ những tâm hồn ngay thẳng và sự hiểu biết chân thật tâm tính của con người; hèn chi họ đã không cảm thấy nề hà khi bị kẻ khác trong nhóm bóng gió châm chọc nhiều khi đến độ gắp lửa bỏ bàn tay. Anh chàng Ty lầm ngầm này sao mà dí dỏm gớm!

- Thưa cụ, đó chỉ là luân lý công cộng sao lại được xếp vào hàng pháp môn? Lại còn điều luật năng tắm rửa, chẳng lẽ cái nhóm môn sinh sơ cơ này ngờ nghệch lắm sao mà phải có lời khuyên đơn sơ như thế? Ông Thung chợt hỏi.

- Nếu xét phiến diện như chúng ta thường không để ý, những điều luật này đúng là luân lý căn bản cho sự liên đới công cộng của bất cứ xã hội nhân sinh nào. Sở dĩ chúng được xếp vào hàng điều luật pháp môn chính bởi thành quả và mục đích do nhận thức của hành giả. Chẳng hạn, cấm sát sanh có nghĩa không được gây một nỗi khổ đau nào cho chúng sinh hầu phát triển lòng từ bi, mở rộng lòng thương yêu dẫn tâm thức hành giả hòa đồng với nhịp điệu của đại vũ trụ. Cấm nói dối giúp con người tiến tới chính tâm thành ý, không ngụy trá tự ý nghĩ. Cấm trộm cướp và tham lam ích kỷ giúp hành giả vượt khỏi những vọng chấp tư hữu, tự ngã dẫn tới hòa nhập đại ngã. Cấm hành lạc và dâm dục là giới luật hết sức quan trọng vì nếu tinh lực bị phung phí, năng lực quán tưởng sẽ bị thuyên giảm và khó có thể tập trung quán tưởng. Đối với quy luật Yama Yoga, dâm dục không phải chỉ là cấm đoán việc giao hoan giữa trai gái. Người tu Yoga còn cần phải làm thế nào khiến ngay những ý tưởng dục tình cũng không còn lởn vởn trong tâm não (TTÂĐ; Tr.244). Như vậy, muốn đạt tới chỗ tập trung quán tưởng để tiến tới diệt tưởng, con người cần được đào luyện từ nhận thức sinh hoạt bình thường dần tới bản năng nhận thức thực thể hiện hữu. Như chúng ta đã biết, ước muốn, ý định mang quyền lực hiện hữu kiến tạo kết quả nào đó được gọi là chúng sinh. Bởi vậy, những điều luật, pháp môn chỉ là phương tiện cho hành giả nhận thức để thăng tiến nơi hành trình tâm linh. Có lẽ do không để ý nhận thức mà chỉ theo thói quen nghe sao biết vậy hoặc thực hành vậy, chúng ta đã cho nó là luật buộc mà thôi. Vấn đề được đặt ra lại là luật phát sinh từ đâu nếu không từ nhận thức của con người cho lợi ích liên hệ xã hội nhân sinh. Xét như thế, luân lý là hình thức thực hiện nơi cuộc sống vì lợi ích liên đới con người. Nơi phương diện thâm sâu, nhận thức ẩn chìm bên trong luân lý lại là những nấc thang thăng tiến tâm linh. Cũng thế trong giới hạn tôn giáo, các luật lệ chẳng khác gì dây cương điều hành những con ngựa nhân sinh, giúp con người luôn giữ tâm hồn trong khuôn khổ được gọi “Ngay chính” theo lối nhìn thế tục tùy nơi, tùy thời. Các nghi thức đòi hỏi và ẩn tàng nhận thức. Những ai thực hiện nghi thức cúng bái, vái lạy một cách vô ý thức tất nhiên chỉ tốn công, tốn giờ, hao tiền tài mà thôi, dẫu được những người khác trong cùng tổ chức chấp nhận.

- Hèn chi mà người này cầu được, mình cầu chẳng thấy gì; thần thánh chẳng thèm nghe! Sỹ lẩm bẩm, thế ra mình vẫn chưa biết cầu nguyện.

- Sao, anh Sỹ, đang bàn về pháp môn mà anh lại nghĩ về cầu nguyện? Cụ Tài nhìn Sỹ hỏi.

- Thì, như bác nói, các nghi thức đòi hỏi nhận thức. Đến ngay như việc cúng bái, vái lạy mà làm một cách vô ý thức thì cũng như không, phương chi cầu nguyện.

- Anh có biết khi anh cầu nguyện anh làm những gì không?

- Thì, cầu Trời, khấn Phật, xin Chúa ban cho điều mình muốn chứ cháu nào còn biết gì hơn đâu.

- Ai mượn ông tham lam, bắt cá hai tay nên trống lổn. Bá lên tiếng.

- Chú mày không cầu nguyện như thế sao. Xin thì xin, nghe hay không tùy các Ngài. Bộ các Ngài không cho, chú mày mang ra tòa kiện được không.

- Ai mượn ông hành giả, không chịu hành thiệt. Muốn ăn hét thì phải đào giun vì chuyện gì cũng thế, hòn đất có ném đi, may ra hòn chì mới được ném lại. Đàng này, ông chỉ muốn nằm ngửa chờ sung rụng thì có cầu đến mỏi miệng cũng chỉ như cuội. Trời, Phật đâu phải là cái mỏ vô chủ cho ông tha hồ đào bới mà đòi cầu với nguyện một cách nhưng không!

- Thế anh Bá nghĩ ra sao về cầu nguyện hoặc để đạt được điều mình mong muốn qua việc cầu nguyện, mình phải làm sao? Cụ Tài hỏi Bá.

- Thưa bác, có câu nói, cầu mong không bằng gặp may; gặp may không bằng tốt số; tốt số không bằng ý trời. Đồng thời lại có câu nói khác như dân gian tin tưởng đó là đức năng thắng số. Nếu thực sự quan niệm đức năng thắng số thì ráng mà tạo đức để có tốt số. Nhưng tốt số vẫn không bằng ý trời thì đâu cần đặt vấn đề cầu với nguyện. Cuộc đời một người theo như cháu kinh nghiệm, chúng ta luôn luôn rơi vào trường hợp “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn,” chẳng bao giờ sự việc xảy đến theo ý mình; bởi thế, cuộc đời mới được coi như cơ hội cho chúng ta học những bài học cần phải học; vì tất cả những ước vọng của chúng ta chỉ là ý nghĩ loài người. Thêm vào đó, nếu cháu nhớ không lầm thì Phúc Âm cho rằng ý nghĩ loài người là Satan, là quỷ vương, không thuận ý trời. Tuy nhiên, đọc nơi Phúc Âm, cháu thấy mờ mờ ảo ảo hình như vấn đề cầu nguyện mang một năng lực tuyệt vời nào đó nhưng chưa để ý truy cứu. Như vậy, cháu phải nói, cho đến giờ, cháu cũng chưa thể xác quyết cầu nguyện thực sự là gì và phải như thế nào. Có điều chắc chắn, nếu đã biết sự việc sẽ không thể xảy đến, chẳng bao giờ cháu cầu một cách vô ích hoặc bất cứ những gì cảm thấy ngoài tầm tay với, cháu sẽ không bao giờ cầu với xin chi cho phiền lòng, mệt xác.

- Thế anh có để ý mình làm gì, hay thực hiện những gì khi cầu nguyện không?

- Thì cầu xin Trời Phật ban cho có của ăn của để, ra giày vào dép, có vợ đẹp, con khôn, và sau khi chết được hưởng nước thiên đàng. Sỹ tơm tớp nhào vô.

- Chị Sỹ, cụ Tài hỏi, có phải anh ấy cầu như thế không?

- Thưa bác, nhà cháu cầu cho có thêm vợ hai nên ông ấy thường gọi cháu là lão bà ạ.

- Bu mày đừng có bêu riếu tớ. Thử hỏi, xấu chàng hổ ai!

- Thôi đi chú Sỹ, để Bá trả lời về cầu nguyện. Ông Thung cầm trịch; mời chú Bá.

- Thưa bác, đã gọi là cầu nguyện lúc đó mình bày tỏ điều mình ước muốn, ước nguyện, nhưng, nhiều khi suy nghĩ, tính toán hơn thiệt về những gì có thể xảy đến theo điều mình ước muốn, cháu lại thấy không muốn điều mình đã ước vọng nữa.

- Đã bao giờ anh đặt vấn đề về nguyên tắc căn bản của sự cầu nguyện chưa? Tôi muốn nói đến gốc gác, năng lực nào có thể thực hiện ước muốn, ước vọng nơi mình.

- Cháu chưa bao giờ nghĩ đến vấn đề ấy, chỉ kinh nghiệm được, có những điều ngày xưa mình mơ ước và đến nay đạt được, nhưng nó lại trở thành gánh nặng, thế mới phiền.

- Anh có bao giờ nghe thấy câu nói, “Bài học nào mơ ước hôm xưa đã trở thành cay đắng hôm nay!”

- Ô! Cháu tưởng chỉ mình cháu rơi vào trường hợp “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn!”

- Vậy anh không nhớ câu nói, “Đa thọ đa nhục” sao? Hoặc câu khác, “Chưa được nay ước mai ao, được rồi trắng mắt như tao mới chừa!”

- Tôi muốn anh em để ý, cụ Tài tiếp tục, ý nghĩ, ý định, ước muốn, ước mơ, vọng tưởng, tự mang quyền lực hiện hữu, quyền lực phát sinh; nhà Phật gọi ý nghĩ, ước muốn là dục. Đây là lý do tại sao nơi kinh Kim Cang có câu nói, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả” (KCGL; tr.241). Vì dục là ước muốn, ước vọng mang quyền lực phát sinh nên tác tạo chúng sanh. Bởi vậy, khi mình cầu nguyện tức là mình dùng quyền lực hiện hữu nơi mình để tác tạo một sự thể, sự việc nào đó. Phật, Như Lai, đấng giác ngộ có nghĩa không tạo chúng sinh, không ước muốn, vọng tưởng gì, mà hòa nhập vào bản thể hiện hữu tuyệt đối. Anh Bá có nhắc đến định nghĩa của Satan nơi Phúc Âm đó là ý nghĩ loài người. Phêrô bị gọi là Satan vì ông đã nghĩ theo ý thường tình con người, theo mong muốn của mình, theo cái dục bình thường nhân sinh. Nơi Ấn học cũng thế, bởi mọi sự hiện hữu đều thuộc về hay ở trong Brahma như nơi kinh Bhagavad Gìta được viết, “Ta, Đại Ngã sẽ mãi mãi hợp nhất cùng Đại Ngã của con người (Atman); nếu con người biết rằng Ta hiện hữu trong vạn vật, và vạn vật hiện hữu trong Ta” (CTC. 6:29). Ý nghĩ, ước muốn là một sự hiện hữu nên mang quyền lực hiện hữu tác tạo. Như vậy khi cầu nguyện, tức là sử dụng quyền lực hiện hữu tác tạo điều gì đó. Tất nhiên, bài học mơ ước hôm xưa trở thành cay đắng hôm nay; bởi ngày xưa mình đã dùng quyền lực này tác tạo điều mơ tưởng không hợp với ngày hôm nay. Đọc nơi Phúc Âm chúng ta thấy câu nói nếu không để tâm suy nghiệm sẽ cho rằng dường như không tưởng mà lần trước tôi có nhắc đến nhưng không giải thích nên vẫn chờ xem có anh em nào để ý đặt vấn đề hay không, “Quả thật, Ta bảo các ngươi, kẻ nào bảo núi này: Xê đi mà nhào xuống biển, mà trong lòng không nghi ngại, nhưng tin rằng điều mình nói sẽ xảy ra, thì nó sẽ thấy thành sự. Bởi thế Ta bảo các ngươi, mọi điều các ngươi cầu nguyện kêu xin, các ngươi hãy tin là đã được, và các ngươi sẽ thấy thành sự” (Mc. 11:23-24).

- Thưa bác, Sỹ lên tiếng.

- Thưa gửi cái gì; nghiệm thì không nghiệm chưa chi đã thưa với bẩm. Bá chặn họng Sỹ.

- Sao chú mày cứ nhè tớ mà đấu vậy?

- Người khen ta mà khen bậy tức là kẻ thù của ta. Người chê ta mà chê đúng, tất nhiên là bậc thầy của ta. Đã không cảm ơn lại còn càm ràm, quả là hết thuốc chữa. Bá trả lời Sỹ.

- Chú Sỹ, hãy để cụ nói. Ông Thung ngăn.

- Anh em để ý, khi chúng ta ước muốn điều gì, chúng ta luôn mơ tưởng, toan tính, suy nghĩ về điều đó. Có thể nói chúng ta là nô lệ cho ước muốn, ước mơ của mình đồng thời dồn hết năng lực, phương tiện để thực hiện điều mình mong ước. Nói cách khác, ước muốn tự mang năng lực thúc đẩy con người vượt mọi trở ngại để hoàn thành, đạt được điểm tới; nếu chúng ta thực sự muốn điều nào đó xảy đến. Tuy nhiên, bình thường chúng ta chỉ mơ ước khơi khơi mà không thực sự muốn nên đã không để tâm đến điều mình mơ ước. Sự thể này xác định rõ chúng ta đã không thực sự mong muốn.

- Tôi nhắc lại điều anh Bá nói lúc nãy, cầu nguyện là bày tỏ điều ước muốn, ước mơ. Như vậy, nếu mình chỉ ước muốn khơi khơi thì lẽ đương nhiên mình cũng chỉ cầu nguyện khơi khơi, nghĩa là không thực sự mong muốn, không cần điều mình cầu xin, sao chuyện có thể xảy ra. Mà một khi mình đã thực sự muốn điều gì thì mình sẽ dồn hết năng lực để hoàn thành điều đó, và như vậy, chắc chắn chuyện phải thành, ngoại trừ trường hợp ước muốn điều không tưởng. Tuy nhiên chúng ta cũng đành chân thực chấp nhận rằng có những ước muốn có hại cho người cầu xin, nhưng họ không biết. Sự thể này chính là điều mơ ước hôm xưa trở thành cay đắng hôm nay. Như vậy, có thể những gì chúng ta thực sự cầu xin đã không xảy đến lại trở thành may mắn.

- Thưa bác, như vậy tốt nhất là chẳng cầu xin gì vì chuyện phải đến chắc chắn sẽ xảy đến và những gì có hại cho mình dẫu cầu xin cách mấy cũng chẳng được. Tình nêu ý kiến.

