DI NGÔN THỨ TƯ CỦA CHÚA TRÊN THÁNH GIÁ:
LẠY THIÊN CHÚA, LẠY THIÊN CHÚA CỦA CON, SAO NGÀI BỎ RƠI CON?
(Mt 27,46; Mc 15,34)
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.
33 Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín.34 Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni! ” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con? “35 Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Ê-li-a.”36 Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Ê-li-a có đến đem hắn xuống không.”37 Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở.38 Bức màn trướng trong Đền Thờ bỗng xé ra làm hai từ trên xuống dưới.39 Viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giê-su, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.” (Mc 15,33-39).
45 Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất, mãi đến giờ thứ chín.46 Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”, nghĩa là “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con? “47 Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Hắn ta gọi ông Ê-li-a! “48 Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống.49 Còn những người khác lại bảo: “Khoan đã, để xem ông Ê-li-a có đến cứu hắn không! “50 Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn.
51 Ngay lúc đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới. Đất rung đá vỡ.52 Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được trỗi dậy.53 Sau khi Chúa trỗi dậy, các ngài ra khỏi mồ, vào thành thánh, và hiện ra với nhiều người.54 Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giê-su đều rất đỗi sợ hãi và nói: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27,45-54).
Các sách Phúc Âm của Mát-thêu và của Mác-cô kể lại việc Chúa Giê-su trên Thánh Giá, đã hai lần kêu lớn tiếng. Lần thứ nhất là di ngôn thứ tư (x.Mt 27,46 và Mc 15,34), mà hai thánh sử đều trích dẫn. Còn lời thứ hai thì Mát-thêu viết như sau: “Đức Giê-su lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn” (Mt 27,50), còn Mác-cô thì viết: “Đức Giê-su lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15,37).
Như thế, di ngôn thứ tư của Chúa Giê-su được hai thánh sử Mát-thêu và Mác-cô nhắc đến. Đó là một ngoại lệ độc nhất trong loạt bảy lời cuối cùng của Chúa trên Thánh Giá, và qua đó làm nổi bật tầm quan trọng của di ngôn này. Hơn nữa, di ngôn này cũng đã làm “đau đầu” rất nhiều nhà Thần Học, bởi vì không ai có thể hiểu tại sao Con Thiên Chúa lại có thể bị Thiên Chúa bỏ rơi, hay ít nhất Ngài cảm thấy Thiên Chúa Cha trên trời bỏ rơi.
Phúc Âm thánh Mát-thêu viết: “Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: ‘Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni’, nghĩa là ‘Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Lời này nằm trong bối cảnh Chúa Giê-su trút linh hồn (x.Mt 27,45-56). Nơi Phúc Âm của Mác-cô, chúng ta thấy:“Vào giờ thứ chín, Đức Giê-su kêu lớn tiếng: ‘Ê-lôi, Ê-lôi, la-ma xa-bác-tha-ni!’ Nghĩa là: ‘Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34). Lời này nằm trong bối cảnh Chúa Giê-su chết trên Thánh Giá (x.Mc 15,33-39). Như thế, di ngôn này theo hai thánh sử, đều có chung một bối cảnh, đó là lúc Chúa Giê-su chuẩn bị sinh thì trên Thánh Giá.
Về ngôn ngữ của di ngôn thứ tư trong Phúc Âm của Mát-thêu, một số nhà chú giải Thánh Kinh đã nhận định, đó là âm điệu của ngôn ngữ A-ram và của tiếng Híp-ri. Theo Gnilka, trong khi Mác-cô dùng từ Ê-lô-i, thì Mát-thêu dùng từ Ê-li là âm điệu của tiếng Híp-ri, còn xa-bác-tha-ni là âm điệu của tiếng A-ram. Sau đó mới được dịch qua tiếng Hy-lạp.[1]
Trong phúc âm của Mác-cô, theo Schnackenburg, câu nói của Chúa hoàn toàn bằng tiếng A-ram và sau đó được chuyển ngữ qua Hy-lạp.[2] Tiếng A-ram là ngôn ngữ đối thoại mà Chúa Giêu và đa số người Do Thái đồng thời với Ngài dùng thường nhật. Có thể tiếng kêu của Chúa xảy ra quá đặc biệt, đến độ các nhân chứng nghe lời đó, và khi họ kể lại bi kịch trên dưới chân Thánh Giá, họ muốn nhắc lại chính những lời của Chúa Giê-su bằng tiếng A-ram.
Về điều này, Đức Benedicto XVI đã chia sẻ như sau: “Hai thánh sử diễn tả lời cầu nguyện của Chúa Giê-su lúc sinh thì trên Thánh Giá không chỉ bằng tiếng Hy Lạp, là ngôn ngữ các ngài dùng để viết câu chuyện, nhưng cũng vì tầm mức quan trọng của những lời cầu nguyện đó, nên chúng đã được viết bằng sự pha trộn giữa tiếng Híp-ri và tiếng A-ram. Các ngài cũng đã truyền lại cho chúng ta không những chỉ nội dung, mà cả âm thanh mà lời cầu nguyện này được thốt ra trên môi miệng Chúa Giê-su: chúng ta thực sự nghe những lời của Chúa Giê-su như Người đã thốt ra. Đồng thời, các ngài mô tả cho chúng ta thái độ của những người hiện diện lúc đóng đinh, là những người không hiểu hoặc không muốn hiểu lời cầu nguyện này”.[3]
Cả hai thánh sử đều kể lại, một số người đứng ở dưới Thánh Giá Chúa đã không hiểu tiếng kêu của Chúa, họ nghĩ là Chúa kêu cứu ông Ê-li-a, và họ còn chế diễu: “Để xem ông Ê-li-a có đến đem hắn xuống không” (Mc 15,36). Trong Do Thái giáo, Ê-li-a được coi như là người thường hay giúp đỡ những người cùng khổ.[4] Tuy nhiên, qua sự trích dẫn lời kêu cầu của Chúa bằng tiếng A-ram và Híp-ri của hai thánh sử, các nhà chú giải Thánh Kinh đã nhận thấy đó là những câu đầu tiên của Thánh Vịnh 22. Đó là về mặt ngôn ngữ của di ngôn, giờ đây chúng ta đi vào yếu tố thời gian của di ngôn.
Về thời gian của di ngôn, cả hai thánh sử đều nói là giờ thứ chín, nghĩa là ba giờ chiều theo lịch thời gian của chúng ta hiện nay. Để đi sâu vào ý nghĩa của thời gian mà Chúa Giê-su bị đóng đinh nói lên lời cuối cùng này, chúng ta lắng nghe suy tư của Đức Benedicto XVI: “Như chúng ta đã nghe, đây là điều mà Thánh Mác-cô viết: “Vào giờ thứ sáu (buổi trưa), tối tăm bao trùm khắp mặt đất đến giờ thứ chín (ba giờ chiều). Và vào giờ thứ chín, Chúa Giê-su kêu lên một tiếng lớn: ‘Ê-lôi, Ê-lôi, la-ma xa-bác-tha-ni!’ Nghĩa là: ‘Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (15,34). Trong cấu trúc của tường thuật, lời cầu nguyện, tiếng kêu của Chúa Giê-su ở tột đỉnh của ba giờ đen tối này, từ trưa cho đến ba giờ chiều, là những giờ mà tăm tối bao trùm khắp mặt đất. Ba giờ đen tối này là sự tiếp tục của một khoảng thời gian trước đó, cũng ba giờ, bắt đầu với việc đóng đinh Chúa Giê-su. Thực ra, thánh sử Mác-cô cho cho chúng ta biết rằng:“Khi đó là giờ thứ ba (chín giờ sáng), và chúng đóng đinh Người” (x.15,25). Chung quy thì những dấu chỉ về thời gian của tường thuật cho thấy rằng sáu giờ của Chúa Giê-su trên Thánh Giá được chia thành hai phần bằng nhau theo thứ tự thời gian.
Trong ba giờ đầu, từ chín giờ sáng đến trưa, chúng ta thấy sự chế nhạo của các nhóm người khác nhau, là những kẻ bày tỏ sự hoài nghi của họ và xác định rằng họ không tin. Thánh Mác-cô viết: “Những kẻ qua lại chế nhạo Người” (Mc 15,29), “Cũng vậy, các trưởng tế và luật sĩ đều chế giễu Người” (Mc 15,31), và“những tên cùng bị đóng đinh với Người cũng xỉ vả Người” (Mc 15,32). Trong ba giờ tiếp theo, từ trưa đến ba giờ chiều, thánh sử chỉ nói về bóng tối bao trùm khắp mặt đất: một mình bóng tối chiếm toàn cảnh mà không đề cập đến những chuyển động hay lời nói nào của các nhân vật. Khi Chúa Giê-su gần cái chết hơn bao giờ hết, chỉ có bóng tối đang bao trùm ‘khắp mặt đất’. Ngay cả vũ trụ cũng tham gia vào biến cố này: bóng tối bao phủ người và sự vật, nhưng ngay cả trong giờ đêm tối này Thiên Chúa vẫn hiện diện, Ngài không từ bỏ”.[5] Và Ngài đã lên tiến. Tiếng kêu lên với Cha trên trời như một lời cầu nguyện của người Con yêu dấu của Cha. Như đã nói ở trên, tiếng kêu đó Chúa Giê-su đã trích dẫn từ Thánh Vịnh 22.
Thánh Vịnh 22 nói về người lành thánh gặp đau khổ và đã kêu cầu đến Chúa, và Chúa đã nhậm lời. Đức Benedicto XVI đã chia sẻ về Thánh Vịnh này như sau: “Thánh Vịnh này luôn xuất hiện trong những tường thuật về Cuộc Thương Khó của Chúa Giê-su, với cả hai bình diện chịu sỉ nhục và vinh quang, sự chết và sự sống. Đó là Thánh Vịnh 22 theo truyền thống Do Thái hay Thánh Vịnh 21 theo truyền thống La-Hy, một lời cầu nguyện chân thành và cảm động, có sự phong phú về thần học và chiều sâu về nhân bản, khiến nó trở thành một trong những Thánh Vịnh được ưa thích và nghiên cứu nhiều nhất trong các Thánh Vịnh…Thánh Vịnh này trình bày hình ảnh của một người vô tội bị lùng bắt và bao vây bởi những kẻ thù muốn cho ông chết, và ông cầu cùng Thiên Chúa bằng một lời than thở đớn đau, trong niềm xác tín của đức tin, mở ra một cách bí nhiệm để chúc tụng. Trong lời cầu nguyện của ông, thực tại kinh hoàng của hiện tại và đầy an ủi trong quá khứ thay phiên nhau trong một ý thức đau đớn về tình trạng tuyệt vọng của mình, nhưng không muốn làm cho mình mất hy vọng. Lời kêu than lúc đầu của ông là một lời khẩn cầu cùng một Thiên Chúa dường như xa cách, không đáp lời ông và có vẻ đã bỏ rơi ông”.[6] Lời đầu tiên của Thánh Vịnh là:
“Ôi Thiên Chúa của con! Ôi Thiên Chúa của con! Sao Ngài lại nỡ bỏ rơi con?
Dù con thảm thiết kêu gào, nhưng ơn cứu độ nơi nào xa vời! (Tv 22,2).
Chúa Giê-su trên Thánh Giá đã thốt lên lời cầu nguyện này. Thật vậy, cả hai thánh sử đều kể lại rằng, Chúa Giê-su đã kêu lớn tiếng. Theo Pesch, việc kêu lớn tiếng là tính cách của việc cầu nguyện kêu xin lớn tiếng.[7] Điều này tương hợp với lời Thánh Vịnh “Dù con thảm thiết kêu gào” (Tv 22,2b).
Lời cầu nguyện kêu xin lớn tiếng của Chúa “diễn tả tình trạng cô độc của Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa, Người đang đối diện với thảm trạng bị chết, một thực tại hoàn toàn trái ngược với Chúa sự sống. Bị hầu hết những người thân yêu của Mình bỏ rơi, bị các môn đệ phản bội và chối từ, bị vây quanh bởi những kẻ nhục mạ Người, Chúa Giê-su đang bị đè nghiến bởi sức nặng của một sứ mệnh phải trải qua sỉ nhục và hủy diệt. Vì lý do đó mà Người than khóc cùng Chúa Cha, và nỗi thống khổ của Người được diễn tả qua những lời đớn đau của bài Thánh Vịnh”.[8]
Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở cảm xúc đó, vì “Người cầu nguyện bằng bài Thánh Vịnh với ý thức về sự hiện diện của Thiên Chúa Cha, ngay cả trong giờ này khi Người cảm thấy thảm cảnh về cái chết của con người”. Như thế, lời cầu nguyện của Chúa Giê-su ở đây diễn tả một tương quan sâu xa của Ngài với Cha Ngài. Đó là một điều thật cao quý. Tuy nhiên, khi đọc lời cầu nguyện này, chúng ta cũng đặt vấn nạn, tại sao Thiên Chúa quyền năng không thể can thiệp vào biến cố đau thương này của Con mình, tại sao Ngài lại im lặng?
Trước hết, chúng ta thấy Đức Benedicto XVI đã đặt ra vấn nạn sau, khi Ngài suy niệm về di ngôn này: “Nhưng một câu hỏi phát ra trong trí chúng ta: làm sao mà một Thiên Chúa quyền năng như thế lại không can thiệp để tránh cho Con mình sự thử thách khủng khiếp này? Điều quan trọng là phải hiểu rằng lời cầu nguyện của Chúa Giê-su không phải là tiếng kêu của một người gặp gỡ cái chết trong tuyệt vọng, cũng không phải là tiếng kêu của một người biết rằng mình đang bị bỏ rơi. Trong giây phút ấy, Chúa Giê-su đã áp dụng toàn bộ bài Thánh Vịnh 22 cho mình, Thánh Vịnh cao cả của dân Israel đau khổ, và như thế Người tự mình gánh lấy không những chỉ nỗi thống khổ của dân Người, mà còn của tất cả mọi người bị sự dữ áp đảo, và đồng thời, Người mang tất cả những điều này đến trước trái tim của chính Thiên Chúa, trong khi tin chắc rằng tiếng kêu của Người sẽ được Thiên Chúa nghe trong biến cố Phục Sinh, “tiếng kêu của đau khổ tột cùng đồng thời vẫn là niềm tin chắc chắn về một câu trả lời từ Thiên Chúa, niềm tin chắc chắn về ơn cứu độ – không chỉ cho chính Chúa Giê-su, nhưng còn cho ‘nhiều người’” (Chúa Giê-su Thành Nazareth II, 239-240)”.[9]
Im lặng theo cái nhìn đầu tiên là không có tiếng nói, nhưng thực ra thì im lặng chính là một cách thức để nói. Vì thế, Thiên Chúa im lặng trong biến cố này, không có nghĩa là Ngài vắng mặt và không nói gì. Đức Benedicto XVI đã nói rằng: “Thiên Chúa nói qua sự im lặng: Sự im lặng của Thiên Chúa, cảm nghiệm về sự xa cách của Đấng Toàn Năng và Chúa Cha, là một quãng đường quyết định trong cuộc hành trình dương thế của Con Thiên Chúa, Ngôi Lời Nhập Thể. Khi bị treo trên cây gỗ Thánh Giá, Người đã than khóc về nỗi đau khổ mà sự im lặng như thế gây ra cho Người: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của Con, sao Cha nỡ bỏ rơi Con?” (Mc 15 34; Mt 27,46)…Nhưng sự im lặng của Thiên Chúa, như Chúa Giê-su cũng đã cảm thấy, không phải là dấu chỉ của sự vắng mặt của Ngài. Người Kitô hữu biết rằng Chúa hiện diện và lắng nghe, ngay cả trong đêm đen của đau khổ, bị khước từ và cô đơn. Chúa Giê-su bảo đảm với các môn đệ của Người, và với mỗi người trong chúng ta rằng, Thiên Chúa biết rõ các nhu cầu của chúng ta, trong mọi hoàn cảnh của đời sống chúng ta”.[10] Như thế, sự im lặng của Chúa Cha không có nghĩa là sự bỏ rơi, nhưng là một cuộc gặp gỡ thật sự, cuộc gặp gỡ trong thinh lặng của Cha với Con yêu dấu.