- Chúng ta không thể phân định những trường hợp riêng rẽ như thế thành nhận định chung. Đâu phải những gì có hại cho mình dẫu cầu xin cách mấy cũng không được mà e rằng lại xảy đến theo ước muốn như một cơ hội cho mình học bài học cần phải học. Chỉ nói khơi khơi về cầu nguyện, cầu xin sẽ chẳng đi đến đâu mà chỉ là bàn thảo một cách phiếm diện của một sự thể phức tạp. Trước hết chúng ta thử xét cội nguồn của sự việc được gọi là cầu nguyện, cầu xin. Tại sao chúng ta được khuyến khích cầu nguyện. Nếu tôi không lầm, biết bao nhà rao giảng hoặc những vị truyền giáo khuyến khích người ta cầu nguyện, đã vô tình không tìm hiểu sâu xa về sự thể này nên đã khiến tín đồ tin theo phải đối diện với nỗi thất vọng nhiều khi đến độ lung lạc niềm tin. Tôi nêu lên một câu hỏi để anh em suy nghĩ. Tôi nhắc lại, cần suy nghĩ trước khi trả lời; đó là năng lực cầu nguyện, cầu xin phát xuất từ đâu?

- Thưa bác, Sỹ nhà con vội lên tiếng chừng như sợ người khác nói mất phần của mình.

- Khoan, ông Thung chặn Sỹ, ai nói trước khi suy nghĩ, sẽ bị phạt làm bữa nhậu lần tới.

 
Thế là mọi người im tịt. Không phải họ sợ phải làm bữa nhậu vì thực ra chẳng tổn ải là bao. Đàng khác, có bạn bè thân quen đàn đúm là điều đáng mừng lại còn là cơ hội thắt chặt tình thân hữu; bởi nay anh, mai tôi, nào có chi đáng nói. Hơn nữa, có nhiều khách khứa tới nhà, con cái có cơ hội thực hành sự lễ độ đối xử với các bậc trưởng thượng cũng như có thêm bạn bè thân hữu sau này. Họ im lặng bởi xưa nay chỉ được nghe khuyến khích cầu nguyện, cúng bái rồi thực hành theo như một thói quen. Nói cho đúng, khi gặp những trắc trở không đường giải quyết nơi cuộc đời, cầu nguyện là phương thế cuối cùng như một điểm tựa an ủi cuộc sống. Nơi tâm tình phó mặc cho đấng bề trên toàn quyền định đoạt, con người dễ mở rộng lòng chấp nhận những khổ ải trái ý muốn hoặc những thua thiệt mà người xưa gọi là “Trói lại mà đánh khen hay chịu đòn” (TN). Nhiều người còn tự an ủi rằng chuyện không may nhỏ xảy đến để ngăn chặn sự thiệt hại lớn lao hơn có thể xảy ra.

Cụ Tài coi bộ bình thường ở tuổi mùa thu cuộc đời; không ngờ thông triệt nhiều vấn đề khiến chính ngay những người tuổi trẻ phải ngạc nhiên. Xưa nay, họ tôn trọng cụ vì tuổi tác, lại là bác của Hưng. Qua mấy lần được cụ giải thích về đạo học, tâm trí họ chuyển từ ngỡ ngàng này qua ngỡ ngàng khác, thách đố tâm tưởng họ tỉnh thức nhận định thay vì sống hùa theo thói quen người ta sao mình vậy. Cụ không phê phán, nhưng nói lên thực thể sự việc xưa nay ít ai để ý phân tích hầu có lối nhìn chân chính hay am hiểu thâm sâu hơn về thực tại cuộc sống, hoặc những phát biểu nơi ngôn từ thường dùng hằng ngày. Thấy mọi người im lặng khá lâu, cụ lên tiếng,

- Anh Hưng, nhà Phật nói gì về năng lực nội tại nơi con người?

- Thưa bác, điểm tận cùng của Phật học chỉ là kiến tính vì Tâm Phật, Tâm Chân Như, Tính Phật hiện hữu ngay nơi mình. Tất cả những ước muốn, ước mơ đều là dục, đều là vọng tưởng. Không có chúng sinh cho Như Lai độ thì càng cầu chỉ càng tạo chúng sinh phương chi nói đến cầu nguyện, cầu xin. À, thưa bác, suy như thế thì năng lực hay động lực của cầu nguyện, cầu xin chính là năng lực của vọng tưởng, năng lực của dục vọng, và như vậy, có thể nói năng lực của cầu nguyện, cầu xin phát xuất từ Tính Phật, Tâm Chân Như, hay Tâm Phật. Nói cách khác, năng lực này chính là quyền lực tối thượng nơi vũ trụ, nơi mỗi người.

- Ai trong anh em chịu trách nhiệm về Ấn học?

- Thưa bác nhà cháu ạ. Tình lên tiếng. Cháu còn đang ngúc ngắc phỏng có sự liên hệ nào giữa quan niệm và nghi thức thờ phượng, cúng bái phát xuất từ đạo học liên hệ đến thực hành nơi Ấn giáo và Thiên Chúa giáo nên cứ bị rối tung lên. Dẫu theo Công giáo nhưng cháu thấy quan niệm Thượng Đế của Ấn giáo và quan niệm Thiên Chúa nơi Thiên Chúa giáo, đặc biệt Công giáo hình như rất giống nhau nơi điểm Thượng Đế hữu ngã và Thiên Chúa hữu thể. Đồng thời cháu cũng thấy có điểm khác biệt, nhiều khi đến độ phi lý, về quan niệm cứu độ, cứu rỗi, nghĩ mãi vẫn chưa giải quyết được gì. Riêng về quyền lực nơi sự cầu nguyện, Ấn học quan niệm Thượng Đế là Brahma, và thành phần Thượng Đế hiện hữu nơi mỗi người là Atman. Như vậy, khi mình cầu nguyện, cầu xin, mình sử dụng quyền lực của Atman, quyền lực của Thượng Đế Brahma, quyền lực nội tại nơi mỗi người. Thực ra, chưa bao giờ cháu nghĩ đến thực thể quyền lực này nên không thể nói thêm gì; bởi phải trả lời nên nói đại, chẳng biết đúng hay sai.

- Ai có thể nói về năng lực cầu nguyện nơi Lão học?

- Mời cụ thủ từ đền thánh casino.

- Tào như nước thì có gì để mà nói, Phủ lên tiếng. Cháu xin lỗi bác và mọi người bởi bất chợt hiểu ra khía cạnh khác của điều mình vừa nói; có lẽ đây được gọi là ngộ chăng. Đã ít lâu nay cháu kiếm sách viết về Lão học ngày đêm “ngâm cứu.” Khổ nỗi, ngày thì con cái phiền hà; đêm mẹ chúng quấy phá thành ra cháu chỉ mới đọc sơ sơ mấy cuốn. Tuy nhiên, cháu thấy những lời giải thích của các tác giả viết về Lão học hình như quá thiên về hữu vi thành ra cảm thấy lười nên lần lữa đến nỗi biến thành ngâm cứu. Cháu không dám phê bình hay nhận định về những trước tác của các bậc tiền nhân, nhưng cứ cảm thấy những điều giải thích của họ nuốt không trôi thành ra chẳng khác gì con gà mắc dây thung. Ai đời nào mà câu “Tào như nước,” họ giải thích rằng làm người nên biết khiêm nhượng. Họ lại dịch Tào thành Đạo, và Đạo thành đường, và nêu lên nhận định cho rằng Lão học nói về những mánh lới khôn ngoan nơi thuật xử thế; để rồi thay vì nói về chiêm nghiệm, nghiệm chứng, họ trình bày về khiêm ái, khiêm nhường, không ganh đua, trở nên thụ động. Cháu ngẫm nghĩ, như thế suốt đời chỉ đi xách dép cho thiên hạ thì sao mà sống; trong khi ở nhà vợ cứ nhì nhằng chồng người ta thế này, chồng người ta thế kia; thế có tức không chứ. Có những tác giả nêu lên đặc tính của nước thế nọ, thế kia và cho rằng con người cần bắt chước theo như thế; nào là nước chảy xuống chỗ trũng, chẳng ganh đua với bất cứ ai nhưng chấp nhận làm trâu chậm uống nước đục; nào nước “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” nên con người cần biết “Đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy.” Ngược lại như cháu vừa xin lỗi, cháu chợt nghĩ đến câu nói mang ý nghĩa khác. Tào như nước có nghĩa Tào hay Thượng Đế hiện diện mọi nơi, mọi chỗ vì nước mang đặc tính này bởi có thể nói nước là căn bản sự sống, không khí cũng chứa nước, đá lạnh ứa nước, đốt củi cũng ứa nước; như vậy câu Tào như nước thường đã bị hiểu sai nên cũng thường dẫn đến nhận thức không chín chắn. Nếu hiểu câu Tào như nước mang nghĩa Thượng Đế ở khắp mọi nơi, Thượng Đế chính là quyền lực hiện hữu nơi mình thì năng lực cầu nguyện, cầu xin tất nhiên là sử dụng năng lực tối thượng hiện diện nơi mình.

- Ai sẽ nói về Kinh Thánh?

Câu hỏi vừa được xướng lên khiến mấy anh em theo đạo Công giáo ngớ cả người. Kinh Thánh là Kinh Thánh, đâu mắc mớ gì tới Lão học, Ấn học, Phật học, sao cụ Tài lại vơ đũa cả nắm như thế này. Đi nhà thờ, nhà thánh, các cha thường giảng rằng chỉ có một đường độc nhất để lên thiên đàng là theo đạo Công giáo, tin vào Thiên Chúa, tin vào đức Giêsu. Có những cha còn mạnh bạo hơn công bố rõ ràng, ai không chịu phép rửa tội sẽ không được lên thiên đàng. Lên thiên đàng có nghĩa linh hồn được cứu rỗi sau khi thân xác chết. Giáo lý Công giáo ngày xưa đã dạy, sau khi chết, linh hồn sẽ phải đến trước tòa phán xét, kẻ lành lên thiên đàng, kẻ dữ sa hỏa ngục, và những ai còn vướng mắc những tội mọn thì bị giam cầm nơi luyện ngục để được thanh tẩy; cớ gì cụ Tài hỏi về Kinh Thánh. Thế là lòng ruột mấy người theo đạo Công giáo giao động như ngồi phải lửa. Tuy nhiên, thái độ cụ Tài vẫn điềm nhiên chờ đợi, trong khi nhẹ nhàng nâng ly rượu chiêu một ngụm không có vẻ gì thách đố lại toát ra vẻ thông cảm. Cụ vẫn thế, rất thông cảm với mọi người dẫu đôi khi có người phát biểu ý kiến ngang như cua hoặc khá chói tai, nhưng coi chừng lại được cổ võ. Lúc mới phát biểu, chính người nói mang chủ đích diễu chơi với ý định khuấy động bầu không khí tẻ nhạt, chẳng ngờ lại được cụ giải thích, khuyến khích tâm hồn mở rộng để nghiệm chứng, nhận thức sự thể qua bất cứ khía cạnh nào.


Các tướng theo đạo Công giáo lòng ruột xốn xang, muốn nói nhưng nói gì bây giờ. Nhà Phật thì chỉ cần kiến tính. Dĩ nhiên, Tâm Phật đã ở nơi mình thì cầu nguyện tức là sử dụng năng lực Tâm Phật nơi mình mới có lý dù cầu nguyện cũng chỉ là bày tỏ ước vọng thế tục. Lão học tiến tới trạng thái huyền đồng; Tào như nước hiện diện ngay nơi mình nên cho rằng sử dụng năng lực của Tào không thể sai quấy. Ấn học, chẳng mình, chẳng người, tất cả đều là hoạt động, hành động của Brahma, của Thượng Đế. Ý nghĩ, ước muốn nơi mình, cũng là hoạt động của Thượng Đế nội tại; dẫu cho rằng ước muốn, ý định đều là vọng tưởng, nên chỉ cần định hướng sao khỏi dính vòng thế tục là có thể chấp nhận được. Theo đạo Công giáo chỉ nghe các cha lặp đi lặp lại phải ăn năn thống hối để được Chúa Giêsu chuộc tội cứu rỗi khỏi lửa hỏa ngục. Chúa Giêsu xuống thế làm người chuộc tội cho thiên hạ thì mắc mớ gì tới cái gọi là năng lực cầu nguyện dẫu các cha luôn luôn khuyến khích cầu nguyện. Ừ, cầu thì cầu, nguyện thì nguyện nhưng Chúa cho hay không đâu tùy thuộc ý thích của Ngài chứ đâu theo ý thích của mình. Phải sống tốt lành Chúa mới nghe lời cầu xin; sao mấy tay ma giáo giầu có vương giả lại quyền hành, chức vị đè đầu đè cổ thiên hạ. Hơn nữa, đã có Chúa Giêsu chuộc tội cho mình thì coi chừng cầu nguyện chỉ bằng thừa. Các cha giảng ơn cứu độ là ơn nhưng không, đâu phải cứ cầu mà được. Chẳng lẽ không cầu nguyện Chúa không ban ơn cứu độ. Nhà Phật cho rằng vọng tưởng, ước mơ tạo chúng sinh. Ah! Sỹ nhà con bí quá chộp vội ý nghĩ này lên tiếng,

- Thưa bác, nếu nói rằng cầu nguyện, cầu xin là bày tỏ ước muốn, vọng tưởng thế tục thì đây là việc làm của Satan như bác đã giải thích câu Phúc Âm đức Giêsu mắng thánh Phêrô, “Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc. 8:33).

- Như vậy anh muốn nói cầu nguyện là sử dụng năng lực của Satan?

- Thưa bác, nói như vậy cũng không đúng nhưng cháu không biết phải nghĩ thế nào mới đúng. Tình thêm vô.

- Vậy những ý nghĩ, ý định tốt lành của con người cũng là Satan cả sao? Chị Tình chợt lên tiếng!