Mặt khác, khi cầu nguyện với lời mở đầu Thánh Vịnh 22, Lạy Thiên Chúa của Con, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con?, Chúa Giê-su tiếp tục cầu nguyện thầm thì với Thánh Vịnh 22 trong suốt cuộc khổ hình Ngài, nghĩa là Chúa Giê-su không quên phần kết thúc của Thánh Vịnh, trở thành ca khúc về giải phóng và lời loan báo ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho tất cả mọi người. Về điều này, một số nhà Thánh Kinh học cũng nhìn như thế, nghĩa là Chúa Giê-su đã cầu nguyện toàn bộ bài Thánh Vịnh 22 này ở trên Thánh Giá. Điều đó diễn tả một niềm tin mạnh mẽ của Chúa Giê-su vào Cha mình qua chính lời kêu cầu lớn tiếng của Ngài. Đức Benedicto XVI cũng đồng ý, ngài đã nhắc đi nhắc lại về điều này, như trong bài Giáo Lý về Thánh Vịnh 22, ngài viết: “Nhưng tiếng kêu của Người không phải là một tiếng kêu tuyệt vọng, cũng không như tiếng kêu của tác giả Thánh Vịnh, là người kêu cầu trong khi hành trình trên đường đau khổ nhưng cuối cùng dẫn đến một viễn cảnh ngợi khen, tin cậy vào chiến thắng của Thiên Chúa. Vì theo phong tục Do Thái, việc trích dẫn lời mở đầu của một Thánh Vịnh là có ngụ ý đề cập đến toàn thể bài thơ, như lời cầu nguyện hấp hối của Chúa Giê-su, trong khi vẫn giữ nguyên tình trạng đau khổ không thốt nên lời của Người, mở ra sự chắc chắn của vinh quang”.[11]
Theo Anselm Gruen, khi Chúa Giê-su cầu nguyện với toàn bộ Thánh Vịnh 22, thì mầu nhiệm sự chết của Chúa mang một điều mới mẻ. Trên Thánh Giá Chúa Giê-su đã đón nhận tất cả mọi nỗi thống khổ, nhưng Ngài đã bám chặt vào Thiên Chúa. Ngài đã trình bày với Chúa về việc Ngài cảm thấy bị bỏ rơi. Và trong tình trạng bị bỏ rơi này, Ngài đã biết chắc là Thiên Chúa lắng nghe Ngài và đón nhận Ngài. Vì thế Chúa Giê-su trong nỗi thống khổ đã cầu nguyện với tất cả niềm tin tưởng. Và trong các câu cuối của Thánh Vịnh Ngài đã cầu nguyện:
“Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất
sẽ đều bái lạy một mình Người,
phàm những ai trở về cát bụi
sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan.
Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa” (Tv 22,30).[12]
Elie Wiesel, một nạn nhân và cũng là nhân chứng về sự tàn ác của chế độ Phát-xít Đức. Ông đã từng phải sống trong trại tập trung Auschwitz và Buchenwald, nhưng may mắn cuối cùng ông được cứu thoát. Elie Wiesel người gốc Do-thái và là một học giả nổi tiếng, ông không ngừng đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, và đã nhận giải Nobel hoà bình năm 1986. Elie Wiesel đã chia sẻ về một cuộc xử từ bằng cách treo các tù nhân thật dã man trong trại tập trung ở Auschwitz.
Có hai người trưởng thành và một cậu bé bị treo lên một cây cột, cậu bé này được mọi người thương yêu. Tất cả các tù nhân phải đứng thành hàng lối trật tự trước ba người bị treo trên cột, để nhìn họ chết như thế nào.
Ba người bị kết án được dẫn lên trên các cái ghế. Ba cái đầu được đưa vào trong cái ba cái dây thòng lọng đang chuẩn bị siết cổ.
“Tự do vẫn tồn tại!”, hai người trưởng thành kêu lớn.
Cậu bé kia thì im lặng.
“Chúa ở đâu, Ngài ở đâu rồi?”, một người đàng sau tôi lên tiếng hỏi.
Tên chỉ huy trại ra hiệu và ba chiếc ghế bị xô đổ.
Trong trại một sự im lặng tuyệt đối bao trùm. Mặt trời đã lặn rồi…
Hai người trưởng thành đã chết. Lưỡi của họ sưng lên và lè ra với một màu xanh. Còn cái thòng lọng thứ ba không được cột kỹ lưỡng. Cậu bé kia vẫn còn sống…
Hơn nửa tiếng đồng hồ cậu bé bị treo lơ lửng như vậy, trước mặt chúng tôi cậu đang chiến đấu giữa sự sống và sự chết. Còn chúng tôi phải nhìn thẳng vào mặt cậu bé. Khi tôi đi ngang qua chỗ cậu bị treo, tôi cảm nhận cậu vẫn còn sống. Lưỡi cậu vẫn còn đỏ, đôi mắt của cậu chưa đóng lại.
Đàng sau tôi lại một giọng nói:
“Chúa đâu rồi?”
Tôi nghe một giọng nói khác trả lời:
“Chúa ở đâu sao? Chúa ở đó, Ngài đang bị treo trên cây gỗ kia kìa…”.[13]
Một câu chuyện khác về Primo Levi, một người Ý gốc Do-thái. Anh này cũng ở trong trại tập trung Auschwitz. Anh kể lại rằng, một ngày nọ tất cả đều bị bỏ đói và khát khủng khiếp. Anh nhìn thấy thùng nước bị đông đá, anh đưa tay để mong lấy chút đá để uống, nhưng các tên lính gác đã ngăn cản anh. Khi Levi hỏi: “tại sao?”. Một tên lính gác nói: Ở đây không có hai chữ “tại sao”.
Tất cả chúng ta đều có thể trải nghiệm những hoàn cảnh thật ngớ ngẩn và đồi bại không có chữ “tại sao”. Như vậy, chúng ta không thể tìm cho được câu trả lời nào. Tất cả điều mà chúng ta có thể làm được, là tin tưởng rằng, Thiên Chúa đang ở đó.[14]
Chúa ở đó, dù chúng ta có rơi vào hoàn cảnh đau thương đến mấy, và ngay lúc chúng ta tưởng rằng Chúa bỏ rơi chúng ta, thì Chúa lại cho chúng ta biết Ngài ở thật gần bên chúng ta. Chính Chúa là mẫu gương cao vời dạy chúng ta biết điều đó, và Ngài cũng nói với chúng ta cần kiên tâm và tin tưởng trong mọi hoàn cảnh, ngay cả lúc phải đối diện với sự chết. Trong những lúc như vậy, chúng ta không bao giờ quên kêu cầu lên Thiên Chúa với một niềm tin sắt đá không lay chuyển.
Lạy Thiên Chúa của Con, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con?
Nếu đọc lời kêu cầu lớn tiếng của Chúa, di ngôn thứ tư của Ngài trên Thánh Giá, chúng ta dễ dàng cho rằng, đó là một tiếng kêu cầu đầy sợ hãi và bối rối, tiếng kêu của những người bị dồn vào ngõ cụt của cuộc đời. Có lẽ các thánh sử cũng muốn diễn tả tâm trạng thực sự đó của Chúa Giê-su. Tuy nhiên, lời kêu cầu này còn diễn tả một niềm tin mãnh liệt của Chúa Giê-su. Theo Pesch: “Lời kêu cầu của Chúa không phải là tiếng kêu bối rối hãi sợ, mà là một sự biểu lộ của niềm tin, một cách diễn tả về niềm tin sắt đá không lay chuyển khi ở trong hoàn cảnh đau khổ nhất. Trong đêm tối của tâm trạng ‘bị Thiên Chúa bỏ rơi’, Chúa Giê-su trong cầu nguyện đã hướng nhìn đến Thiên Chúa”.[15] Thật vậy, chính trong hoàn cảnh tưởng chừng vắng bóng Thiên Chúa, Chúa Giê-su đã hướng nhìn đến Thiên Chúa. Vời những lời đầu tiên trích dẫn từ Thánh Vịnh 22, Chúa bước trong sự hoài nghi và hãi sợ, nhưng rồi Chúa đã xuyên suốt qua đó để đi vào chiều sâu của niềm tin vào Thiên Chúa[16], Đấng
“đưa con ra khỏi thai bào,
vòng tay mẹ ẵm Chúa trao an toàn.
Chào đời con được dâng cho Chúa,
được Ngài là Chúa tự sơ sinh” (Tv 22,10-11).
Về lời Thánh Vịnh này, Đức Bênêđictô XVI suy niệm: “Chúa là Thiên Chúa sự sống, Đấng sinh ra, đón chào em bé và chăm sóc em với tình âu yếm của một người cha. Và nếu trước đó ông đã nhớ lại của đức trung tín của Thiên Chúa trong lịch sử dân Ngài, thì giờ đây người cầu nguyện nhắc lại lịch sử cá nhân của ông và mối liên hệ với Chúa, trở lại thời điểm đặc biệt quan trọng lúc đầu trong cuộc đời ông. Và ở đó, bất chấp tình trạng lẻ loi hiện tại, tác giả Thánh Vịnh nhận ra một sự gần gũi và một tình yêu triệt để của Thiên Chúa mà ông giờ đây có thể thốt lên, trong một lời tuyên xưng đức tin đầy đủ và tạo ra hy vọng, ‘từ lọt lòng, Ngài đã là Thiên Chúa của con’ (11b)”.[17]
Như vậy, trong ánh sáng của lời Thánh Vịnh này, chúng ta thấy Chúa Giê-su luôn tin tưởng và bám chặt vào Thiên Chúa, đặc biệt khi Ngài rơi vào trong hoàn cảnh thống khổ đau thương nhất:
“Bởi vì Chúa đã chẳng coi thường,
chẳng khinh miệt kẻ nghèo hèn khốn khổ,
cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ,
nhưng đã thương nghe lời cầu cứu” (Tv 22,25).