 

Cả đời theo đạo được dạy dỗ phải làm việc lành phúc đức, yêu thương người khác như chính mình. Nào giữ mười điều răn, nào thực thi tám mối phúc thật, nào giữ chay, kiêng thịt, đi lễ, đi nhà thờ theo luật buộc thế mà bị câu hỏi ngắn gọn của cụ Tài phá cho bay tùng khiến chị Tình chịu không nổi nên buột miệng nêu câu hỏi. Ngày xưa còn nhỏ học giáo lý được giải thích rằng Satan là quỷ vương, dẫn đầu mọi sự tội lỗi. Satan xúi giục con người phạm tội; đến bây giờ bỗng thấy câu hỏi gán ép Satan lại là ngay ý nghĩ nơi mình quả thật chẳng hiểu phải lý luận thế nào trong khi nơi Phúc Âm, chính Chúa Giêsu gọi thánh Phêrô là Satan. Chị Tình thực sự cảm thấy lòng ruột mình giao động.

- Chúng ta nên có thái độ bàng quang nhận định thay vì hùa theo bất cứ quan niệm nào để nhận xét quan niệm hay quan điểm của người khác. Cụ Tài giơ tay ra dấu mọi người nên bình tĩnh bởi nghe giọng nói của chị Tình hơi có vẻ gắt gay, khó chịu hình như bị đụng chạm. Chúng ta nêu lên vấn đề để nhận định, tìm hiểu chứ tuyệt đối không cho rằng phải như thế nào. Mọi quan điểm, ý nghĩ, suy tư đều có giá trị ngang nhau; chúng không đúng, không sai, mà tất cả đều được nêu lên để mọi người tự nhận định. Tôi muốn nói nhận định chứ không xét xử. Có câu nói, nếu đóng cửa để tránh không cho sai lầm lọt vô thì chân lý cũng bị loại ở ngoài. Nơi trường hợp anh Sỹ nêu lên câu Phúc Âm, “Xéo đi sau Ta, hỡi Satan! Vì ý tưởng của ngươi không phải là ý tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc. 8:33), rõ ràng định nghĩa Satan là ý nghĩ của loài người. Dĩ nhiên, ý nghĩ của loài người được gọi là vọng tưởng, dục, như nơi Phật học xác quyết. Tôi có thể đưa lên minh chứng. Người ta thường quan niệm đức Thích Ca bỏ ngai vàng, lầu son gác tía, vợ con, quyền lực của một vị hoàng tử để tu chứng cứu độ chúng sinh. Tôi muốn nhấn mạnh, mọi Phật tử đều quan niệm như thế và các nhà rao giảng Phật giáo đều dùng lý thuyết này để kêu gọi tín đồ tin tưởng và theo gương đức Thích Ca nơi hành trình nghiệm chứng thức ngộ. Tuy nhiên, đức Thích Ca lại rõ ràng công bố như nơi kinh Kim Cang có câu nói, “Các ông chớ bảo Như Lai khởi nghĩ thế nầy: Ta sẽ độ chúng sanh. Nầy Tu Bồ Đề, chớ khởi nghĩ thế ấy. Vì cớ sao? Thật không có chúng sanh Như Lai độ đó. Nếu có chúng sanh Như Lai độ đó thì Như Lai ắt có ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả” (KCGL; tr.241). Một đàng nơi kinh Kim Cang cho rằng không có chúng sinh cho Như Lai độ nghĩa là Như Lai đã độ chúng sinh; ngũ tổ Hoàng Nhẫn cũng nghiêm nhặt khuyến cáo, giác ngộ không thể học được mà phải tự mình nghiệm chứng; đàng khác, các tín đồ, Phật tử đều quan niệm Như Lai tức là đức Thích Ca vì thương xót con người trong vòng luẩn quẩn luân hồi nên tu chứng cứu độ chúng sinh. Thực tế là như thế; chúng ta cần bĩnh tĩnh và chân thành đối diện thực thể sự việc để nhận định, chẳng nên để tâm hồn giao động vì bất cứ lý thuyết, quan niệm nào dẫu thuận chiều hoặc trái ngược với quan niệm, hiểu biết của mình.

- Riêng với các anh em Công giáo, tôi không muốn phân biệt thành phần tôn giáo nơi đây mà chỉ muốn nhắc nhở; đó là chúng ta đang trên hành trình nghiệm chứng đạo học chứ không xét, không đặt vấn đề về chủ thuyết hay lý thuyết tôn giáo. Lý thuyết của các tôn giáo thế nào, chúng ta không đụng tới vì đó là quan niệm riêng của tín hữu. Dẫu rằng gốc gác của tất cả các tôn giáo đều phát xuất từ đạo học, trong khi đạo học là kết quả nghiệm chứng của các bậc thức ngộ tùy nơi, tùy thời. Tuy nhiên thực tế minh chứng, sự thực hành tôn giáo nhiều khi đối nghịch với đạo học do bởi sự khác biệt giữa lý thuyết, chủ thuyết của tôn giáo đối với đạo học. Lý do rất dễ hiểu đó là chủ thuyết tôn giáo căn bản dựa trên quan điểm nhân sinh trong khi đạo học chỉ một phần nào bày tỏ thành quả nghiệm chứng; mà nghiệm chứng thì ai chứng người nấy biết. Lý thuyết tôn giáo chính là sự giải thích kiến tạo nghi thức thực hành niềm tin. Tôi có thể nêu lên thí dụ, ngồi trước một bữa tiệc thịnh soạn, sự giải thích về các món ăn ngon ngọt, bổ dưỡng như thế nào đối với thực khách đó là lý thuyết. Muốn thực sự cảm nhận các món ăn ra sao, thực khách phải ăn, được gọi là nghiệm chứng. Tất nhiên, hành động ăn uống rất khác biệt với sự giải thích về các món ăn. Có nghe giải thích về bữa tiệc đến đâu chăng nữa, thì thực khách đói vẫn hoàn đói, không thể no được. Như vậy, nghiệm chứng là hành động ăn uống và sự giải thích chỉ là lý thuyết. Quan niệm nơi tôn giáo là lý thuyết nhưng đạo học mới là nghiệm chứng. Nghiệm chứng bao gồm suy nghĩ đặt vấn đề và phân tích, nhận định tùy theo kinh nghiệm cá nhân. Sự thể này chính là câu nói của nhà Phật, “Nước nóng lạnh, người uống tự biết;” bởi đó ngũ tổ Hoàng Nhẫn mới có câu nói, “Giác ngộ không thể học được,” và lục tổ Huệ Năng chỉ nói lên kiến tính chứ không đặt thêm vấn đề nào.

- Nếu tôi không lầm, ngày xưa các tín hữu Công giáo bị cấm không được đọc Kinh Thánh. Tôi không tìm hiểu tại sao, chỉ nêu lên một đôi giả thuyết. Có thể rằng các bậc rao giảng về đạo Công giáo thời xưa cho rằng những người tin theo quá ngu muội không đáng được đọc hoặc e ngại tín đồ đọc và nêu lên những câu hỏi các vị ấy không thể trả lời được hay e sợ tín hữu hiểu sai lầm những gì được viết nơi Kinh Thánh chăng. Điều này cũng giống như trường hợp anh Sỹ mới nêu lên câu Phúc Âm Phêrô bị gọi là Satan vì có ý nghĩ của loài người trong khi lý thuyết Công giáo mặc nhiên chấp nhận và dạy dỗ các tín đồ rằng Satan là thiên thần Lucifer kiêu ngạo muốn lên bằng Đức Chúa Trời nên bị phạt thành chúa quỷ. Tôi không theo đạo Công giáo nên không biết nói về quan niệm Satan có đúng với quan niệm của mấy anh em theo Công giáo đã được dạy dỗ chăng!

- Thưa bác, trúng chóc. Đúng như giáo lý dạy. Nhưng, Sỹ lên tiếng, khi nói đến tiếng “nhưng” lại im tịt.

- Nhưng sao?

- Thưa bác, nhưng sao Phúc Âm lại cho rằng sở dĩ thánh Phêrô bị gọi là Satan bởi ông ta suy nghĩ theo ý tưởng loài người. Như vậy câu này cho rằng Satan là ý nghĩ của loài người.

- Chị Tình, chị thấy thế nào? Cụ Tài hỏi đích danh.

Được hỏi, chị Tình cảm thấy niềm hãnh diện dâng lên. Xưa nay, dẫu Tình chưa bao giờ có bất cứ lời nói nào tỏ vẻ khinh chê hay coi thường chị trong bất cứ trường hợp nào, nhưng chị vẫn mang mặc cảm nào đó về thân phận nữ giới. Chị cảm phục Tình vì hắn thâm trầm, ít nói nhưng đã nói, hắn khá cân nhắc. Có điều, hắn rất tôn trọng chị; dẫu nơi thời buổi ban đầu mới cưới nhau hắn chỉ bảo cho chị nhiều chuyện về đặc tính đất lề quê thói nơi gia đình để chị tuỳ nghi đối xử. Đôi khi có những chuyện bất thường xảy đến trong gia đình, hoặc hắn có thái độ hay việc gì quá đáng, chị lên tiếng phản đối, hoặc có lời nói hay bày tỏ thái độ không chấp nhận; hắn kiên nhẫn giải thích. Dĩ nhiên, lắm lúc bực quá và với cá tính của người miền Nam, thẳng thắn, dễ dãi, chị có đôi lời quá trớn; hắn bắt bẻ ngược lại, chị chân thành nhận lỗi đồng thời chấp nhận bỏ qua mọi việc cho êm cửa êm nhà. Tất nhiên, có được sự thẳng thắn, cảm thông giữa vợ chồng trong gia đình, tâm tư chị rất thoải mái. Đàng khác, phương diện tiền bạc chi tiêu nơi cuộc sống tương đối chẳng đến nỗi nào nên chị cảm thấy an vui với hoàn cảnh hiện tại, yêu thương chồng con, và chăm sóc cho gia đình.

 
Cho dù giữa những bạn bè quen biết, thân thiện xưa nay, nhưng ngoại trừ thăm hỏi, nói chuyện mưa nắng, công việc làm ăn phôi pha tháng ngày, hoặc đôi khi nói chuyện diễu với những người đồng lứa nữ giới, hay bàn luận với chồng về toan tính cho cuộc sống, chị chưa bao giờ tham gia ý kiến, suy luận những vấn đề hóc búa trừu tượng. Dẫu đã mấy lần ngồi nghe nhóm đàn ông tranh luận, bàn cãi, đôi khi thấy những lời phát biểu của mấy tay bạo mồm bạo miệng oang oang khi rượu bia sừng sừng, chị đã có những ý nghĩ cho rằng có những lời nói quá đáng chẳng nên được nhắc tới, lại đôi khi cảm thấy ngạc nhiên vì lời nói trái tai được cụ Tài khuyến khích đào sâu suy nghiệm khiến chị bối rối tự hỏi phải suy luận tìm hiểu theo phương pháp nào cho hợp lý, hợp tình. Nay bỗng dưng được cụ Tài hỏi ý kiến về câu nói quá ư nghịch thường đối với quan niệm bình thường tốt lành đã bao lâu theo đuổi thực hiện trong cuộc đời, chị cảm thấy hào hứng cất tiếng,

- Thưa bác và quý anh quý chị, nhà em thấy rằng câu Phúc Âm hình như mang ý nghĩa thâm sâu nào đó, chứ nếu chỉ hiểu theo nghĩa đen có lẽ hơi quá. Nói chung, cho rằng Satan là ý nghĩ loài người vậy những ước mơ, ý nghĩ tốt lành đã bao nhiêu năm chúng ta theo đuổi, thực hiện đều là Satan thì nhà em cảm thấy không ổn. Chẳng lẽ cả đời một người không bao giờ có được việc tốt lành thánh thiện nào sao? Vậy những công sức đóng góp, phục vụ cho cộng đồng, hay cho những người khốn khó đáng thương cũng là Satan cả sao. Có đôi lần nhà em vô tình đọc được đâu đó, hình như nơi Thánh Vịnh, câu nói, “Này trong tà ác tôi đã sinh ra, và đã là tội lỗi khi mới là thai trong bụng mẹ” (Tv. 51:7). Nếu nhà em không lầm thì hình như ngày xưa có lần em nghe thấy có cụ già nói vợ chồng ban đêm ăn ngủ với nhau, sáng đi lễ không được rước lễ; vì ngày xưa chuyện vợ chồng được coi là sự tội. Nhà em thấy lùng bùng thế nào ấy. Nay vô tình giữa những người quen biết, nhà em chợt nghe thấy câu Phúc Âm vơ đũa cả nắm giống như quan niệm Thệ Phản, cho rằng bất cứ những gì con người dù thực hiện hay ý nghĩ cũng đều là tội lỗi. Lý luận thì không biết cách nào để lý luận; suy nghĩ cũng không kiếm được đầu mối hay liên hệ nhận thức. Nhà em chỉ cảm thấy khó thể chấp nhận bởi nếu chấp nhận như thế sẽ trở thành con người sống không mục đích, nếu không muốn nói là quan niệm khuyến khích buông thả, sống cho qua vì lối nào cũng đã bị lên án. Như vậy, mục đích cuộc sống con người là gì vì lối nào cũng sẽ bị trừng phạt dẫu ước muốn hay thực hiện những điều được cho rằng tốt lành, thánh thiện. Chị Tình nói một hơi, giọng thánh thót, thoải mái, nhẹ nhàng rặt cung điệu miền Nam nghe líu lo, êm tai. Với giọng điệu này, nếu chị được huấn luyện đặc biệt dành cho việc tuyên truyền chắc có lẽ lắm kẻ tin theo.

- Có ai thêm ý kiến gì nữa không về câu Phúc Âm? Cụ Tài thầm nghĩ nếu giải thích ngay, mấy tướng bán trời không văn tự này thiếu cơ hội suy tư đào sâu nơi nội tâm nên lên tiếng hỏi. Cụ chợt nghĩ, mấy lần trước chỉ vì sớm giải thích tránh mất thời giờ thành ra mấy anh em này không kịp suy tư nhận định nên những điểm nhỏ nhặt nhưng lại là căn bản suy tư đã như gió thoảng ngoài tai, không ai để ý.

Các tướng coi bộ thong dong, im lặng, kẻ uống bia, người mở chai mới, chừng như muốn có hành động nào đó che lấp nỗi khắc khoải trong lòng. Nhà Phật cho rằng mọi ý nghĩ, ước muốn, ước mơ đều là vọng tưởng, là dục, chỉ đem lại khổ ải cho con người; nên muốn có cuộc đời an bình thảnh thơi cần phải diệt dục sao không ai phản đối. Nay câu Phúc Âm cũng cùng một ý nghĩa như thế, chỉ khác lối trình bày thì người nghe cảm thấy giống như ngồi trên ổ kiến lửa, bị chúng bu vô cắn cho khiến ngứa ngáy khó chịu. Nhất là mấy tướng theo đạo Công giáo, bao nhiêu công lao đi lễ, đi nhà thờ, được khuyến khích làm việc lành phúc đức, giữ chay, hãm mình, sống đàng hoàng, không lẹo tẹo vợ nọ con kia, không đá lông nheo chị em hàng xóm, nhất mực chăm lo cho gia đình, và sống đời mẫu mực, hòa hợp với mọi người, nay bị câu Phúc Âm đá cho tơi tả; bao công đức bỗng nhiên đã bị phê chuẩn là Satan, tội lỗi từ hai ngàn năm trước, thế mới cay!