Và Chúa Giê-su đã kết thúc lời cầu nguyện của Ngài với câu cuối cùng của Thánh Vịnh:
“Truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người,
rằng: Đức Chúa đã làm như vậy!” (Tv 22, 32).
Chúa Giê-su đã bước qua tình trạng hoài nghi hãi sợ và bối rối, để đi vào niềm tin mãnh liệt, niềm tin sắt đá không lay chuyển. Niềm tin vào sự hiện diện của Thiên Chúa, ngay cả trong bóng tối của tử thần, Thiên Chúa vẫn ở bên. Qua niềm tin mãnh liệt vào Thiên Chúa và qua tình yêu trung tín cho đến giây phút cuối cùng của Chúa Giê-su, mà cái chết của Chúa Giê-su đã trở thành một hành động đem lại ơn cứu rỗi cho nhân loại.
Qua đó, chúng ta mới thấy ý nghĩa cao cả của lời kêu cầu của Chúa, như thần học gia Ratzinger, diễn tả trong tác phẩm căn bản Einfuehrung in das Christentum – Dẫn vào Ki-tôn giáo: “Lời cầu nguyện này trào lên từ nỗi đau khổ tột cùng vì Thiên Chúa như vắng bóng, nhưng lại kết thúc bằng lời ca ngợi sự cao cả của Người. Tiếng kêu hấp hối của Đức Giê-su cũng mang ý nghĩa như thế”.[18]
Ngoài ra, lời kêu cầu của Chúa Giê-su lên Cha còn diễn tả sự hiệp thông của Chúa với chúng ta, những con người luôn có thể gặp đau khổ. Lúc đó chúng ta cần xin Chúa cho mình có được niềm tin mạnh mẽ và hướng nhìn lên Chúa để kêu lên Ngài. Thật vậy, chúng ta được phép kêu xin Ngài với chính lời Thánh Vịnh 22.
Khi Chúa nó lời xin vâng để đồng ý cho chúng ta bước ra khỏi bào thai của người và bước vào cuộc đời, thì lời xin vâng của Chúa sẽ đồng hành và hiện diện bên chúng ta mãi mãi, để Ngài bồng ẵm và âu yếu, để Ngài che chở và đỡ nâng và để Ngài cho chúng ta một nơi tin tưởng và hy vọng. Vì thế, ở trong mọi hoàn cảnh chúng ta đều có thể kêu xin Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, nhất là khi chúng ta rơi vào hoàn cảnh đau khổ nhất. Thánh Vịnh 22 chính là lời cầu nguyện của chúng ta, khi chúng ta đau khổ và cầu cứu lên Thiên Chúa, Ngài chắc chắn sẽ nhậm lời.
“Lạy Thiên Chúa của Con, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con? Đó là lời của Chúa. Làm sao con dám coi như lời của con? Làm sao con dám đem đau khổ của con để sánh với những thống khổ của Chúa? Làm sao con dám trèo lên thập giá mà thốt ra lời thở than của Chúa, lời muôn đời được thánh hiến nhờ cuộc tử nạn cá biệt của Chúa? Con biết Thánh Vịnh này của Chúa…Dù vậy, con cảm thấy Thánh Vịnh này cũng thuộc về con, trong cuộc đời con cũng có những giờ phút con được quyền và cần được thốt ra những lời ấy như tiếng vọng khiêm tốn từ những lời của Chúa. Con cũng sẽ gặp gỡ cái chết một lần nơi thân xác, và nhiều lần với nỗi cô quạnh tâm hồn trong khi phiêu bạt qua những khoảng tối trên trần gian này. Lạy Chúa, con không dám sánh mình với Chúa, nhưng con cũng gặp đắng cay và tuyệt vọng, cũng cảm thấy cô đơn và bị phụ bạc. Con cũng cảm thấy bị Chúa Cha ruồng rẫy, và những lời ấy đã vuột từ từ đôi môi khô nẻ của con: Lạy Thiên Chúa của Con, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con?”[19]
“Thân sâu bọ chứ người đâu phải,
con bị đời mắng chửi dể duôi,
thấy con ai cũng chê cười,
lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai” (Tv 22,7-8).
Chúa ơi, lời Thánh Vịnh này cũng diễn tả thân phận của con nữa, nhất là khi con rơi vào trong những nỗi đau khổ tuyệt vọng, đến nỗi con thấy phận người của mình sao mà thê lương quá. Vâng, “khi đau thương phủ bóng, nó làm cho mọi người nên như nhau. Cuộc sống mất hết ý nghĩa; chẳng còn gì ý vị; mọi mùi vị đều trở nên đắng cay và mọi sắc màu đều biến thành tối đen. Cuộc đời không còn mục đích. Mắt nhìn không thấy lối đường, và đôi chân ì ạch lê bước. Tại sao lại phải ăn, phải thở, lại phải sống? Đã tang thương cùng cực thì ai cũng như nhau, và chỉ những ai đã từng nếm trải mới biết điều ấy. Con biết những tang thương của con, và con biết đó là cái chết trong một cơ thể còn đang sống. Hoàn toàn cô đơn. Tột cùng chịu đựng. Mút cùng thất vọng. Đau khổ làm cho mọi người trở nên như nhau; và đau khổ tinh thần đến chỗ tột độ là thứ đau khổ khủng khiếp nhất. Con đã biết màu tối đen của nó”.[20]
“Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa,
Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao?
Dù con thảm thiết kêu gào,
nhưng ơn cứu độ nơi nao xa vời!
Ngày kêu Chúa, không lời đáp ứng,
đêm van Ngài mà cũng chẳng yên” (Tv 22,2-3).
Chúa ơi, Chúa không xa con, nhưng hình như Chúa vắng mặt lúc này? “Chúa ở đâu khi đêm đen bủa xuống hồn con? Lạy Thiên Chúa con, con kêu thâu ngày mà Người chẳng đáp, đêm đến, con cũng chẳng được nguôi ngoa. Thật vậy, chính sự vắng mặt của Chúa đã gây nên nỗi thống khổ của con. Giả như Chúa ở bên cạnh, có lẽ con sẽ chịu nổi cảnh tân toan ấy và kiên cường trước mọi giông tố. Nhưng vì Chúa đã bỏ con, và đó chính là thảm cảnh của con. Đó là nỗi cô đơn của thập tự ngày thứ sáu tuần thánh.
Khi ấy, thiên hạ nói cho con nghe về Chúa. Họ nói nghe hay lắm, nhưng chỉ làm da diết thêm cơn hấp hối của con. Nếu như Chúa có mặt ở đó, tại sao Chúa lại chẳng hộ phù con? Nếu như ngày trước Chúa đã độ trì cha ông chúng con, tại sao lúc Chúa không ra tay cứu thoát con? Dường như con không còn ở trước mặt Chúa nữa. Con là thân sâu bọ, hay ít là lúc này con cảm thấy như thế”.[21]
“Tưởng mình như tan dần ra nước,
toàn thân con xương cốt rã rời,
con tim đau đớn bồi hồi,
mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan.
Nghe cổ họng khô ran như ngói,
lưỡi với hàm dính lại cùng nhau,
chốn tử vong Chúa đặt vào;
quanh con bầy chó đã bao chặt rồi.
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem” (Tv 22,15-18).
Chúa ơi, thật ra, những lời con than trách kỳ thực chỉ là một hành vi tin tưởng vào Chúa. Con than thở Chúa đã bỏ rơi con chỉ vì con biết Chúa vẫn hiện diện ở đó. Lạy Chúa, xin hãy tỏ mình ra cho con đi mà. Xin dang tay ra và xua tan bóng đen đang bủa vây con. Xin ban lại hy vọng cho linh hồn con và sức mạnh cho thần xác con. Xin kết thúc nỗi cùng khốn cho con, và xin cho con hoá thân thành một người hoan lạc, tin tưởng và tràn đầy nhiệt huyết. Xin cho con được như ngày trước, được nghiệm thấy sự hiện diện của Chúa và tán tụng ngợi khen Chúa. Đó là cuộc vượt qua từ cõi chết đến cõi sống, và con muốn làm chứng rằng, chính quyền năng Chúa đã đưa linh hồn con ra khỏi chốn thất vọng, như một biểu chứng về quyền năng Chúa dẫn đưa nhân loại vào cuộc sống muôn đời. Lạy Chúa, Chúa đã ban cho con cuộc sống mới, và con sướng vui cao rao quyền năng của Chúa trước mặt anh chị em con.
Thật vậy, Chúa là Đấng đưa con ra khỏi thai bào, vòng tay mẹ ẵm Chúa trao an toàn.
Rồi ở trong cuộc đời, Chúa cũng chẳng coi thường, chẳng khinh miệt con là kẻ nghèo hèn khốn khổ, và Ngài cũng không đành ngoảnh mặt làm ngơ, mà ngược lại Ngài thương nghe lời cầu cứu của con. Ôi lạy Chúa, Ngài chính là sức mạnh con nương và muôn ngàn đời con xin truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người, rằng: “Đức Chúa đã làm như vậy với tôi!”
Thánh Vịnh 22 thật là một lời cầu nguyện tuyệt vời, và qua đó chúng ta nhận ra rằng trong mọi hoàn cảnh, chúng ta được phép kêu câu lên Chúa, và không có thế lực nào hay bất cứ ai có thể cấm cản chúng ta kêu xin Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.
Nếu nhìn vào cuộc đời hoạt động của Chúa Giê-su, chúng ta thấy rằng, Ngài luôn luôn chú ý đến những anh chị em bất hạnh. Trái tim nhân hậu giàu lòng thương xót của Chúa luôn tìm thấy nhịp đập của những tâm hồn thống khổ, đôi tai Ngài rất thính trước những lời kêu xin của người nghèo khổ và bất hạnh, dù họ còn có khả năng kêu lên Chúa, hay không còn khả năng thốt lên lời. Người bạn hành khất Bác-ti-mê của chúng ta là một điển hình sống động.
Dưới sức nặng của chiếc áo choàng đè trên vai, anh Bác-ti-mê đã từ lâu rồi ngồi bên cửa thành Giê-ri-cô, để xin ăn, để chờ đợi những bàn tay nhân ái bố thí. Và một ngày nọ nhưng không giống như mọi ngày, anh nghe tin có Đức Giê-su Na-da-rét đi ngang qua nơi anh ngồi, với niềm tin vào Chúa, anh đã kêu lên: “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi!” Một lời kêu xin rất chân thật, rất khẩn thiết, lời kêu xin của kẻ tin. Chúa có nghe anh không? Chưa biết. Chúng ta chỉ biết rằng, nhiều người đứng ở đó đã quát mắng Bác-ti-mê, một kẻ hành khất, bắt anh phải im tiếng, bắt kẻ tin phải câm lặng. Không lẽ chỉ có những người giàu có, những người tự cho mình là đạo đức, những người hiểu biết và có vai vế mới có quyền kêu lên với Chúa? Nếu quyền làm người không ai cướp đi được, thì quyền cầu nguyện, quyền kêu cầu lên Chúa không ai được phép lấy mất đi. Chẳng màng tới sự quát nạt, anh ta vẫn tin tưởng và kêu lớn tiếng hơn nữa “Lạy ông Giê-su, Con vua Đa-vít, xin rủ lòng thương tôi!” Lòng nhân hậu xót thương của Chúa không bao giờ điếc với những ai tin tưởng vào Ngài. Chúa Giê-su đã nghe lời kêu cầu của anh, và Chúa đã chẳng coi thường, chẳng khinh miệt anh là kẻ nghèo hèn khốn khổ, mang thân phận hành khất, Ngài cũng không ngoảnh mặt làm ngơ giả điếc bước đi tiếp để tránh bị quấy rầy, nhưng Ngài đã thương nghe lời cầu cứu, và dừng bước kêu anh lại, kẻ tin vào Ngài. Một cuộc gặp gỡ của lòng xót thương nhân hậu với tâm hồn thống khổ. Cuộc gặp gỡ của niềm tin. Cuộc gặp gỡ đó đã tháo cởi chiếc áo choàng nặng nề, như là biểu hiện của người ăn xin ra khỏi anh Bác-ti-mê, và sự mù loà đã phải trở về lại chỗ của nó, để trả lại cho Bác-ti-mê một thế giới của Ánh Sáng. Ánh Sáng soi chiếu anh bước đi theo Chúa trên con đường Chúa đi.
Lời kêu cầu của những con người bất hạnh và đau khổ luôn là quyền căn bản và quan trọng, đưa họ đến gần với Chúa. Không có ai và không có thế lực nào có thể cấm cản những người bất hạnh tin tưởng kêu cầu cùng Chúa. Dù đôi khi chúng ta tưởng rằng Chúa vắng mặt và im lặng, nhưng thực ra Ngài luôn hiện diện ở bên và lắng nghe chúng ta. Ngài ở bên chúng ta, lúc chúng ta cảm thấy mình bị mọi người bỏ rơi. Ngay cả khi cha mẹ, người phối ngẫu và cả những người bạn tri kỷ nhất bỏ rơi chúng ta, Chúa vẫn ở cạnh chúng ta. Cả những khi chúng ta rơi vào tình trạng đau khổ của bệnh nan y không còn cứu chữa được nữa, cả khi chúng ta bị sự dữ dồn vào đường cùng và manh nha nuốt chửng chúng ta, thì Thiên Chúa như người mục tử nhân hậu, Ngài vẫn ở bên cạnh chúng ta. Chúng ta chỉ cần tin tưởng và cầu nguyện. Chúng ta được phép kêu lớn tiếng lên với Chúa. Chúng ta được phép khóc lóc kêu gào với Chúa. Niềm tin luôn có chỗ cho nước mắt, niềm tin luôn đón chào những lời kêu gào lên với Chúa. Chúa sẽ không bao giờ đóng cánh cửa của căn nhà nhân hậu đối với chúng ta. Vì thế, không có sự sợ hãi nào, không có thế lực của sự dữ nào có thể cướp mất mạng sống của chúng ta, linh hồn của chúng ta, nếu chúng ta tin tưởng vào Chúa.
Tiếng kêu lớn tiếng của Chúa Giê-su với Cha trên trời thật là một di ngôn tuyệt vời. Di ngôn chất chứa sự sợ hãi, hoài nghi và bối rối lúc đầu, tìm thấy được sự trọn vẹn tuyệt vời ở khúc kết. Sự trọn vẹn của niềm tin tưởng mãnh liệt vào Chúa. Đó là sự thánh hoá mà niềm tin đem lại. Sức mạnh của niềm tin là thế đó. Niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng là khởi đầu, là trung tâm điểm và là cùng đích của mỗi phận người chúng ta. Ở đây, thần học gia Ratzinger nói rằng: “Ernst Kaesemann mô tả tiếng kêu đó như lời kinh vọng lên từ vực sâu, như tấm bia ghi khắc giới răn thứ nhất dựng đứng trong sa mạc xem ra hoang vắng Thiên Chúa. ‘Nhưng Người Con vẫn giữ vững niềm tin, dù niềm tin dường như mất hết ý nghĩa, và thực tế rõ ràng cho thấy Thiên Chúa vắng bóng và lời của tên cướp thứ nhất cũng như của đám đông chế giễu không phải là vô lý. Tiếng kêu của Người không vì ham sống hay sống còn, cũng không vì bản thân mình, nhưng vì Cha mà thôi. Một tiếng kêu đối kháng lại tất cả thực tại trần gian’. Vậy giờ đây, chúng ta có còn phải băn khoăn với câu hỏi: thế nào là thờ phượng trong giờ phút đen tối của cuộc đời ?”[22] Chính trong những giờ phút đen tối đó, giờ phút chúng ta trải nghiệm sự bỏ rơi, chúng ta cần phải hướng về Chúa hơn nữa, để thờ lạy, để tin tưởng, vì chính Ngài là nguồn hy vọng của Chúa ta.
Nếu chính Chúa Giê-su cũng đã phải trải nghiệm sự bỏ rơi của Cha trên trời, ở trong hoàn cảnh thống khổ của Ngài, thì một cách nào đó Ngài cũng mời gọi chúng ta cùng với Ngài đón nhận những giây phút chúng ta bị bỏ rơi trong hành trình cuộc sống.
Nếu chúng ta sẵn sàng đón nhận, nghĩa là chúng ta cho phép việc “bị bỏ rơi” có mặt trong cuộc đời chúng ta. Dù cho mỗi lần bị bỏ rơi, chúng ta đều phải đón nhận những đau đớn, cô đơn, buồn tủi và đôi khi thất vọng hoàn toàn.
Chiêm ngắm cuộc đời của mình và của anh chị em xung quanh, chúng ta thấy sống ở đời này không thể có được tất cả mọi sự cách vĩnh viễn.
Ngay từ thuở ấu thơ, khi mới sinh vào cuộc đời, chúng ta đã nếm cảm được trải nghiệm của sự bỏ rơi. Là trẻ thơ chúng ta sẽ khót thét lên, khi cha mẹ chúng ta bỏ chúng ta một mình trong nôi, trong chiếc võng “trống vắng” kia.
Khi trở thành thiếu niên, cùng cha mẹ và anh chị em đi vào những nơi đông người. Khi lạc bước và đánh mất ánh mắt của cha mẹ và người thân, thì biết làm gì hơn là khóc sướt mướt, là kêu gào tìm kiếm cha mẹ và người thân. Ngay từ ấu thơ và thời thiếu nhi và thiếu niên, trải nghiệm “bị bỏ rơi” đã đồng hành với chúng ta.