- Thưa bác, cháu đồng ý với chị Tình, Sỹ lên tiếng. Hình như có vấn đề trục trặc nơi câu Phúc Âm. Bởi nếu tất cả ý nghĩ, ước mơ của loài người là Satan thì quả thật câu Phúc Âm này khuyến khích con người ăn hoang phá hoại, sống buông thả do lối nào cũng sẽ bị trừng phạt muôn kiếp. Xét như thế, nhà con thấy tiếc nuối quãng đời đã qua vì đã bỏ lỡ mất quá nhiều cơ hội an hưởng vui thú trần gian.

 
Giọng nói của Sỹ mang phần nào xót xa như thương tiếc cảnh lỡ làng, vô tình để chuyến tàu hạnh phúc trôi vào quên lãng; khiến mặt mũi ai nấy trở nên tươi rói, mỉm cười do lòng dạ vui vui cảm thông giọng điệu diễu cợt của Sỹ với chủ đích thay đổi bầu không khí nặng nề suy tư. Đây đó nổi lên tiếng xì xào bàn ra tán vô của mấy tướng hưởng ứng tâm tình tiếc nuối giả tạo của Sỹ. Bỗng Bá cất tiếng ca,

- Ôi ngày xưa ấy đã qua, tôi nhìn thơ ấu ra đi. . .

Cả bọn cùng phì cười. Có người lớn giọng ngâm, “Tiếc thương cũng đã lỡ rồi, nhìn mái đầu bạc nhớ người ngày thơ! Xuân nao ai đợi ai chờ, thời gian hờ hững nào ngờ vội qua.”

Cụ Tài cười nhẹ cảm thông sáng kiến gỡ thế bí của mấy tướng. Đang suy tư về tâm linh, bẻ quặt bẻ quẹo qua tâm tình nhân sinh giải thoát nỗi nặng nề suy tưởng. Tay trái nâng ly rượu hớp nhẹ, cụ giơ tay phải ra hiệu im lặng, đoạn nói,

- Vậy những tiếc nuối đã vô tình bỏ lỡ thời đã qua là ý nghĩ, ước mơ tốt lành hay lầm lỗi, Satan?

- Thưa bác, Sỹ vội phát biểu, chuyện đã không xảy ra trong quá khứ nên được gọi lỡ làng. Sự tiếc nuối chỉ là gợi nhớ cho tâm tình thêm hương vị. Nó đã không xảy ra thì sao có thể đặt vấn đề tốt lành hay lầm lỗi. Nhưng cháu quên, vẫn còn sự tiếc nuối vì đã không thực hiện.

 
- Tôi muốn lặp lại câu hỏi, năng lực cầu nguyện phát xuất từ đâu. Nói cách khác, ý nghĩ, ước muốn, vọng tưởng mang quyền lực nào. Chúng ta đã vô tình chuyển đề tài thành suy tư nhận định về câu Phúc Âm đồng thời để tâm tưởng bị ám ảnh bởi quan niệm về Satan quấy rầy và trở thành kẻ bào chữa, đánh giá theo quan niệm thế tục về ý định, ước vọng nhân sinh. Chúng ta chỉ đặt vấn đề liên hệ về Satan và ý nghĩ loài người mà bỏ quên phần tiếp theo của câu nói, “Không phải là của Thiên Chúa.” Bởi vì nơi đầu óc chúng ta đã bị in sâu định nghĩa Satan là quỷ vương, là gốc gác mọi sự đối nghịch với những gì được gọi là thánh thiện tốt lành; nên chúng ta đã trở thành nô lệ cho sự ám ảnh này. Anh em đã bao giờ nghe và suy nghĩ về câu nói ngược ngạo, cái bóng của Thượng Đế là quỷ vương chưa, hoặc đã bao giờ anh em nghe hay đọc được câu nói Thượng Đế và quỷ vương là một chưa? Anh em có nhớ câu nói của Pascal, “Con người không phải là thánh, cũng chẳng phải là thú, nhưng đáng thương thay, những kẻ muốn làm thánh lại biến mình thành thú”? Câu nói nơi Phúc Âm mang ý nghĩa giống y như nơi quan niệm Phật học; sao anh em chấp nhận được quan niệm về vọng tưởng nơi nhà Phật, trong khi lại cảm thấy bối rối khi đối diện với định nghĩa Satan là ý nghĩ loài người để rồi quên mục đích suy tư về năng lực của cầu nguyện, cầu xin.

- Thực thể sự vật, sự việc là chính nó dẫu mình quan niệm hoặc cho rằng chúng thế nào. Đã chắc gì những điều mình cho là đúng lúc này hoặc đang mơ ước, luôn luôn hợp với mình những ngày tháng kế tiếp. Thế sao điều mơ ước hôm xưa trở thành cay đắng hôm nay đã và đang dày vò tâm tưởng mỗi người. Những loại thuốc trị bịnh năm mươi năm hoặc một trăm năm trước, phỏng ai dám sử dụng vào thời buổi này; bởi đã được khám phá ra rằng chúng là những chất độc nguy hại. Bao nhiêu năm thời quá khứ chúng ta sử dụng hàn the trong thực phẩm nhưng bây giờ có ai dám đụng đến chúng nữa không, ngoại trừ những người thiếu hiểu biết. Nếu chúng ta vẫn cố tình để cho ý thích riêng, cảm tình, hoặc quan niệm một chiều ảnh hưởng nhận thức, nhận định, chúng ta sẽ rơi vào ngã chấp. Cho rằng ý nghĩ loài người là sáng kiến, là gốc gác của sự phát triển, thay đổi, hoặc tốt lành vẫn chỉ là quan niệm một chiều thiếu nhận thức toàn diện; bởi đã có biết bao ý nghĩ, mơ ước chẳng ra gì lại có thể nói là nguy hại cho con người. Chúng ta cần mở rộng tâm hồn để nhận thức sự vật và sự việc như chính nó, không hơn, không kém. Thực tế ngay trước mắt đang nói lên sự thể này; thí dụ, anh em nào ăn ớt được thì thấy rằng ớt quý giá, tốt lành, nhưng đối với những người không ăn được ớt thì sao?

- Thưa bác, vậy những ý nghĩ, mơ ước tốt lành cho người khác thì sao?

- Cũng chỉ là ý nghĩ loài người! Tôi đưa thêm một thí dụ điển hình. Cụ Tài gắp một miếng rượu mận bỏ vô miệng vừa nhai vừa nói; miếng rượu mận này ngon, tốt lành nếu tôi nuốt xuống. Tuy nhiên, nếu bây giờ thay vì nuốt xuống, tôi nhả vô một chiếc đĩa sạch, chẳng những chính tôi mà cả mọi người không ai dám bỏ nó trở vô miệng bởi cảm thấy nhơ bẩn. Cũng cùng một miếng ăn, nuốt xuống thì tốt lành, nhổ vô chiếc đĩa sao lại bị coi là nhơ bẩn đối với chính mình!

- Thưa bác, tại vì mình cho rằng nó nhơ bẩn, cháu xin lỗi, à à, nó là ý nghĩ loài người, không phải thực thể sự vật.

- Tôi trở lại câu hỏi nguyên thủy, năng lực cầu nguyện, cầu xin phát xuất từ đâu. Chúng ta đã chiều theo nhận định của ý thích, quan niệm và đặt vấn đề đúng, sai, phải, trái, nhĩ, ngã để rồi luẩn quẩn định giá tốt xấu của ý nghĩ, ước mơ. Ước muốn, vọng tưởng thực ra chẳng đúng, chẳng sai, không phải, không trái, không tốt lành cũng chẳng tội lỗi. Đúng, sai, phải, trái tùy thuộc ý định có hòa hợp với thực tại và tâm ý hay không. Tâm ý tốt nhưng sự thực hiện không phù hợp với hoàn cảnh, coi chừng chỉ mang lại hậu quả khó thể chấp nhận. Anh em thừa biết, năng nổ, chân thành nhưng thiếu hiểu biết chỉ là phường phá hoại. Nhân gian có câu, “Trông mặt mà bắt hình dong, con lợn có béo thì lòng mới ngon.” Đâu phải phi lý mà câu nói, “Khôn ngoan hiện ra mặt, què quặt hiện chân tay,” đã trải qua bao thời gian vẫn đứng vững nơi tâm trí con người. Anh em có nhớ câu, “Con mắt là cửa sổ của linh hồn không”? Chúng ta dẫu biết câu này nhưng vì vô tình không để ý suy nghiệm nên coi thường câu nói nơi Phúc Âm, “Đèn của thân thể là con mắt của anh. Khi mắt anh sáng, thì toàn thân anh cũng sáng. Nhưng khi mắt anh xấu, thì thân anh cũng tối. Vậy hãy coi chừng kẻo ánh sáng nơi anh lại thành bóng tối. Nếu toàn thân anh sáng, không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn toả sáng chiếu soi anh” (Lc. 11:34-36). Tâm ý quyết định một nửa tính chất sự việc và nửa kia lệ thuộc diễn tiến thực tại sự thể. Ai cũng biết lời khuyên; nếu bị rắn cắn ở chân thì việc cấp thời nên lấy dây thắt chặt phía trên ngăn ngừa nọc độc theo máu chạy về tim. Thế nhưng, chẳng lẽ nếu bị rắn cắn ở đầu lại lấy dây thắt cổ. Tâm ý tốt lành nhưng không thể thực hiện mục đích bất chấp hành động.

- Xét về thực thể con người, chúng ta thường bị ảnh hưởng bởi những thói quen, sử dụng riết rồi nhập tâm và chẳng bao giờ suy nghiệm, đặt vấn đề. Thí dụ, chúng ta thường nghe nói, tai nghe, mắt thấy. Anh em có nhìn thấy tôi đang ngồi nhậu với anh em không? Anh em có nghe thấy tôi đang nói chuyện không? Cụ Tài nêu câu hỏi đoạn im lặng đợi trả lời.

Thế là mọi người ngớ ra! Dĩ nhiên, ai không nhìn thấy cụ Tài đang ngồi nói chuyện; thế sao cụ nêu câu hỏi ngớ ngẩn vậy! Như chim bị bắn sợ cành cây cong, đã mấy lần những câu hỏi rất thông thường khiến mọi người ngỡ ngàng bởi chưa suy nghĩ đã vội trả lời theo thói quen, ai nấy chợt trầm ngâm tự hỏi phỏng có mánh lới nào ẩn chứa nơi câu hỏi bình thường đến độ hiển nhiên chăng.

- Phật Sỹ, thức ngộ rồi thì trả lời coi hay vẫn còn đang ngủ ngộ chưa chịu thức, Bá chọc Sỹ.

- Vội gì, tớ còn đang phải nghiệm chứng xem có phải mắt mình nhìn hay mắt ai đang nhìn nơi mình; tai mình đang nghe hay tai ai đang nghe.

- Sao im lặng thế! Cụ Tài lên tiếng.

- Dạ chúng cháu còn đang ngâm cứu không hiểu có phù phép nào nơi câu hỏi quá ư hiển nhiên chăng. Phủ lãng đãng thưa.

- Anh em có mắt không?

- Thưa có, cháu có những hai cái mắt.

- Anh em có tai không?

- Thưa có một cặp.

Mắt anh em có nhìn thấy tôi đang ngồi đây không?

- Thưa có, rõ ràng bởi mắt thấy, tai nghe.

- Như vậy mắt anh em nhìn thấy tôi; tai anh em nghe tôi nói.

- Thưa bác, hình như có sự gì trục trặc nơi điểm này. Hưng lên tiếng.

- Anh Hưng giải thích được không?

- Thưa bác, nếu nói rằng mắt thấy, tai nghe, thế bao nhiêu người có những cặp mắt tốt, cặp tai thính; đùng một cái khi hồn ra khỏi xác, mắt họ không thấy được gì nữa; tai hết nghe. Thực thể như thế nói lên có cái gì đó nơi một người dùng mắt để nhìn, dùng tai để nghe. Thiền sư Bankei gọi là Tâm Bất Sinh.

- Ái da! Hành giả, hành thiệt, thế ra mình vẫn chỉ là thức giả. Sỹ lẩm bẩm, giọng diễu cợt.

- Biết mình vẫn còn “thức giả” tạm được coi như ngộ phần nào. Thực thể nơi mỗi người chúng ta minh chứng, mắt không thể nhìn tự nó, tai tự nó không thể nghe, miệng không thể tự nó nói, óc không thể suy nghĩ tự nó, mà tất cả ngũ quan, giác quan chỉ là phương tiện cho một thực thể nơi mỗi người. Thực thể này được gọi là Phật Tính, Tâm Phật, Tâm Bất Sinh, Tào, Atman, linh hồn, Thượng Đế nội tại. Muốn gọi là gì cũng được miễn sao chúng ta nhận thức được thực thể này. Tôi nghĩ, đến đây anh em nhận thực được ý nghĩa điều Phúc Âm gọi là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta.”

- Thưa bác, nói như thế Phúc Âm cũng là một đạo học. Tình hỏi.

- Thế anh cho nó là gì.

- Giời, xưa nay cháu cứ nghe thấy nhắc đi nhắc lại là lời Chúa nên quên phéng đặt vấn đề.

- Như vậy ước muốn, ước mơ phát xuất từ thực thể nào đó nơi mỗi người. Xét thế, cầu nguyện, cầu xin là bày tỏ ước muốn, ý định nơi tâm hồn của người ước muốn. Những ước muốn này mang năng lực của quyền lực tối thượng đang ngự trị nơi mỗi người. Tuy nhiên, là con người, chúng ta quen thói suy nghĩ theo thế tục hầu giải quyết nhu cầu sinh sống thiết thực nên đã không để ý nhận thức nguồn gốc, năng lực của ước muốn, ước mơ, phát xuất từ đâu. Nhà Phật gọi chung những ước muốn, ước mơ, vọng tưởng, ý định là dục và thường bị hiểu là dục tình mang nghĩa xấu theo nhận thức nhân sinh. Phúc Âm gọi là ý nghĩ của loài người.