Và trải nghiệm này tiếp tục đến với chúng ta, khi các đấng sinh chúng ta vào cuộc đời, ấp ủ yêu thương và dạy dỗ chúng ta từ tấm bé cho tới lớn khôn, giờ đây qua đời và bỏ rơi chúng ta. Có giọt nước mắt nào không chứa đựng đau đớn và buồn tủi, khi mất cha mất mẹ? Bản thân tôi đã cảm nghiệm, khi cha mẹ qua đời. Khi đi làm mục vụ đám tang cho những người cao niên, chứng kiến khung cảnh của các người con quây quần xung quanh quan tài của cha hay của mẹ, để nhìn cha nhìn mẹ lần cuối cùng, trước khi quan tài được đậy nắp, thật xúc động biết bao. Tiếng kêu la, tiếng than khóc, sự bùi ngùi của chia ly vĩnh biệt, và trong đó có cả cái buồn đau vì “bị bỏ rơi”. Rồi có những trường hợp đau thương hơn, khi cha mẹ phải tiễn biệt con cái còn nhỏ, hay đứa con còn trong tuổi thanh xuân phải về với cõi vĩnh hằng. “Người tóc trắng đưa người tóc đen ra đi!” Làm sao có thể lý giải được huyền nhiệm của sự chết? Câm lặng sẽ còn câm lặng hơn, khi cảm giác cha mẹ bị “con cái” bỏ rơi để về với Chúa trước cha mẹ, trước ông bà, trước mọi người thân trong gia đình. Dù có khóc lóc thảm thiết, kêu gào thế nào, thì phận người vẫn bị bỏ rơi.
“Bị bỏ rơi” thuộc về cuộc đời này, dù chúng ta có chấp nhận hay không. Mỗi lần bị bỏ rơi là mỗi lần chúng ta sợ hãi. Nói khác đi, chúng ta luôn sợ hãi bị bỏ rơi. Tình yêu đôi lứa thật đẹp biết bao, bởi vì tình yêu làm nên giá trị của đời người, làm cho con người cảm nhận được hạnh phúc và cuộc đời thật đẹp, cuộc đời thật đáng sống. Nhưng trong tình yêu đôi lứa, tình yêu vợ chồng vẫn có một mùi vị của sợ hãi. Sợ người yêu, người bạn đời không trung thành, và bỏ rơi mình. Trong tình bạn bè, tình đồng nghiệp cũng không thiếu vắng mùi vị “bị bỏ rơi” và “chia tay”. Nhiều người không có khả năng và không chấp nhận “chia tay” và không chấp nhận “bị bỏ rơi”.
Rồi còn chiến tranh mà con người chúng ta gây ra cho nhau đã tạo nên biết bao cuộc bỏ rơi. Những em bé mất cha mất mẹ và đôi khi mất hết mọi người thân trong những cuộc chiến. Tuổi thơ chẳng tội tình gì, giờ bị bỏ rơi giữa biển đời nhiều sóng gió. Cảnh cha mất con, vợ mất chồng vì chiến tranh có lẽ không còn lạ lẫm gì trong thế giới chúng ta. Như thế, chúng ta mới thấy việc “bị bỏ rơi” là một điều gì rất thật và thuộc về cuộc sống của con người.
Anselm Gruen, một tâm lý gia và nhà thiêng liêng học đã nói rằng, trong con người chúng ta luôn có “một em bé bị bỏ rơi”. Chúng ta mang em bé này trong lòng mình, dù chúng ta có muốn hay không. “Em bé” này sẽ kêu thé lên trong chúng ta, khi chúng ta sợ hãi là mình lúc này bị bỏ rơi. “Em bé” này cũng kêu lên dù nhẹ hơn, khi chúng ta phải trải nghiệm những cuộc chia tay, dù đó là chia tay tạm thời hay chia tay vĩnh viễn. “Em bé bị bỏ rơi” này chúng ta không thể dỗ dằn để em yên và đừng khóc lóc kêu than nữa. Chúng ta cần phải chiêm ngắm “em bé này”, chúng ta cần nhẹ nhàng và dịu dàng “bế” em vào trong hoàn cảnh bị bỏ rơi của Chúa Giê-su. Chỉ như vậy, em mới ở yên và không kêu khóc nữa.[23]
Như thế, điều chúng ta cần làm trong lúc bị bỏ rơi là hướng về Chúa Giê-su, và lắng nghe lời kêu cầu của Chúa Giê-su với Chúa Cha. Lời này khuyến khích chúng ta hãy đón nhận hoàn cảnh bị bỏ rơi của chúng ta. Chúa Giê-su, Đấng trải qua hoàn cảnh bị bỏ rơi, và trong cầu nguyện Ngài đã thánh hoá sự bị bỏ rơi đó trở thành niềm tin tưởng vững vàng. Chính Ngài cũng muốn thánh hoá và biến đổi nỗi sợ hãi của chúng ta thành một niềm tin tưởng, là Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Như vậy, cầu nguyện là thái độ căn bản và quan trọng trong những lúc chúng ta bị bỏ rơi. Hãy cầu nguyện và trung thành cầu nguyện luôn mãi! Đừng buông xuôi và đừng bỏ rơi việc cầu nguyện! Khi chúng ta không bỏ rơi cầu nguyện, là chúng ta không bỏ rơi Thiên Chúa, khi chúng ta không bỏ rơi Thiên Chúa là chúng ta không bỏ rơi bản thân mình.
Karl Rahner đã suy niệm rất hay về hình ảnh cầu nguyện của Chúa Giê-su trên Thánh Giá: “Cái chết đang đến gần với Chúa…Cái chết đang đến gần. Đó là sự trống rỗng vô ngần, sự bất lực rất tàn nhẫn, sự cô đơn dày xéo. Nơi mà tất cả đều mềm ra, tất cả đều chạy trốn, nơi tất không còn gì cả, thì có sự bỏ rơi. Sự bỏ rơi đang cháy bừng, và đó là cái chết. Và trong đêm này, trong sự trống rỗng của trái tim mà tất cả mọ sự đã bị thiêu đốt, tâm hồn của Chúa vẫn luôn chìm sâu trong cầu nguyện, và sự cô đơn tàn nhẫn của trái tim Chúa – trái tim bị thiêu đốt bởi mọi sự đớn đau – ở trong Chúa trở thành một tiếng kêu duy nhất đến Thiên Chúa. Ôi, lời cầu nguyện của đớn đau, lời cầu nguyện của tình trạng bị bỏ rơi, lời cầu nguyện của bất lực tột cùng, lởi cầu nguyện của Chúa đã bị bỏ rơi…
Lạy Chúa Giê-su, nếu Chúa trong hoàn cảnh thống khổ đó vẫn cầu nguyện, thì tận cùng ở chỗ nào đi nữa, người ta vẫn có thể kêu lên cùng Cha”.[24]
Cầu nguyện và cầu nguyện. Đó cũng là phương cách của cha Alfred Delp, một tu sĩ dòng Tên, sống những ngày cuối cùng trong tù của phát xít Đức ở Berlin, trước khi Ngài bị treo cổ. Cầu nguyện là ở trong tương quan thân tình với Chúa, và nhờ đó chúng ta sẽ tìm thấy được ủi an cho hành trình cuộc sống, nhất là những lúc thống khổ nhất. Paglia đã nói rất sâu sắc: “Thật vậy, trong chiều sâu của tâm hồn chúng ta phải hiểu rằng, Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con cái của Ngài, vì trong một ý nghĩa nhất định, Ngài cần đến chúng ta, để Ngài có thể là Thiên Chúa”.[25]
Với Chúa Giê-su, khi chúng ta phải trải qua kinh nghiệm bị bỏ rơi và cô đơn giống Chúa, thì với Ngài chúng ta không bao giờ thất vọng, với Ngài chúng ta vẫn kêu cầu lên Cha, dù cho lúc đó bóng đêm tưởng như đang nuốt chửng lấy Ánh Sáng, sự cô đơn tưởng như đã phá tan tình yêu của Cha giành cho Con. Không, ngay trong bóng đêm dày đặc của đời mình, trong nỗi thống khổ tột cùng, với Chúa Giê-su chúng ta vẫn thốt lên lời kêu cầu. Chúa biết chắc rằng, Cha Ngài luôn ở bên và lắng nghe Ngài. Qua đó, Chúa dạy chúng ta hãy noi theo gương Ngài, theo gương anh Bác-ti-mê, không bao giờ bỏ cuộc, mà luôn kiên tâm và hướng nhìn về Chúa.
Khi giải thích những lời Đức Giêsu nói trên Thánh Giá: “Lạy Chúa Trời, lạy Chúa Trời, tại sao Ngài bỏ con?”, thánh Âu-tinh giám mục đã bàng hoàng: ‘Lạy Chúa Giêsu là Đấng trung gian, là Thiên Chúa cao cả hơn chúng con nhưng đã trở thành người vì chúng con, đây chính là do lòng thương xót của Ngài. Bởi chưng, dù cao cả nhưng Chúa đã chấp nhận bối rối hoang mang chỉ vì muốn quan tâm yêu thương chúng con. Điều này làm rất nhiều chi thể của Ngài được an ủi. Tuy xao xuyến vì bản tính yếu đuối, nhưng họ vẫn không vì thế mà tuyệt vọng và chấp nhận hư vong” (Chú giải Gioan số 52).
Còn Đức Bênêđictô XVI đã chia sẻ như sau: “Lời cầu nguyện này của Chúa Giê-su chứa đựng niềm tin tưởng và phó thác một cách tuyệt đối vào tay Thiên Chúa, ngay cả khi Ngài dường như vắng mặt, ngay cả khi Ngài có vẻ tiếp tục lặng im, theo một kế hoạch mà chúng ta không tài nào hiểu nổi…Người chịu đau khổ trong sự hiệp thông với chúng ta và cho chúng ta, là điều phát sinh từ tình yêu và đã mang lại ơn cứu độ, là chiến thắng của tình yêu…Chúng ta cũng thế, chúng ta không ngừng thấy mình phải đương đầu với ‘hôm nay’ của đau khổ, của sự im lặng của Thiên Chúa – chúng ta thường diễn tả nó trong lời cầu nguyện của mình – nhưng chúng ta cũng đang thấy mình đối diện với ‘hôm nay’ của Phục Sinh, của sự đáp trả của Thiên Chúa là Đấng đã lấy đi nỗi đau khổ của chúng ta, để Người cùng vác chúng với chúng ta, và cho chúng ta niềm hy vọng vững chắc rằng chúng sẽ được vượt qua (x.TĐ. Spe Salvi, 35-40). Các bạn thân mến, trong cầu nguyện, chúng ta hãy mang Thánh Giá hàng ngày của mình đến dâng lên Thiên Chúa trong niềm xác tín rằng Ngài hiện diện và lắng nghe chúng ta”.[26]
Hơn nữa, “đặt tất cả niềm tín thác và hy vọng của mình vào Thiên Chúa Cha, và trong mọi hoàn cảnh khốn cùng, chúng ta cũng có thể cầu xin Ngài trong đức tin, và lời kêu xin giúp đỡ của chúng ta sẽ được biến đổi thành một bài ca chúc tụng”.[27]
Thật vậy, trong cầu nguyện và với niềm tín thác cùng hy vọng, chúng ta sẽ được Thiên Chúa đồng hành, ban ơn và giúp chúng ta biết sống như Chúa Giê-su đón nhận những đau khổ xảy đến, cũng như biết can đảm đối diện với sự dữ luôn gây ra khổ đau. Đối diện với sự dữ nhưng chúng ta xác tín rằng, sự dữ không bao giờ thắng được, vì có Chúa, Đấng quyền năng và nguồn mạch của lòng thương xót ở bên chúng ta.
“Lạy Thiên Chúa của Con, lạy Thiên Chúa của Con, sao Ngài bỏ rơi Con?” Lời này không chỉ xé tan bầu khí thinh lặng, mà còn xé nát cõi lòng thâm sâu. Ngày xưa Chúa Giê-su đã kêu lên với Cha, hôm nay chúng ta có thể kêu lên với Chúa Cha như vậy không? Khi chúng ta thất bại trước cám dỗ và rơi vào trong vòng tròn tối tăm và quỷ quyệt của sự dữ, chúng ta còn có thể kêu lên như Chúa Giê-su không?
Những lúc như vậy, chúng ta có thể cầu nguyện như Chúa Giê-su không?
“Tưởng mình như tan dần ra nước,
toàn thân con xương cốt rã rời,
con tim đau đớn bồi hồi,
mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan” (Tv 22,15).
Hơn nữa, sự dữ như ở xung quanh và luôn thập thò và tìm cơ hội để huỷ diệt chúng ta:
“Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi.
Bọn ác đó trong ngoài vây bủa,
chúng đâm con thủng cả chân tay,
xương con đếm được vắn dài;
chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem” (Tv 22,17-18).
Trong hoàn cảnh đó, chúng ta biết rằng sức chúng ta có hạn, và tự bản thân chúng ta không thể thắng vượt được thần dữ. Nhưng may thay, chúng ta có Chúa ở bên chúng ta, người Cha đã dựng nên chúng ta và đưa chúng ta vào cuộc đời, Ngài không bao giờ bỏ rơi chúng ta một mình, Ngài không bao giờ để chúng ta phải quằn quại đau đớn trong hố sâu của đêm đen mà thần dữ đang ngự trị.
Ở đây, chúng ta cũng nhớ lại lời Kinh Lạy Cha với hai câu “xin cứu chúng con ra khỏi sự dữ”, mà Chúa Giê-su đã dạy chúng ta[28] và chúng ta ý thức rằng: “Con người sống trong lòng một thế giới luôn bị đe dọa bởi quyền lực của thần dữ, bởi sức mạnh của thế lực đen tối luôn đối nghịch với tình yêu của Thiên Chúa. Qua lời cầu nguyện căn bản này, con người xin Thiên Chúa giải thoát họ khỏi quyền lực của thần dữ, kẻ có thể bắt chúng ta, những con người yếu đuối, trở thành kẻ tòng phạm của chúng. Lời cầu xin này kết nối với lời cầu nguyện của Chúa Giê-su dành cho chúng ta : ‘Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần’ (Ga 17,15).[29]
Chúa Giê-su tiếp tục cầu nguyện cho chúng ta, và Ngài cũng dạy chúng ta ý thức cầu nguyện luôn mãi: ‘xin cứu chúng con cho khỏi sự dữ’. Đó là một lời cầu nguyện căn bản và đầy tin tưởng, phát xuất từ chính tâm hồn của chúng ta, khi chúng ta rơi vào tay của ác thần đang giam hãm chúng ta trong đêm đen, và gây ra cho chúng ta biết bao đau khổ. Lời cầu xin này là tiếng cầu cứu của chúng ta với Thiên Chúa, một lời cầu cứu rất thật và rất đơn sơ của người con nhỏ bé và đầy giới hạn dâng lên Cha quyền năng ở trên trời.
Khi kêu cầu với Cha như vậy, là chúng ta đang tuyên xưng niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa, vì Người đã thắng thủ lãnh thế gian này, nhờ sự chiến thắng của Đức Giêsu phục sinh. Lời cầu nguyện của chúng ta cũng là một cách kêu gọi chúng ta tỉnh thức để luôn luôn sẵn sàng đón Chúa đến. Sau hết, lời cầu nguyện ấy chính là một tiếng kêu đầy hy vọng, tin tưởng rằng ơn Chúa sẽ làm cho ‘bất cứ ai sinh bởi Thiên Chúa’ (Ga 5,18) khỏi bị nhiễm độc. Vì Chúa Cha ‘dắt ta khỏi quyền lực tối tăm, và đưa vào Nước Con chí ái của Người’ (Cl 1,13)[30].
Trong niềm tin tưởng vào Thiên Chúa là cha giàu lòng thương xót, chúng ta tin rằng, quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi – non praevalebunt (x.Mt 16,18b). Mặc dù tỏ ra yếu ớt, nhưng sức mạnh của thần tốt – thần lành sẽ chống trả lại với quyền lực của thần dữ và sẽ chiến thắng chúng. Đó cũng chính là sự xác tín của thánh Phao-lô tông đồ: “Chúng tôi bị dồn ép tư bề, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không tuyệt vọng; bị ngược đãi, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giê-su, để sự sống của Đức Giê-su cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2Cr 4,8-10).
Ngoài ra, với những câu cuối cùng của Thánh Vịnh 22, chúng ta xác tín vào sức mạnh của Thiên Chúa, là Vua Vũ Trụ, là Đấng Công Chính và luôn giàu lòng xót thương với con cái của Ngài.
“Bởi vì CHÚA nắm quyền vương đế,
Người thống trị chư dân.
Mọi kẻ ngủ yên trong lòng đất
sẽ đều bái lạy một mình Người,
phàm những ai trở về cát bụi
sẽ cùng phủ phục trước Thánh Nhan.
Phần tôi, nguyện sẽ sống cho Chúa,
con cháu tôi sẽ phụng sự Người.
Thiên hạ sẽ nói về Đức Chúa
cho thế hệ tương lai,
truyền tụng cho hậu sinh đức công chính của Người,
rằng: Đức Chúa đã làm như vậy!” (Tv 22,29-32).