- Để tôi giải thích thêm may ra anh em hiểu rõ hơn, nơi Dịch học, con người được coi là tiểu vũ trụ. Muốn hiểu biết sự vận chuyển của vũ trụ, con người cần tìm hiểu nơi chính mình. Có anh em nào nhớ câu nói nào nơi Kinh Thánh đã nói gì về liên hệ giữa con người và Thiên Chúa không?


Quả là câu hỏi tắc họng! Xưa nay mọi người chỉ được nghe giảng thuyết về cứu chuộc, cứu độ, Thiên Chúa Ngôi Hai xuống thế làm người, chứ có bao giờ được nghe về liên hệ giữa con người và Thiên Chúa. Cùng lắm chỉ được nghe đến nhàm tai về lý thuyết Thiên Chúa quá yêu thương người thế đến độ sai con một của ngài xuống thế làm người chịu khổ hình vì tội lỗi nhân loại, rồi nào phải kính mến, kính sợ Thiên Chúa, chớ kêu tên đức Chúa Trời vô cớ dẫu chẳng biết tên ngài là gì, rồi nào giữ ngày chủ nhật, ăn năn đánh tội, ăn chay, kiêng thịt, chớ làm chứng dối, chớ lấy của người, chớ muốn vợ chồng người, yêu thương người ta bằng mình ta vậy, vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người thiện tâm; ngoại trừ câu Phúc Âm, Emmanuel, Thiên Chúa ở cùng chúng ta mới được cụ bới ra mấy bữa trước chứ làm gì có ai dám nói đến liên hệ bao giờ. Các cha có giảng thì cũng cứ lặp đi lặp lại phải ăn năn, phải thống hối, phải đi lễ, phải xưng tội vì mình là con người tội lỗi, sao dám nói đến dây dưa, móc nối, phương chi liên với nối. Cụ Tài coi bề ngoài mang vẻ lẩm cẩm sao bới ra lắm thứ nghịch thường như thế.

Mấy anh em theo Thiên Chúa giáo, kẻ thì Công giáo, người Thệ Phản, kẻ Tin Lành đưa mắt nhìn nhau. Cùng tin vào đức Giêsu, cùng tin vào Thiên Chúa, cùng đọc chung những bản dịch Kinh Thánh dẫu có đôi chút khác nhau, thế mà tâm trạng sững sờ khi bị hỏi về Kinh Thánh. May mà xưa nay nhờ có được chút vốn liếng tạm gọi là học thức nên tránh đụng chạm về quan điểm tôn giáo, tưởng như thế đã ổn thỏa nơi tình bạn hữu. Ai ngờ, nói rằng tin nhưng cứ như tin theo chứ chẳng thèm nghiệm tại sao. Có lần ai đó vô tình đặt vấn đề lý giải về Đức Mẹ đồng trinh, Sỹ nhà con lên tiếng, bà ấy đồng trinh hay không thì bà ấy biết. Muốn biết thì hỏi bà ấy, sao lại tin hay không tin. Sự thể đã như thế thì tin hay không cũng chẳng thay đổi được gì. Nói rằng tin bà ấy đồng trinh thì bà ấy đồng trinh và nói rằng bà ấy không đồng trinh thì bà ấy không đồng trinh hay sao. Vớ vẩn! Như vậy, nói rằng, tin rằng bà ấy thế nào thì bà ấy vẫn là bà ấy, chẳng gì thay đổi, không chi mới lạ, thế mà cứ rối lên. Vợ Sỹ cũng chen vô bảo, giáo hội dạy phải tin như vậy. Sỹ nhà con cãi lý, chứ nếu ai đó nói không tin bà là vợ tôi thì bà là vợ ai. Bộ người ta không tin bà là vợ tôi thì bà không phải vợ tôi sao? Nếu giáo hội dạy phải tin bà không phải là vợ tôi thì tôi càng mừng.

- Rõ cái ông quỷ này, vợ Sỹ xí xóa.

- Anh em thử nhớ lại đoạn đầu của sách Sáng Thế Ký về việc tạo dựng con người xem thế nào.

- Thưa bác, Thiên Chúa dựng nên con người theo hình ảnh của Ngài.

- Nếu đem câu này so sánh với những lời rao giảng của đức Giêsu anh em thấy sao?

Im lặng, đành phải im lặng bởi không biết cách nào suy luận ráp nối!

- Đức Giêsu dạy con người gọi Thiên Chúa là gì? Tin theo đức Giêsu, tôi nghĩ anh em biết rõ điều này vì anh em thường tụng niệm hằng ngày.

- Ngài dạy gọi Thiên Chúa là cha; lạy Cha chúng con ở trên trời.

- Rồi sao nữa?

- Ngài rao giảng tin mừng, Thiên Chúa ở cùng chúng ta.

- Nếu tổng hợp ba câu lại chúng ta có thể nói, vì Thiên Chúa ở cùng chúng ta nên chúng ta mang hình ảnh của Ngài. Đức Giêsu dạy chúng ta gọi Thiên Chúa là Cha chứng tỏ sự liên hệ giữa Thiên Chúa với loài người rất mật thiết. Anh em thường nghe câu nói, cha nào con nấy; nói rằng Thiên Chúa ở cùng chúng ta, hay Phật tại tâm cũng đồng một nghĩa, hoặc Đại Ngã hiện diện nơi mỗi người được gọi là Atman thì cũng thế. Nếu đem so với lời giải thích, Tào như nước, hiện diện mọi nơi mọi chốn thì nào có chi khác biệt. Sự khác biệt phải chăng chỉ ở ngôn từ; trong khi Trang học có câu nói, “Được chim quên ná, được cá quên nơm, được ý quên lời. Đàng khác, ngay chính nơi cùng một tổ chức, cùng một niềm tin nhưng quan niệm vẫn có thể khác biệt; đồng thời do thiếu nghiệm chứng, không chấp nhận mở rộng nhận thức đón nhận những quan điểm khác biệt, chúng ta càng tạo thêm phân cách nhận thức.

- Tôi thử đưa ra một thí dụ, anh Tình có năm cháu phải không. Nếu đưa cho mỗi đứa một tờ giấy và một cây viết, đoạn bảo chúng viết về bố của chúng, chắc chắn không đứa nào viết giống đứa nào mặc dầu có những nhận xét tương đương. Cũng thế, mọi người đang hiện diện nơi đây cũng đều có những nhận định khác nhau về một anh Tình. Như vậy, nơi phương diện nhận thức và nghiệm chứng đạo học, những con người khác biệt từ cơ thể, ngôn ngữ, thời đại cũng như hoàn cảnh, tất nhiên đều có những nghiệm chứng và quan điểm khác nhau về cùng một thực thể tối thượng, đồng thời danh xưng cũng được đặt khác nhau. Không nói đâu xa, đọc nơi sách vở chúng ta thấy rõ sự khác biệt này. Nơi Phật học, danh xưng của cội nguồn, nguyên thủy vạn vật được gọi là Chân Như; nơi Lão học được gọi là Tào; nơi Ấn, Brahma; nơi Thiên Chúa giáo gọi là Thiên Chúa. Bởi thế anh em cảm thấy bối rối với câu hỏi năng lực của cầu nguyện, cầu xin; có lẽ chính vì quá lệ thuộc nơi ngôn từ, danh xưng chăng.

- Xét như vậy, tạm bãi bỏ hàng rào ngôn từ, chúng ta đều nhận biết có một sự thể nào đó nơi mỗi người. Sự thể này điều hành toàn bộ con người; có thể nói, cuộc đời một người là phương tiện cho sự thể này hoạt động. Và phương diện hoạt động của thực thể này chính là ước muốn, ý định, ước mơ; bởi vậy chúng ta không lạ gì con người là nô lệ cho ước muốn, ước mơ ngay nơi mình. Thử xét thêm trường hợp, thay vì gọi Thực Thể Tối Thượng là Thiên Chúa, Chân Như, Tào, Thượng Đế, Brahma, chúng ta tạm gọi là Quyền Lực Hiện Hữu, chúng ta sẽ nhận rõ được quyền lực hiện hữu tối thượng đang hiện diện nơi mọi người, mọi nơi mọi chốn, từ tư tưởng vô hình đến mọi vật, mọi sự hữu hình. Ước muốn, ước mơ phát sinh từ quyền lực này mà cầu nguyện chính là bày tỏ ước muốn ước mơ; tất nhiên, năng lực của ước mơ phát xuất từ quyền lực hiện hữu này. Như vậy, thật dễ cho chúng ta hiểu tại sao nhà Phật nói ước muốn hay dục tạo chúng sinh. Phúc Âm cũng nói đến trường hợp này nơi câu nói, “Các ngươi đã nghe bảo: chớ ngoại tình. Còn Ta, Ta bảo các ngươi: phàm ai nhìn người nữ để thỏa lòng dục thì đã ngoại tình với nó trong lòng” (Mt. 5:27-28). Suy thế, xưa nay chúng ta đều mang thứ tội độc nhất mà Đạt Ma sư tổ gọi là tội vô minh, tội thiếu suy nghĩ, thiếu nghiệm chứng. Chúng ta chẳng khác gì đứa bé một hoặc hai tuổi, tay cầm “Credit card” hay tiền bạc nhưng chẳng biết chúng là gì, chẳng biết sử dụng ra sao đến nỗi chết vì khát sữa.

 
- Thưa bác, Sỹ nhà con lên tiếng, nhưng cầu hoài cầu hủy, cầu tới, cầu lui, cầu mãi không được thì đành bó tay chấp nhận chứ biết sao hơn.

- Nói như thế, anh Sỹ vẫn chưa biết cầu nguyện, cầu xin là gì. Và như vậy lại càng chưa nhận thức đúng đắn năng lực cầu nguyện phát xuất từ đâu. Anh em nên suy nghĩ điều này; đó là cầu nguyện, cầu xin, là sử dụng năng lực, quyền lực tối thượng nơi mình để thực hiện điều mình muốn nó xảy ra. Như vậy, nếu đã không biết, không nhận thực được quyền lực tối thượng đang hiện diện nơi mình thì sao có thể sử dụng. Bình thường chúng ta chỉ cho rằng cầu nguyện hay cầu xin là trình bày mơ ước, mong muốn của mình tới đấng tối cao và được ban cho hay không tùy ngài. Xét cho cùng, cũng bởi quan niệm như thế nên chúng ta đã chẳng tìm hiểu, suy nghiệm về thực thể chính mình. Chúng ta không biết mình là ai, thế nào, mà chỉ âm thầm chấp nhận đã bị sinh ra thì phải sống, trong khi lại sợ chết để rồi mang mặc cảm sống vô tích sự, đành tìm giá trị hiện hữu của mình qua giá trị thế tục hoặc danh vọng hão huyền. Thử hỏi, trải qua bao chục năm sống nơi thế giới này chẳng lẽ khi xác thân qua đi thế là hết? Giá trị đời người nơi đâu khi vào đời tay trắng và ra đi trắng tay! Chẳng lẽ giá trị đời sống con người cũng giống như một cuộc đời con vật, tối ngày chỉ lo sao cho no bụng rồi chờ ngày chết. Thật ra, những ai quan niệm cuộc đời như thế, chẳng có gì đáng nói vì nói cũng như không. Anh em nên suy nghĩ lại về câu Phúc Âm, “Vậy mọi điều các ngươi muốn được người ta làm cho mình, thì cả các ngươi nữa cũng hãy làm cho người ta như thế” (Mt. 7:12) lần trước tôi đã giải thích. Tuy nhiên, bởi quá quen suy nghĩ theo chiều hướng thế tục, chúng ta không suy nghiệm thâm sâu về thực thể cầu nguyện. Nơi Kinh Thánh có câu, “Dừng lại! Hãy biết rằng Ta là Thiên Chúa” (TV 46:11). Nơi tiếng Mỹ được dịch là “Be still, and know that I am God.” Nơi bản dịch khác ghi, “Desist! and confess that I am God.” Thiển nghĩ, câu này nên được dịch, hãy bình tâm và nghiệm chứng để nhận thực Ta là Thiên Chúa. Đây mới đúng nghĩa của cầu nguyện; tức là nâng lòng mình lên hòa nhập với quyền lực tối thượng đang hoạt động nơi chính mình, nơi tạo vật. Bất cứ ý nghĩ, tưởng tượng, ước vọng, ước muốn nào đều chỉ là ý nghĩ của loài người. Có lẽ anh em đã hiểu ý nghĩa tại sao đức Giêsu gọi Phêrô là Satan! Với ý nghĩa này, câu Kinh Thánh giúp chúng ta gợi nhớ lời lục tổ Huệ Năng, kiến tính thành Phật. Chỉ về trạng thái này, Lão học gọi là vô cầu, vô công, vô danh, trạng thái hòa nhập với Tào hay huyền đồng.