Đến trước tôn nhan của Chúa Giê-su đang bị đóng đinh trên Thánh Giá, bạn kính cẩn cúi đầu thờ lạy Ngài. Dành một phút thinh lặng bạn chiêm ngắm Ngài. Đấng chịu chết cho bạn, vì Ngài yêu thương Bạn.
Sau đó, quỳ xuống hoặc ngồi xuống bạn tiếp tục chiêm ngắm Chúa, và lòng bạn tự nhủ: Ngài tự mình gánh lấy không những chỉ nỗi thống khổ của của tôi và của nhiều người, những nỗi thống khổ đó chúng ta chịu bởi tội lỗi chúng ta, bởi chúng ta bị sự dữ áp đảo. Ngài đang gánh mọi khổ đau của bạn, của tôi và của muôn người trên thân xác của Ngài.
Bạn hãy suy xét trong lòng: Trước tình yêu và lòng thương xót vô bờ của Chúa, tôi nên có tâm tình gì cho Chúa đây? Tôi có muốn nói gì hay làm điều gì để diễn tả lòng biết ơn của tôi, để chia sẻ phần nào nỗi thống khổ của Chúa?
Với lời kêu cầu “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”, Chúa Giê-su diễn tả cảm nhận bị bỏ rơi của Chúa, nhưng tiềm ẩn trong lời cầu nguyện này là một niềm tin tưởng mãnh liệt vào Thiên Chúa, Đấng không bao giờ ở xa Con Một của Ngài.
Có khi nào bạn đã cầu nguyện giống Chúa Giê-su như vậy không? Bạn hãy nhớ lại giây phút đó, trải nghiệm đó. Giờ đây, một lần nữa bạn hãy dâng lời cầu nguyện với Thiên Chúa, lời cầu nguyện gắn liền với sự kiện trước đây bạn đã gặp! Bạn có cảm thấy Chúa ở gần bạn không? Chúa đã lắng nghe bạn thế nào? Qua dấu hiệu gì bạn cảm nhận được Chúa lắng nghe bạn và yêu thương chở che bạn?
“Bị bỏ rơi” là một điều thuộc về cuộc sống của đời người. Tuy nhiên, có những “cuộc bị bỏ rơi” mà chúng ta không thể chấp nhận được. Bạn có trải nghiệm đó không? Bạn hãy nhớ lại biến cố hay sự kiện bạn bị bỏ rơi, và bạn đau khổ sợ hãi quá đỗi, đến nỗi hôm nay bạn vẫn không thể chấp nhận điều đó đã xảy ra với bạn.
Bạn xin Chúa ban thêm cho bạn ơn can đảm và niềm tin tưởng cậy trông, để bây giờ bạn nhớ lại giây phút đó, giây phút bạn bị bỏ rơi. Đừng sợ hãi quá! Hãy cứ để những cảm giác của ngày xưa trở lại. Nhưng mỗi cảm giác tiêu cực đó trở về, bạn hãy đưa đến bên Thánh Giá Chúa, dâng lên Ngài, và cùng với Chúa Giê-su bạn hãy cầu nguyện với Cha trên trời, Đấng giàu lòng thương xót đang lắng nghe và dịu dàng đón nhận tâm tình của bạn.
Bạn hãy để lòng bạn tự nhiên thúc đẩy và đánh động bạn. Nếu bạn muốn khóc, hãy để những giọt nước mắt rơi ra! Nếu bạn cảm thấy chỉ muốn đứng im lặng và hướng nhìn lên Chúa, bạn hãy làm như vậy! Có thể, bạn hãy thử đưa đôi tay của mình lên và hướng về Chúa Giê-su trên Thánh Giá, như là bạn dâng nỗi niềm đang có trong tâm hồn cho Ngài!
Ngoài ra, nếu bạn cảm thấy muốn nói gì đó với Chúa, Đấng yêu thương bạn và không bao giờ để bạn cô đơn lẻ loi một mình, bạn hãy nói với Ngài.
Kết thúc, bạn dâng lên Chúa một lời kinh Lạy Cha hay một bài hát mà bạn cảm thấy muốn hát trong lúc này.
Nguồn: dongten.net (04.4.2023)
[1] x.GNILKA J., Das Matthaeusevangelium, II.Teil, Herder Verlag, Freiburg 1988, t.475.
[2] SCHNACKENBURG R., Das Evangelium nach Markus, 2.Teil, Patmos Verlag, Dueseldorf 1971, t.305.
[3] BENEDIKT XVI, Bài giáo lý thứ thứ 26 về cầu nguyện, Ngài nói về Lời Cầu Nguyện của Chúa Giê-su trên Thánh Giá khi sinh thì, ban ngày Thứ Tư 8 tháng 2 năm 2012, tại Vatican. Bản tiếng Việt của Phao-lô Phạm Xuân Khôi trong <http://www.giaoly.org>.
[4] SCHNACKENBURG R., Das Evangelium nach Markus, 2.Teil, t.309.
[5] BENEDIKT XVI, Bài giáo lý thứ thứ 26 về cầu nguyện, Ngài nói về Lời Cầu Nguyện của Chúa Giê-su trên Thánh Giá khi sinh thì.
[6] BENEDIKT XVI, Bài giáo lý thứ 13 về Cầu Nguyện, Ngài nói về Thánh Vịnh 22, ban hành ngày thứ Tư 14 tháng 9, năm 2011, tại Vatican. Bản tiếng Việt của Phao-lô Phạm Xuân Khôi trong <http://www.giaoly.org>.
[7] PESCH R., Das Markusevangelium, II.Teil, Herder Verlag, Freiburg 1977, t.494.
[8] BENEDIKT XVI, Bài giáo lý thứ 13 về Cầu Nguyện, Ngài nói về Thánh Vịnh 22.
[9] BENEDIKT XVI, Bài giáo lý thứ thứ 26 về cầu nguyện, Ngài nói về Lời Cầu Nguyện của Chúa Giê-su trên Thánh Giá khi sinh thì.
[10] BENEDIKT XVI, Bài giáo lý thứ thứ 28 về cầu nguyện, Ngài nói về Sự im lặng của Chúa Giê-su và Chúa Cha, ban hành ngày thứ Tư 07 tháng 3, năm 2012, tại Vatican. Bản tiếng Việt của Phao-lô Phạm Xuân Khôi trong <http://www.giaoly.org>.
[11] BENEDIKT XVI, Bài giáo lý thứ 13 về Cầu Nguyện, Ngài nói về Thánh Vịnh 22.
[12] x. GRUEN A., Vater, vergib ihnen, Vier-Tuerme Verlag 2014, S. 70-71
[13] Trích dẫn bởi RADCLIFFE T., Jenseits des Schweigens, s.55-56.
[14] x. RADCLIFFE T., Jenseits des Schweigens, s.56-57.
[15] PESCH R., Das Markusevangelium, II.Teil, t.495.
[16] x. GRUEN A., Sieben Schritte ins Leben, E-book, phần 4: Das vierte Wort Jesu am Kreuz – die Quelle des Vertrauens.
[17] BENEDIKT XVI, Bài giáo lý thứ 13 về Cầu Nguyện, Ngài nói về Thánh Vịnh 22.
[18] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, Koesel Verlag, Muenchen 1968, 3.Aufl., t.245.
[19] VALLES C.G., Thánh Vịnh để chiêm niệm, Matthias M. Ngọc Đính CMC. Chuyển ngữ 2005, t.79-80.
[20] VALLES C.G., Thánh Vịnh để chiêm niệm, t.80.
[21] VALLES C.G., Thánh Vịnh để chiêm niệm, t.80-81.
[22] RATZINGER J., Einfuehrung in das Christentum, t.245.
[23] x. GRUEN A., Vater, vergib ihnen, S.72
[24] x. RAHNER K., Wort vom Kreuz, t.s.62-63.
[25] PAGLIA V., Die sieben Worte Jesu am Kreuz, s.49.
[26] BENEDIKT XVI, Bài giáo lý thứ thứ 26 về cầu nguyện, Ngài nói về Lời Cầu Nguyện của Chúa Giê-su trên Thánh Giá khi sinh thì.
[27] BENEDIKT XVI, Bài giáo lý thứ 13 về Cầu Nguyện, Ngài nói về Thánh Vịnh 22.
[28] x. NGUYỄN Ngọc Thế SJ, Lời kinh cha mẹ dạy, t.189-190.
[29] x. HUBAUT M., Dieu, mon père et votre père, t.123.
[30] x. HAMMAN Adalbert G., Abrégé de la prière chrétienne, t.66.
https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/di-ngon-thu-tu-cua-chua-tren-thanh-gia-lay-thien-chua-sao-ngai-bo-roi-con--50593