- Tôi nhắc lại, Yoga sử dụng và phát triển năng lực nội tại hầu thực hiện các pháp môn như Hatha Yoga để tu luyện xác thân, Kundalini Yoga để luyện các năng khiếu thần thông như thần nhãn, thần nhĩ, Lâya Yoga để luyện tinh thần và trí nhớ sắc bén, Râja hay Kriyâ Yoga để chuẩn bị con người đạt tới minh triết, Samadhi Yoga đưa đến giác ngộ tối cao (TTHB; tr.177). Mỗi pháp môn lại bao gồm nhiều giai đoạn, thứ bậc mà hành giả (yogi) cần được trải qua, và nhiều khi các tác giả trước tác, bởi không thực hành lại phân chia thành các thành phần riêng biệt, khiến độc giả không thể nào có nhận định tổng quát đúng đắn. Đàng khác, có thể vì lối giải thích hoặc hoằng dương thiếu đúng đắn do lòng thành nhưng thiếu hiểu biết đến độ quá khích, trói buộc những tâm hồn sơ cơ hay mù quáng đã chẳng giúp ích quảng bá, mà nhiều khi gây phản ứng ngược, tạo cho người nghe tâm tình coi thường, phản cảm. Chẳng hạn nơi cuốn Đông Phương Huyền Bí tác giả viết, “Pháp môn Hatha Yoga chỉ được một số ít môn đồ hiểu rõ và thực hành đúng đắn, còn phần đông người phàm tục thì hiểu sai lầm. Đã có những người nằm suốt ngày đêm trên bàn chông sắt nhọn, hoặc có người đưa một cánh tay lên trời suốt nhiều năm cho đến khi cánh tay chết mất một nửa, và móng tay mọc dài đến năm mươi phân tây hay hơn. Người ta nói rằng những người này thực hành pháp môn Hatha Yoga, nhưng sự thật không phải vậy mà trái lại họ còn làm hoen ố danh dự của pháp môn ấy. Mục đích của pháp môn này không phải là hủy hoại xác thân để làm những trò lạ mắt cho người đời khâm phục và ngạc nhiên. Những người khổ hạnh kể trên chỉ là những kẻ ngu dốt không biết gì về mục đích của pháp môn Yoga. Một ông vua có khi nào phơi bày những ngọc ngà châu báu trước mắt mọi người” (ĐPHB; Tr.63-64). Nơi Công giáo cũng thế, đã có lần tôi tham dự một nghi lễ trong đó vị linh mục đã phán rằng nếu ai không chịu phép rửa tội thì không được cứu rỗi, không được vào nước thiên đàng; điều này quả là quá quắt và mang tính cách kết án những người không theo đường hướng của mình và đồng thời gây phản ứng ngược nơi hàng thính giả bên ngoài đạo. Có điều, không hiểu vị linh mục ấy có để tâm nghiệm chứng tác phẩm Công Đồng Vatican đệ nhị hay không. Công Đồng này định nghĩa, giáo Hội bao gồm dân Chúa. Nếu hiểu theo nghĩa Thiên Chúa là Quyền Lực Hiện Hữu tối thượng thì ai ai cũng được gọi là dân Chúa; và như vậy, những người trước thời phép rửa tội được thiết lập thì sao!

- Thưa bác, đúng. Nhiều lần cháu nghe thấy như thế nên cứ phát rét lên nhưng không dám suy nghĩ gì vì chẳng có gì ảnh hưởng đến mình nên thôi. Tuy nhiên, cháu có câu hỏi, tại sao có lắm thứ, lắm cấp bậc nơi Yoga trong khi nhà Phật thì chỉ có pháp môn bất nhị.

- Pháp môn bất nhị, kiến tính thành Phật là quan điểm chính yếu của lục tổ Huệ Năng đâu phải quan niệm hoặc thực hành chung cho mọi Phật tử. Chúng ta có thể kiểm chứng nơi thực tại Phật giáo. Anh em nhớ cho, chúng ta đàm luận về đạo học chứ không nhận xét tôn giáo. Từ công việc đàm luận này chúng ta thăng tiến nơi phương diện nhận thức để kiếm tìm cho mình một đường hướng thăng tiến tâm linh đúng đắn phù hợp với chính mình mà thôi. Chúng ta cũng nên tránh phê phán quan điểm hoặc niềm tin của tín đồ các tôn giáo khác nhau. Có chăng, chúng ta nên mở rộng tâm hồn để nhận định, nghiệm chứng. Những gì cảm thấy đúng đắn và hợp với mình sau khi đã kỹ lưỡng suy tư và nghiệm lại nơi những trường hợp quá khứ đã xảy đến với mình đem lại nhận thức khôn ngoan áp dụng nơi thực tế cuộc sống thì mới nên chấp nhận. Có thể rằng hôm nay mình nhận được điều hay nhưng ngày mai đã thấy nó không hợp thì cũng không nên bo bo cố chấp tiếc nuối công lao suy tư mà cần nghiệm lại thâm sâu hơn nữa.

- Tôi nhắc lại, không có bất cứ một pháp môn nào hợp cho mọi người bởi không ai được sinh ra giống ai cũng như căn cơ mỗi người một khác. Thêm vào đó, mỗi người mang một hoàn cảnh sống cũng như bị ảnh hưởng liên hệ trong cuộc đời tạo thêm nhiều điều khác biệt. Mỗi người phải tự tìm cho mình một đường hướng và sự thực hành áp dụng riêng. Đây là nguyên nhân phát sinh nhiều tông phái cũng như pháp môn như những đường hướng tiêu dẫn cho những con người khác nhau. Dẫu thế, lý thuyết căn bản cho các pháp môn Yoga làm điểm tựa bắt nguồn từ sự liên hệ giữa con người và quyền lực tối thượng, nguồn sinh lực tuyệt đối đang hoạt động nơi vũ trụ. Mối dây liên hệ này chính là không khí. “Thể xác con người và nhứt là bộ máy hô hấp phải được tập luyện và kiểm chế như những giống lừa. Sau đó, sự chủ trị thần kinh và cân não sẽ dễ dàng như trò chơi trẻ con. Tu theo pháp môn Hatha Yoga đem đến lợi ích cho sức khoẻ, ý chí, và sống lâu”(ĐPHB; Tr.56-57).

- Hatha Yoga có gần hai mươi phép tập gọi là tư thế (asama) để tăng cường những bộ phận và cơ quan trong thân thể và để chữa hay ngăn ngừa một vài chứng bịnh. Một tư thế nào đó ảnh hưởng đến những bí huyệt trong bộ thần kinh hệ. Những bí huyệt này lại vang dội đến những bộ phận hay cơ quan suy yếu và giúp cho nó được hoạt động mạnh mẽ trở lại. Có bốn phương pháp để giữ cho thân thể được luôn khoẻ mạnh cường tráng. Trước hết là phép nghỉ ngơi để làm xoa dịu bộ thần kinh và cân não. Kế đó là phép tĩnh tọa. Thứ ba là phép tẩy uế thân thể bằng những phương pháp có hiệu lực rất hay. Sau cùng là phép khí công, tức là phép luyện và kiểm soát hơi thở (ĐPHB; Tr.65).

- Sau khi làm việc hay đi bộ, ngồi thiền đem lại sự nghỉ ngơi, yên ổn cho cả toàn thân. Phương pháp dễ nhất để tập ngồi là trãi chiếu xuống đất rồi ngồi lên, xếp hai chân vào và tréo hai bàn chân. Không nên có cảm giác quá gò bó hay căng thẳng, và đừng co bắp thịt lại. Khi đã giữ được thế ngồi, hãy để cho tâm hồn yên tĩnh, vắng lặng, không bận rộn nghĩ ngợi gì đến những việc trần gian, phàm tục. Hãy gom tư tưởng của mình vào một vật gì đẹp đẽ, mỹ lệ như một bức tranh đẹp hay một cái hoa (ĐPHB; Tr.66). Trong phép nghỉ ngơi không cần đến những gì khó khăn phiền phức. Những thế dễ dàng nhất lại đem đến những kết quả rất tốt. Hãy nằm ngửa trên lưng, hai chân duỗi thẳng, đưa hai ngón chân cái ra ngoài. Hai bàn tay mở ra và đặt ở hai bên thân mình. Buông xuôi các bắp thịt, nhắm mắt lại và để cho sức nặng của toàn thân đè lên sàn gạch. Người ta không thể tập kiểu này trên giường một cách đúng phép vì cần phải giữ cho xương sống hoàn toàn ngay thẳng. Hãy dùng một cái chăn trãi lên sàng gạch. Trong phép nằm nghỉ này, những mãnh lực hàn gắn của thiên nhiên sẽ giúp con người tu bổ sinh lực. Đó là thế nằm của xác chết. Tư thế này làm cho các thớ thịt khỏi bị căng thẳng và xoa dịu bộ thần kinh. Sự nghỉ ngơi của bắp thịt phải đi trước sự nghỉ ngơi của trí não; sự nghỉ ngơi, dưỡng sức là nền tảng của pháp môn Yoga (ĐPHB; Tr.68). Những trung tâm bí yếu của thần kinh hệ ở rải rác nhiều chỗ trong thân thể. Mỗi tư thế Hatha đều có công dụng ảnh hưởng đến một trung tâm nhất định. Nhờ khích động các bí huyệt đó, ta có thể ảnh hưởng đến sự vận động của các bộ phận trong cơ thể, cũng như đến sự hoạt động của trí não. Ngoài ra, người ta không thể dùng cách nào khác. (ĐPHB; Tr.71). Hành giả thực hành mỗi tư thế một cách chậm rãi, có ý thức và giữ vững tư thế ấy trong vài phút. Nằm ngửa, dựng đứng ngược chân thẳng lên,; dùng hai tay, hai vai và đầu đỡ lấy thân mình, tư thế này dồn máu xuống bộ óc do trong lượng của nó trong vài phút. Có hai sự ảnh hưởng khác biệt trong tư thế này: máu dồn xuống óc gây một ảnh hưởng xoa dịu đối với bộ óc và cân não và tăng cường bộ phận sinh dục (ĐPHB; Tr.73).

 
- Như vậy anh em thấy, bất cứ hành động, hoạt động nào cũng cần được ý thức, cần được sử dụng tâm ý như lần trước tôi đã nói, ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đến đả thông kinh mạch. Đó là dùng năng lực của ý định điều hành khí huyết theo những phương thức để phát triển năng lực nội tại. Không những thế, kinh sách còn chỉ rõ cho chúng ta biết ước muốn, năng lực của ý định còn ảnh hưởng toàn bộ sự thăng tiến tâm thức một người.

- Thưa bác.

- Hãy để tôi nói dứt phần này, cụ Tài ngăn Sỹ lên tiếng. Ý định, ý nghĩ, ước muốn, vọng tưởng chính là hoạt động của hồn, tâm Phật, Phật tánh, tâm ý. Anh em để ý nghiệm một chút nơi cuộc đời mình; mình luôn luôn theo đuổi ước muốn, ước mơ. Nếu thực sự ước muốn điều gì, chúng ta tiêu hao ngày tháng, tiền bạc, đôi khi ngay cả tình nghĩa thân sơ hay gia đình để theo đuổi chúng. Như vậy, cuộc đời một người là nô lệ cho những ước muốn, ý định. Nói cách khác, cuộc đời là cơ hội cho hồn, tâm ý, tâm Phật hoạt động và dùng thân xác làm phương tiện. Chúng ta đã không để ý nghiệm chứng năng lực và ảnh hưởng của tâm ý, của hồn nơi cuộc đời trong khi Phúc Âm nói rất rõ về điểm này. Chẳng hạn, nơi Matthêu được viết, “ Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt. 16:19). Những gì chúng ta theo đuổi có nghĩa chúng ta tự cầm buộc mình vào điều đó. Thế nên, vì tâm trí chúng ta tạo dựng và theo đuổi đồng thời dùng thân xác, cuộc đời chúng ta thực hiện ước muốn ước mơ; nên khi thân xác qua đi, hồn chúng ta vẫn theo đuổi ước muốn ước mơ đó. Trạng thái này có nghĩa cầm buộc. Bởi vậy, Phúc Âm còn có câu khác, “Nếu tay anh làm cớ cho anh sa ngã, thì chặt nó đi; thà cụt một tay mà được vào cõi sống còn hơn là có đủ hai tay mà phải sa hoả ngục, phải vào lửa không hề tắt” (Mc. 9:43). Câu này hoặc câu tương tự về mắt, ý nói, bất cứ những gì ngăn cản, làm phiền hà hành trình thức ngộ, chúng ta đều nên dứt khoát dẹp bỏ dù thế nào chăng nữa. Nơi Nam Hoa Kinh cũng có câu chuyện về con rùa thà chấp nhận sống lê chiếc đuôi nơi vũng bùn lầy còn hơn trở thành mớ xương khô được đặt trên trang thờ cho người ta cúng bái. Vũng bùn lầy chỉ về cuộc đời bình thường của một người nơi hành trình tâm linh; trang thờ nói về danh vọng, chức quyền thế tục. Như vậy, Trang học cũng khuyên người ta chú tâm đến hành trình thức ngộ tâm linh hơn là chạy theo danh vọng thế tục. Có lẽ rất khó cho mọi người hiểu khi nghe thấy câu, “Được lợi lãi cả và thế gian mà lỗ vốn mất linh hồn nào được ích chi.” Vì tâm hồn chỉ kiếm tìm lợi lộc thế tục nên được cả và thế gian, và như vậy, hồn luôn luôn bị cầm buộc theo ước muốn thế tục sau khi thân xác qua đi. Nhà Phật gọi là luẩn quẩn trong vòng luân hồi. Anh Sỹ, lúc nãy anh muốn nói gì? Cụ Tài hỏi.

- Cháu muốn hỏi về phương pháp áp dụng tâm ý nơi Yoga.

- Điều này tôi vừa lặp lại và đó cũng là nguyên tắc căn bản của hiệp khí đạo. Ý dẫn khí, khí dẫn huyết, và huyết đến đả thông kinh mạch. Tuy nhiên, đừng hỏi tôi dẫn khí chạy từ huyệt nào đến huyệt nào bởi tôi không thực hành Yoga vì không muốn bị tẩu hỏa nhập ma. Tôi đã giải thích về sự nghiêm trọng cũng như nguy hại của sự luyện tập thiếu nghiệm chứng, thiếu vị thày chuyên môn nơi phương diện này nên chỉ nhắc lại, khuyên anh em chớ dại liều mình; lợi đâu không thấy, chỉ có hại.

- Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn, chưa thấy Phật thì đã thành ma. Lan ơi em lui về bên ấy, để hằng ngày tâm hồn lơ lửng với tiếng... chuông... chùa. Sỹ đế vô đoạn ngoác miệng ca câu vọng cổ hắn bịa ra.

- Cái ông quỷ này, tối ngày chỉ cà tửng, cà tửng, phá đám; vợ Sỹ lớn tiếng.

- Tớ ca vọng cổ giúp vui mà cũng la. Trời, Phật cũng không chiều được lòng đàn bà.

- Thôi, chú Sỹ, để cụ nói. Ông Thung ngăn.

- Nhưng thưa bác, cháu nghĩ, từ xưa đến nay biết bao tu sĩ Ấn giáo lại thêm những hành giả thực hành Yoga đều có những vị thày chỉ dẫn đúng đắn sao kết quả không ai biết thế nào. Thì cứ coi như được một số đắc đạo, vậy những người khác không đắc đạo chẳng lẽ bị tẩu hỏa nhập ma hết. Nếu họ không đắc đạo và cũng không tẩu hỏa nhập ma, nghĩa là họ đã dẫn khí đi sai đường kinh mạch mà vẫn không tẩu hỏa nhập ma thì coi chừng sự việc cần một vị thày đã kinh qua việc luyện tập vận khí chuyển mạch không cần thiết. Nói lang thang mãi chẳng cùng, mục đích cháu muốn hỏi chỉ là có phương pháp Yoga nào thiết thực đem lợi ích lại cho con người dù chỉ là sơ đẳng chăng. Bởi nếu nói rằng mọi sự đã được tiền định thì quả thật quá ư nguy hiểm và lộng ngôn vì đây là lối xúi dục con người ăn chơi hoang đàng và tiêu phí cuộc đời một cách tuyệt vời nhất, khó thể chấp nhận; bởi lẽ đó lại chẳng cần phải quảng bá pháp môn, pháp khoai chi cho mệt. Đàng khác, nói rằng sự thức ngộ tùy căn cơ kể ra cũng phiêu diêu thiếu thuận lý. Cháu nói rằng thiếu thuận lý bởi đã không đề cập hoặc coi trọng ý định hoặc ước muốn của con người; mà không có con người, cháu nghĩ, chẳng có gì đáng được đề cập tới. Điều này chẳng khác gì nói rằng đã có Chúa chuộc tội cứu rỗi cho mình nên an tâm, tha hồ hoang đàng làm xằng làm bậy bởi đàng nào cũng đã được cứu chuộc; vì Chúa đã chết cho tội lỗi của mình những hai ngàn năm trước. Nói tóm lại, mục đích cháu muốn hỏi chỉ là sự hiểu biết về Yoga có đem lại lợi ích gì hay phương cách thực hành hữu ích nào cho những người bình thường như chúng ta không. Cháu muốn nói, mình có thể áp dụng phần nào công dụng của pháp môn Yoga trong cuộc đời mình không. Định trang trọng nêu câu hỏi khiến mọi người để tâm theo dõi. 

 
Định theo đạo Công giáo, ngày trước đánh đàn nhà thờ cho ca đoàn hát, hôm nay được chị Tình mời tham dự nhóm nhậu. Anh hiền lành, dễ thương, và mang đầy nghệ sĩ tính, có lẽ bởi ảnh hưởng những cung đàn nốt nhạc hòa với tâm tình tác giả ẩn chứa nơi những lời ca. Nói rằng anh mang tính chất nghệ sĩ, nhưng tư cách vững vàng, mở rộng đón nhận mọi diễn tiến của sự việc có thể xảy ra để nhận định, suy tư tìm phương cách giải quyết, bởi vậy tâm tính anh hài hòa với mọi người. Ai chẳng biết, thưởng thức âm nhạc thì dù đứa bé mới nứt mắt cũng cảm nhận được phần nào, nhưng muốn bước vào lãnh vực âm nhạc lại đòi hỏi năng khiếu bẩm sinh kèm thêm tư chất mẫn cảm khác người. Chẳng thế mà có câu nói, người ta có thể dạy cho con khỉ đánh một bản nhạc dương cầm tuyệt vời nhưng không ai có thể dạy con khỉ trở thành một nhạc sĩ. Thích âm nhạc là một chuyện mà học và thực hành âm nhạc, phổ một bài thơ thành một bản nhạc, hoặc tự viết một bản nhạc cần nhiều kiến thức và thực hành, cần đặc tính mẫm cảm, cũng như năng khiếu âm nhạc. Thêm vào đó, kiến thức về âm nhạc chỉ là phương tiện cho nghệ sĩ chứ không thể biến người có nhiều kiến thức âm nhạc thành nghệ sĩ; bởi nghệ sĩ thuộc về tính chất, và cá tính không phải là công thức. Dẫu cho người nào đó biết về luật cân phương, diễn trình âm thanh kiến tạo một bản nhạc, biết cơ cấu hòa âm, nhịp điệu âm nhạc, biết nguyên tắc chuyển âm, biết các nốt trên phím đàn và lịch sử âm nhạc Đông, Tây, kim, cổ nhưng không thực hành cũng chẳng thể nào viết được một bản nhạc, ấy là chưa nói tới năng khiếu. Nghệ sĩ tính đòi hỏi nghiệm chứng và nhận thức. Bởi vậy, dẫu bất cứ ai yêu thích, cố bắt chước cho có vẻ nghệ sĩ cũng chỉ làm trò cười cho những người quen biết. 

 
Đánh đàn nhà thờ lại phải đối diện với ba bè, bốn mối lôi thôi rắc rối do đa số ca viên thích hát nhưng biết hát thì chưa chắc, đồng thời, thường thì chẳng cần biết nhịp điệu là gì, cứ nghe hoặc được tập hát cho quen tai rồi hát. Cũng bởi chẳng biết nhịp điệu nên nhiều khi có tai đó nhưng không phải tai để nghe bắt được nhịp nên không biết lúc nào vô, khi nào ngừng thành ra đa số cứ chờ người khác xướng lên rồi hát hùa theo. Quả thật tội cho người đánh đàn, nhưng riết rồi cũng quen, quen nhẫn nhịn; trời không chịu đất thì đất đành chịu trói. Người ta không hát theo đàn thì đành chấp nhận đàn theo hát. Chịu thế cũng chưa yên, mọi sự sai lầm bởi hàng văn ăn ngược lại trở về đổ lỗi tại người đánh đàn. Nhiều lần Định giải thích nhưng cũng chỉ như nước đổ lá môn. Đôi khi Định cố gắng nhẹ nhàng giải nghĩa như thế này, như thế kia mà nào có ai thèm nghe. Nói cho đúng, họ cố gắng nghe nhưng chẳng thể nào hiểu, chẳng thể nào thực hành; nguyên do cũng tại không biết nhịp là thế nào. Đã bốn lần Định đề nghị ca đoàn tổ chức lớp học nhịp, và thế là muôn ngàn lý do bận rộn của các ca viên được trình bày để rồi ca đoàn cứ theo nhịp rối. Lẽ đương nhiên, đã là nhịp rối thì không thể nào nói chuyện phát âm đồng nhịp thành ra cứ lỗ chỗ như cỗ ăn mày. Bữa nào chẳng biết trời đất khí tiết trên thuận dưới hòa, âm dương đồng hợp khiến thần khí các ca viên hứng khởi hát được một đôi bản thuần điệu, một số người tham dự lễ lạy có lời khen; anh chị em ca viên cảm thấy hể hả tưởng rằng mình giỏi dang, thích thú; Định cũng cảm thấy vui lây với họ nhưng vui gượng vì anh biết rồi sẽ bị chê đó. Thực ra, chẳng ai chê đâu vì có ai đó biết chăng đã gia nhập ca đoàn; hơn nữa, có những người chịu khó bỏ giờ giấc tập dợt để hát cho nhà thờ là quí hóa rồi. Nói cho đúng, nơi nghi lễ Công giáo, đa số giáo dân nghe riết bắt quen cũng lõm bõm hát theo, mà đã hát theo làm sao tránh được sự nhận biết mình đã hát trật, nên chấp nhận cho qua thành thói quen; bởi hát còn hơn không; hát để nâng lòng mình lên cho tâm trí phần nào thoát khỏi những nỗi ưu tư đang vướng bận lòng người. 

 
Định cũng nhận ra nguyên nhân tại sao khó thể dạy nhịp nhạc cho ca đoàn. Số là có trưởng ca đoàn nhưng không có kiến thức thực nghiệm gì về ca trưởng. Nói như vậy có nghĩa, cũng có người bạo phổi đứng ra tập hát nhưng cũng chẳng biết gì về âm nhạc, có chăng chỉ nghe nói hoặc đọc đây, dòm kia những bài bình luận rồi nghe, hát theo bài hát nào đó cho nhuần nhuyễn và thế là đem tập cho ca đoàn. Khổ nỗi, nơi đĩa, nơi băng, nơi mạng lưới điện toán, người ta hát theo nhịp nhạc, đến lúc tập cho người khác do nhịp nhạc không vững lại cứ theo cảm hứng riêng nên tập cho ca đoàn hát một bản nhạc nghe tạm được quả là một công trình múa gậy vườn hoang, mệt phờ người. Dĩ nhiên, ai cũng có niềm tự hào riêng. Nếu nghe dại anh Định để học nhịp nhạc, ca trưởng lại trở thành đàn em của người đánh đàn. Cái danh dự hão cá nhân này của chuẩn ca trưởng đã kéo cả ca đoàn lê lết hết tuần này sang tuần khác, tháng nọ qua tháng kia, và đã những gần mười năm trời ngụp lặn ngây ngô nơi vườn thánh ca ngoài lề nghệ thuật hát xướng; tạm có thể gọi “Hát hỏng” cho danh chính ngôn thuận theo lối dùng chữ nghĩa của anh đã bao lâu nay. Hình như phải thường xuyên đối diện với sự thể chẳng đặng đừng ngoắc nghoéo giữa âm nhạc và hát hỏng bao gồm nhiều khía cạnh không nói thì bực, nói ra càng tức thêm nên thà chẳng nói, đành chỉ để tâm nhận định đã kiến tạo nơi anh Định câu hỏi dè dặt bao gồm nhiều vấn đề suy tư. 

 
- Chào anh, hình như đây là lần đầu tôi gặp anh, và cảm ơn anh đã hỏi một câu rất thực tiễn. Câu trả lời thì đơn giản nhưng đòi hỏi thực nghiệm để áp dụng nguyên tắc ý dẫn khí; khí dẫn huyết, và huyết đả thông kinh mạch. Tôi không thực hành Yoga theo bất cứ pháp môn nào nhưng chỉ sử dụng Yoga áp dụng nguyên tắc ý, khí, và huyết. Chẳng hạn đôi khi chúng ta cảm đấy hơi nhức nơi cánh tay, hoặc bên hông, hay phần nào đó nơi chân. Thuở ban đầu, chúng ta nằm hay ngồi thật thoải mái, nhắm hờ mắt lại, từ từ hít hơi vô bằng mũi. Trong khi từ từ hít hơi vô, chúng ta để tâm tưởng tượng dẫn không khí chạy thẳng tới nơi đau nhức. Khi đã đầy hơi, ngưng lại vài giây đoạn từ từ thở ra bằng mũi và cũng tưởng tượng dẫn sự đau nhức theo không khí thoát ra. Đến khi gần hết hơi lại cố gồng chỗ đau nhức ép sự đau nhức này theo hơi ra cho hết. Làm như thế ba lần hay cùng lắm bốn lần đoạn coi như nó khỏi và lờ đi. Chỉ đôi phút sau kiểm soát lại anh em sẽ thấy hết đau. Nếu vẫn còn đau, thử thêm ba lần hít thở nữa. Ai thử, người ấy sẽ biết. Khi đã quen định tâm dẫn khí, chúng ta có thể thực hiện như thế bất cứ lúc nào dẫu đang lái xe hoặc làm việc gì. Điều quan trọng là ý định nơi mình; trường hợp này có thể nói là hành thiền giống như lục tổ Huệ Năng đã dạy.

- Các pháp môn Yoga dùng phương pháp thực nghiệm ý, khí, huyết để dẫn khí qua các trung tâm huyệt đạo theo một thứ tự nào đó hầu phát triển năng lực nội tại. Như vậy, anh em nên để ý một điều; đó là Phật học phát xuất từ Ấn Độ trong khi Ấn học đã có từ ngàn xưa. Những pháp môn Yoga được nhà Phật sử dụng tiếng Việt gọi là thiền hay thiền định. Thiền tông Tây Tạng áp dụng lý thuyết Phật học vào Yoga nên được gọi thiền tông Tây Tạng hoặc Mật Tông Tây Tạng. Tuy nhiên, thiền nơi nhà Phật chủ về kiến tính trong khi Yoga cũng được gọi là thiền lại chuyên chú về chuẩn bị xác thân.

 
Câu giải thích của cụ Tài giống như luồng sét chém sả vô tâm tư Định khiến anh nổi da gà. Đánh đàn cho ca đoàn hát dĩ nhiên anh luôn luôn phải có mặt nơi những nghi lễ phụng vụ nơi nhà thờ. Bởi thế, không nhiều thì ít những lời giảng dạy của các cha cũng phần nào thấm nhuần nơi đầu óc người thanh niên trẻ. Với tính chất nghệ sĩ nơi dòng máu, với cung nhạc trầm bổng quanh đi quẩn lại chỉ gồm mấy nốt cộng với hòa âm tùy theo sáng tạo chuyển âm của nhạc công, chẳng những dẫn dắt tâm hồn người nghệ sĩ bay bổng khỏi thực tại để hòa tâm hồn với dòng biến chuyển sáng tạo vô định, hoặc được định hướng mà còn nâng tâm hồn thính giả hòa nhập với diễn tiến âm thanh dẫn lòng thoát khỏi thực tại đang xảy ra xung quanh. Vì đã quá quen với thực trạng này, nhiều khi Định cảm thấy lòng ruột xốn xang khi nghe linh mục giải thích Phúc Âm một cách ngược ngạo, câu sau phản câu trước, hoặc lời giảng tuần này phản nghịch lời giảng tuần trước. Chẳng hạn, có những linh mục vừa mới thao thao bất tuyệt tuyên xưng lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa thì lại cũng vội vàng khuyên răn người ta phải thế nọ, phải thế kia kẻo bị Chúa phạt. Định ngây ngô ngồi trước phím đàn với cảm nghĩ lạc điệu nào đó nổi lên, tưởng như cung nhạc bất thường chói cả tai, nhưng chẳng biết thế nào giải quyết tâm trạng thao thức, khắc khoải đang xảy đến nơi tâm tư. Có điều, anh là người kín đáo nên chỉ âm thầm suy tư mò mẫm sao cho lòng ruột thuận tình yên vui. Nói ra chẳng được lợi ích gì, mà đôi khi trở thành tâm điểm cho những mũi tên nghịch chiều bắn tới. Lại cũng có lần nghe cha giảng về câu Phúc Âm, “Người giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim” (Lc. 18:25) khiến anh giật mình. Cha thì thao thao bất tuyệt lên án những người giầu có, nào là tham lam, nào là không biết thương xót những người khốn cùng, nào là đam mê của cải vật chất; đại khái những người ngồi nghe nếu nhận định đúng đắn điều kiện sống của mình đem so sánh với những người nơi các nước nghèo khác có lẽ nên bỏ ra về, ăn xài đàng điếm cho bõ kiếp người; bởi cứ theo lời giảng của cha, chắc chắn họ chẳng thể nào có được mảy may hy vọng sẽ được cứu rỗi. Anh thầm nghĩ, nếu so sánh cuộc sống của mình hiện nay với những ngày xưa khi còn sống tại Việt Nam, quả là một trời một vực, và thế là hết hy vọng bởi dẫu cho giải thích thế nào, lỗ kim may vá hay lối vào nhỏ bé được đặt tên lỗ kim nơi đền thờ Jêrusalem thuở xưa thì cũng vô phương cho con lạc đà chui qua. Nhìn vào thực tế, nếu người ta nghèo khó đến nỗi không đủ ăn, đủ mặc, hoặc không đủ  chi dụng tối thiểu cho cuộc sống thì lấy tiền đâu cho nhà thờ; kết án những người có thể bớt xén ăn xài đóng góp cho nhà thờ quả là phi lý; vì nếu họ không cho, ông cha thất nghiệp, hoặc nếu họ quá nghèo phải lo kiếm sống đâu thể tới nhà thờ để nghe cha răn đe, lên án công sức làm lụng của mình. Những ý nghĩ này chẳng hiểu đã bao lâu gậm nhấm tâm hồn anh khiến lòng ruột nhiều khi cứ rối tung như chân gà vướng búi tóc.

 
Lại có lần nghe cha giảng câu, “Gia tài của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó” (Mt. 6:21); và rồi giáo dân ngồi nghe, người nọ liếc nhìn người kia vì cha đang phán xét những người ham mê có nhà cao, cửa rộng, xe nọ, xe kia, tiệm nọ, tiệm kia. Định tự hỏi, vậy lòng dạ của mình hiện giờ đang ở đâu. Câu hỏi ngớ ngẩn này đã giúp anh nhận ra hình như lời Phúc Âm hoặc mang nghĩa ám định hoặc đã bị phiền hà bởi dịch thuật do ý nghĩa của ngôn từ thay đổi theo thời gian; trong khi Phúc Âm đã được viết những hai ngàn năm trước. Tự trả lời câu hỏi ngớ ngẩn này, anh thấy lòng dạ đang mơ tưởng theo ước muốn, ý định của mình. Chợt câu Phúc Âm “Kẻ giầu có khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đài chui qua lỗ kim” trở lại nơi tâm trí, anh bỗng có ý nghĩ lấy hai câu ráp lại làm một, những người ước muốn danh vọng, của cải giầu có cuộc đời này thì khó vào nước thiên đàng hơn con lạc đà chui qua lỗ kim; vì ước muốn của ngươi ở đâu thì lòng dạ của ngươi ở đó. Anh cảm thấy hợp lý hợp tình nhưng không biết sao giải thích. Thế nên, khi cụ Tài nói về quyền lực của ý định, ước muốn chính là quyền lực phát xuất tự tâm hồn con người đã giúp anh bừng tỉnh. Bởi ý định phát xuất tự tâm hồn và cuộc đời thân xác chỉ là công cụ cho hồn thực hiện ước mơ nên khi còn sống, con người chạy theo ham muốn nào thì khi thân xác chết, hồn vẫn tiếp tục theo đuổi ham muốn đó.

- Thưa bác, nói rằng ý dẫn khí, khí dẫn huyết, huyết đến đả thông kinh mạch, như vậy ý định tự mang năng lực điều hành điều mình ước muốn? Định chợt buột miệng hỏi.

-Chẳng những thế, cụ Tài chầm chậm nói, ý định còn kích thích tưởng tượng như một động lực thúc đẩy con người thực hiện ước muốn. Thiền định hay Yoga đặc biệt sử dụng năng lực này. Vượt qua những giai đoạn điều thân và điều tức, hành giả bước tới giai đoạn điều tâm. Pratyahara và Dharana nơi Yoga là những bậc thang đầu tiên của việc điều tâm tức là chế ngự giác quan hay điều khiển giác quan. Dharana là tập trung quán tưởng, tức là thu gọn thức giác của mình vào một điểm. Khi chúng ta ở trạng thái thức, không có lúc nào tâm thức ta không bị ảnh hưởng bởi một hay nhiều cảm giác của ngoại giới. Nơi nội tâm, dù không muốn nghĩ gì, chúng ta vẫn luôn ghi nhận những tình tự, ý nghĩ vẩn vơ. Hành giả Yoga khi bước vào con đường điều tâm phải diệt trừ tất cả những ảnh hưởng tâm thức này. Vì vậy, Pratyahara là kỹ thuật chế ngự các cảm giác sao cho tâm thức hoàn toàn không ghi nhận bất cứ cảm giác nào (TTÂĐ; Tr.250).

 
- Thưa bác, thế sao lục tổ Huệ Năng lại lên án rằng ngồi nhiều sinh bệnh nên đưa ra lý thuyết hành thiền. Hưng hỏi.

- Asanas Yoga có nghĩa những thế ngồi thiền. Theo nghĩa rộng, Asanas chỉ chung các thế nằm, ngồi, đi, đứng, để tập luyện và điều hòa nhịp sống sinh lý trong cơ thể, nhưng thường được nói về những thế ngồi thiền mà thôi. Có nhiều lối ngồi thiền, nhưng hai lối thường được dùng hơn cả là ngồi bán già hoặc kiết già. Thực ra, mục đích của các thế ngồi chỉ giúp cho tư thế của thân thể được vững vàng, thoải mái khiến sự điều tức và điều tâm dễ dàng. Ý nghĩa thâm trầm của thế ngồi là muốn giúp cho con người thoát ly khỏi cái thân phận giao động phân tán thông thường nơi tâm thức nhằm đưa trực giác tới chỗ siêu hóa (TTÂĐ; Tr.246-247). Tuy nhiên, cũng có những người gia nhập hàng tu sĩ vì lười biếng, không chịu làm việc sinh sống nên gia nhập tu thiền, thay vì ngồi quán tưởng lại ngồi đó mà ngủ. Đọc nơi các câu chuyện về những kỹ thuật hoặc quy luật đã được đặt ra giúp các hành giả tu chứng chống lại trạng thái mà lục tổ Huệ Năng gọi là vô ký không, có những tổ đã nghĩ ra phương pháp đội đèn. Tu sĩ đội đèn quán tưởng ngủ gật, đèn đổ, dầu loang ra cháy cả áo xém lên người. Dĩ nhiên, khi định tâm quán tưởng rất dễ buồn ngủ; điều này là sự thường. Lục tổ Huệ Năng đặt nặng vấn đề kiến tính, muốn kiến tính cần định tâm. Như anh em đã biết, hành thiền mang nghĩa làm gì, hoạt động gì thì cứ việc làm, nhưng tâm trí luôn tập trung nghiệm chứng về lẽ nào đó, hoặc công án nào đó. Yoga nơi Ấn học nặng phần phát triển và điều hành thân xác. Nhà Phật nhấn mạnh về kiến tính. Anh em nên để ý phân biệt rõ ràng. Dẫu ngôn từ Yoga nơi Ấn học được dịch thành thiền định nhưng nơi phần nhận định chúng ta nên phân biệt thiền định theo nhà Phật hay thiền định theo Ấn học.

 
- Pranayama nơi Yoga có nghĩa điều tức hay điều hòa hơi thở. Theo quan niệm thực hành Yoga, hơi thở là một yếu tố hết sức quan trọng vì nó là sợi dây hay cây cầu liên lạc, thẩm thấu thường hằng giữa đại vũ trụ và con người. Lý thuyết Yoga quan niệm rằng, trong cơ cấu con người, hơi thở là nơi tiếp giáp giữa thể chất và tâm thức. Có làm chủ được nhịp thở mới có thể ảnh hưởng tới nhịp sống thể chất cũng như tâm thức. Hơi thở cần phải điều hòa, hơi càng dài bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Tông phái Yoga cho rằng hơi thở rất ảnh hưởng tới sự điều hòa và điều khiển tâm thức vì nó tạo cho hành giả một thức giác miên tục giữa trạng thái tỉnh và ngủ. Mục tiêu tối hậu của Pranayama là điều khiển hơi thở để con người có thể ngưng thở trong một thời gian rất lâu được. Như vậy, ngủ cũng là một hình thức Yoga nhưng vô ý thức. Trong giấc ngủ, con người đắm chìm một cách vô ý thức nơi kho dự trữ tinh lực vũ trụ, nguồn gốc của mọi sự sinh tồn (XPHB; Tr.5). Hành giả Yoga áp dụng phương pháp hít thở có ý thức một cách giản dị, đem năng lực bất diệt thấm nhuần và nuôi dưỡng các tế bào của thể xác và duy trì chúng trong một trạng thái thấm nhuần từ điển một cách thường xuyên. Làm như vậy, hành giả khiến cho sự hô hấp trở nên không còn cần thiết, nhưng không vì thế mà đưa đến giấc ngủ hay sự hôn mê bất tỉnh (XPHB; Tr.6). Theo truyền khẩu, hành giả nào có thể cầm hơi thở trong mình tùy theo ý muốn, sẽ nhờ đó mà giữ lại nguồn sinh lực trong cơ thể y. Bởi đó, sự sống vẫn tiếp tục dầu người đó ngưng thở; vì sự chết chẳng qua chỉ là một hình thức sinh hoạt khác thường mà thôi. Người luyện tập Yoga đến trình độ cao có thể cầm lại hơi thở không những chỉ trong vài phút mà trong nhiều tuần, nhiều tháng hay nhiều năm. Theo sự tuyên truyền, đây là một triển vọng để cho con người có thể kéo dài sự sống tùy theo ý muốn (ĐPHB; Tr.84-85).

 
- Giai đoạn kế tiếp sau khi đã tập luyện hài hòa với phương pháp hít thở theo một nguyên tắc nào đó, hành giả bắt đầu diễn trình quán tưởng. Tổng quát, quán tưởng tức là nhìn vào nội tâm? Hãy suy gẫm về cái chân tướng hay chân ngã, thực tướng của anh bằng sự tham thiền quán tưởng liên tục không gián đoạn. Đó là con đường độc nhất đi đến ánh sáng. Sự tiến bộ trên địa hạt tâm linh không phải dễ gì nhận biết như nơi địa hạt vật chất. Quán tưởng không cần thầy; thầy chỉ giúp phương tiện, dìu dắt mà thôi. Còn thiền định phải là một vấn đề kinh nghiệm bản thân. Thời gian tùy trình độ riêng của mỗi người. Cây diêm bắt lửa ngay nhưng than củi thì lâu hơn (ĐPHB; Tr.148-149). Các vị tu sĩ Ấn Độ đều quả quyết rằng việc quán tưởng của thiền đem lại cho hành giả một năng khiếu nhận thức mới lạ khá trọn vẹn. Sự nhận thức này không bị giới hạn hoặc đầy sơ hở như nhận thức do giác quan mà do trực giác. Nơi nhận thức này, tâm thức chủ thể và đối tượng là một, chỉ hành giả cảm nhận được mà thôi. Việc nhập định này nhiều khi bất chợt nên các nhà tu thiền đều nhấn mạnh vào tính chất bất chợt và khoát nhiên của việc nhập đại định. Trạng thái đại định là một trạng thái của tâm thức cao siêu do đó những bậc tu sĩ siêu phàm cũng khước từ không dám dùng ngôn từ để diễn tả. Nơi trạng thái tiếp xúc sơ khởi với thiêng liêng trong hành trình quán tưởng, tâm thức hành giả đắm chìm trong tâm thức của vũ trụ, nguồn sinh lực thoát ra khỏi xác thân làm cho cứng đơ, bất động. Tuy nhiên, hành giả Yoga hoàn toàn ý thức được sự sống chậm lại của thể xác. Nơi trường hợp đạt tới trạng thái cao siêu hơn, tâm thức hành giả hòa hợp với thế giới thiêng liêng trong khi thân xác vẫn tỉnh táo và hoàn toàn ý thức được mọi việc xảy ra chung quanh (XPHB; Tr.4). Nhờ luyện tập Yoga, nguồn sinh lực của con người không bị hao tán, hay lãng phí bởi sự loạn động của giác quan, mà được gom về những trung tâm bí yếu trên tủy xương sống để được thấm nhuần một thứ thần lực tinh anh. Chính bởi đó mà thể xác và những tế bào trong óc của hành giả Yoga được truyền vào một sức mạnh tâm linh tăng cường sự sống (XPHB; Tr.6). Trường phái pháp môn Kriyâ Yoga cho rằng, cuộc đời đạo sĩ Kriyâ Yoga không còn tùy thuộc vào những nghiệp quả của quá khứ mà chỉ tùy thuộc nơi những mệnh lệnh của linh hồn. Do đó, hành giả tránh khỏi sự tiến bước chậm chạp do những hành động tốt hay xấu của cuộc đời hằng ngày, chẳng khác nào như sự tiến triển thô sơ của con ốc không còn phù hạp với đôi cánh bay xa của con chim phụng hoàng (XPHB; Tr.6). Pháp môn Kriyâ Yoga gồm có: kỷ luật của xác thân, kiểm soát tư tưởng, và tham thiền về thánh ngữ AUM (XPHB; Tr.3).

 
Cụ Tài ngưng đọc, nhìn rảo qua một lượt đoạn tiếp tục,

- Mọi người thấy, tôi chỉ đọc đại khái về lý thuyết và quan niệm của những hành giả thực nghiệm một vài pháp môn Yoga mà thôi chứ không dám tiếp tục thử nghiệm. Tôi nghĩ, như thế đã quá đủ cho tối nay. Chúng ta cần nghỉ ngơi để lấy sức cho những công việc ngày mai.

- Chúng cháu cảm ơn bác, Sỹ vội lên tiếng. Nhưng, hắn lên giọng, lần tới nhà ai?

- Lần tới chúng ta sẽ bàn thảo về Mật Tông Tây Tạng và Điểm Đạo Ai Cập. Cụ Tài nhẹ giọng.

Một cánh tay giơ lên... 

- Xin phép bác cho cháu được mời bác cùng quý anh chị lần tới ghé qua nhà cháu dùng tạm bữa cơm mắm muối chỉ gồm có nem thính Bắc kỳ và gỏi cá hánh, giấm nấu theo kiểu dân năm tư. Thanh giơ tay nói liền một hơi.

- Đồ uống! Đã mời thì phải cho long trọng đàng hoàng! Bộ muốn học theo trạng Quỳnh sao! Sỹ nhà con tơm tớp nhào vô e người khác nói mất phần.

- Thì ai sao tôi vậy. Thượng tọa thích đủ thứ nên mới chỉ chừa được có một nửa.

(còn tiếp)

Lm Lã Mộng Thường

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây